THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả Ca Chiên Diên, Đệ Nhất Nghị Luận (Katyayana)
Ca Chiên Diên là con của một vị
quốc sư của nước A Bàn Đề (Avanti) thuộc miền Nam nước
Ấn Độ. Tên của Ngài là
Na La Đà còn
Ca Chiên Diên là họ của Ngài. Ngài là con thứ hai của vị
quốc sư và về sau vì quá
nổi tiếng nên
mọi người dùng họ để gọi tên Ngài. Vì cha là
quốc sư, nên
gia đình rất
giàu có, kẻ ăn người ở cả trăm và ruộng vườn thì cò bay thẳng cánh. Nhưng
cha mẹ Ngài lại là những người
nhân đức, thương kẻ khốn cùng.
Trong
gia đình Ca Chiên Diên có người anh trai rất
anh tuấn và hào hoa. Vì là anh lớn, được
cha mẹ cho đi du học khắp nơi,
thọ giáo với rất nhiều minh
sư Bà La Môn nên rất
thông đạt nhiều thứ
học thuật. Sau
thời gian du học, thì người anh
trở về cố hương,
tuyên bố diễn thuyết những điều
nhận thức của mình về triết lý
Vệ Đà tối cao. Trong khi ấy,
Ca Chiên Diên chưa hề
bước ra khỏi cửa, nhưng biết anh mình lập
diễn đàn để
thuyết pháp thì cũng lập một
diễn đàn đối diện với người anh. Mặc dù không đi học, nhưng Ngài
diễn thuyết rất hay,
thuyết minh rõ ràng những chỗ quan trọng trong kinh
Vệ Đà làm thu hút tất cả
thính chúng của ông anh mình. Ông anh vốn háo thắng nên sanh lòng tật đố. Từ đó anh em
bất hòa, gây gổ
ồn ào trước mặt phụ thân. Người anh
cằn nhằn với cha rằng:
- Thưa cha! Xin cha
trừng trị em con, Nó
vô phép vô tắc làm
mất mặt con. Con đã du học nhiều năm,
vậy mà khi con đang
diễn thuyết thì nó cũng đăng đàn
đối diện và đoạt hết
thính giả của con. Tức thật, con mà lại thua nó hay sao?
Thiếu niên Ca Chiên Diên điềm nhiên chậm rãi
giải thích:
- Xin cha
lượng xét. Học vấn là chuyện
công khai, ai cũng có quyền
nghiên cứu và diễn giảng. Tuy anh con đi du học nước ngoài, còn con ở nhà
nghiên cứu, nên con muốn biết khả năng
nghiên cứu của mình tới đâu chớ không có ý hơn thua với anh con đâu. Xin cha đừng bận tâm.
Phụ thân tuy là
quốc sư nhưng khi nghe hai
quý tử bàn cãi cũng không biết phân xử ra sao.
Rốt cuộc, ông bàn với
phu nhân và họ
quyết định đem gởi
Ca Chiên Diên đi
học đạo với tiên
A Tư Đà ở núi Tân Đà, gần thành Ưu
Thiền Na Di thuộc về phương Nam.
Tiên
A Tư Đà chính là cậu ruột của
Ca Chiên Diên và là anh của
mẫu thân Ngài. Ông là vị
tiên nhân thần thông bác học của
Ấn độ lúc bấy giờ. Nhắc lại, khi
Đức Thế Tôn đản sanh làm
Thái Tử tại kinh
thành Ca Tỳ La Vệ thì tiên
A Tư Đà được
chư thiên mách bảo, liền xuống núi đến kinh thành mà
xem tướng cho
Thái Tử. Thấy
Thái Tử có 32 tướng tốt, Ngài nói vua
Tịnh Phạn rằng:
Tâu Đại Vương!
Thái Tử có 32 tướng tốt nên sau nầy sẽ
trở thành một vị Thánh. Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không thể
lãnh hội được từ vị Thánh nầy. Tuy tôi không thể
lãnh thọ giáo lý của Ngài, nhưng tôi sẽ dạy
đệ tử tôi theo Ngài
học đạo.
Nói xong, ông rơi nước mắt và lui ra.
Từ khi
Ca Chiên Diên bị
cha mẹ gởi đến đây thì rất được tiên
A Tư Đà yêu mến. Ông đem hết sở học của mình truyền dạy lại cho đứa cháu
thông minh. Vì
tính thông minh sẵn có
cộng thêm sự
chuyên cần học đạo,
Ca Chiên Diên chẳng bao lâu
đạt được cả
tứ thiền và năm món
thần thông.
Từ đó,
Ca Chiên Diên không còn nghĩ nhớ đến
gia đình nữa.
Lý do là Ngài không muốn bám vào
ảnh hưởng của
thân phụ và càng không muốn
tranh giành với ông anh háo thắng. Ngài
quyết định sống riêng
thế giới của mình nên từ chối lời
cha mẹ muốn đón Ngài
trở lại cố hương.
Một hôm, tiên
A Tư Đà biết
Ca Chiên Diên không bị
tình thương gia đình ràng buộc nên rất vui mà bảo
Ca Chiên Diên:
- Ca Chiên Diên! Như
chí nguyện của con bây giờ thì
mai sau con sẽ
trở thành một nhân vật vĩ đại, nhưng con phải gặp minh sư mới được.
Kiến thức của ta,
hiện tại không đủ cho con cầu học. Đức
đại thánh Phật Đà đã
xuất thế, con hãy đợi sau khi Ngài
thành đạo thì mau mau theo học với Ngài.
Ca Chiên Diên nghe lời thầy dạy,
bán tín bán nghi. Nhưng
tin chắc một điều là sau nầy sẽ
trở thành một vĩ nhân.
Ngày nọ, tiên
A Tư Đà dắt
Ca Chiên Diên xuống núi đến
vườn Lộc Uyển thuộc nước
Ba La Nại. Tại đây ông cho xây cất một ngôi
tịnh thất và an trụ luôn ở đó.
Tịnh thất hoàn thành, tiên
A Tư Đà bảo
Ca Chiên Diên mỗi ngày cầu ba lần cho đức
đại giác Phật Đà mau đến ngày
chứng quả. Tiên
A Tư Đà lại bảo cháu:
- Ca Chiên Diên! Theo sự
dự đoán khi ta gieo quẻ thì
Đức Phật chẳng bao lâu nữa sẽ
thành đạo. Sau đó
nhất định sẽ đến
vườn Lộc Uyển mà quay bánh xe pháp đầu tiên. Ta chỉ biết được như thế còn
Đức Phật giác ngộ chân lý gì thì ta không có phước để
biết điều ấy. Con nên nhớ kỹ điều này, khi
Đức Phật thành đạo rồi con phải mau mau đi tìm Ngài để
cầu đạo và
tu học.
Ít lâu sau, tiên
A Tư Đà chấm dứt thọ mạng từ giã cõi đời.
Ca Chiên Diên không còn thầy, kể từ đó Ngài tự phát huy học vấn và
tài năng. Vì thấy
quần chúng trọng vọng nên Ngài thay tâm đổi tính, thay vì
nghe lời di ngôn của cậu mình là đi tìm Phật để
học đạo, thì Ngài bị
danh văn lợi dưỡng làm mờ đi
lý trí.
Ca chiên Diên tự cho mình đã
đắc đạo, rất xứng đáng cho người đời
tôn kính, nên không cần
mong đợi Đức Phật xuất thế làm gì. Thật đáng buồn, vị thầy vừa qua đời không lâu mà ông chẳng còn mỗi ngày cầu ba lần để sớm gặp được Phật.
Một
thời gian sau, gần thành
Ba La Nại, có người đào bới được nhiều
di tích của một cổ thành mấy ngàn năm trước.
Đặc biệt trong ấy có một tấm bia đá trên mặt khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là thứ chữ gì. Có người thì đoán là một
bài kệ, nhưng không ai có thể đọc được.
Thiên hạ lại đồn rằng, ai mà đọc được tấm bia đá đó thì
chắc chắn vị đó là một bậc
đại giác vậy.
Một hôm,
quốc vương Ba La Nại bảo các đại thần:
- Nước
chúng ta được một số
bảo vật lưu truyền từ cổ đại, trong đó có tấm bia đá ghi kệ văn. Vậy các người phải mau mau
tìm hiểu cho ta,
nếu không các nước
lân cận sẽ cười nước
chúng ta không có người trí. Nội trong bảy ngày, nếu
như không ai hiểu được
bài kệ ấy ta sẽ cách chức các khanh.
Mệnh lệnh của nhà vua tuy thật
nghiêm khắc, nhưng các đại thần từ xưa đến giờ chưa từng thấy thứ chữ nầy. Người nầy nhìn người kia lắc đầu. Sau cùng họ dâng
kiến nghị lên nhà vua, xin treo bảng
thông báo cho toàn quốc, nếu ai đọc được
bài kệ trên tấm bia sẽ được
trọng thưởng mỹ nữ và tài vật
châu báu.
Yết thị nhà vua nêu ra thì
tin tức đã bay đến
Ca Chiên Diên.
Ngày xưa tiên
A Tư Đà đã từng dạy cho Ngài nhiều thứ chữ trên mọi
quốc gia cùng với những thứ chữ của
chư Thiên cho nên Ngài rất tự tin có thể đọc được.
Quả thật Ca Chiên Diên đọc được
toàn bộ bài kệ. Đây chính là thứ
văn tự của
Phạm Thiên và người không có
thần thông thì không cách nào thấu rõ được. Ý
bài kệ như thế nầy:
Ai là vua trong các vị vua?
Ai là thánh trong các bậc thánh?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là bậc trí?
Làm sao để lìa phiền não?
Làm sao để
đạt được Niết Bàn?
Ai là kẻ chìm trong biển sanh tử?
Ai là người tiêu diêu noi cõi nước giải thoát?
Lâu nay không một ai đọc được
bài kệ thần bí nầy, nay
Ca Chiên Diên đã vén tấm màn
bí mật lên và tin nầy lan ra khắp nơi. Có một điều tấn thối
lưỡng nan là
mặc dầu Ca Chiên Diên có thể đọc được
bài kệ, nhưng chính Ngài cũng
không giải đáp được
ý nghĩa của nó được. Nhà vua tuy
công nhận sức
bác học của
Ca Chiên Diên, nhưng không
hiểu ý nghĩa của
bài kệ thì chẳng
ích lợi gì. Do đó, nhà vua lại treo giải thưởng để
yêu cầu các
học giả trong
thiên hạ đến khai
thông vấn đề.
Ca Chiên Diên không
chịu thua, Ngài hứa với nhà vua nội trong bảy ngày sẽ
trở lại giải đáp ý nghĩa bài kệ nầy.
Phải Cầu
Đức PhậtTừ khi hứa chắc với nhà vua,
Ca Chiên Diên trở về nhà sưu tầm, khảo cứu và dùng tất cả
thần thông thiên biến vạn hóa mà cũng chẳng hiểu được. Đến lúc không còn
biện pháp gì nữa thì Ngài phải đi
cầu cứu người khác.
Ban đầu, Ngài tìm đến chỗ của
Phú Lâu Na và
Đại Ca Diếp để
thỉnh giáo, nhưng
ý kiến của họ chỉ rất
thô thiển, không
thỏa mãn được
sở nguyện của Ngài. Ngài thất chí bèn tìm đến nhóm
lục sư ngoại đạo để
học hỏi thì họ cũng chẳng hơn gì.
Cùng đường hết lối,
Ca Chiên Diên bắt buộc phải nghĩ đến
Phật Đà. Nhưng càng nghĩ đến Phật thì Ngài lại càng không muốn đi
thỉnh giáo. Ngài thầm nghĩ
bài kệ với lời
văn từ cõi trời mà các đại
lão Bà La Môn trưởng thượng,
uy quyền một cõi mà còn không biết, huống chi
Đức Phật tuổi còn trẻ thì làm sao mà biết được. Lời nhắn nhủ của tiên A Từ Đà căn dặn trước khi ông chết là phải tìm đến
Đức Phật để
thọ giáo thì ngày sau Ngài mới thành một vĩ nhân đã làm cho Ngài
tỉnh ngộ mà
nhận định rằng
ngộ đạo không thể căn cứ trên tuổi tác lớn nhỏ mà
quyết định. Nghĩ như thế nên Ngài nhắm hướng
vườn Lộc Uyển mà đi tới.
Lần đầu tiên
bái kiến Đức Phật,
Ca Chiên Diên mới biết
lời nói của cậu mình quả không sai.
Mặc dầu chưa biết được
trí tuệ bao la vô cùng vô tận của Phật như thế nào, nhưng chỉ mới thấy tướng tốt
trang nghiêm của Thê Tôn cũng đã khởi lòng
cung kính vô biên.
Ca Chiên Diên chắp tay, tụng qua
bài kệ một lần và cầu mong
Đức Phật giải đáp cho.
Đức Phật chẳng cần
suy nghĩ mà dùng kệ
đáp lại rằng:
Vua trong các vua là vua
cõi trời thứ sáu.
Thánh trong các thánh là
Đức Phật đại giác.
Bị
vô minh ô nhiễm gọi là kẻ ngu.
Hay diệt hết
phiền não là bậc trí.
Tu đạo, trừ tham, sân, si tức là lìa
tội lỗi.
Hoàn thành giới, định, tuệ là chứng
Niết Bàn.
Người
chấp trước nơi
ngã pháp chìm trong biển
sanh tử.
Ca Chiên Diên rất
thông minh nên vừa nghe Phật đáp xong thì mỗi câu mỗi lời đều
thâm nhập vào trong tâm và mối
nghi ngờ ám ảnh bao lâu nay tự tan biến như những làn khói lam chiều để nhường lại cho ánh sáng của
trí tuệ. Ngài rất
vui mừng và lặng đi mà không nói được nên lời. Mối cảm kích của Ngài đối với
Đức Phật chẳng có gì là lạ, vì trên đời nầy ngoài
Đức Phật ra thì không còn ai được
xem như là
Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ngài chậm rãi tụng lại
bài kệ của Phật và hướng về phía
Thế Tôn đảnh lễ để tỏ lòng
tôn kính của mình.
Ca Chiên Diên cáo từ Đức Phật trở về thuật lại cho nhà vua nghe và sau đó
tuyên bố với các
tín đồ của mình là từ đây Ngài sẽ
quy y theo Phật để làm
đệ tử của vị
đại thánh nầy.
Xưng Niệm Tam BảoVới
tư chất thông minh sẵn có, lại được dịp
nghe lời vàng ngọc của
Đức Thế tôn, nên chẳng bao lâu Ngài được
khai ngộ và
chứng quả trong
tăng đoàn.
Ca Chiên Diên rất
vui mừng, chẳng những tự mình từ đây được
cứu độ mà còn làm cho cậu mình là tiên
A Tư Đà được ngậm cười nơi chín suối.
Ca Chiên Diên vốn là một nhân vật
phi phàm, huống chi hiện nay đã theo Phật
xuất gia và
chứng quả A La Hán.
Tôn giả Ca Chiên Diên thông đạt rất nhiều
kinh luận ngoại đạo và có rất nhiều bằng hữu
ngoại đạo. Vì thế sau khi
ngộ đạo thì Ngài
phát nguyện sẽ
cảm hóa những người bạn tu còn đang lạc hướng trên đường mê nẻo vọng và mỗi mỗi đưa họ về
quy y theo Phật để
lãnh thọ giáo lý của
Thế Tôn. Do đó,
tôn giả ở trong
tăng đoàn không những nhiệt tâm
phục vụ và
tu hành, mà đối với bên ngoài lại cũng nhiệt tâm hoằng sanh lợi pháp. Lời
Đức Phật nhắn nhủ với
chúng tăng là người hay hoằng đạo chẳng phải đạo hoằng người, luôn luôn là sức phát động để giúp
tôn giả đi sâu vào lòng người mà
hoàn thành Phật sự.
Chân lý cứu đời của
Đức Phật thì
trường tồn bất biến dù
trải qua ngàn năm
vạn kiếp. Do đó,
Ca Chiên Diên càng
tuyên dương Phật pháp thì
đạo tâm càng
sung mãn. Đối với Ngài, làm
sứ giả của
Đức Phật là một
vinh hạnh lớn vì thế
lòng tin và sự nhiệt thành của
tôn giả đã biến
đại danh Ca Chiên Diên bay xa như
hương hoa thơm ngát làm cho ai ai cũng
quý mến và kính phục.
Một hôm,
Đức Phật trở về kinh
thành Ca Tỳ La Vệ để
giáo hóa chúng sinh thì
tôn giả cũng theo Phật.
Tôn giả ngụ tại
tịnh xá trong làng Ha Lợi và tất cả dân làng trong làng nầy đều kính nhớ
công đức giáo hóa của Ngài. Ngày nọ, có
trưởng giả Bát Thành bị bệnh.
Tôn giả nghe tin đến thăm và
đặc biệt thuyết pháp cho ông nghe để
giải trừ bệnh khổ.
Ca Chiên Diên bước vào nhà
trưởng giả, thấy ông còn nằm trên giường bệnh, bèn đến bên
thăm hỏi:
- Này trưởng giả!
Nghe tin ông có chút bịnh, tôi
vâng lời Đức Phật đến đây
an ủi ông. Ông có chạy chữa thầy thuốc gì không?
Trưởng giả rất
cảm thương mà nói:
- Kính tạ
ân Đức Phật và
tôn giả. Bệnh của con không còn
hy vọng vì bao nhiêu thầy đều nói con mang bịnh bất trị.
Tôn giả an ủi:
- Ông hãy
xưng niệm Tam Bảo để
nương nhờ oai đức Tam Bảo khiến tâm ông được
thanh tịnh và bệnh tình cũng
thuyên giảm đi.
Vị
trưởng lão hỏi lại:
- Bạch tôn giả! Chúng con
quy y Tam Bảo là mong
ủng hộ Tam Bảo để tịnh
hóa nhân gian. Chúng con đã hiến dâng tất cả tài vật của chính mình thì không nên
trở lại cầu mong nơi
Tam Bảo.
Ca Chiên Diên khuyên:
- Thật ra là như vậy,
thế gian vô thường không thể
cầu xin Tam Bảo cho được
bình an và
thân thể bịnh hoạn không thể
cầu xin Tam Bảo cho được
lành mạnh.
Tín ngưỡng là
hy sinh cá nhân nhỏ hẹp để
thành tựu đại ngã.
Chúng sinh có chút ít
bệnh khổ thì
chúng tôi có thể đến
thuyết pháp không cần phiền đến Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu sức người không có cách gì
giải cứu, thì
thành tâm cầu nguyện Tam Bảo để được
từ quang phó chiếu là
việc làm tốt chẳng có lỗi chi.
Trưởng giả Bát Thành nghe nói như thế thì mỗi ngày đều một lòng
nhất tâm xưng niệm Tam Bảo và căn bịnh bất trị của ông
dần dần thuyên giảm. Tuy
Phật pháp rộng lớn
vô biên, nhưng
tôn giả đã vì
chúng sinh mà dùng nước
cam lồ từ bi của
Phật pháp để
trị liệu cho những nỗi khổ của
chúng sanh.
Tinh Thần Bình ĐẳngCũng giống như tấtcả những
đại đệ tử của Phật,
Ca Chiên Diên có khi thì
tu học bên
Đức Phật và có khi thì đi
vân du giáo hóa khắp
mọi nơi. Nhưng
phương pháp giáo hóa của
Ca Chiên Diên thì có chỗ khác biệt với
tôn giả Phú Lâu Na.
Phú Lâu Na thì
thuyết pháp thường là tập hợp ngàn vạn
thính chúng đến nghe, còn
tôn giả Ca Chiên Diên thì thích
thuyết pháp từng người.
Từng người, từng người một
đối diện mà giảng dạy là lối
thuyết pháp thân thiết nhất làm cho
chân lý dễ dàng
thâm nhập trong tâm người nghe.
Quả thật như vậy, bất cứ là ai mà chỉ cần nghe
tôn giả nói vài câu liền có
ấn tượng tốt và
niềm tin nơi
lời nói của
tôn giả.
Một hôm, Phật đang
thuyết pháp tại
tịnh xá Kỳ Viên,
Ca Chiên Diên với ba y một bát,
một mình băng qua rừng núi và
xuyên qua những cánh đồng
mênh mông đến nước
Ma Thâu La (Mathura) ở phía Tây để giaó hóa. Khi mới đến,
trước tiên tôn giả xem xét dân tình, phong tục địa phương và lề lối
sinh hoạt tập quán của nước nầy trước khi vào bệ
kiến quốc vương.
Vua nước
Ma Thâu La khi thấy
tôn giả bèn hỏi:
- Tôn giả! Tôi nghe nói Ngài vốn
dòng dõi Bà La Môn, đó là một
chủng tộc cao quý nhất. Còn
Phật Đà thuộc dòng
Sát Đế Lợi, mà nay Ngài
trở lại quy y, làm
đệ tử ông ta. Thật chẳng
tai hại lắm sao?
Ca Chiên Diên thông dung đáp lại rằng: Đại vương! Chuyện đó chẳng những không
tai hại gì hết, mà
trái lại tôi
cảm thấy rất
hân hạnh được làm
đệ tử bậc
đại thánh Phật Đà.
Nhà vua thắc mắc thêm:
- Lạ thật!
Từ bỏ dòng dõi thanh tịnh để làm
đệ tử một người dòng
Sát Đế Lợi. Thật là không thể nào hiểu nổi.
Tôn giả chẳng hề giận,
ôn hòa giải thích cho nhá vua nghe:
- Này Đại vương!
Ngày xưa tôi là
Bà La Môn, tôi cũng nghĩ như
Đại vương. Nhưng sau khi nghe
Phật Đà giáo thị, tôi mớI biết đó là
nhận thức sai lầm. Trong
xã hội chia ra
giai cấp Bà La Môn,
Sát Đế Lợi,
Phệ Xá và
Thủ Đà La.
Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa
tôn giáo,
chánh trị, thương nghiệp, nông công và mọi tầng lớp khác trong lối
sinh hoạt của
xã hội. Nhưng
Đại vương thử
nghĩ lại thì bất cứ người trong
dòng dõi nào cũng có kẻ thiện người ác.
Hiện tại trong
chủng tộc Bà La Môn, rất nhiều người làm nhiều điều ác như
sát sinh,
tà dâm,
tà kiến mà cho rằng họ là những người tôn quý hay sao? Người tôn quý hay hạ tiện không phải do
dòng họ mà phải là người có
tu đạo làm lành để
giác ngộ và chứng
thánh quả. Chính họ mới là những bậc tôn quý và
đáng kính trọng.
Nghe xong, nhà vua chợt
giác ngộ và tự nói:
- À! Thì ra đó là lỗi của ta. Trong đất nước nầy, nhà tù chỉ nhốt toàn
chủng tộc Thủ Đà La, còn giới
Bà La Môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì
xã hội hỗn loạn, nhân tình
ta thán bất bình.
Tôn giả biết nhà vua thấy được chỗ
sai lầm và thật tâm
hối lỗi bèn nói tiếp:
- Đại vương!
Đại vương cần tin nơi
chánh pháp.
Đức Phật là bậc
đại giác ngộ và là bậc tối tôn quý trong
loài người. Ngài nên
quy y để làm
đệ tử Phật mà tìm
sự giải thoát tự do cho
sinh mệnh của mình. Đó mới
chính thật là
hạnh phúc và
vinh dự tối cao trong đời nầy.
Nhà vua được tiếp thọ
Phật pháp bình đẳng, bèn
yêu cầu tôn giả giới thiệu để
quy y Phật. Sau đó, nhà vua ra lịnh
đại xá, thả hết tù nhân dòng
Thủ Đà La,
chỉnh đốn lại chính trị, không còn nể mạnh ép yếu, bỏ luôn
luật pháp bất công, không
phân biệt giai cấp giữa người và người và ai ai cũng chịu một quốc
pháp như nhau. Từ đây khắp nơi
vui mừng,
nhân dân sống trong
an cư lạc nghiệp và
mọi người đều cảm kích
sự giáo hóa của
tôn giả Ca Chiên Diên cùng cảm kích
Phật pháp từ bi,
bình đẳng.
Luận Về
Đạo Đức Và Tuổi Tác
Tôn giả Ca Chiên Diên từ khi theo
Đức Phật thì lúc nào cũng chủ trương “bình đẳng” giữa bốn
chủng tộc để cùng nhau sống trong hòa bình và
an lạc. Nhưng đây là điều
đố kỵ đối với bọn
Bà La Môn ngoại đạo. Họ tìm mọi cách để
diệt trừ Ca Chiên Diên vì
nếu không thì các
Bà La Môn từ nay không cất đầu lên nổi.
Tuy nhiên tôn giả Ca Chiên Diên rất
nổi tiếng về tài
biện luận cho dù kẻ đó là
Bà La Môn quyền uy đến đâu mà mỗi khi gặp
tôn giả thì Ngài chỉ dùng vài lời ngắn gọn đủ làm cho họ
vui lòng khâm phục.
Một hôm,
tôn giả đang cùng với các
tỳ kheo thọ thực trong
trai đường ở một
tịnh xá nằm ở bên ao Ô Nê thuộc nước
Ba La Nại. Lúc đó, có một người
Bà La Môn, niên kỷ thuộc hàng
trưởng thượng, biết
tôn giả đang ở đây liền đến khiêu chiến.
Lão Bà La Môn chống gậy, làm thinh đứng bên cạnh
Ca Chiên Diên mà nghĩ rằng
Ca Chiên Diên thấy mình già cả đến thì
chắc chắn sẽ
đứng dậy nhường chỗ ngồi. Nhưng
Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông làm ông ta
nổi giận và lớn tiếng trách:
- Các người là giống người gì? Đối với người già cả như ta tại sao không
đứng dậy nhường ghế ngồi hả?
Các
tỳ kheo một phen thất kinh, có vài vị đứng lên định nhường chỗ cho
Bà La Môn ngồi. Chỉ có
Ca Chiên Diên chẳng nao núng chút nào mà nói với ông lão nọ:
- Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ỹ?
Chúng ta có phép
cung kính của
chúng ta, nhưng mà ở đây không có ai là
trưởng thượng hay
tiền bối cả.
Lão
đạo sĩ Bà La Môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình với nộ khí
xung thiên mà la lên:
- Già như lão đây không phải là
trưởng thượng hả? Ta đây không đáng cho mấy người
cung kính hả?
Ca Chiên Diên nói một cách khi dễ:
- Ông à! Ông không đáng gọi là lão già cũng không đáng
thọ sự cung kính của
chúng ta.
Lão già
ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao ngươi khinh người quá vậy?
Lão Bà La Môn nổi trận
lôi đình lấy cây gậy chỉ trỏ
Ca Chiên Diên. Còn
Ca Chiên Diên thì ngược lại, Ngài rất
bình tĩnh và từ tốn nói:
- Tôi thấy
cử chỉ và
lời nói của ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta
kính trọng. Đừng kể là
Bà La Môn, cho dù là tám, chín chục tuổi,
tóc bạc răng rụng mà không
chân chính tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được
phiền não và tham, sân, si, tật đố thì người đó chỉ đáng gọi là
thiếu niên. Ông hãy nhìn, như những người
tuổi trẻ hai mươi quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã
thoát khỏi sự
ràng buộc của
ái dục. Không còn tham cầu nơi
thế gian, không có chút xíu
ý niệm bất bình
sân hận, Nếu được như
vậy thì mới xứng đáng cho
chúng ta gọi là bậc
trưởng thượng, là bậc
lão túc và đáng được tất cả
chúng ta cung kính.
Lão Bà La Môn nghe nói xong, chẳng biết
trả lời lại thế nào đành làm thinh đi ra.
Thuyết phục một
Bà La Môn râu bạc thì
tiếng tăm của
tôn giả càng lớn, nhưng
tôn giáo Bà la Môn càng không thể
tha thứ về việc
xúc phạm nầy của
tôn giả.
Một ngày nọ, có một vị
Bà La Môn khác, rất giỏi
biện luận. Vì bất bình về việc
tôn giả Ca Chiên Diên đối xử với
lão Bà La Môn ngày nọ nên từ xứ Câu Thi
Ni La ở phía Bắc xa xôi mà
hỏi thăm tìm đến chỗ của
Ca Chiên Diên tại thành
Ba La Nại. Vừa
chạm mặt, ông đã kêu đích danh
tôn giả mà hỏi:
- Ca chiên Diên! Tôi nghe người ta nói
Ca Chiên Diên là gốc
Bà La Môn mà nay cải giáo làm
sa môn, có phải vậy không?
Tôn giả đáp:
- Đúng vậy, ông xem tôi đang
đắp y cà sa đây.
Ông
Bà La Môn hỏi:
- Người phản
bội tín ngưỡng của mình thì lỗi ít hay nhiều?
Ca Chiên Diên trả lời đanh thép:
- Từ cái
tín ngưỡng tà chấp kia mà
đi theo đạo lý quang minh chánh tín nầy thì không có lỗi gì cả.
Ông
Bà La Môn tức giận nói thêm:
- Ông chẳng phải là người
vô danh tiểu tốt. Ông đã từng
nghiên cứu tinh
thâm pháp điển Mã Nổ của
Bà La Môn chúng ta. Việc ông cải giáo theo Phật thì chưa thể bỏ qua mà còn
nghe đồn ông hay
giảng thuyết Phật pháp cho các
Bà La Môn để rủ rê họ theo mình. Hành động ấy thật là
vô lễ.
Ca Chiên Diên từ tốn
đáp lại:
- Người đã đi qua thì nên chỉ lại cho bạn
đồng hành ngày xưa những chỗ
lầm lạc. Đó là lời dạy
từ bi của
Đức phật.
Ông
Bà La Môn yếu thế, nhưng chưa
chịu thua bèn hỏi lại:
- Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều nầy. Nghe nói
Ca Chiên Diên làm
sa môn tỳ kheo đã không
cung kính trưởng lão Bà La Môn, chẳng những đã không
đứng dậy đón tiếp mà cũng chẳng mời ngồi, thử hỏi đã là
tỳ kheo sao lại
vô lễ như thế?
Ca Chiên Diên thẳng thắn và chậm rãi đáp:
- Ông hỏỉ rất đúng.
Ca Chiên Diên tôi từ khi
quy y với bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác Phật Đà,
quả thật không
cung kính phụng sự trưởng lão Bà La Môn. Điều đó cũng
hợp lý thôi. Bởi vì tôi nay đã chứng được
thánh quả thì ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn. Lễ và
pháp không thể
lộn xộn được.
Người
Bà La Môn nghe lời biện luận khéo léo của
Ca Chiên Diên thì thấy
hổ thẹn không nói thêm lời nào.
Tôn giả cũng đem
chân lý của
Thế Tôn ra
giáo hóa ông ta và kết quả là ông
Bà La Môn quyết định từ bỏ tà chấp và
yêu cầu tôn giả giới thiệu để làm
đệ tử Phật.
Tôn giả thật
đáng kính trọng vậy!
Tại Sao
Con Người Tranh Chấp?
Một hôm,
Ca Chiên Diên đang ôm
bình bát khất thực trên đường thì gặp một
đạo sĩ Bà La Môn đi ngược chiều. Ông ta mời
tôn giả đứng lại và hỏi:
- Tôn giả! Hôm nay gặp Ngài ở đây thật là
may mắn. Tôi có một
vấn đề muốn
thỉnh giáo, mong Ngài lấy
tư cách khách quan để
giải nghĩa dùm tôi.
Ca Chiên Diên từ tốn
đáp lại:
- Chẳng có chi. Ông
nghi hoặc điều gì?
Đạo sĩ thắc mắc:
- Tôn giả! Tôi thấy trên
thế gian, dòng
Sát Đế Lợi thì
tranh đấu với
Sát Đế Lợi, còn
Bà La Môn thì
tranh đấu với
Bà La môn. Vì
lý do gì mà họ cứ
tranh đấu mãi như vậy?
Ca Chiên Diên đáp:
- Vì
tham dục mê hoặc.
Đạo sĩ lại hỏi:
- Thưa tôn giả! vậy chớ
tỳ kheo các Ngài tranh
cãi nhau là do
lý do gì?
- Là do
ngã kiến và
pháp chấp,
tôn giả trả lời.
Vị đạo sĩ
Bà La Môn nhắm mắt lại, đưa tay vò đầu, dường như cố sức
suy nghĩ về lời
giải đáp của
Ca Chiên Diên.
Thái độ kỳ quái của ông làm cho dân chúng hai bên đường chú ý.
Xưa nay, thấy
tỳ kheo nói chuyện với
đạo sĩ Bà La Môn đã là chuyện lạ, huống gì vị
Bà La Môn này lại hành động lạ lùng như thế.
Dân chúng hai bên đường có cơ hội thưởng lãm cảnh một
tỳ kheo đắp y vàng
trang nghiêm tề chỉnh đàm đạo với một
đạo sĩ Bà La Môn khổ hạnh râu tóc phủ khắp mình. Họ không biết hai vị nầy
trao đổi câu gì, nhưng chỉ thấy vị
Bà La Môn đứng nhắm mắt vò đầu
lia lịa trông rất khôi hài.
Đạo sĩ Bà La Môn suy nghĩ một lát thì
mở mắt ra và hỏi:
- Tôn giả! Lời Ngài nói rất công bình
hợp lý, song tôi nghĩ rằng trên
thế gian nầy không biết có nhân vật nào ly khai được
tham dục,
ngã kiến và
pháp chấp không?
Ca chiên Diên chẳng chút
do dự đáp ngay:
- Có
lão sư của tôi là
Đức phật, hiện đang
thuyết pháp tại thành
Xá Vệ. Ngài là bậc
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài không còn
phiền não,
tham dục,
ngã kiến và
pháp chấp. Ngài là bậc
đạo sư của
ba cõi và là vị thầy của tất cả nhơn thiên.
Đạo sĩ Bà La Môn rất cảm kích đối vời lời
thuyết pháp của
Ca Chiên Diên nên ông ta liền
yêu cầu tôn giả giới thiệu cho ông ta được
quy y theo Phật để làm một
đệ tử cư sĩ.
Dân chúng hai bên đường được một phen
mục kích cảnh
tôn giả thuyết phục vị đạo sĩ
Bà La Môn. Họ rất hoan nghinh và rất nhiều người quỳ tại chỗ
đảnh lễ tôn giả như là
chúc mừng một
thắng lợi lớn vậy. Tuy vậy,
tôn giả chẳng lộ vẻ tự đắc mà Ngài khiêm tốn đáp lễ lại
mọi người và
thản nhiên tiếp tục con đường khất thực của mình.
Răn Dạy Bọn
Thiếu Niên Vô LễCa Chiên Diên xuất thân từ gia đình
danh gia vọng tộc Bà La Môn và qua lại
biện luận với
Bà La Môn cũng rất nhiều.
Ngày xưa,
tôn giả là một nhân vật cao cấp,
danh vọng và
địa vị trong phái
Bà La Môn vì vậy khi Ngài
quy y theo Phật đã làm
chấn động cả một nền
tín ngưỡng oai quyền nhất lúc bấy giờ.
Các
giáo sĩ Bà La Môn công kích đã phá
Ca Chiên Diên rất nhiều mà một số
Bà La Môn khác vẫn
duy trì tình bằng
hữu thân thiết với Ngài cũng không ít.
Một ngày nọ,
Tôn giả có dịp
trở về cố hương để hoằng dương
đạo pháp tại làng
Di Hầu thuộc nước A Bàn Đề (Avanti). Trong làng
Di Hầu có một
Bà La Môn tên là Lỗ Ê Già đối với
tôn giả rất
cung kính tôn trọng.
Nhưng một hôm, có đám
thiếu niên là con em của Lỗ Ê Già, lên núi chặt củi. Chúng đi ngang qua một hang đá thì thấy
Ca Chiên Diên đang
tịnh tọa bên trong liền kêu réo
ồn ào rồi đem
tôn giả ra làm trò đùa
với nhau:
-
Hãy lại đây xem chúng bay, có ông
sa môn đầu trọc ở đây nè!
Một đứa nói thêm:
- Nhìn làm quái gì. Lão đầu trọc ấy chẳng có
thú vị gì cả!
Đám
đệ tử của Lỗ Ê Già nhao nhao mỗi người một
câu la hét ngoài cửa động.
Lúc ấy trong đám đó có một tên
can gián rằng:
- Úy! Các bạn đừng
chế nhạo người ấy, ổng là người mà thầy mình
tôn kính lắm đó.
Tuy vậy bọn
thiếu niên bướng bỉnh vẫn cười đùa
chế nhạo ầm ĩ, thậm chí chúng còn lấy đá chọi vào hang.
Ca Chiên Diên đang
tịnh tọa phải
đứng dậy bước ra ngoài răn dạy bọn chúng một phen:
- Này các chú! Lúc trước các
Bà La Môn tu hành đàng hoàng, cấm tuyệt
ngũ dục, bây giờ thì
Bà La môn cưới vợ đẻ con giống như người
thế tục. Xem
hành vi của các chú chẳng khác bọn trẻ nít hoang đàng
vô lễ, bộ thầy các chú dạy như vậy đó hả?
Lời nói của
Ca Chiên Diên oai nghiêm như
sư tử làm bọn
thiếu niên nép một bên, miệng chẳng dám hó hé mà lòng thì rất căm hận. Lúc về nhà, chúng bèn mách lại với Lỗ Ê Già và
thêu dệt là
tôn giả đã
mắng chửi Bà La Môn thế nầy, thế nọ.
Lỗ Ê Già nghe xong,
đùng đùng nổi giận nói rằng:
- Ta đối với
Ca Chiên Diên rất
tôn kính, mà ông ta
trở lại mắng nhiếc chúng ta. Ta phải tìm gặp ông ta để hỏi cho ra lẽ.
Lỗ Ê Già sát khí đằng đằng tức tốc chạy đến thạch động của
tôn giả để làm lớn chuyện, nhưng khi gặp
Ca Chiên Diên nghiêm trang,
ôn hòa thuật lại những lời của bọn trẻ và
lời nói của mình cho ông nghe. Lỗ Ê Già
cảm thấy xấu hổ mà cúi đầu chẳng nói nên lời.
Ca Chiên Diên nhân tiện nói tiếp:
- Này bạn Lỗ Ê Già! Ông nghe tôi nói đây,
tín ngưỡng và
tu tập của
chúng ta là cốt để
giải thoát luân hồi sanh tử và sống an vui
tự tại của
Niết bàn.
Chúng tôi tu hành là để
đoạn diệt tất cả mọi
phiền não, chặt đứt mọi sợi dây vô hình của
tham sân si để cho mình được
tự do tự tại. Trăm ngàn lần không thể đem
tín ngưỡng và việc
tu hành biến thành một thứ nghề làm ăn. Hiện nay trong số các
đạo sĩ Bà La Môn làm lễ cúng tế cho người đời, dường như là có ý kinh doanh. Họ lìa
gia đình làm
Bà La Môn để
tu đạo thử hỏi có được mấy người chân chánh? Phần lớn toàn là vì
danh văn lợi dưỡng, họ tự mình làm ra vẻ
chí thành mà bên trong thật là
giả dối. Đã không
cứu độ được ai mà mang
chiêu bài tôn giáo để
thỏa mãn dục vọng riêng của mình thì thật là chuyện đáng buồn. Các
Bà La Môn thời nay đều là ngoài tâm
cầu pháp,
nếu không cầu
phước báo nhơn thiên thì cũng đem
hiện tượng vũ trụ ra mà
giải thích tới lui mà
không giải thích được gì cho cuộc sống của
chúng ta cả. Thử hỏi có mấy người
nhận thức chân thật được cho chính mình? Thầy của tôi là
đức Phật là vị
đại từ,
đại bi và là vị
cứu tinh cho các
nhà tu đạo đang lẩn quẩn trên đường
tôn giáo. Ông là bằng hữu của tôi nên tôi mong rằng ông sẽ bỏ mọi điều
tà chấp và đừng nên ham làm thầy
thiên hạ mà
chuyên tâm tu học để tự
giải thoát cho chính mình.
Lỗ Ê Già nghe xong, lộ vẻ e thẹn mà nói:
- Tôn giả! Ngài nói rất đúng, giờ đây tôi sẽ
nhất tâm y theo lời chỉ giáo của Ngài.
Quả thật không hổ danh đệ
nhất luận nghị,
tôn giả Ca Chiên Diên đã dùng lời lẽ sắc bén để bẻ gãy tất cả những
tư tưởng lạc hậu của
Bà La Môn và làm cho Lỗ Ê
Già chỉ còn buông hết các
mê vọng tà chấp mà
đầu hàng để
quy y theo
chánh pháp của
Đức Phật.
Luận Về Thuyết Vô Thường!
Ca Chiên Diên biện tài vô ngại, nghị luận già giặn không ai sánh kịp từ trong
tăng đoàn cũng như ngoài
xã hội. Danh cao
vòi vọi của Ngài không ai lại không biết.
Đức Phật rất thích các
đệ tử lỗi lạc của mình, nên mỗi khi nghe nói đến tên của
tôn giả thì Ngài rất
hài lòng khen ngợi.
Một hôm
Đức Phật đến
giáo hóa nước A Bàn Đề, cũng chính là quê hương của
tôn giả, bèn bảo
Ca Chiên Diên thay Ngài mà
thuyết giảng đạo lý vô thường cho
tứ chúng.
Ca Chiên Diên đảnh lễ trước
Đức Phật, rồi sau mới nói:
- Các vị đại
thiện tri thức! Tất cả mọi sự tụ hội đều có lúc ly tán, có sanh ắt có tử, có thành thì có hoại. Các
pháp hữu vi trên
thế gian, dù to lớn như sơn hà
đại địa cũng không
thoát khỏi pháp tắc
vô thường. Các vị hãy nhìn xem,
mùa xuân trăm hoa đua nở, chỉ một trận gió thu thổi tới liền
biến thành lá vàng rơi
tơi tả. Còn
chúng ta, khi trẻ thì mặt đẹp sắc hồng, đến lúc
già nua thì da nhăn,
tóc bạc,
lưng còm, gối mỏi. Cũng như giọt sương trên cành sẽ tan biến theo bóng đen khi
ánh mặt trời vươn lên chiếu ra muôn ngàn
tia sáng. Thân bằng
quyến thuộc dầu có
thương yêu đến đâu đến lúc già chết cũng không ai thay thế được. Khi người nhắm mắt xuôi tay, dầu có khóc than cách mấy cũng không níu được sự
vô thường, cũng không làm cho người
chết sống lại. Thật vậy,
kim ngân tài bảo thì cũng chẳng
tồn tại muôn đời, nay có mai không. Ngay cả đến
quyền uy danh vọng thì cũng như bọt biển mà thôi bởi vì trên
thế gian nầy đâu có vương hầu nào mà không từng bị lật đổ.
Triều đại nầy tan thì
triều đại mới thay thế.
Hiểu rõ lý vô thường thì không bị màu sắc
rối ren của
thế gian lừa dối. Nầy là
thiên nhiên, núi xanh sông biếc. Đó là
loài người,
mạnh khỏe khôn ngoan. Đây là
xã hội với
giàu sang sung sướng. Tất cả chỉ là
cạm bẫy để hại người vì tự nó đã chứa sẵn tính
vô thường giả dối. Vì thế, thưa các vị
đại thiện tri thức, chỉ có
chân lý nhân quả và
nghiệp lực mà mỗi người tạo tác là không
hư dối,
chân thật.
Nhân quả theo
nghiệp lực như bóng với hình cho dù
con người còn sống hay chết.
Chúng ta cần phải nỗ lực khẩn thiết
tu tập để phá tan
thế giới vô thường và chứng được
thánh quả để thoát ra khỏi
vòng sanh tử triền miên.
Lời chỉ dạy của
tôn giả,
nghĩa lý phân minh làm
cảm động tất cả
tứ chúng trong hội. Khi thay
Phật thuyết pháp thì chỉ có
Ca Chiên Diên với
biện tài nghị luận đã làm
nổi bật chân lý của
Đức Thế Tôn và làm cho
đạo Phật được ngời sáng muôn đời.
Thuyết Đạo Lý Phát Tài Cho Kẻ Nghèo
Sau chuyến
hoằng pháp tại nước A Bàn Đề,
tôn giả trở về nước
Xá Vệ để nghe
Đức Thế Tôn thuyết pháp. Trên đường đi,
tôn giả gặp một
phụ nữ trong tay cầm một bình nước và đang ngồi khóc
thảm thiết bên mé sông. Thấy hành động muốn nhảy xuống sông để tự vận,
tôn giả động lòng từ bi đến trước cô ta và hỏi:
- Này cô! Chuyện gì khiến cô buồn thảm mà ngồi đây khóc lóc vậy?
Cô gái khóc lớn mà nói:
- Chẳng việc gì đến ông, nói với ông làm quái gì?
Tôn giả từ tốn hỏi lại:
- Này cô! Cứ nói cho tôi nghe, tôi là
đệ tử Phật thì tôi có thể giúp cô
giải quyết vấn đề được chớ.
Cô gái
bực tức mà nói rằng:
- Ông mà làm được cái gì. Ông coi trên đời nầy
thật không công bằng gì cả. Sự giàu nghèo khác nhau như trời với vực. Như tôi là một kẻ
nghèo đói suốt đời khổ sở và cái khổ bần cùng đó đeo đuổi làm cho tôi không còn
ham sống nữa.
Cô gái nói xong, thì lăm le muốn nhảy xuống nước.
Ca Chiên Diên vội kéo cô ta lại và
từ bi giảng giải:
- Này cô! Đừng buồn thảm như vậy vì trên đời nầy có biết bao nhiêu người nghèo chớ đâu phải chỉ mình cô. Vả lại, nghèo cũng không hẵn là
bất hạnh, là khổ sở. Còn kẻ giàu chưa chắc là
hạnh phúc. Cô coi mấy người
phú hộ lắm của nhiều tiền kia,
hằng ngày cứ bị
tham dục,
sân hận và
si mê quấy rối khổ sở. Càng giàu thì họ càng muốn giàu thêm, có cái nầy thì họ khao khát được thêm cái khác. Mà hễ
giàu sang thì có nhiều cơ hội để làm nhiều điều
bất thiện, đó là chưa kể hại người để lợi cho mình, giết hại
cầm thú để nhậu nhẹt
ăn chơi và đối xử tàn nhẫn đối với người
nghèo khổ. Tất cả những điều
bất thiện nầy sẽ đọa họ vào ba đường khổ
kiếp sau. Đó là
ngạ quỷ,
súc sanh và
địa ngục thì cái khổ của họ
kiếp sau so với cái khổ của cô ngày nay có sá gì mà cô khóc than.
Nghe xong thì cô gái vẫn vùng vằng la lối:
- Ông là
sa môn, ông không cần đến tình đời, còn tôi đâu có được. Ông phải biết tôi là đầy tớ cho một nhà
phú hộ.
Suốt đời làm kẻ
tôi đòi, cơm áo không đủ, chẳng có
tự do mà gặp chủ nhân
hắc ám,
tham lam hung dữ, chẳng có chút xíu
từ tâm.
Chúng tôi làm
công chuyện nhà hễ sai một chút là lãnh đòn, nghe chửi. Muốn sống không yên mà muốn chết cũng chẳng được. Nghĩ đến nỗi cùng cực đó đều do kiếp nghèo mà ra, biểu sao tôi không buồn không khổ.
Tôn giả an ủi:
- Cô à! Tuy như vậy, cô cũng đừng
bi quan. Tôi sẽ chỉ cho cô một cách phát tài và
thoát khỏi nghèo khổ.
Cô ta quẹt nước mắt, tia mắt lóe niềm
hy vọng mà hỏi:
- Cách gì vậy ông?
Tôn giả giải thích:
- Ồ! cách nầy rất
đơn giản, cô đã bị bần cùng làm khổ thì cô cứ đem cái bần cùng đó bán quách cho người khác đi.
Cô gái
nheo mắt rất đỗi ngạc nhiên la lên:
- Bần cùng mà bán cho ai? Ông đừng nói giỡn, bần cùng mà đem bán được thì trên cõi đời nầy không còn người nghèo. Có ai mà chịu mua cái nghèo bao giờ?
Ca Chiên Diên trả lời:
- Bán cho tôi, tôi chịu mua.
Cô gái thắc mắc hỏi thêm:
- Bần cùng có thể bán được mà cũng là ông mua, nhưng ở đời nầy biết cách bán nó ra sao?
Tôn giả khi thị tiếp:
- Hãy
bố thí. Cô nên biết sự giàu nghèo ở đời đều có
nhân duyên. Người nghèo
sở dĩ nghèo hoài là vì đời trước không chịu
bố thí và
tu phước. Người giàu
sở dĩ giàu sang sung sướng là vì đời trước họ đã
bố thí và
tu phước.
Vì vậy bố thí,
tu phước là cách bán nghèo mua giàu tốt nhất đó.
Người tỳ nữ nghe xong thì
trí tuệ được khai thông vì mãi đến hôm nay cô mới biết cách làm giàu. Nhưng cô lại
đau khổ mà nói rằng:
- Thưa tôn giả! Ngài dạy rất đúng, con đã biết cách để được phát tài. Nhưng con nghèo
quá mức không có chút gì cả, ngay cả cái bình nước trong tay con cũng là của chủ nhà. Họ giữ của còn hơn con giữ mạng sống thì Ngài bảo con
bố thí cái gì bây giờ?
Ca Chiên Diên đưa
bình bát ra và nói cho cô gái:
-
Bố thí không
cần phải là tiền bạc. Thấy người khác
bố thí mà mình
phát tâm vui vẻ là được. Cô hãy múc nước đổ đầy bát cho tôi, đó là cô đã
bố thí rồi!
Người tỳ nữ liền
hiểu rõ ý nghĩa của sự
bố thí, liền làm theo lời dạy. Về sau nhờ
công đức cúng nước cho
tôn giả, cô được sanh lên
cõi trời Đạo Lợi.
Một lần nữa,
tôn giả đã đem
chánh pháp ra
soi sáng cho
chúng sinh không kể là người
quyền quý hay kẻ bần cùng.
Vì vậy gọi Ngài là đệ
nhất luận nghị
quả thật là
danh bất hư truyền.
Chuyển
Ái Tình Thành
Giác NgộĐối với việc hoằng dương
đạo pháp thì
tôn giả lúc nào cũng
tích cực mà không quản nhọc nhằn. Một hôm, Ngài đi
giáo hóa tại một nước rất xa xôi có tên là
Ba La Lê Viên và được cư trú trong
rừng trúc của một vị
trưởng giả.
Trong khi đó thì
quốc vương của nước nầy là Văn Đồ Vương đang gặp một
biến cố đau đớn. Số là vị đệ nhất
vương phi mà nhà vua rất
thương yêu chẳng may bạc mệnh. Nhà vua buồn khổ
muôn phần, bỏ ăn bỏ uống, không còn tha thiết đến việc triều nghi và ngày nào cũng khóc lóc kêu thương
thảm thiết. Người đã chết, dù là bậc
quyền thế tôn quý như vua, cũng không thể cải tử hoàn sanh được. Vua Văn Đồ vì quá
luyến ái tình cũ, ra lịnh các
quan đại thần ướp xác
vương phi và quàn trong cung để mỗi ngày nhà vua được
đối diện với
tử thi mà
than thở:
- Ôi! Cái miệng xinh kia sao không nói chuyện với trẫm? Đôi tay kia sao không ôm trẫm?
Vương phi yêu dấu ơi! Sao không chịu
mở mắt nhìn trẫm?
Nỗi bi ai của nhà vua cứ
triền miên bất tận như thế, còn các
quan đại thần chẳng có cách gì làm cho nhà vua vơi sầu quên thảm được. Nhà vua chỉ hết buồn khi nào
vương phi được
sống lại mà thôi, nhưng người nào có quyền phép mà làm được chuyện nầy?
Đang lúc tấn thối
lưỡng nan thì các vị đại thần chợt nghĩ đến
tôn giả Ca Chiên Diên hiện đang
giáo hóa tại đây. Họ
hy vọng với
oai đức và sức
thần thông thì Ngài có thể giúp nhà vua dứt bỏ mối bi ai mà lo
chỉnh đốn triều ca.
Các quan dâng
kiến nghị lên vua:
- Muôn tâu đại vương! Trong nước ta hiện nay có một vị
đại đệ tử của
Đức Phật đang
du hóa. Đó là
tôn giả Ca Chiên Diên, một bậc đại
thần thông,
đại oai đức,
trí huệ uyên bác không
vấn đề gì không hiểu, ngay cả
văn tự Phạm Thiên trên tấm bia cổ mà Ngài cũng biết được.
Tôn giả biện tài vô ngại, mỗi khi nói chuyện gương mặt thường nở nụ cười. Xin thỉnh
đại vương hãy đến gặp Ngài,
chắc chắn sẽ có nhiều
lợi ích.
Nhà vua nghe xong, vội hỏi:
-
Thần thông của người ấy có thể gọi
vương phi ta sống dậy không?
Các đại thần
lúng túng, không dám nói sao. May thay trong số ấy có một vị đã từng nghe
tôn giả thuyết pháp nên
cung kính nói:
- Muôn tâu đại vương! Làm cho
vương phi sống lại được hay không thì chúng thần không dám
trả lời chắc. Chuyện ấy chỉ có đến
thỉnh giáo tôn giả Ca Chiên Diên mới biết được thôi.
Vua Văn Đồ chuẩn
y lời tấu của các quan liền
lập tức ban lệnh đi ngay. Nhà vua ngự xe loan,
mang theo nhiều
lễ vật đến
rừng trúc. Vừa gặp mặt
tôn giả, nhà vua liền
yêu cầu cứu mạng cho
vương phi hồi sinh.
Ca Chiên Diên bẻ một nhánh cây gần đấy và nói với nhà vua:
- Này đại vương! Ngài hãy đem nhánh cây nầy về cung mà giữ cho nó xanh tươi hoài chớ đừng khô héo có được không?
Nhà vua đáp:
- Điều đó không thể được. Cây đã lìa cội rễ thì làm sao mà sống, mà xanh tươi.
Bây giờ
tôn giả mới thuyết tiếp:
-
Vậy thì phu nhân đã hết nghiệp,
thọ mạng đã
chấm dứt mà bảo sống
trở lại thì chuyện ấy làm sao được?
Vua Văn Đồ ngay lúc đó liền
giác ngộ lý vô thường sinh ly tử biệt của tạo hóa.
Tôn giả biết nhà vua đã thâm đạt
Phật pháp, bèn
thuyết pháp tiếp theo:
- Này đại vương! Ngài là vua một nước, là người cai trị toàn dân.
Toàn thể dân chúng là người của nhà vua chớ chẳng riêng
một mình vương phi là của vua đâu.
Đại vương nên đem tấm lòng thương
một mình vương phi mở rộng ra thương khắp hết
mọi người trong
thiên hạ. Dùng
lòng từ bi thay thế tình yêu riêng tư thì
quốc gia mới hưng thịnh và dân chúng sẽ
ủng hộ nhà vua
mãi mãi.
Vua Văn Đồ nghe xong thì bừng tỉnh cơn mê và dứt hết mọi buồn thương. Nhà vua
đảnh lễ cáo biệt tôn giả,
trở về cung
an táng cho
vương phi,
chỉnh đốn lại triều chánh và thương dân như con của chính mình. Từ đó cả nước mừng vui và
ai nấy đều cảm kích tài khéo
thuyết pháp của tôn gia
Ca Chiên Diên.
Ngày nay khói lửa
tràn lan khắp
thế giới,
chúng ta mong mỏi tinh thần đệ nhất nghị luận của
tôn giả Ca Chiên Diên sống lại để
thuyết phục các nhà lãnh tụ hiếu chiến để họ
hồi tâm nhìn lại cho người dân trên
thế giới có cơ hội sống trong
thanh bình thịnh vượng.