THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Luật Nghiệp Quả và Tài Năng
Trên
thế giới hiện nay có trên 6 tỷ người, nhưng khoa học
chứng minh rằng cấu trúc não bộ của mỗi người
hoàn toàn khác nhau cho nên
trí thông minh cũng không
đồng đều. Trong
xã hội, có người
sáng suốt cũng có kẻ
ngu si. Có người thích
âm nhạc còn kẻ khác giỏi về kinh doanh. Đôi khi có những thần đồng
siêu việt về toán học hoặc có thể nói được nhiều thứ tiếng khi mới lên 3 tuổi.
Năm 1955 hai nhà
vật lý học Anh Quốc Louis Essen và Jack Parry đã phát minh ra cái đồng hồ nguyên tử đầu tiên bằng cách đo lường sự
rung động của ánh sáng phát sinh từ chất nguyên tử Cesium. Cái đồng hồ nầy rất
chính xác với độ
sai biệt là một giây trong 300 năm.
Năm 1894 một
thiếu niên rất trẻ người Ý tên là Guglielmo Marconi đã dùng làn sóng của điện từ trường để gởi những tín hiệu qua
không gian và đây là sự phát minh cho cái radio đầu tiên.
Nhà
Bác học Einstein đã
chứng minh thuyết Tương đối vào lúc mới 25 tuổi trong khi rất nhiều khoa học gia ngày nay chưa chắc đã hiểu hết về thuyết nầy.
Vậy những nhà
bác học, học giả… thì
chúng ta gọi họ là những người
trí thức. Như thế thì
trí thức và
trí tuệ khác nhau ở chỗ nào?
Theo
nghĩa thông thường thì nhà
bác học là người
nghiên cứu,
nghiền ngẫm, phân tích và phát minh thêm những
sáng tạo mới cho
nhân loại, còn
học giả là người lượm lặt những
hiểu biết của người khác. Họ thu góp những cái hay, cái đẹp, cái lạ của người rồi cho đó là
kiến thức của mình. Sau cùng
trí thức là do
ý thức nhanh nhẹn khéo léo,
so sánh phân biệt,
nhận định tường tận làm cho người nghe dễ nhận
dễ hiểu. Như vậy những nhà
bác học,
học giả hay
trí thức đều nhắm vào những
điều kiện vật chất để
kiến tạo, vun bồi cho
đời sống thêm
sung túc,
tốt đẹp và
giàu có hơn. Nhưng tất cả
việc làm của họ đều thuộc về pháp
sanh diệt của
thế gian mà thôi, có nghĩa là được rồi sẽ mất.
Còn
chúng ta là người học Phật thì lấy
trí tuệ làm gốc. Mà
trí tuệ có hai loại là
trí tuệ hữu lậu và
trí tuệ vô lậu.
1)
Trí tuệ hữu lậu chính là Văn, Tư, Tu. Văn là học những lời dạy của Phật để thấy được
chân lý về sự
liên quan của
con người và
vũ trụ. Tư là
tư duy,
suy nghĩ và
nghiền ngẫm để thấy rõ những
chân lý của Phật một cách
chính xác. Còn Tu là
ứng dụng,
thực hành những
chân lý của Phật dạy
để tâm không còn
ô nhiễm và dính mắc các pháp
sinh diệt ở bên ngoài.
Tuy nhiên trí tuệ hữu lậu vẫn còn rơi rớt
trong vòng sanh tử luân hồi.
2)
Trí tuệ vô lậu chính là Giới, Định, Tuệ. Giới là khuôn vàng thước ngọc giúp cho
chúng ta đi đúng
con đường chánh đạo. Có giới mới sanh định, có nghĩa là những
ý thức lăng xăng được lắng xuống và
từ định mới sanh
trí tuệ. Cái
trí tuệ nầy không phải do học mà có, nhưng nó chính là
sự tạo thành bởi sức
công phu tu tập bền vững.
Trí tuệ nầy chính là
trí tuệ chân thật và cũng chính là tánh giác của
chúng ta. Nếu
chúng ta biết sống với cái tánh giác
chân thật nầy thì sẽ không còn tạo nghiệp và
dĩ nhiên là
sanh tử luân hồi cũng vì thế mà dừng.
Tóm lại, người
thông minh trí thức ở ngoài đời là do khả năng lượm lặt của người làm của mình, nhưng không có gì thật là của mình cả. Còn người
tu Phật là phải gạt bỏ tất cả những thứ bên ngoài để cho tâm được
trong sáng và khi đó tánh giác sẽ hiện bày. Như vậy, nền
giáo dục của
thế gian là thu vào, thu vào càng nhiều thì càng
thông minh trí thức, còn người
tu Phật thì phải
bỏ ra, càng
bỏ ra thì tâm càng
thanh tịnh và tánh giác mới hiện bày. Đây mới chính là
trí tuệ chân thật có sẵn trong tất cả
mọi người.
Tùy theo nghiệp đời trước, sự cấu trúc não bộ của mỗi người cũng khác nhau. Do đó
chính nghiệp đã
chi phối sự
phối hợp cũng như
phân chia các phân tử
di truyền (gene) và các tế bào của não bộ đã
dựa vào các gene nầy để phát triển. Trong
hệ thống não bộ có hai loại
quả báo để tạo thành
tài năng của
con người:
1)Đây là loại
quả báo tạo thành tế bào não bộ để có một khả năng
thông minh nhất định, tức là cái vốn có sẵn.
2)Loại
quả báo nầy tạo thành môi trường
giáo dục để
chuyển hóa tư tưởng của họ
trở thành người tốt hay xấu.
Nếu
phối hợp hai
quả báo nầy
với nhau thì
tài năng của một người được hình thành.
Thí dụ như có những người được phước
thông minh nhưng không có phước về học vấn nên
tài năng bị
hạn chế. Ngược lại, có người tuy kém
thông minh, nhưng được ở trong môi trường
giáo dục tốt, gặp thầy giỏi,
cha mẹ và
anh chị chăm sóc dạy dỗ tường tận nên cũng
trở thành người giỏi.
Mặc dù não bộ
con người đã hình thành xong từ khi còn nằm trong bụng mẹ, có nghĩa là
nghiệp quả đã
quy định xong mức độ
thông minh của từng người, nhưng trên
thực tế thì cái
thông minh của họ cũng bị
thăng trầm tăng giảm
tùy theo duyên nghiệp. Vào những giai đoạn phước lành
xuất hiện, người đó bỗng nhiên
sáng suốt lạ thường do đó
trí thông minh được
tăng trưởng đến
cực độ khiến họ
trở thành người tài giỏi. Đến khi phước đã hết thì cũng
con người đó mà họ
trở thành lú lẫn
mờ mịt, không thể nhìn xa thấy rộng và
dĩ nhiên dễ
đi vào con đường thất bại.
Trường hợp điển hình là khi
thời vận tốt, tức là
phước đức đang đến, thì doanh
gia tiên đoán trước sự thay đổi của thị trường để đầu tư
thích hợp và
đạt được thành công lớn. Đến khi phước đã hết, họ tiên liệu
sai lầm và đầu tư không đúng chỗ
thành thử bị
phá sản.
Thời
Tam quốc bên Trung Hoa khoảng 200 năm sau Tây lịch, Khổng
Minh Gia Cát Lượng là một nhận vật
siêu phàm,
trí tuệ không ai sánh kịp.
Chẳng những là một quân sư
đại tài, ông còn là một
anh hùng trung liệt cố giúp cho Lưu Bị
phục hồi nhà Hán. Ông mưu tính như thần lại có kiệt tài giúp sức thì tại sao sáu lần ra Kỳ Sơn để đánh nhà Ngụy của Tào Tháo và Tư Mã Ý vẫn không thành đạt? Biết mạng mình sắp hết, ông lập đàn cúng sao để cầu được sống thêm 10 năm nhưng không được nên sau cùng thốt ra câu:”Mưu sự tại nhân
thành sự tại thiên!”. Tại sao ông trời không chìu lòng Khổng Minh? Nhà Hán làm vua trên 400 năm thì cái
phước đức do
tiền nhân tạo ra đã hết. Một
triều đại kéo dài như
vậy thì có rất nhiều vị vua không
nhân từ, tạo nhân dữ nhiều hơn nhân lành khiến lòng dân
ta thán. Khi
phước đức nhà Hán đã cạn thì dầu có mười Khổng Minh giúp cũng vẫn thất bại như thường. Vì thế nếu Khổng Minh có
tái sinh thì nhà quân sư
đại tài nầy sẽ nói lại rằng:”Lượng sự do tâm,
thành sự do nghiệp” là đúng.
Khi duyên đã đến, Luật
Nghiệp Quả tức thì
chi phối tận trong
tâm thức sâu kín của
con người khiến họ
dự tính hay hành động
tương ứng với nghiệp mà họ đã tạo thành. Chẳng hạn khi
quả báo lành
xuất hiện, nó
thúc đẩy tâm
con người khởi ra những
dự tính khôn ngoan và
chính xác do đó họ
nỗ lực hành động và
dĩ nhiên là sẽ
thành công. Ngược lại khi
quả báo dữ
xuất hiện, nó
thúc đẩy tâm
con người mưu tính chuyện trật đường rầy để họ rơi vào chỗ thất bại.
Thật vậy chính cái phước trong
quá khứ xa xăm đã tạo ra những cái
sáng suốt kỳ diệu trong
hiện tại khiến họ
suy nghĩ đúng và
dĩ nhiên họ sẽ hành động đúng.
Phước đức càng to thì khả năng
thành công càng lớn khiến họ
trở thành giàu có.
Như vậy tất cả những
phước nghiệp như
bố thí,
cúng dường, giúp đỡ người
nghèo khó, bênh vực kẻ
thế cô,
săn sóc người bệnh tật… đã góp phần tạo ra trí
sáng suốt cho những
đời sau. Nhưng nếu
phước nghiệp được kết tạo
liên tục lâu bền thì họ sẽ nhận được
tính thông minh
mãi mãi. Còn nếu
phước nghiệp được tạo theo kiểu “văn nghệ” có nghĩa là lúc thích thì làm, lúc chán thì thôi, thì
đời sau họ có được một
trí thông minh cũng “văn nghệ”. Đó là lúc thì khôn ngoan mà cũng có khi thì khờ khạo.
Trong
kinh Bổn Sanh có
câu chuyện Đức Phật kể về
trưởng lão Cella Panthaka. Trong những đời
quá khứ,
trưởng lão là một người học nhiều hiểu rộng, nhưng vì tự cao về tài trí của mình nên
trưởng lão đã
cười khinh bỉ một
huynh đệ thiếu
thông minh khiến vị đó buồn tủi mà không thể
tiếp tục học tập
kinh điển. Vì gây nghiệp như thế nên khi sanh vào thời
Đức Phật,
trưởng lão phải chịu
quả báo làm người
đần độn một
thời gian,
cho đến một
bài kệ ngắn cũng không thuộc nổi. Đến khi nghiệp hết,
Đức Phật dùng
phương tiện khai ngộ khiến cho
trưởng lão chứng được
quả vị A La Hán. Như vậy, khi nghiệp
liên đới không còn thì sự
thông minh uyên bác phát triển mãnh liệt khiến cho
trưởng lão trở thành một người
biện tài thuyết pháp vô ngại làm cho
đại chúng kinh ngạc thán phục vô cùng.
Chính
thái độ khinh thị người dở của
trưởng lão Panthaka khiến cho Ngài chuốc lấy
quả báo kém
tài năng. Nhưng
thói đời thì
con người lúc nào
cũng thế,
chúng ta luôn kính phục trước bậc kỳ tài và
coi thường kẻ kém cỏi. Sự
kính trọng bậc kỳ tài tạo ra
quả báo tốt về sau, trong khi khinh thường người dở cũng tạo
quả báo bất lợi cho mình. Như vậy
con đường hạnh phúc viên mãn là chẳng những
chúng ta luôn
kính trọng người có tài mà lúc nào cũng giữ được sự
thương mến với kẻ kém cỏi. Có như thế thì
chắc chắn sẽ tránh được
quả báo xấu về sau.
Một
tính chất đặc thù khác của Luật
Nghiệp Quả là
con người từ những đời trước đã tạo những
nghiệp nhân khác nhau cho nên
quả báo họ có các năng khiếu
sai biệt cho đời nay mà có người gọi là năng khiếu bẩm sinh. Đó là
trường hợp có người chỉ thích
âm nhạc, còn kẻ khác lại say mê về khoa học, chính trị,
lịch sử hay võ thuật…Chẳng hạn như có người
hiện tại rất say mê
âm nhạc tức là người đó đã tạo cho mình một năng khiếu
âm nhạc cho
kiếp sau. Nhưng không có nghĩa là người đó có thể mang cái say mê
âm nhạc sang
đời sống kế tiếp. Cái say mê
âm nhạc bây giờ chính là
Ý Nghiệp mà họ đã tạo ra và chính cái
ý nghiệp nầy sẽ tạo
thành nhân cách của họ cho
đời sau mà thôi.
Thí dụ một vị
bác sĩ hành nghề mà thiếu
lòng vị tha, chỉ
tìm cách làm giàu, có nghĩa là
Ý Nghiệp xấu sẽ bị
Quả báo nhân cách xấu, thì
quả báo đời sau nghiệp y khoa họ vẫn còn đeo đuổi nhưng không còn là
bác sĩ mà
trở thành y tá. Ngược lại một y tá
bình thường nhưng
tâm hồn quảng đại, tận tình chăm sác cho bệnh nhân thì
kiếp sau nghề nghiệp
tăng trưởng người ấy sẽ
trở thành vị
bác sĩ giỏi.
Vậy
tài năng của
con người là sự
kết tập từ
vô số nghiệp nhân của
tiền kiếp và tất cả chỉ được phát triển nếu họ có
tâm hồn vị tha và quãng đại.