KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
Thứ Hai Mươi Bốn
Bấy giờ có tám ngàn người
ngoại đạo Giá La Ca
Ba Lợi Bà La Xà Ca thấy
A Tu La nhẫn đến
Tịnh Cư Thiên cúng dường được
thọ ký, và nghe tiếng
tán thán, họ sanh lòng
hi hữu. Họ
nghe pháp môn ấy, pháp mà họ chưa hề được nghe, họ
sanh nghi tự bạch
đức Phật rằng : « Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi nghe pháp mà từ trước chưa được nghe, nghe xong
chúng tôi không thích Giá La Ca
Ba Lợi Bà la Xà Ca
ngoại đạo, cũng chẳng thích
tại gia. Ở nơi pháp nầy,
chúng tôi lại nghĩ lự chẳng kính tin, do vì từ trước chưa hề được nghe.
Chúng tôi ở chỗ
Cù Đàm Sa Môn cũng có
nhơn duyên,
do nơi Cù Đàm làm
thần thông biến hóa như vậy,
chúng tôi được thấy
chư Thiên chư Thần được thân
vi diệu, và thấy
đại chúng qui phục
Cù Đàm rất đông , nên biết vì
Cù Đàm rất khéo
thuyết pháp. Do đó ở nơi
Cù Đàm chúng tôi có chút
lòng tin.
Cù Đàm lại vì chúng trời Quảng Quả nói pháp rằng : « Tất cả pháp là
Như Lai ». Nơi pháp thuyết ấy
chúng tôi rất nghi lự : thế nào tất cả pháp gọi là
Như Lai ?
Chúng tôi ở nơi
Cù Đàm sanh
lòng tin như vậy : chỉ có
Cù Đàm biết được ý
chúng tôi như vậy như vậy. Xin
Cù Đàm vì
chúng tôi mà giải nói cho
chúng tôi hiểu nghĩa của
pháp ngữ ấy hầu được lìa lưới nghi ’’.
Đức Thế Tôn bảo chúng ấy rằng : “ Nay Phật hỏi lại các ông,
tùy ý các ông đáp ”.
Chúng
ngoại đạo thưa : “
Lành thay Cù Đàm ! Ngài có hỏi
chúng tôi xin nói ”.
Đức Thế Tôn hỏi: “ Các ông có biết thế nào thai nhập bụng mẹ chăng? ”.
- Thưa
Cù Đàm ! trong luận của phái tôi có nói ba thứ
nhơn duyên hòa hiệp thai nhập bụng mẹ. Đó là
cha mẹ gần nhau sanh
tham nhiễm nghĩ đến sự dục, do nghĩ mà hành dục nên thai nhập mà thành thai
Nầy các ông ! Theo ý các ông thế nào, lúc
cha mẹ nghĩ tưởng,
tham nhiễm ấy có phải từ nơi tâm mẹ mà
phát khởi chăng ?
- Thưa
Cù Đàm ! không phải.
- Nầy các ông ! Có phải từ mẹ
nghĩ tưởng sanh khởi chăng ?
- Thưa
Cù Đàm ! Không phải.
- Nầy các ông ! Có phải từ nơi tâm cha
phát khởi chăng ?
- Thưa
Cù Đàm ! Không phải.
- Nầy các ông ! Có phải từ cha
nghĩ tưởng sanh khởi chăng ?
- Thưa
Cù Đàm ! Không phải.
- Nầy các ông !Tham dục ấy của cha có vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm ! Không phải.
- Nầy các ông ! Tâm người cha có vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !Không phải.
- Nầy các ông ! Sự
phân biệt của cha có vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm ! Không phải.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân trời chết rồi xuống vào bụng mẹ chăng ?
Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân
địa ngục chết rồi đến vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ
súc sanh chết rồi đến vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ
ngạ quỉ chết rồi đến vào bụng me chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân
A Tu La chết rồi đến vào bụng mẹ chăng?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải là
phi sắc đến vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải là sắc đến vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
- Nầy các ông ! Thai ấy có phải là thọ tưởng hành và thức đến vào bụng mẹ chăng ?
- Thưa
Cù Đàm !
Chúng tôi chẳng biết được.
Đức Thế Tôn bảo chúng
ngoại đạo : “ Nầy các ông ! Pháp ấy
thậm thâm tịch diệt vi diệuKhó lường, khó
hiển thị được, chẳng phải
cảnh giới tư lương, chẳng phải các ông biết được. Các phái
ngoại đạo dị kiến dị nhẫn, ưa muốn
dị chủng. Nơi pháp chẳng chánh thì
tinh tấn tu hành, nơi trong
dị kiến thì
quyết định xu hướng.
- Nầy các ông ! Nếu có
thiện nam tử thiện nữ nhơn gặp được
thiện tri thức thì ở trong pháp
thậm thâm sanh được mắt
sáng tỏ.
Ví như có người đau mắt lòa tối gặp được
lương y chữa lành, họ
do nơi mắt lành sáng ấy mà hiện đời được thấy những
hình sắc từ trước chưa hề thấy.
Cũng vậy, nầy các ông ! Nếu có
thiện nam tử thiện nữ nhơn chẳng có đủ các
căn tính v.v…, họ gặp
thiện tri thức nên
huệ nhãn thanh tịnh, do
huệ nhãn nên thấy được
thâm pháp.
Hàng
ngoại đạo các ông từ đêm dài xa xưa bị tà luận dối phỉnh mà sanh
dị kiến, ở nơi
phi pháp lại cho là
thiện pháp, nơi phi
giải thoát lại cho là
giải thoát, nơi phi
xuất thế lại cho là
xuất thế.
Thấy các ông tự hư hỏng lại làm các ông hư hỏng. Như có người mù bảo người mù khác rằng tôi dẫn anh đi. Người có trí nên biết hai người mù ấy chắc sẽ
trụy lạc nơi
phi đạo mà bị khổ.
Cũng vậy, nầy các ông ! Hoặc
Sa Môn, hoặc
Bà La Môn thiệt chẳng phải
Đạo Sư mà tự xưng
Đạo Sư, thiệt chẳng phải
chánh giác mà tự xưng
chánh giác, thiệt chẳng biết đạo
xuất thế mà tự xưng là biết, thiệt chẳng thấy đạo
xuất thế mà tự xưng là thấy, thiệt chẳng biết chỗ cạn qua mà tự xưng là biết, thiệt chẳng phải giáo sư mà tự xưng là giáo sư, điều họ
dạy bảo là
tà giáo, là tá giác, là tà xuất, là
tà đạo, chẳng biết chỗ cạn tự xưng là biết rồi đưa người , người được đưa qua
trở lại càng khốn khổ hơn.
Nầy các ông !
Ví như kẻ chăn bò chẳng biết chỗ cạn lùa bầy bò xuống nước, đưa đến chỗ nước sâu giữa dòng bị khốn không ai
cứu hộ. Đó là do kẻ chăn bò chẳng biết chỗ nước cạn vậy.
Cũng vậy, Hàng
ngoại đạo các ông chẳng phải
Đạo Sư mà tưởng mình là
Đạo Sư, người được độ
trở lại bị khốn khổ.
Nầy các ông ! Phật là
Đạo Sư thiệt có khả
năng hóa đạo, người được
hóa độ đều chánh được độ. Phật là
chánh giác lời nói chẳng hư, người được Phật
giác ngộ đều được chánh ngộ. Phật là năng xuất
lời nói chẳng hư, người được dạy xuất thì được chánh xuất. Phật thấy đạo dạy đường chánh cho người. Phật biết chỗ
cạn lời nói chẳng hư , người được
Phật độ thì được chánh độ. Phật biết
pháp giáo hóa hay
giáo hóa người. Phật biết
Phật pháp hay
giác ngộ người. Phật biết pháp xuất khiến người được xuất. Do vì Phật
chánh kiến nên hay chánh
chỉ bảo người. Phật biết chỗ độ qua được nên hay
độ người, người được dắt qua đều được đường tốt.
Ngoại đạo các ông, người ưa
giải thoát. Phật là
Đạo Sư nay ở trước các ông đây, các ông nên đến. Phật là chánh ngộ
hiểu rõ pháp
xuất ly, khéo thấy đạo
xuất ly nên làm chỗ cạn qua.
Các ông
nhứt tâm lắng nghe kỹ khéo
suy nghĩ đều sanh ưa muốn
chánh niệm hiện tiền tâm sẽ
lưu chú phát cần
tinh tấn, vì chưa
chứng pháp khiến được chứng, vì chưa dến được pháp khiến đến được., vì xưa chưa
hành đạo khiến tiến hành , vì xưa chưa đến chỗ khiến đến chỗ, vì chưa phục ma khiến
hàng phục, vì xưa chưa tìm bạn khiến cầu bạn lữ, vì chưa được pháp
phương tiện khiến được pháp
phương tiện.
Nầy các ông ! Như Phật đã nói ba pháp hòa hiệp được thọ thai. Nay sẽ nói , các ông phải
nhứt tâm nghe kỹ
pháp môn thọ thai.
Nầy các ông ! Phật nói mẹ đó là
quá khứ tác nghiệp ấy làm duyên. Phật nói cha , đó là
quá khứ tác nghiệp ấy làm nhơn. Phật nói
Càn Thát Bà, đó là nghiệp chiêu vời thức. Phật nói
Ca La Lã, đó là nghiệp
an trí. Phật nói bụng mẹ, đó là chỗ nơi mà nghiệp
an trí thức. thức ở nơi bụng rồi thì sanh mạng được
tăng trưởng lần lần lớn rộng.
Nầy các ông ! Vì như có thuốc rừng rậm nương
đại địa mà được
tăng trưởng lần lần lớn rộng. Cũng vậy, thức ấy vào bụng mẹ rồi
tăng trưởng lớn rộng. Trong bụng mẹ ấy, hài nhi
trưởng thành mới được sản sanh , sanh rồi lần tăng, đã được
trưởng thành hành tánh thuở đời trước theo chỗ đã chết mà đến, chỗ sở hành
quá khứ kia, quen tập
phát khởi hiện tại đây. Cái ấy phải là trí mới biết , chẳng phải ngu rõ được.
Kết bạn cùng ở thường
quan sát luôn mới biết tánh ấy.
Các ông lắng nghe đây ! Người ấy nếu từ
địa ngục chết rồi đến sanh trong
loài người đây sẽ có tướng nầy mà người trí phải biết : tiếng họ ré lên ồ ề, như tiếng
con la, tiếp
gấp rút , tiếng kinh sợ, tiếng to tiếng nhỏ lòng thường sợ sệt, luôn luôn run rẩy nổi ốc dựng lông trong
chiêm bao phần nhiều thấy lửa cháy lớn, hoặc thấy chạy trên núi, hoặc thấy khối lửa, hoặc thấy nồi chảo nước sôi trào, hoặc thấy có người cầm gậy gộc mà chạy, hoặc thấy thân mình bị mâu xóc đâm, hoặc thấy
la sát nữ, hoặc thấy bầy chó dữ, hoặc thấy bảy voi dữ rượt, hoặc thấy mình chạy bốn phương mà không có chỗ nương về, lòng họ ít tin, không có
thân hữu.
Nầy các ông !
Vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lượt bấy nhiêu, đây gọi là từ
địa ngục chết đến sanh trong
loài người, chẳng phải ngu lường được mà chỉ có trí mới biết.
Nầy các ông ! Người ấy nếu từ
súc sanh chết rồi đến sanh trong
loài người, họ sẽ có những tướng dạng nầy, mà người trí phải biết, họ
ám độn ít trí lười biếng ăn nhiều, thích ăn bùn đất, tánh họ khiếp nhược,
ngôn ngữ chẳng rành,
họ thích làm bạn với kẻ ngu, ưa
chỗ tối tăm , mến thích nước đục, ưa nhăn cỏ cây, ưa lấy ngón chưn đào khoét đất cát, ưa động đầu
xua đuổi ruồi lằn, thường cất cao đầu ngáp nhai không, thường ưa có chưn
tùy nghi nằm trên đất chẳng tránh ô uế, ưa ngửi không, ưa trần truồng, ưa
dối trá,
nói khác làm khác ưa nói
thêm bớt, họ thường
chiêm bao thấy lấy bùn trét lên mình, hoặc mộng thấy mình ở đồng ruộng ăn cỏ, hoặc mộng thấy mình bị rắn quắn, hoặc mộng thấy muình vào trong
hang núi rừng rậm. Có
vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ
súc sanh chết đến sanh trong
loài người. Trí mới biết chẳng phải ngu lường được.
Nầy các ông ! Người ấy nếu từ
ngạ quỉ chết đến sanh trong
loài người thì sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Tóc họ vàng, giận
trợn mắt nhìn, thường ưa nhịn đói nhịn khát,
tham lam bỏn xẻn ghen ghét, ưa tham ăn tham uống, ưa
nói lén người, thân nhiều lông, tròng mắt sáng đỏ, nhiều
nghĩ tưởng các
thức ăn, ưa muốn
tích tụ chẳng muốn chia cho, chẳng thích thấy người lành tốt, thấy tài vật liền sanh lòng
trộm cắp nhẫn đến được chút ít cũng liền mừng vui, thường
cầu tài lợi, ưa ăn dơ, thấy người có
của cải liền
ganh ghét, lại ở nơi của người tưởng là của mình, thấy người thọ dùng thì tiếc lẫn, nghe nói
ăn ngon thì lòng chẳng ưa, nhẫn đến nơi xóm nơi đường thấy trái cây rụng hay lúa đậu liền sanh lòng tham lượm hái. Có
vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật chỉ nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ
ngạ quỉ chết đến sanh trong
loài người chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu người ấy từ
A Tu La chết đến sanh trong
loài người sẽ có những tướng sau đây mà người trí phải biết :
Họ cao ngạo
ngã mạn, ưa
giận dữ đấu tranh,
oán hận chẳng quên, khởi
tăng thượng mạng, thân họ to mạnh, mắt trắng như mắt chó, răng dài lộ ra ngoài,
dũng kiện nhiều
sức lực hay chiến trận, cũng ưa
lưỡng thiệt phá hoại kẻ khác, lòng họ cao ngạo khinh miệt sách luận của người, người khác dầu biết mà họ khéo dùng lời lẽ kín sâu, họ cũng có
trí lực và
phiền não lực, thích tự
dưỡng thân thể. Có
vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược những tướng ấy, đây gọi là từ
A Tu La chết đến sanh trong
loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu từ
loài người chết rồi sanh
trở lại trong
loài người thì có những tướng như sau mà người trí phải biết : Người ấy hiền trực ưa gần người lành,
chê trách kẻ ác, mến tiếc dang vọng nhà mình , đốc hậu thủ kín,
ưa thích tiếng tâm và
lời khen tặng, mến ưa nghề khéo,
kính trọng trí huệ, có tâm tàm sĩ,
tâm tánh nhu nhuyến,
biết ơn dưỡng nơi các
thiện hữu, lòng thuận không trái, ưa
xả thí, biết người hay dở, giỏi
quan sát người có ích hay
vô ích, giỏi
đối đáp lãnh hội ngôn nghĩa ấy, giỏi hòa hiệp cùng giỏi trái lìa, giỏi làm
sứ giả tuyên truyền
ngôn ngữ, nơi các thứ
ngôn ngữ giỏi
thông đạt ghi nhớ chẳng quên, cũng biết được thị xứ phi xứ. Có
vô lượng tướng như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ
loài người chết
trở lại sanh trong
loài người. Chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu người ấy từ thân trời chết rồi sanh trong
loài người sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Người ấy đoan chánh thích
thanh tịnh, hay mang
vòng hoa và
ướp hương thoa hương nơi thân, thích tắm gội, thọ
ngũ dục thì chọn thứ đẹp tốt mà chẳng ưa
thứ xấu, ưa
âm thanh và
ca vũ, thuần
giao hữu với các thượng nhơn , chẳng
kết bạn với hạ nhơn, ưa lầu các nhà cao phòng rộng,
lòng từ hòa
mỉm cười không giận,
lời nói dịu dàng đẹp hay khiến người nghe đẹp dạ
vui lòng, thích chuổi ngọc và
y phục trang sức, thường ưa đi ra vào, bước đi
thong dong nhàn nhã, làm việc
chuyên cần chẳng biếng lười. Có
vô lượng tướng như vậy, nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ thân trời chết rồi sanh trong
loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu
thiện nam tử thiện nữ nhơn muốn
siêu thoát các tướng ấy thì phải gần gũi
thiện tri thức,
thuận theo ý và làm theo chỗ làm của
thiện tri thức.
Thiện tri thức ấy sẽ
thuyết pháp để họ được
siêu độ.
Nầy các ông ! Người từ
địa ngục chết sanh trong
loài người ấy, trước đời
địa ngục lúc họ làm thân người họ tạo những
tội ác, vì họ
sân khuể nên giết hại, do nghiệp giết hại ấy dắt họ đọa
địa ngục thọ nhiều thứ khổ, sau đó sanh trong
loài người vẫn còn
tập khí.
Người ấy đã biết tướng dạng như vậy rồi
cần phải tự biết là mình từ
địa ngục đến sanh trong
loài người. Vì bỏ lìa
nhơn duyên địa ngục, người ấy phải tìm
thiện tri thức. Gặp được
thiện tri thức rồi
cung kính thưa sự.
Thiện tri thức ấy vì trừ nghiệp sân hại mà dạy nói
từ bi và
trợ đạo tương ưng từ bi. Do các
pháp hành ấy trừ được
tập khí tàn thừa
nhơn duyên địa ngục của người ấy.
Thiện tri thức ấy hoặc vì họ nói
Thi la Ba la mật tương ưng từ bi để trừ
tội ác sân hại cho người ấy. Lúc người ấy tu
từ bi,
sáu Ba la mật sẽ đầy đủ thêm lớn
phước đức.
Nầy các ông ! Người từ
súc sanh chết, sanh trong
loài người, trước đời
súc sanh, lúc làm thân người, họ thật hành quen
tập pháp ngu si, do quen tập
ngu si bèn làm
ác nghiệp, do
ác nghiệp ấy sanh trong loài
súc sanh, ăn
ở chung chạ lâu ngày với các
súc sanh, hành động
nghi thức súc sanh, nên nay làm thân người vẫn còn những tướng theo
tập khí súc sanh. Người ấy phải tự biết sau khi thấy hành tưởng của mình, tôi từ
súc sanh chết đến sanh trong
loài người đây. Vì bỏ rời
nhơn duyên súc sanh, họ phải tìm
thiện tri thức. Vì trừ
tập khí ngu si.
Thiện tri thức dạy họ mười hai
nhơn duyên. Do pháp
nhơn duyên ấy mà trừ được
ngu si.
Thiện tri thức ấy hoặc vì họ mà dạy
Bát Nhã Ba la mật, do đó
ngu si thể tánh tự lìa dứt, bèn sanh
trí huệ.
Nầy các ông ! Người từ
ngạ quỉ chết đến sanh trong
loài người, trước đời làm
ngạ quỉ, lúc làm thân người, họ thật hành chứa quen pháp
xan tham, do
nghiệp lực xan tham sanh trong loài
ngạ quỉ,
cùng chung với các
ngạ quỉ ăn ở, hành động theo
nghi thức ngạ quỉ. Người ấy
quan sát thấy hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn là
ngạ quỉ chết rồi đến sanh trong
loài người nầy. Vì muốn bỏ rời
hành nghiệp ngạ quỉ, người ấy phải tìm
thiện tri thức. Vì trừ nghiệp
xan tham của người ấy nên
thiện tri thức dạy họ
pháp bố thí. Nhờ
pháp bố thí mà nghiệp
xan tham được trừ. Hoặc
thiện tri thức dạy họ pháp trợ
Bồ đề tương ưng với
bố thí, hoặc dạy họ
Đàn na Ba la mật. Người ấy tu Bàn na
Ba la mật mà được đủ
sáu Ba la mật.
Thiện tri thức hoặc dạy họ tất cả pháp đều
bình đẳng. Người ấy
tu pháp bình đẳng nên được đủ
Bát Nhã Ba La mật. Vì tu
Bát Nhã ba la mật nên
lưu chú xu hướng Nhứt thiết trí.
Nầy các ông ! Người từ
A Tu La chết đến sanh trong
loài người, trước đời
A Tu La, lúc làm thân người, họ làm nhiều căn lành mà
kiêu mạn, do
kiêu mạn mà tạo các nghiệp , do sức nghiệp
kiêu mạn tích tập mà sanh trong
A Tu La cùng chung ăn ở với chư
A Tu La làm những nghiệp
A Tu La. Từ
A Tu La chết họ sanh trong
loài người đây nhưng
tập khí nghiệp
A Tu La vẫn còn. Người ấy
nghe pháp như vậy,
quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn từ
A Tu La chết rồi sanh trong
loài người. Vì muốn bỏ rời
hành nghiệp A Tu La nên người ấy phải tìm
thiện tri thức. Vì trừ nghiệp
kiêu mạn cho người ấy,
thiện tri thức dạy họ thánh trụ xứ, do
pháp môn nầy khiến họ trừ được nghiệp
kiêu mạn. Hoặc dạy họ
không pháp môn, do đây trừ được nghiệp
kiêu mạn ngô ngã mà được trí
vô ngã. Hoặc dạy họ
nhơn duyên hòa hiệp mà có các pháp, do hòa hiệp mà có
sở tác.
Nếu không hòa hiệp thì không
sở tác.
Quan sát như
vậy thì kiêu mạn và nghiệp đều
tiêu trừ. Hoặc dạy các pháp nhứt tướng, tu theo đây thì được đủ
Bát Nhã Ba la mật mau chứng
Nhứt thiết trí trọn chẳng
thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ thân người chết rồi lại sanh trong
loài người, lúc đời trước làm thân người, họ
tu hành tích tập mười
nghiệp đạo lành, do
nghiệp lực luôn luôn
tu hành tích
tập nghiệp đạo lành ấy mà lại sanh trong
loài người đây. Người ấy
nghe pháp như vậy phải tự biết rằng tôi vốn từ thân người chết rồi lại sanh trong
loài người nầy. Vì muốn siêu
tập khí nghiệp người , họ phải tìm
thiện tri thức. Vì trừ
tập khí ấy,
thiện tri thức dạy họ
vô thường tưởng để trừ
tập khí. Hoặc dạy họ sanh từ lỗi khổ,
Niết bàn rất vui.
Nghe pháp ấy rồi, người ấy được nhàm
sanh tử lỗi khổ mà
ưa thích Niết bàn vui. Hoặc dạy họ
sáu Ba la mật, do đó hoặc họ có thể
phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc dạy họ thiện
phương tiện, do đó họ có thể
kiên trì sáu Ba la mật mau chứng Nhứt trí trọn chẳng
thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ thân trời chết rồi đến sanh trong
loài người, trước đời làm thân trời, lúc làm thân người tu
phạm hạnh bố thí trì giới đều mong phước báu tương lai.
Tu hành tích tập
thiện nghiệp như vậy dài lâu xong trọn, do
nghiệp lực ấy
sanh thân trời, cùng
chư Thiên chung ăn ở quen
nghi thức chư Thiên , từ thân trời chết,
tập khí pháp hành chư Thiên vẫn còn, khi được thân người rồi,
nghe pháp như vậy
quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn quyết từ thân trời chết đến sanh trong
loài người. Vì muốn siêu
tập khí chư Thiên, người ấy phải tìm
thiện tri thức.
Thiện tri thức ấy dạy họ
tu trì phạm hạnh chẳng cầu báo tương lai, dạy cho họ biết cầu phước báu là lầm lỗi, dạy rõ tịnh tu
phạm hạnh không chỗ y trước thì được phước
vô lượng. Dạy họ tu
bố thí chẳng cầu phước báu, nói cầu báo là
lỗi lầm, dạy rõ
bố thí không chỗ y trước thì được phước
vô lượng. Dạy họ
tu trì giới chẳng cầu phước báu tương lai, nói cầu báo là
lỗi lầm, dạy rõ
trì giới không chỗ y trước thì
công đức vô lượng. Hoặc dạy họ
thiện xảo phương tiện, do đó người ấy có hành
lục Ba la mật, đầy đủ
lục Ba la mật mau chứng
Nhứt thiết trí trọn chẳng
thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ
địa ngục chết đến sanh trong
loài người phải nương tựa
thiện tri thức để được
nghe pháp tam thế chư Phật bình đẳng. Được
nghe pháp bình đẳng rồi phải phát cần
tinh tấn y thành ấp
tụ lạc cùng
đại chúng chung ở nơi đủ cả
bốn bộ chúng cùng nhau luận lượng
Phật pháp học
vấn nạn đáp, pháp
tam thế bình đẳng được
hiện ra trước, hiểu tất cả
pháp không có
tự tánh. Do tu trí hiểu nầy mà
phiền não lần trừ.
Nầy các ông ! Người từ
súc sanh chết sanh trong
loài người ấy phải nương tựa
thiện tri thức gần gũi người
đa văn, do gần người
đa văn mà trừ lần
ngu si. Người ấy dầu gần người
đa văn và các
kinh luận mà
quán tưởng chẳng phải có. Người ấy
quán tưởng chẳng phải có rồi
tự nhiên hiểu
chứng pháp không
tự tánh, do đây mà pháp
tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền mau chứng
Nhứt thiết trí chẳng có
thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ
ngạ quỉ chết sanh trong
loài người ấy phải nương tựa
thiện tri thức tu hành bố thí để trừ
xan tham và làm các
công đức. Do vì tu
xả thí nên tâm họ chằng tich tụ, do đó pháp
tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền được nhứt tướng, tức là
vô tướng. Người ấy do tu trí hiểu
vô tướng nầy nên mau chứng
Nhứt thiết trí trọn chẳng
thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ
A Tu La chết đến sanh trong
loài người phải nương tựa
thiện tri thức để cùng chiến đấu với
phiền não ma, đó là
kiêu mạn. Bấy giờ người ấy nên
quán sát “ gì là mạn, ai mạn, ai bị khinh mạn, ai do mạn nầy mà khởi
phiền não xứ, ai bỏ mạn ấy ?”. Suy tìm như vậy không có mạn để được, cũng chẳng thấy có ai
nhiếp thọ mạn ấy. Người ấy do
quán sát nghĩa như vậy nên không có mạn để được, không có người mạn,
cảnh giới tương ưng với mạn cũng chẳng có được, cũng chẳng thấy có ai bỏ
kiêu mạn.
Quan sát như vậy, không một pháp có thể được. Người ấy lại
quan sát như vậy : “Do ác
nhiếp thọ tự phỉnh thân mình cũng phỉnh thân người ”. Lúc
quan sát như vậy có thể thấy các
pháp không có
tự tánh. Do thấy các pháp đều không có
tự tánh nên thấy pháp chẳng phải có, do chẳng phải có nên biết chẳng
thành tựu, do biết chẳng
thành tựu nên biết là chẳng sanh, vì biết là chẳng sanh nên biết là chẳng diệt, đã chẳng
sanh diệt thì đó là
bất khả thuyết. Nếu hiểu được
bất khả thuyết thì nó chẳng phải
quá khứ chẳng phải
hiện tại chẳng phải
vị lai tam thế bất khả đắc. Các pháp đã là
tam thế bất khả đắc thì nên biết chưa hề có được có mất, đây là tất cả
pháp bình đẳng. Do tất cả
pháp bình đẳng nên biết tất cả pháp là
chơn như bất biến bất dị,
Như Lai cũng là
chơn như bất biến bất dị, vì tất cả pháp tức là
chơn như.
Do đó nên
quan sát kiêu mạn được biết người ấy từ thân người đời trước chết rồi lại sanh trong
loài người, vì họ có sức
tập khí kiêu mạn. Nhẫn đến từ
địa ngục chết đến sanh trong
loài người do có
tập khí kiêu mạn nên biết được tướng ấy.
Nếu không tập khí kiêu mạn thì không thể nói được là người ấy từ thân người đến hay nhẫn đến từ trong
địa ngục đến.
Nầy các ông ! Đây gọi là
trí huệ lìa rời
kiêu mạn. Tướng ấy phải do đủ xảo
phương tiện mới có thể biết được. Lại do
Bát Nhã Ba la mật gia trì nên người ấy mới biết được ”.
Lúc ấy, tám ngàn người
ngoại đạo được nghe
đức Phật thuyết pháp liền được
vô sanh pháp nhẫn. Chúng ấy được
vô sanh pháp nhẫn rồi liền
đứng dậy đảnh lễ chưn Phật. Họ
đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua một phía khác miệng đồng
lời nói kệ tán thán đức Phật :
“Đạo Sư
kiến lập sức
trí huệBiết các đạo thú chẳng do người
Biết các
chúng sanh đi các thú
Như thấy trái cây cầm trong tay
Do các
kiến thủ trược thế gian
Thí như mây mù chướng
hư khôngDo đây bầy ngu
thường lưu chuyển
Như bọn người mù
lạc đường chánh
Thế gian là thường là
vô thườngLại nói cũng thường cũng
vô thườngLại nói
phi thường phi
vô thườngHọ như voi đui
đi vào thành
Nói đời
hữu biên hay
vô biênNói cũng
hữu biên cũng
vô biênNói
phi hữu biên phi
vô biênDo đây
lưu chuyển như chim lồng
Lại nói
tức thân là
thần ngãHoặc nói ly thân có
thần ngãBị
vọng tưởng phân biệt trói buộcnhư chim sa lưới lòng
sanh khổLại nói Trời
Tự Tại hóa ra
Lại nói sanh chẳng phải do nhơn
Chúng sanh bị
kiến thủ che lấpVí như mây mù
che khuất trăng
Như trứng trong lồng nở ra chim
Theo các lỗ trống thường muốn ra
Chúng sanh bị
kiến thủ làm ngu
Họ chẳng
giải thoát như chim lồng
Lại để
Phạm Vương và Thiên chúa
Lại để đồng hài và phụ nhơn
Lại để phương hải
Tỳ Sa MônNhư giặc
bị bắt cầu
thần linhDường như kẻ nghèo gặp chủ nợ
Cầu lập bảo chứng cùng chủ nợ
Như vậy người đời
chấp kiến thủ
Ngu si cầu trời mong
dục lạcPhật thấy
chúng sanh y chơn thiệt
Như thấy năm ngón trên bàn tay
Ở trong các thú chịu trăm khổ
Như bọn giặc cướp vào lao ngục
Với họ
Thế Tôn lòng
thương xótTu các
đạo hạnh biết các thú
Thế Tôn đã dạy pháp xuất ngục
Như vua sanh trai phóng
đại xáThương đời chẳng kể
vô số kiếp
Tu các
khổ hạnh được
Bồ đềKiến thủ phá hoại bọn
ngu siPhật dạy cho họ
được giải thoátDo đây
Thiện Thệ Thiên Nhơn SưỞ trong các pháp được
tự tạiChúng tôi kiến thủ nên
lạc đườngNơi
kiến thủ Phật cứu
chúng tôiDo đây
Thế Tôn có
đại lựcCó đủ
vô úy không oán đối
Giữa chúng đại hống như
sư tửChúng tôi cũng nguyện được pháp ấy
Vì nó hay động cõi
Đại ThiênCũng dùng pháp ấy chiếu khắp chốn
Dùng nó
thọ ký các
chúng sanhCũng nguyện
chúng tôi gặp gỡ họ”.
Đức Thế Tôn biết chư
ngoại đạo đã
thâm tín nên
hiện tướng mỉm cười phóng ánh sáng.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi
đức Phật :
“Phật thương
thế gian hiện
mỉm cườiVì thấy các chúng
ngoại đạo ấy
Ngưỡng mong
Như Lai nói cớ cười
Phật hiện mỉm cười có nghĩa chi
Đấng khéo hiểu nhơn chẳng không nhơn
Mà hiện
mỉm cười phóng ánh sáng
Lành thay đấng hiện sáng
mỉm cườiĐại chúng chiêm ngưỡng mong Phật nói
Đại chúng tại hội đều
hoài nghiVì thấy
Phật hiện ánh sáng cười
Tất cả đều như nhìn trăng tròn
Nhìn Phật chờ nói cớ
mỉm cườiAi tại hôm nay dâng
cúng dườngAi ngày nay làm vui
từ phụNay ai có được Phật
công đứcLành thay Đại Trí xin diễn nói
Đại chúng nghe nói chắc mừng vui
Đều do
ngoại đạo được
thọ kýNgưỡng mong
Đạo Sư thương nói cho
Ở trong thừa nào họ
đắc đạoLành thay Mâu Ni trừ chúng nghi
Do đây
đại chúng được mừng vui
Một bề đến Phật không thối chuyển”.
Đức Thế Tôn nói kệ đáp
Mã Thắng Tỳ kheo :
“
Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ
Hay hỏi
Như Lai hàng ma oán
Thương xót thế gian nói lời ấy
Hay
hỏi Đạo Sư
Vô Thượng SĩPhật sẽ nói sự hiện
mỉm cườiÔng phải
nhứt tâm nghe
duyên cớÔng phải
vui mừng nghe Phật nói
Nay nói nghĩa cớ Phật
mỉm cườiTám ngàn
ngoại đạo đều
điều phụcBỏ các
ác kiến trụ
thiện kiếnThấy
thế gian bị
kiến thủ não
Họ khởi
bi tâm cầu
Bồ đềTất cả
kiến thủ đều được bỏ
Vì họ đã biết
chánh kiến vậy
Từ Phật được nghe ký
vô ngạiHọ đều ưa cầu
Nhứt thiết tríChỗ Phật
quá khứ được ký rồi
Cúng dường Đại bi Lưỡng Túc TônĐầy đủ chỗ hai ức chư Phật
Để được lên
Vô thượng Bồ đềChỗ Phật tu thí cũng chẳng thiếu
Tu trì tịnh giới tu thiền định
Tịnh tu
trí huệ phát
tinh tấnNơi c ác
quần sanh tu nhẫn nhục
Thường
tu tập sáu Ba la mậtLựa chọn trí huệ cầu
Bồ đềMã Thắng thỉnh hỏi đấng
hàng maPhát tâm thích cầu Phật
Bồ đềNhững
khổ não ấy do đảng ác
Y chỈ trong chỗ có
kiến thủChúng ấy nay thấy Thắng
Đạo SưBỏ các
ác kiến đều không thừa
Do được thiệt hiểu
lời Phật dạyTùy thuận Phật pháp khởi
thâm tínHọ có nhiều ức
Phật vị lai
Đều siêng
cúng dường cầu
Bồ đềỞ đời
vị lai kiếp
Tinh TúĐều được
làm Phật đồng một hiệu
Hiệu
Phổ Văn Phật
danh tiếng lớn
Phật ấy
đại trí độ thế gian
Quốc độ Phật ấy rất
thanh tịnhNhiều thứ
trang nghiêm không đâu bằng
Cõi ấy
chúng sanh không
ác kiếnThuần cầu
Bồ đề quả
hiền thánhCõi ấy
chúng sanh không
ác thúThuở ấy cũng không tất cả nạn
Tất cả Phật ấy
thọ mạng lâu
Đồng trụ
thế gian tám vạn tuổi
Chúng sanh nghe được danh Phật ấy
Đều được
bất thối thượng
Bồ đềNếu những người nữ nghe hiệu Phật
Tất cả đều được thân nam nhi
Như vậy
Thế Tôn đấng
hàng maĐã
thọ ký cho chúng
ngoại đạoTất cả Trời Người nghe
thọ kýThảy đều mừng vui sanh kính tin”.