KINH VĂN THÙ SƯ LỢI THỈNH VẤN BỒ ĐỀ
Hán-dịch: Cưu-Ma-La-Thập(2)
Việt-dịch: Thích Tâm Châu
Chính tôi được nghe, vào một thời kia, khi
đức Phật mới chứng được đạo-quả ở tại ngôi đền trên núi Già-Da(3), nước Ma-già-đà(4), cùng với một nghìn chúng Đại-Tỳ-Khưu. Và, các vị này trước kia đều là thuộc phái các vị Tiên-nhân bện tóc. Các vị đều là bậc A-la-hán,
việc làm đã xong, tâm được tự-tại, lợi mình đã được, hết mọi hữu-kết(5)và đã chứng được chính-trí giải-thoát.
Lại có hàng vạn các vị Bồ-Tát, có uy-đức lớn. Các vị đều từ
mười phương thế-giới, vân-tập về đây. Các vị đầy đủ
các loại thần- thông(6), các nhẫn(7), các đà-ra-ni(8), các pháp tam-muội(9). Như là các Ngài: Văn-Thù Sư-Lợi bồ-tát, Quán-Thế-Âm bồ-tát, Đại-Thế-Chí bồ-tát, Hương-Tượng bồ-tát, Dũng-Thí bồ-tát, Tùy-Trí-Hành bồ-tát làm vị Thượng-Thủ. Đại-chúng Bồ-tát số nhiều
vô lượng, kể đến nghìn muôn ức vị như thế. Lại có đại-chúng: Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi-nhân vây bọc chung quanh.
Bấy giờ Thế-Tôn nhập vào chính-định
thậm thâm vi-diệu của các
đức Phật, như thực quán-sát
tính tướng mọi pháp, và liền nghĩ rằng: "Ta được đạo-quả
vô thượng chính-đẳng chính-giác, được nhất- thiết-trí(10), bỏ mọi
gánh nặng,
cứu độ chúng-sinh, ở trong
tam hữu(11), dứt bỏ vô-minh, chứng được chân-minh, nhổ tên tà-kiến, dứt giòng khát-ái, đóng thành thuyền pháp, đánh vang trống pháp, thổi vang loa pháp, kiến-lập phướn pháp, chuyển giống sinh-tử, tỏ tính niết- bàn(12) , ngăn lấp đường tà, khơi mở
đường chính,
lìa bỏ nghiệp ác,
tỏ bày ruộng phúc".(13)
"Nay Ta
quán sát, xem do cái gì được đạo
vô thượng chính-đẳng chính-giác. Do thân được ư? Do tâm được ư? Nếu do thân được, thân không hay biết, không có tạo-tác, khác gì gỗ đá. Thân do
bốn đại(14),
phụ mẫu sinh thành và được sống còn do nhờ các thức: áo mặc, cơm ăn, giường nằm, tắm rửa. Nhưng, chúng ắt sẽ bị
vô thường diệt, về chỗ bại-hoại. Và, nếu như thế, nói theo
thế tục, thì đạo bồ-đề, thuộc về danh-tự: Vô hình,
vô sắc,
vô định,
vô tướng, vô hướng, vô nhập,
vô đạo."
"Qua
ngôn thuyết ấy, vượt ra
ba cõi(15). Không thấy, không nghe, không hay, không biết, cũng không sở đắc, cũng không hí-luận, không hỏi, không bày, không có văn-tự, không đường ngôn-ngữ."
"Nếu do tâm được, tâm được sinh ra bởi từ mọi duyên. Vì mọi
duyên sinh, nên chúng là không, cũng là
như huyễn. Chúng không có chỗ, không có tướng-trạng, không có thể-tính, cũng không sở-hữu. Và ở trong đó, sự được bồ-đề, là pháp sở-dụng, được đạo
vô thượng chính-đẳng chính-giác. Mà đã là PHÁP, pháp ấy đều không, chỉ có danh-tự. Bởi vì thế-tục mà có ngôn-thuyết. Ngôn-thuyết đều là ức tưởng
phân biệt, không có sở-hữu, không có căn-bản, không có thể- tướng, không có cảm-thụ, không có chấp-trước, không có đam-nhiễm, không có
viễn ly. Hết thảy đều là không có ảnh-tướng. Vì
thế cho nên trong các pháp ấy, không có
chứng đắc,
không pháp sở-dụng, không có bồ-đề.
Thông đạt như thế, mới được gọi là
chứng đắc đạo-quả
vô thượng chính-đẳng chính-giác."
Bấy giờ Văn-Thù Sư-Lợi pháp-vương-tử ở trong đại-hội đứng bên hữu Phật, cầm bảo-cái lớn che trên
đức Phật. Và,
trong lúc ấy, Văn- Thù Sư-Lợi ngầm biết Thế-Tôn cũng đang suy-niệm vấn-đề như thế. Bồ-tát Văn-Thù liền
bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế-Tôn, nếu mà bồ-đề có tướng như thế, thiện-nam, thiện-nữ
phát tâm làm sao?"
Thế-Tôn bảo ngài Văn-Thù Sư-Lợi:
"Thiện-nam, thiện-nữ cần nên
tùy theo tướng của bồ-đề mà
phát khởi tâm".
Bạch đức Thế-Tôn, Tướng của bồ-đề nên nói làm sao?"
Văn-Thù Sư-Lợi, Tướng của bồ-đề qua pháp thế-tục, ra ngoài
ba cõi, đường ngôn-ngữ dứt, diệt cả sự phát và sự không phát, là phát bồ- đề. Văn-Thù Sư-Lợi, thế nên Bồ-tát cần diệt các phát,
phát tâm bồ-đề,
như như pháp tính, tướng như
thực tế,
không sinh phân biệt, không duyên
thân tâm, là phát bồ-đề. Không dính các pháp, không thêm không bớt, không khác không một, là phát bồ-đề. Như dáng trong gương, như là
ánh nắng trong mùa viêm-nhiệt, như bóng như vang, như trăng trong nước, cần nên
phát tâm bồ-đề như thế."
Bấy giờ trong hội có vị Thiên-tử tên là Nguyệt-Tịnh Quang-Đức, vị này đã chứng ngôi bất-thoái-chuyển, liền hỏi Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi pháp-vương-tử rằng:
"Vì
duyên sự gì các vị Bồ-tát làm hạnh Bồ-tát?"
Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi đáp rằng:
"Ông đem câu này hỏi đức Thế-Tôn".
Đức Phật liền bảo Văn-Thù Sư-Lợi:
Ông nên
giải đáp về các
pháp hành trong câu hỏi của Thiên-tử Nguyệt-Tịnh Quang-Đức".
Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi bảo vị Thiên-tử ấy rằng:
"Ông nên nghe khéo, nay tôi sẽ nói. Thiên-tử nên biết, đạo các Bồ- tát, duyên với chúng-sinh, đại-bi làm gốc".
Vị Thiên-tử hỏi:
“Bồ-tát đại-bi lấy gì làm gốc?"
Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi đáp rằng:
“Trực tâm làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Với
trực tâm ấy lấy gì làm gốc?”
Văn-Thù đáp rằng:
“Đối với chúng-sinh, Bồ-tát lấy tâm bình-đẳng làm gốc".
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy tâm bình-đẳng lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Không có riêng rẽ bởi những hành-động khác lạ làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Không có riêng rẽ, hành-động khác lạ, lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Bồ-tát lấy tâm thâm-tịnh làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Bồ-tát lấy tâm
vô thượng chính đẳng chính giác làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy tâm
vô thượng chính đẳng chính giác lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Cần lấy sáu pháp ba-la-mật-đa(16)làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Sáu ba-la-mật lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Các vị lấy phương-tiện-tuệ làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy phương-tiện-tuệ lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Các vị lấy không phóng-dật làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy không phóng-dật lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Các vị lấy ba thiện-hạnh(17)làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy ba thiện-hạnh lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Cần lấy mười
thiện nghiệp đạo(18)làm gốc".
Thiên-tử lại hỏi:
“Mười
thiện nghiệp đạo lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Cần phải thu-nhiếp sáu-căn(19)làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Thu-nhiếp sáu căn lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Các vị lấy chính
ức niệm làm gốc?"
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy chính
ức niệm lấy gì làm gốc?"
Văn-Thù đáp rằng:
“Các vị cần lấy
chính quán làm gốc".
Thiên-tử lại hỏi:
“Vậy thì
chính quán lấy gì làm gốc"?
Văn-Thù đáp rằng:
“Cần giữ kiên niệm không quên làm gốc".
Vị Thiên-tử nói:
“Bồ-tát Văn-Thù, các vị Bồ-tát có bao nhiêu tâm có thể nhiếp nhân, có thể nhiếp quả?".
Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi đáp rằng:
“Các vị Bồ-tát có bốn loại tâm có thể nhiếp nhân, có thể nhiếp quả. Những gì là bốn? Một là,
sơ phát tâm. Hai là,
hành đạo tâm. Ba là,
bất thoái chuyển tâm. Bốn là,
nhất sinh bổ xứ tâm.
Sơ phát tâm làm
nhân duyên cho
hành đạo tâm.
Hành đạo tâm làm
nhân duyên cho
bất thoái chuyển tâm.
Bất thoái chuyển tâm làm
nhân duyên cho
nhất sinh bổ xứ tâm."
“Lại nữa Thiên-tử, Thiên-tử nên biết, với
sơ phát tâm ví như hạt thóc gieo xuống mảnh ruộng. Với
hành đạo tâm,
ví như hạt thóc
dần dần tăng trưởng.
Bất thoái chuyển tâm,
ví như hoa quả mới được kết thành. Và,
bổ xứ tâm cũng như
hoa quả đã thành hữu dụng."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm như thợ làm xe, gom góp gỗ lạt. Với
hành đạo tâm, xẻ đóng gỗ lạt.
Bất thoái chuyển tâm, gỗ làm đâu đấy. Và
bổ xứ tâm, xe đã
hoàn thành, vận chuyển
như ý."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm:
mặt trăng mới sinh. Với
hành đạo tâm: trăng ngày thứ năm.
Bất thoái chuyển tâm: trăng ngày mồng mười. Và,
Bổ xứ tâm: trăng ngày mười bốn.
Trí tuệ Như-Lai như trăng ngày rằm."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm: qua
Thanh văn địa. Với
hành đạo tâm:
qua Bích chi địa.
Bất thoái chuyển tâm: qua
Bất động địa. Và,
bổ xứ tâm: an
trụ định địa."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm như học chương đầu. Với
hành đạo tâm
như học chương hai.
Bất thoái chuyển tâm như là có thể đem ý trong chương,
thực hiện công dụng. Và,
bổ xứ tâm như
thông suốt vào lý sâu trong kinh."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm do từ
nhân sinh. Với
hành đạo tâm do
từ trí sinh.
Bất thoái chuyển tâm do từ đoạn sinh. Và,
bổ xứ tâm do từ quả sinh."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm là
nhân thế lực. Với
hành đạo tâm là trí
thế lực.
Bất thoái chuyển tâm là đoạn
thế lực. Và,
bổ xứ tâm là quả thế lực".
“Lại nữa, với
sơ phát tâm như người đau cầu thuốc. Với
hành đạo tâm như
phân biệt phương thuốc.
Bất thoái chuyển tâm như đau uống thuốc. Và,
bổ xứ tâm như đau được khỏi."
“Lại nữa, với
sơ phát tâm sinh nhà
Pháp vương. Với
hành đạo tâm học pháp
Pháp vương.
Bất thoái chuyển tâm học được đầy đủ pháp của
Pháp vương. Và,
bổ xứ tâm học pháp
Pháp vương thường được
tự tại."
Bấy giờ, ở trong
đại chúng có vị
Thiên tử tên là Định
Quang Minh Chủ, vị này đã chứng ngôi
bất thoái chuyển trong đạo
vô thượng chính đẳng chính giác.
Thiên tử Định
Quang Minh Chủ bạch với
Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử rằng: "Những gì là đường yếu lược của các vị Đại bồ tát? Và, do
con đường ấy chóng được
đạo quả vô thượng chính đẳng chính giác?"
Văn Thù đáp rằng: "Thiên tử,
con đường yếu lược của
Đại bồ tát có hai. Do
con đường ấy, chóng được
đạo quả vô thượng chính đẳng chính giác. Những gì là hai? Một là
phương tiện. Hai là,
trí tuệ. Thu nhiếp
thiện pháp gọi là
phương tiện. Phân tán các pháp gọi là
trí tuệ."
“Lại nữa,
phương tiện, tùy
chúng sinh hạnh,
trí tuệ, đích thực
pháp tướng không chuyển.
Phương tiện, tiếp ứng với tâm
chúng sinh,
trí tuệ, không sánh với hết thảy pháp.
Phương tiện, thường là
hòa hợp các pháp,
trí tuệ, thường là xả ly các pháp.
Phương tiện, thường là
hòa hợp các pháp,
trí tuệ, thường là xả ly các pháp.
Phương tiện thường là khởi phát
nhân duyên,
trí tuệ, thường là
trừ diệt nhân duyên.
Phương tiện, biết được
phân biệt các pháp,
trí tuệ, không hay
phân biệt pháp tính.
Phương tiện, được là
trang nghiêm cõi Phật,
trí tuệ cũng là
trang nghiêm cõi Phật, không chỗ
phân biệt.
Phương tiện biết được
căn tính lợi, độn của các
chúng sinh,
trí tuệ, thường không nắm được
chúng sinh.
Phương tiện, có thể đến nơi
đạo tràng,
trí tuệ, thường được hết thảy Phật pháp".
Văn Thù lại nói: "Thiên tử nên biết, vị
Đại bồ tát có thêm hai đường. Do hai đường ấy, chóng được
đạo quả vô thượng chính đẳng chính giác. Những gì là hai? Một là,
trợ đạo. Hai là,
đoạn đạo.
Trợ đạo tức là năm
ba la mật.
Đoạn đạo tức là
bát nhã ba la mật đa."
“Có hai đường nữa. Những gì là hai? Một là, có hệ đạo. Hai là, không có hệ đạo. Có hệ đạo là năm
ba la mật. Không có hệ đạo tức là
bát nhã ba la mật đa."
“Có hai đường nữa. Những gì là hai? Một là, có lượng đạo. Hai là, không có lượng đạo. Có lượng đạo là
chấp tướng phân biệt. Không có lượng đạo tức là không có
chấp tướng phân biệt."
“Có hai đường nữa. Một là, trí đạo. Hai là,
đoạn đạo. Trí đạo là từ
Sơ địa cho đến Thất địa.
Đoạn đạo là từ
Bát địa cho đến Thập địa."
Bấy giờ trong hội có vị
Bồ tát tên là Tùy Trí Dũng Hạnh hỏi ngài
Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử rằng:
“Thế nào là
Bồ tát nghĩa? Thế nào là
Bồ tát trí?"
Văn Thù Sư Lợi đáp rằng:
“Thiện nam tử, “nghĩa” là
vô dụng. “Trí” là hữu dụng. Tại sao lại gọi “nghĩa” là vô dụng? “Nghĩa” là
vô vi. Là
vô vi pháp, nên đối với pháp,
vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa”, chẳng phải là
nhiễm tướng, chẳng phải
ly tướng, “nghĩa” đối với pháp,
vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa” là không tăng, không giảm, nên đối với pháp nó là
vô dụng phi dụng".
“Thiên tử, sao gọi là “trí”? Trí là nhẫn đạo(20) , sở dụng của tâm, chẳng phải
vô dụng, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải
vô dụng.
Công năng của Trí quy về nơi “đoạn”, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải
vô dụng. Trí biết
năm Ấm(21) , biết
mười hai Nhập(22) , biết
mười tám Giới(23) ,
mười hai Nhân duyên(24) , là xứ phi xứ,
vì vậy, Trí là hữu dụng, chẳng phải
vô dụng."
“Lại nữa,
Thiên tử, các vị
Bồ tát chứng được mười trí. Những gì là mười? Một là, nhân trí. Hai là, quả trí. Ba là,
nghĩa trí. Bốn là,
phương tiện trí. Năm là,
tuệ trí. Sáu là, nhiếp trí. Bảy là,
ba la mật trí. Tám là,
đại bi trí. Chín là,
thành tựu chúng sinh trí. Mười là, bất trước
nhất thiết pháp trí.(25)
“Lại nữa
Thiên tử, các vị
bồ tát chứng được mười phát. Những gì là mười? Một là, thân phát, vì muốn
chúng sinh thân nghiệp thanh tịnh. Hai là khẩu phát, vì muốn
chúng sinh khẩu nghiệp thanh tịnh. Ba là, ý phát, vì muốn
chúng sinh ý nghiệp thanh tịnh. Bốn là, nội phát: hết thảy nội vật không còn
tham trước. Năm là, ngoại phát, vì muốn
chúng sinh trụ trong
chính hạnh. Sáu là, trí phát: đầy đủ
Phật trí. Bảy là, từ phát: nghĩ đến hết thảy
công đức trang nghiêm. Tám là,
chúng sinh thành thục trí phát, nghĩa là,
giữ gìn phương thuốc
trí tuệ. Chín là,
hữu vi trí phát: đầy đủ các định. Mười là,
vô vi trí phát:
tâm không dính chặt vào trong
ba cõi."
“Lại nữa
Thiên tử, các vị
Bồ tát chứng được mười hạnh. Những gì là mười? Một là,
ba la mật hạnh. Hai là, nhiếp-phục hạnh. Ba là, trí-tuệ hạnh. Bốn là, phương-tiện hạnh. Năm là,
đại bi hạnh. Sáu là, cầu trợ tuệ
pháp hạnh. Bảy là, cầu trợ trí
pháp hạnh. Tám là, tâm thanh-
tịnh hạnh. Chín là, quán chư đế hạnh(26) . Mười là,
nhất thiết sở thụ
vô tham trước hạnh (tất cả cảm-thụ không có tham-trước)".
“Lại nữa
Thiên tử, các vị
Bồ tát có mười
tư duy về lẽ
cùng tận. Những gì là mười? Một là,
tư duy về lẽ
cùng tận của sự. Hai là,
tư duy về lẽ
cùng tận của ái. Ba là,
tư duy về lẽ
cùng tận của pháp. Bốn là,
tư duy về lẽ
cùng tận của các
phiền não. Năm là,
tư duy về lẽ
cùng tận của sự thấy biết. Sáu là,
tư duy về lẽ
cùng tận của các cảm-thụ. Tám là,
tư duy về lẽ
cùng tận của sự
không chấp. Chín là,
tư duy về lẽ
cùng tận của các
kết sử(27) . Mười là,
tư duy về lẽ
cùng tận của
trợ đạo hạnh(28) ".
“Lại nữa
Thiên tử, các vị
Bồ tát có mười pháp trị. Những gì là mười? Một là, mưa
bố thí, trị tâm
xan tham. Hai là,
thanh tịnh ba pháp(29) trị tâm
phá giới. Ba là, tu hạnh
từ nhẫn, trị tâm giận tức. Bốn là,
cần cầu Phật pháp không biết chán mỏi, trị tâm
biếng nhác. Năm là, muốn được
thiền định,
giải thoát tự tại, trị
tâm không khéo
giác quán. Sáu là, muốn sinh trợ pháp
quyết định bát nhã ba la mật đa, trị tâm
ngu si. Bảy là, muốn sinh các pháp
trợ đạo,
điều trị các tâm
phiền não. Tám là, muốn tu trợ pháp
tứ đế(30) , cần
trị đạo tâm
điên đảo. Chín là, muốn thời,
phi thời,
kinh hành tự tại, trị tâm
chấp trước. Mười là,
quán pháp vô ngã, để trị cái Ta."
“Lại nữa
Thiên tử, các vị
Bồ tát có mười thiện địa. Những gì là mười? Một là,
thân thiện:
xa lìa ba ác nơi thân(31) . Hai là, khẩu thiện:
xa lìa bốn ác nơi miệng(32) . Ba là, ý thiện:
xa lìa ba ác nơi tâm(33) . Bốn là, nội thiện:
không chấp thân kiến(34) . Năm là, ngoại thiện:
không chấp các pháp. Sáu là, bất trước trợ trí thiện: không tham đắm vào các pháp
trợ đạo. Bảy là, bất tự cao thiện: luôn luôn nghĩ về
thể tính Thánh đạo. Tám là, trừ
thân thiện:
tu tập bát nhã ba la mật đa. Chín là, ly
điên đảo thiện: không lừa
chúng sinh. Mười là, không tiếc
thân mệnh thiện: đem tâm
đại bi hóa độ chúng sinh."
“Lại nữa
Thiên tử, các vị
Bồ tát quý sự
thực hành theo đúng
chính pháp, chứng được
bồ đề, không phải không quý về sự
thực hành theo đúng
chính pháp. Làm theo
chính pháp, là nói mà làm. Làm sai
chính pháp, chỉ nói, không làm
theo như lời nói".
"Lại nữa
Thiên tử, vị
Bồ tát có hai
tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là,
hành đạo. Hai là, hành đoạn. Lại có hai
tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, thân tự
tu thiện. Hai là,
giáo hóa chúng sinh. Lại có hai
tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, hành trí hành (làm theo
trí tuệ). Hai là, bất hành trí hành (không làm theo trí). Lại có hai
tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là,
phân biệt các địa. Hai là, không có
phân biệt các địa, phi địa(35) . Lại có hai
tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, biết các
quả địa cùng sự chuyển tiến. Hai là, khéo biết đầy đủ địa này, địa kia. Lại có hai
tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, biết đạo Thanh-Văn và Bích-chi-Phật. Hai là, biết rõ
Phật đạo,
hành không thoái chuyển."
Bấy giờ
đức Phật khen ngợi
Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử rằng: "Hay thay, hay thay, ông luôn luôn vì các
Đại bồ tát nói về căn-bản nghiệp-đạo. Và, nghiệp-đạo ấy, đúng như ông nói".
Khi nói pháp ấy, mười nghìn
Bồ tát chứng được
vô sinh pháp nhẫn.(36)
Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử cùng hết thảy
thế gian: Thiên, Nhân,
A tu la...
nghe lời Phật nói,
hoan hỷ tín thụ.
dịch xong tại chùa
Từ Quang, Nice (Pháp)
ngày 29 tháng 08 năm Bính Tý (11-10-1996)
Chú-Thích:(1) Văn-Thù Sư-Lợi Vấn Bồ-Đề Kinh là quyển kinh mang số 464 trong Đại-Chính Tân Tu Đại-Tạng Kinh. Kinh này nói về Bồ-Tát Văn-Thù Sư-Lợi thỉnh vấn đức Thế-Tôn về chân-nghĩa của sự
phát tâm bồ-đề.
Đồng thời, Bồ-Tát Văn-Thù cũng
tuân theo lời Phật,
giải đáp về
pháp hành của Bồ-Tát.
(2) Cưu-Ma-La-Thập (Kumàrajiva: 344-413): Cưu-Ma-La-Thập Trung-Hoa dịch nghĩa là Đồng-Thọ. Ngài là vị
dịch kinh, luật, luận xuất xắc nhất trong các vị
dịch kinh sách Phật-giáo từ chữ Phạm sang chữ Hán. Ngài sinh tại nước Quỳ-Tư (Tân-Cương).
Cha mẹ ngài đều xuất-gia. Ngài theo mẹ
nhập đạo năm 7 tuổi. Ngài rất thông-minh. Lớn lên, ngài du học khắp Ấn-Độ. Khi
trở về nước, ngài được nhà vua
tôn kính như bậc thày. Đời Tiền-Tần, Phù-Kiên sai tướng Lã-Quang sang thỉnh Ngài, nhưng về tới Lương-Châu 16, 17 năm. Đời Hậu-Tần, Diêu-Hưng,
vào khoảng năm 401, ngài mới về Trường-An, vua đời Hậu-Tần tôn phong ngài làm Quốc-Sư, thỉnh ngài cư-trụ tại vườn Tiêu-Dao để phiên-dịch kinh sách Phật-giáo. Dưới sự chỉ-đạo của ngài có các vị Tăng lỗi-lạc như các vị: Tăng-Triệu, Đạo-Sinh, Đạo-Dung, Tăng-Duệ, Đàm-Ảnh, Tăng-Đạo v.v..., trong 12 năm dịch được 35 bộ, gồm 294 quyển (có chỗ lại viết, ngài dịch được 74 bộ, gồm 384 quyển). Do đó, trong những kinh sách ngài dịch
thường hay ghi câu "Diêu-Tần, Quỳ-Tư,
Tam Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập dịch". Ngài viên-tịch năm 70 tuổi.
(3) Già-Da (Gaya): Trung-Hoa dịch nghĩa là tượng đầu (đầu voi). Núi Già-Da gần Bồ-Đề
đạo tràng.
(4) Ma-già-đà (Magadha): tức là nước Ma-kiệt-đà, thuộc Trung-Ấn-Độ.
(5) Hữu-kết: "Hữu" là có. Có tạo nghiệp nên có quả-báo trong sinh-tử. Có quả-báo, nó lại chiêu-cảm những phiền-não
ràng buộc vào nó, nên gọi là "kết". Phiền-não: tham, sân, si v.v...
ràng buộc chúng-sinh, khiến chúng-sinh phải ở
trong vòng sinh-tử.
(6) Thần-thông: "Thần" có nghĩa là không thể suy lường được. "Thông" có nghĩa là không bị ngăn ngại. Lực-dụng không thể lường và không bị ngăn ngại nên gọi là "thần-thông". Thần-thông có nhiều loại như: a) Thiên-nhãn-thông: quan-sát các chủng-loại chúng-sinh, b)Thiên-nhĩ-thông:
nghe được mọi âm-thanh, c) Túc-mệnh-thông: biết thân-mệnh
kiếp trước, d) Tha-tâm-thông: biết tâm-niệm chúng-sinh, e) Thần-túc-thông: đi lại các nơi một cách tự-tại, f) Lậu-tận-thông: thành
vô thượng giác, thị-hiện
hóa độ chúng-sinh v.v...
(7) Nhẫn (Ksànti): Nhẫn-nại: Không
khởi tâm sân-hận trước những nghịch-cảnh. Lại có nghĩa là "an-nhẫn": an-trụ trong
đạo lý không động tâm. Nhẫn có nhiều loại: ahi nhẫn: Chúng-sinh-nhẫn và
vô sinh pháp nhẫn. Ba nhẫn: âm-hưởng-nhẫn, nhu-thuận-nhẫn, và
vô sinh pháp nhẫn. Bốn nhẫn: Vô-sinh-nhẫn, vô-diệt-nhẫn, nhân-duyên-nhẫn và vô-trụ-nhẫn. Năm nhẫn: a) Phục-nhẫn: chỉ cho quả-vị của
Tam Hiền là
Thập trụ,
Thập hành, Thập hồi-hướng của
Bồ tát, b) Tín-nhẫn: chỉ cho quả-vị từ
Sơ địa đến
Tam địa Bồ tát, c) Thuận-nhẫn: chỉ cho quả-vị từ
Thất địa đến
Cửu địa Bồ tát, e) Tịch-diệt-nhẫn: chỉ cho quả-vị
Thập địa cho đến Diệu giác địa, dứt hết các hoặc, chứng niết-bàn tịch-diệt.
(8) Đà-ra-ni (Dhàrani): Trung-Hoa dịch nghĩa là "trì" hay "tổng-trì". Nghĩa là lực-dụng của nó
gìn giữ thiện-pháp không tán đi và ác-pháp không phát-khởi. Đà-ra-ni có bốn loại: a) Pháp-đà-ra-ni: nghe và giữ giáo-pháp của Phật không quên, b) Nghĩa-đà-ra-ni: Tóm thâu nghĩa của
chư pháp và
gìn giữ không quên, c) Chú-đà-ra-ni: y vào thiền-định phát-khởi ra những lời bí-mật có thần nghiệm khôn lường, nay
gìn giữ chú ấy không mất, d) Nhẫn-đà-ra-ni: an-trụ trong thực-tướng của các pháp,
gìn giữ sự an-tru ấy.
(9) Tam-muội (Samàdhi), còn gọi là tam-ma-đề, Trung-Hoa dịch nghĩa là “định”:
tâm định vào một chỗ không động.
(10)
Nhất thiết trí (Tát-bà-nhã-na: Sarvajnàna) tức Phật-trí. Có nghĩa là
nhận biết sự vật một cách như thực.
(11)
Tam Hữu: Có nhân có quả nên gọi là “hữu”.
Tam hữu tức là 3 cõi, còn có nhân, quả, còn bị luân-hồi sinh-tử là: dục-hữu, sắc-hữu và vô-sắc-hữu.
(12) Đoạn trên
tỏ bày sự
chứng quả chính-giác không còn vướng
trong vòng sinh-tử. Trong sự
hoằng pháp độ sinh, cần chuyển sinh-tử của chúng-sinh, để chúng-sinh đạt tới thể-tính niết-bàn tịch-tịnh. Niết-bàn (nirvàna), có nghĩa là tịch-diệt, viên-tịch, giải-thoát.
(13) Ruộng phúc là nghĩa của “phúc-điền”. “Điền” có ý-nghĩa sinh-trưởng. Như gieo mạ được thóc, cúng-dường được phúc-báo, nên gọi là “phúc-điền”. Phúc-điền có ba: a) Ân-điền:
đền ơn cha mẹ, sư-trưởng. b) Kính-điền:
quy y,
cung kính; Phật, Pháp, tăng. c) Bi-điền:
thương xót, cứu giúp chúng-sinh.
(14)
Bốn đại, tức bốn chất-liệu có thể-tính rộng lớn, tạo-tác,
xuất sinh ra các sắc-pháp, đó là: đất (chất rắn), nước (chất lỏng), lửa (chất nóng), gió (chất hơi).
(15)
Ba cõi tức
tam giới: cõi Dục, cõi Sắc và cõi
Vô sắc.
(16) Sáu ba-la-mật-đa (Pàramita): Ba-la-mật-đa, Trung-Hoa dịch nghĩa là cứu-cánh,
đáo bỉ ngạn,
độ vô cực hay là “độ”. Đây là đại-hạnh của Bồ-tát. Làm
trọn vẹn công việc
hóa độ chúng-sinh là “cứu cánh”. Từ bờ sinh-tử bên này sang bờ niết-bàn giải-thoát bên kia là “đáo bỉ ngạn”. Do đại-hạnh ấy
vượt qua các pháp một cách xa rộng, nên gọi là “độ vô cực”. Sáu ba-la-mật-đa: a) Bố-thí (Dàna). b)
Trì giới (Sila). c) Nhẫn-nhục (Ksanti). d) Tinh-tiến (Virya). e) Thiền-định (Dhyana. f) Trí-tuệ (Prajna)
(17) Ba thiện-hạnh: Không tham, không sân và không si.
(18) Mười thiện-nghiệp đạo: Không
sát sinh, không
trộm cắp, không
tà dâm, không
nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói
thêu dệt, không nói thô ác, không tham-lam, không giận-dữ, không tà-kiến.
(19) Sáu căn tức sáu giác-quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(20) Nhẫn-đạo: Xem chú-thích số 7 ở trên.
(21)
Năm ấm: Sắc, thụ, tưởng, hành và thức.
(22) 12 nhập: 6 căn (ghi ở trên) và 6 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
(23) 18 giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức: nhãn-thức, nhĩ-thức, tỵ-thức, thiệt-thức, thân-thức và y-thức.
(24) 12 nhân-duyên:
vô minh, hành, thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử... (xem cuốn Nhân-Duyên
Tâm Luận).
(25)
Nhất thiết pháp trí: Trí-tuệ thấu suốt hết thảy
sư sự vật vật.
Nhất thiết pháp còn gọi là
nhất thiết vạn pháp,
nhất thiết chư pháp.
Nhất thiết pháp, nói
đại lược có 3 loại: hữu-vi-pháp, vô-vi-pháp và
bất khả thuyết pháp.
(26) Quán chư đế hạnh: Thực-hành việc quán-sát sự vật, thấu suốt chân-lý đứng trên cơ sở của Tục-đế và Chân-dế
(27) Kết-sử: Kết và Sử đều là tên riêng của phiền-não.
Ràng buộc tâm thân, kết thành khổ-quả là “Kết”.
Theo đuổi chúng-sinh và
sai khiến chúng-sinh là “Sử”. Có 9 kết và 10 sử. Chín kết: Tham-ái, giận-tức, kiêu-mạn,
vô minh, ác-kiến, chấp-thủ, nghi-hoặc,
ganh ghét,
bỏn xẻn. Mười sử: tham, sân, si, mạn, nghi, thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ.
(28)
Trợ đạo: Chỉ cho 37 phẩm
trợ đạo, tức là 4
niệm xứ, 4 chính-cần, 4 như-ý-túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác-chi và 8 chính-đạo.
(29) Thanh-tịnh ba pháp đây chỉ cho thanh-tịnh
ba nghiệp: thân, khẩu và ý.
(30)
Tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo.
(31) 3 điều ác nơi thân:
sát sinh, trộm cướp,
tà dâm.
(32) 4 điều ác nơi miệng:
nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói thêu-dệt, nói thô ác.
(33) 3 điều ác nơi tâm: tham, sân, si.
(34) Thân-kiến (Satkàyadrsti): Một loại tà-kiến trong 5 loại của ác-kiến. Tư-tưởng chấp rằng, thân này là Ta, có cái Ta như thực.
(35) Địa, phi địa: chỉ cho các quả-địa của hàng Bồ-tát và Phật.
(36) Vô-sinh-pháp-nhẫn: Xem chú-thích số 7 ghi trên.