KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật
Thứ Mười Một
Đức Phật bảo ngài
Xá Lợi Phất : « Thế nào là
đại Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật mà
Bồ Tát vì
Vô thượng Bồ đề nên
y theo đó siêng
tu hành Bồ Tát hạnh ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì thật
hành Bát Nh ã
Ba la mật. Nên đối với
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần trịnh trọng nghe học
thọ trì, hoặc đọc hoặc tụng
suy gẫm nghĩa lý, tự mình được
thông đạt rồi cũng vì người mà giảng dạy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
đại Bồ Tát nghe Phật nói rồi theo đúng pháp mà
phụng hành, đối với
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần trịnh trọng nghe học
thọ trì đọc tụng nghiên tầm
thông đạt nghĩa lý và giảng dạy cho người, phải biết người ấy chứng được tướng
vô tận huệ như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Huệ ấy có những tướng gì, thế nào nhập chứng ?
Nầy Xá LợiPhất ! Nói là huệ ấy lấy nghe làm tướng ,
Bồ Tát đúng như lý mà
chứng nhập nên gọi là tướng
vô tận huệ. Những tướng ấy Phật sẽ nói rộng.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì cầu
chánh pháp nên lấy
dục lạc làm tướng, dục giải làm tướng,
phương tiện làm tướng ,
thiện hữu làm tướng , không
kiêu mạn làm tướng, với người
đa văn cung kính làm tướng,
tôn trọng làm tướng,
quanh quẩn làm tướng, khiêm cung làm tướng , gần gũi làm tướng , nghe kỹ làm tướng , tôn thờ làm tướng,
tư duy làm tướng, chẳng loạn làm tướng, tưởng như trân bửu làm tướng, tưởng là
lương dược làm tướng, tưởng dứt hết bịnh làm tướng,
chánh niệm làm tướng,
xu hướng Bồ đề làm tướng, thích
đại huệ làm tướng,
chứng nhập Bồ đề làm tướng, nghe không nhàm đủ làm tướng, xả thêm lớn làm tướng, điều thuận làm tướng,
thân căn người
đa văn làm tướng, với những
việc làm mến vui làm tướng, thân điều thích làm tướng, thân dũng nhuệ làm tướng.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát đối với cúng thính pháp, lắng nghe không mỏi làm tướng, nghe chánh nghĩa làm , nghe
chánh pháp làm tướng, nghe
chánh hạnh làm tướng, nghe
chứng trí làm tướng, nghe
Ba la mật làm tướng,
nghe pháp Bồ Tát tạng làm tướng, nghe các nhiếp pháp làm tướng, nghe
phương tiện thiện xảo làm tướng, nghe phạm trụ làm tướng, nghe
thần thông làm tướng, nghe
chánh niệm chánh trí làm tướng, nghe niệm trụ làm tướng, nghe chánh thắng làm tướng, nghe
thần túc làm tướng, nghe
duyên khởi làm tướng, nghe
vô thường làm tướng, nghe khổ làm tướng, nghe
vô ngã làm tướng, nghe
tịch tĩnh làm tướng, nghe không làm tướng, nghe
vô tướng làm tướng, nghe
vô nguyện làm tướng, nghe không
gia hạnh làm tướng, nghe
thiện căn gia hạnh làm tướng.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Tự tại làm tướng,
nghe pháp làm tướng,
đối trị tạp nhiễm làm tướng,
chế phục tất cả
phiền não làm tướng, khen ngợi người trí làm tướng, gần kề bực thánh làm tướng, rời xa kẻ phi thánh làm tướng, lắng nghe bực thánh làm tướng, nghe các căn làm tướng, nghe
tu tập tùy niệm làm tướng, nghe
giác phần làm tướng,nghe
bát chánh đạo làm tướng, nghe
Phật lực,
vô sở úy ,
vô ngại biện,
đại từ đại bi đại hỉ đại xả, mười tám
Phật pháp bất cộng làm tướng.
Nầy
Xá Lợi Phất phải biết
đại Bồ Tát nếu ở nơi ấy lắng nghe thì ở nơi ấy
hiểu rõ, nếu ở nơi ấy
hiểu rõ thì ở nơi ấy hành động đúng. Tại sao ? Vì nếu
đại Bồ Tát ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tướng rồi hướng vào thì có
vô lượng phương tiện. Nay Phật lược nói bốn mươi mốt
phương tiện.
Một là nếu có
đại Bồ Tát ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ấy mà sanh
dục lạc, phải biết tức là lắng nghe, nghe liền
hiểu rõ, đã
hiểu rõ thì thật
hành chánh hạnh.
Hai là nếu có
Bồ Tát ở nơi
pháp môn ấy mà sanh dục giải, phải biết tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba là nếu có
Bồ Tát ở nơi
pháp môn ấy
phương tiện xu nhập, phải biết tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Bốn là nếu có
Bồ Tát gần gũi
thiện hữu, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Năm là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn,
tâm không khinh mạn tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Sáu là nếu có
Bồ Tát cung kính người
đa văn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Bảy là nếu có
Bồ Tát tôn trọng người
đa văn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Tám là nếu có
Bồ Tát quây quần cung phụng người
đa văn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh .
Chín là nếu có
Bồ Tát khiêm hạ đối với người
đa văn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười là nếu có
Bồ Tát gần kề người
đa văn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười một là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn mà lắng tai để nghe, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnhMười hai là nếu có
Bồ Tát đối với người
đa văn mà hầu hạ
tiếp rước, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười ba, là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn,
tư duy nghĩa lý tâm định chẳng loạn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười Bốnlà nếu
Bồ Tát ở nơi người
đa văn có
ý tưởng là trân bửu, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười lăm là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn có
ý tưởng là
lương dược, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười Sáu là nếu
Bồ Tát ở nơi người
đa văn có
ý tưởng dứt diệt
tham sân si, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười bảy là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn nghe rồi hay
thọ trì, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười tám là nếu có
Bồ Tát xu hướng giác ngộ nơi pháp , tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Mười chín là nếu có
bồ Tát thích
trí huệ của người
đa văn, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh .
Hai mươi là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn được nghe rồi
giác ngộ, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi mốt lá nếu có
Bồ Tát lắng nghe chẳng nhàm đủ, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi hai là nếu có
Bồ Tát nghe nói
Đàn na thì
tăng trưởng xả, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi ba là nếu có
Bồ Tát nghe nói
Thi la thì
thủ hộ giới, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh .
Hai mươi bốn la nếu có
Bồ Tát nghe nói
Sằn đề thì hay tu hạnh
nhẫn nhục, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi lăm là nếu có
Bồ Tát nghe nói Tỳ lê gia thì
phát khởi tinh tấn không mỏi, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi sáu là nếu có
bồ Tát nghe nói
Tĩnh lự thì nhập
chánh định tâm chẳng tán, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnhHai mươi bảy là nếu có
Bồ Tát nghe nói
Bát Nhã tâm liền tu
trí huệ dứt
phiền não, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi tám là nếu có
Bồ Tát ở nơi người
đa văn lòng rất
vui mừng, người nầy tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Hai mươi chín là nếu có
Bồ Tát được
nghe pháp trồi
thân thể điều thích,
Bồ Tát ấy tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi là nếu có
Bồ Tát được
nghe pháp rồi tâm liền dũng nhuệ, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi mốt la nếu có
Bồ Tát được nghe
kinh Đại thừa tâm sanh
tín nguyện, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi hai là nếu có
bồ Tát nghe nhiếp pháp rồi tâm liền xu nhập , tức lá lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi ba là nếu có
Bồ Tát nghe nói niệm trụ liền
quán thân thọ
tâm pháp, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnhBa mươi bốn là nếu có
Bồ Tát nghe nói
chánh cần liền dứt bỏ, với pháp lành sanh trưởng, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi lăm là nếu có
Bồ Tát nghe nói
thần túc liền
phụng hành sanh thân khinh tánh, dục khinh tánh.
Bồ Tát ấy tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi sáu là nếu co
Bồ Tát nghe nói
tĩnh lự thì yên
tĩnh tư duy tâm xu nhập, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi bảy là nếu có
Bồ Tát nghe hạnh bất khinh trong các pháp , bèn đối với
chúng sanh phát khởi đại từ tâm, với kẻ thọ khổ
phát khởi đại bi tâm, với
chánh pháp khởi
đại hỉ tâm , với
bất thiện khởi
đại xả tâm, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi tám là nếu có
Bồ Tát nghe nói các căn liền xu nhập các căn ấy, đó là
tín căn,
tinh tấn căn ,
niệm căn,
huệ căn và
định căn,
Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiễu rõ tu
chánh hạnh.
Ba mươi chín là nếu có
Bồ Tát nghe nói
giác phần tâm liền xu nhập
giác ngộ pháp tánh, tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Bốn mươi là nếu có
Bồ Tát nghe nói
đạo chi tâm liền xu
nhập Niết bàn chánh lộ, tức là là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Bốn mươì mốt là nếu có
Bồ Tát nghe nói
Phật lực vô úy,
vô ngại trí,
đại từ đại bi đại hỉ đại xả, mười
tám pháp bất cộng và
vô lượng Phật pháp, đều xu nhập
Vô thượng Bồ đề,
Bồ Tát ấy tức là lắng nghe
hiểu rõ tu
chánh hạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Phật đã nói bốn mươi mốt pháp về tướng dạng xu nhập
văn huệ.
Chư đại Bồ Tát phải nên học.
Đây gọi là bổn
tướng đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật văn huệ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Đại BồTát tu
Bát Nhã Ba la mật thực hành Bồ Tát hạnh, phải ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng trịnh trọng lắng nghe
thọ trì đọc tụng suy gẫm nghĩa lý thông đạt chỉ thú lại giảng dạy cho người về
chánh hạnh tư lương ấy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát ở pháp ấy mà khởi chánh hạnh?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ở pháp ấy mà khởi
chánh hạnh là : đúng như
lời nói mà
tu hành kiến lập mà an trụ, đây là khởi
chánh hạnh.
Nếu có thể chẳng lấy tất cả, đây là khởi
chánh hạnh. Tại sao ? Vì nếu lấy pháp thì gọi là người
tà hạnh chấp lấy
pháp không xứ không vị. Không bao giờ do pháp
tà hạnh ấy mà được
xuất ly. Tại sao ? Vì người không lấy
pháp hành ở nơi
pháp không hành còn phải
sanh nghi, vì không
tác dụng. Huống là lấy
pháp hành mà chẳng phải
tà hạnh. Vì thế nên phải chẳng lấy các pháp mà làm
chánh hạnh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu ở nơi các
pháp không có
chướng ngại thì gọi là
chánh hạnh. Nếu ở nơi các
pháp không khinh miệt thì gọi là
chánh hạnh. Nếu ở nơi các pháp chẳng lấy chẳng bỏ chẳng sanh chẳng diệt thì gọi là
chánh hạnh. Nhẩn đến nếu ở nơi các
pháp không hiệp không tan thì gọi là
chánh hạnh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !Như Phật đã nói : Nếu có là đúng phải thì không có một chút pháp nào có thể thấy được
nghe được cũng không thể nói được, các
pháp như vậy chẳng phải có thể thấy được, chẳng phải có thể nắm lấy được. Tại sao ? Vì tất cả các pháp đều là một tướng, đó là
vô tướng.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả các
pháp tánh nó vốn
vô tướng. Nếu có
Bồ Tát nói nơi
vô tướng thì
vô tướng trở lại lẽ ra là nói được. Tại sao ? Vì
vô tướng và
hữu tướng đều là
vô tướng cả. Chẳng nên nói rằng đây
hữu tướng, đây
vô tướng.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu có
Bồ Tát tỏ ngộ được tất cả
pháp tướng như vậy tức là
vô tướng chẳng thể thấy được, chẳng thể nắm lấy được, biết rõ đúng
như pháp thì gọi là
chánh hạnh.
Đại Bồ Tát siêng tu
chánh pháp hạnh ấy rồi ở nơi các pháp sẽ
chứng nhập huệ vô chướng chiếu minh.
Đây gọi là tướng dạng
chánh hạnh Bát Nhã Ba la mật của
đại Bồ Tát.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Người
sáng suốt an trụ
chánh hạnhVới
Bồ Tát tạng khéo
quyết địnhNói pháp người ấy chẳng khởi chấp
Hành tướng không chấp thủ như vậy
Chứng được các pháp chẳng là không
Chẳng phải các
pháp bình đẳng không
Chẳng phải
pháp không có sở chấp
Tướng
chánh hạnh không chấp như vậy
Nơi
pháp không thủ cũng không xả
Cũng chẳng lấy pháp để làm pháp
Không lấy gọi là các
pháp tướngChánh hạnh không lấy tướng như vậy
Nơi các pháp nếu trí
vô ngạiTrí ấy không gì chẳng đốt cháy
Nơi trí đốt cháy không nắm lấy
Chánh hạnh các
pháp tướng như vậy
Người trí an trụ đức
viễn lyVới pháp phải khởi siêng
tinh tấnNếu hay
y chỉ quỹ tắc hành
Bấy giờ sẽ
nhập môn thanh tịnhMôn
thanh tịnh ấy thông các pháp
Cũng biết dục giải của
hữu tìnhNgười trí dầu biết không chổ thấy
Mà hay diễn tuyên
pháp như vậy
Nơi pháp
thậm thâm rõ
thắng nghĩaNơi
thắng nghĩa sâu thường biết rõ
Vọt hiện
vô biên công đức hạnh
Trí sáng
đa văn như
đại hảiNơi các văn nghĩa được nói kia
Cứu cánh không ai chứng được đó
Bởi văn nghĩa kia đều
vô biênChánh hạnh chơn thiệt luôn
bất động.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật, với
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe nhẫn đến giảng dạy cho người rồi, phải biết
đại Bồ Tát ấy ở nơi tất cả pháp được
quang minh lớn hay phá tất cả
hắc ám vô minh và các màn lòa.
Quang minh ấy tức là
trí huệ. Tại sao? Vì biết rõ đứng thiệt các
pháp thiện bất thiện vậy.
Đại Bồ Tát tu pháp ấy được
minh huệ rồi, dầu có
gặp nạn khổ đến chết cũng không tạo các pháp
bất thiện.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì muốn đứt hẳn các pháp
bất thiện nên
đại Bồ Tát tùy
nghe được chánh pháp thì rất khéo
thông đạt. Đã
thông đạt rồi thì nói là
mâu ni tịch tĩnh .
Đây gọi là tướng
chánh hạnh lúc
đại Bồ Tát tu
Bát Nhã Ba la mật.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
Như người vào nhà tối
Che bít tuyệt ánh sáng
Dầu có các
sắc tượngMắt sáng cũng chẳng thấy
Như vậy tùy có người
Tâm đủ các
minh giảiChẳng được nghe
chánh phápSao hiểu được
thiện ácĐa văn hiểu rõ pháp
Đa văn chẳng tạo ác
Đa văn bỏ
vô nghĩaĐa văn được
Niết bànKhéo nghe thêm lớn văn
Đa văn thêm lớn huệ
Huệ hay tu tịnh nghĩa
Được nghĩa thì cảm vui
Thông huệ được nghĩa rồi
Chứng hiện pháp
Niết bànTương ưng pháp
tịnh giácChứng được vui
đệ nhứtNghe
Bồ Tát tạng rồi
Khéo an trụ
chánh phápLàm
quang minh cho đời
Tu
diệu hạnh Bồ Tát.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên ở nơi người
chánh hạnh hay
thọ trì kinh
Bồ Tát tạng lòng rất
cung kính có
ý tưởng là
thiện tri thức, và càng tìm
cầu pháp môn
vi diệu đại Bồ Tát tạng cho
pháp môn ấy càng thêm sáng sạch.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì cầu
Bồ Tát tạng nên
Bồ Tát ấy phát sanh tín dục sách lệ
tinh tấn kiểm
nhiếp tâm mình khiến an trụ
chánh định.
Đại Bồ Tát ấy
phương tiện tu hành tứ chánh cần, được không
chướng ngại trong tất cả pháp.
Đây là tướng
chánh hạnh Bát Nhã Ba la mật của
đại Bồ Tát.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
Quan niệm ngươi
thuyết phápTức là
thiện tri thứcCung kính lắng
nghe phápAn trụ nơi
chánh hạnhDục giải thường không thối
Tinh tấn thường cao dũng
Tịnh huệ thường sữa trau
Nơi trí thường an trụ
Tự nhiên đạt các pháp
Chẳng theo nơi
tín hànhDùng
trí quán các pháp
Đây là
lời Phật dạyNgười
trí phân biệt câu
Lý nghĩa khéo siêng học
Nơi
pháp thiện bất thiệnThường tu thường
viễn lyTâm không hề nhàm mỏi
Nơi
pháp không quên mất
Thân dục đều
khinh anMau được tâm
tinh tấnDo
nghe pháp thêm trí
Trí thêm niệm không thối
Trí luôn y niệm trụ
Biết rõ pháp tịnh uế
Học nơi pháp
vô thượngĐược sức
niệm huệ thắng
Biết
chúng sanh dục giải
Tự học
thời gian lâu
Học pháp đã thăng tiến
Cực tiến trí
thanh tịnhBiết
chúng sanh dục giải
Theo cơ bèn khai thị.
Lại này
Xá Lợi Phật ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba La Mật,
đại Bồ Tát tìm
cầu pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng như vậy
thông đạt giác huệ
y theo thiện pháp minh môn
thanh tịnh ấy.
Bồ Tát phải thường
tu học như vậy.
Này
Xá Lợi Phất ! Nếu có
Bồ Tát tu học nơi pháp thì phải
suy nghĩ hai
nhơn duyên có thể phát sanh
chánh kiến. Những gì là hai? Đó là nghe
âm thanh nơi người khác và tự mình
tác ý đúng lý.
Bồ Tát ấy lại
suy nghĩ nghe
âm thanh nơi người và
tác ý đúng lý có những tướng gì ? Liền lại
suy nghĩ nếu có tướng thích
chánh định mà tu thì nên thật
hành pháp môn
vi diệu Bồ Tát tạng mà chư
Bồ Tát chưa từng được nghe.
Lại nếu chẳng được nghe
Phật pháp luật giáo chỉ ở trong
tam ma địa mà sanh
ý tưởng đủ rồi, nên biết người ấy do sức ngạo mạn mà
phát khởi tăng thượng mạn. Phật nói người ấy chẳng có thể
giải thoát sanh già bịnh chết sầu ưu
khổ não. Đã chẳng thoát được các khổnhiệt não, há lại thoát được năm môn
sanh tử kia, bị nó
nhận chìm trôi lăn chẳng dứt.
Người ấy thiệt chẳng phải
giải thoát mà tự nói tôi đã
giải thoát. Thiệt chưa khỏi khổ mà tự nói tôi đã khỏi khổ. Vì thế nên
đức Như Lai y cứ người ấy mà
thuyết pháp như thiệt,
nếu có thể từ nơi người khác mà
tùy thuận lắng nghe thì
giải thoát được các
lão tử khổ não.
Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng như tôi trước kia nghe
đức thế Tôn nói :
Đa văn biết rõ pháp
Đa văn chẳng tạo ác
Đa văn bỏ
vô nghĩaĐa văn được
Niết bànNghe pháp thêm lớn văn
Văn hay thêm lớn huệ
Huệ hay tu tịnh nghĩa
Được nghĩa hay cảm vui
Thông huệ dược nghĩa rồi
Chúng hiện pháp
Niết bànNghe pháp được tịnh huệ
Chứng được vui
đệ nhứtNầy
Xá Lợi Phất !Vì thế nên
chư đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy rồi nên đối với
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng và
Phật pháp luật giáo mà
ân cần trịnh trọng lắng nghe
thọ trì đọc tụng giảng dạy cho người.
Lại này
Xá Lợi Phất ! Nếu các
hữu tình ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng dầu được nghe mà chẳng có thể
phương tiện tác ý đúng lý. Phải biết người ấy chẳng thể tu
chánh hạnh nói
thánh đạo. Vì thế nên
đức Như Lai y cứ nơi người ấy mà nói
pháp yếu rằng : Nếu muốn
giải thoát sanh lão
bệnh tử thì phải có tự mình
suy nghĩ đúng lý.
Chư đại Bồ Tát phải học như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
phương tiện đúng lý ? Những gì là
Bồ Tát tác ý đúng lý mà có thể
tu học ?
Này
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
phương tiện đúng lý ? Những gì là
Bồ Tát tác ý đúng lý mà có thể
tu học.
Nầy
Xá Lợi Phất !
phương tiện đúng lý là không có một pháp nào hoặc hiệp hay ly cả.
Tại sao ? Vì
phương tiện đúng lý là chẳng phải
phương tiện vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu
Bồ Tát có an trụ
phương tiện và
tác ý đúng lý, phải biết tướng ấy chỉ là
âm thanh, mà
âm thanh ấy, tánh nó không bị
phát khởi cũng chẳng
chuyển khởi và
do nơi kia mà
phát âm thanh. Tại sao ? Vì tất cả đều
bất khả đắc vậy.
Bồ Tát lại
quan sát âm thanh ấy,
tiền tế hậu tế từ gì mà sanh, qua đâu mà diệt.
Quan sát như vậy trọn
bất khả đắc.
Lại suy tìm
âm thanh ấy là tại đã nói, là tại nay nói, là tại sẽ nói ?
Lại suy tìm
âm thanh ấy là hoặc đã bị nói, hoặc nay bị nói, hoặc sẽ bị nói ?
Âm thanh ấy là vì đoạn dứt nên đã nói, vì đoạn dứt nên nay nói, vì đoạn dứt nên sẽ nói ?
Âm thanh ấy là vì
chứng nhập nên đã nói , vì
chứng nhập nên nay nói, vì
chứng nhập nên sẽ nói.
Tất cả lẽ tìm cầu
âm thanh như vậy rồi trọn không có được. Rồi lại
quan sát hoặc tướng
quá khứ, hoặc tướng
vị lai, hoặc tướng
hiện tại cũng đều không có được.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
đại Bồ Tát chánh
quan sát thì gọi là
phương tiện tác ý đúng lý.
Chư đại Bồ Tát phải học như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát quan sát đúng lý ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ tát quan sát tất cả pháp,
tự tánh nó
tịch diệt. Đây gọi là
quan sát đúng lý. Nếu
quan sát các
pháp tự tánh nó
tịch tĩnh. Đây gọi là
quan sát đúng lý. Nếu
quan sát các pháp ,
tự tánh nó
không tịch. Đây gọi là
quan sát đúng lý. Nếu
quan sát các pháp vào tánh
bình đẳng. Đây gọi là
quan sát đúng lý. Nếu quán các
pháp cứu cánh
vô sanh, , nếu quán các
pháp cứu cánh
bất sanh, nếu quán các
pháp cứu cánh bất khởi, nếu quán các
pháp cứu cánh
tịch diệt, đều gọi là
quán sát đúng lý vậy.
Lúc
quán sát như vậy,
đại Bồ Tát cũng chẳng thấy có người hay
quan sát. Phải nên
quan sát như vậy, đó là chẳng phải
quan sát chẳng phải chẳng
quan sát vậy.
Nếu có
Bồ Tát quan sát như
vậy thì gọi là
quan sát đúng lý, nếu
quan sát khác đây thì gọi là
quan sát chẳng đúng lý.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát phải nên học
phương tiện đúng lý như vậy ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Phương tiện đúng lý của
đại Bồ Tát là :
Chẳng phải đối với chút ít pháp có ngu mê. chẳng phải đối với chút it pháp có
chướng ngại. Không có chút ít pháp nào mà chẳng phải là môn
giải thoát. Không có vì đoạn dứt một phần ít phát khỏi
tinh tấn. Chẳng phải vì chứng một phần ít pháp mà
dũng mãnh tinh tấn. Trên đây đều là
phương tiện đúng lý vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phải dùng
chánh kiến như vậy để chánh
quan sát các
pháp như chỗ
chánh kiến ấy.
Thế nào gọi là
quan sát các
pháp như chỗ
chánh kiến ấy ?
Nầy
Xá Lợi Phất không chỗ thấy thì gọi là
quan sát các pháp . Những gì là không chỗ thấy?
Nầy
Xá Lợi Phất ! không chỗ thấy ấy gọi là
vô sanh . Nói
vô sanh ấy là vô khởi. Nói vô khởi ấy là không chỗ chiếu .
Y cứ chánh pháp ấy mà
đức Như Lai nói rằng : Nếu có
Bồ Tát lúc
quan sát các pháp ấy
vô sanh, tức là xu nhập chánh tánh
quyết định. Luận về
chánh kiến, đó là xu nhập chánh tánh
quyết định.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát suy nghĩ như vầy : Do
nhân duyên gì sẽ được xu nhập chánh tánh
quyết định ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phải học
như vầy :
Nếu
quan sát ngã kiến là
bình đẳng thì tất cả
pháp bình đẳng.
Quan sát như vậy gọi là xu nhập chánh tánh
quyết định.
Vì thế nên
chư đại Bồ Tát muốn xu nhập chánh tánh
quyết định thì phải ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe
thọ trì đọc tụng nghiên cứu nghĩa lý lại giảng dạy rộng cho người thì sẽ ở nơi
pháp môn ấy
phương tiện tác ý tu học đúng lý.
Đây gọi là
Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật vì
Vô thượng Bồ đề thực hành bồ Tát hạnh..
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật, vì cầu giác huệ rất
thanh bạch, nên do
pháp minh môn diệu thiện
thanh tịnh mà
chuyên cần phương tiện chứng nhập đúng lý
quan sát câu đúng lý.
Thế nào là
chứng nhập đúng lý và những gì là câu đúng lý ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát chứng nhập đúng lý là :
Y
xa ma tha chứng nhập. Y
tỳ bát xá na chứng nhập. .
Chánh hạnh chứng nhập. Như lý
chứng nhập. Thân
viễn ly chứng nhập. Tâm điều thuận
chứng nhập. Phi đoạn
chứng nhập.
Phi thường chứng nhập.
Nhơn duyên chứng nhập.
Duyên khởi chứng nhập.
Vô ngã, vô nhơn,
vô thọ mạng
chứng nhập. Chưa đến đã đến hoặc có hoặc không
chứng nhập. Không có chuyển dời nhơn quả chẳng hoại
chứng nhập. Dầu
tu tập không vô tướng,
vô nguyện chứng nhập mà chẳng lấy
không vô tướng
vô nguyện chứng vậy. Dầu ở nơi
tam ma địa tam ma bát đề
chứng nhập mà chẳng lấy
sức lực ấy thọ sanh chứng vậy. Dầu lấy
thần thông trí chứng nhập mà chẳng tận các lậu chứng vậy. Dầu
quán sát vô sanh chứng nhập mà chẳng chánh xu
quyết định chứng vậy. Dầu
quán chúng sanh vô ngã chứng nhập mà chẳng bỏ
đại bi chứng vậy. Dầu quán tất cả
chúng sanh đáng sợ chứng nhập, mà
cố ý lấy các cõi chứng vậy. Dầu ở nơi
ly dục tịch diệt chứng nhập mà ở nơi pháp
ly dục chẳng
tác chứng vậy. Dầu bỏ lạc diệu
dục
chứng nhập mà chẳng bỏ
lạc pháp chứng vậy. Dầu bỏ tất cả các
hí luận tự giác chứng nhập mà chẳng bỏ
thiện xảo phương tiện chứng vậy. Trên đây gọi là
chứng nhập đúng lý .
Đại Bồ Tát muốn được
chứng nhập đúng lý như
vậy thì phải học
Bát Nhã Ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật,
đại Bồ Tát học câu
chánh pháp đúng lý thế nào?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phải
như vầy mà biết câu đúng lý, đó là những câu : Xuất sanh, xu lý,
pháp môn,
diện môn, thị nhơn, tích tập, bất
tương vi,
vô chứng luận, thị xả, vô
chấp thủ, vô khí xả, vô
hí luận, vô xả, vô
phỉ báng, vô khinh miệt, tùy túc,
vô tranh, vô
thối chuyển,
vô đối trị.
Nầy
Xá Lợi Phất ! câu đúng lý là câu thiệt tánh, câu như tánh, câu phi bất như tánh , câu
chơn như , câu như lý, câu
tam thế bình đẳng, câu ly
phân biệt.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Câu đúng lý là câu sắc thức không y trụ, câu thọ thức tưởng thức hành thức và thức thức đều không y trụ, câu nhãn sắc nhãn sắc
tánh không y trụ, câu nhĩ thanh
nhĩ thức tánh không y trụ, câu tỷ hương tĩ thức
tánh không y trụ, câu thiệt vị
thiệt thức tánh không y trụ, câu thân xúc
thân thức tánh không y trụ, câu ý
pháp ý thức
tánh không y trụ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! câu đúng lý là câu y nghĩa, câu
y pháp, câu y trí, câu y
liễu nghĩa.
Vô lượng pháp môn như vậy gọi là câu đúng lý.
Vì thế nên đại BồTát
chứng nhập tinh tấn phương tiện đúng lý lúc
quan sát như vậy cũng chẳng thấy có người hay
quan sát. Tại sao ? Vì chẳng phải
quan sát chẳng phải chẳng
quan sát vậy.
Quan sát như đây thì gọi là như
lý quán, nếu
quan sát khác thì gọi là
phi lý quán.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba La mật,
đại Bồ Tát phải học chánh quán đúng lý thế nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy phải chánh quán
như vầy :
Vì ta như lý thì
quan sát các pháp đều như lý. Vì ta
vô ngã thì quán sá t các pháp cũng không có ngã . Vì
chúng sanh vô ngã thì
quan sát các pháp cũng đều không có ngã.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát quan sát như vậy gọi là như
lý quán. Thế nào là
đại Bồ Tát tu hành như lý
phương tiện ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nên biết rằng
đại Bồ Tát chẳng
quan sát tánh
sanh tử như cùng tánh
Niết bàn như lý chung xen tạp nhau, quán như
vậy thì gọi là
phương tiện như lý.
Đại Bồ Tát quán tánh
sanh tử cùng tánh
Niết bàn đồng một hiệp
tướng không sai khác cũng chẳng
phân biệt là
tương ưng hay vi bội.
Quán như
vậy thì gọi là
phương tiện như lý, cũng được gọi là chánh quán như lý.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nên biết rằng
đại Bồ Tát có bao nhiêu phương tiên như lý đều ở chỗ
vô lượng chúng sanh mà
phát khởi. Nếu chỗ
chúng sanh chẳng
vứt bỏ, nơi các pháp chẳng
phá hoại, thì gọi là
Bồ Tát phương tiện như lý.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phải biết tướng như vậy, văn như vậy,
chứng nhập đúng lý như vậy,
quan sát đúng lý như vậy,
chánh kiến đẳng lưu đúng lý như vậy . Đây gọi là
Bồ Tát chánh huệ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phải
tu hành chánh hạnh như vậy để thành mãn
bát Nhã Ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật, chỗ có
Bát Nhã tự tánh
thanh tịnh chẳng chung lộn với tất cả
pháp hữu vi. Chẳng chung lộn với những pháp gì ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
vô minh, chẳng chung lộn với hành, nhẫn đến chẳng chung lộn với
lão tửBát nhã ấy chẳng ấy chẳng chung lộn với
thân kiến, nhẫn đến chẳng chung lộn với
sáu mươi hai kiến chấp.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với cao mạn, chẳng chung lộn với
hạ liệt, chẳng chung lộn với
tám pháp thế gian.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ngũ uẫn
thập nhị xứ thập bát giới nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả
sở duyên tác ý, chẳng chung lộn với mạn, hạ mạn ,
tà mạn, nhẫn đến chẳng chung lộn với hai mươi mốt
tùy phiền não.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
vi tế hạ trung thượng phẩm tham nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả
phiền não.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ngu tối màn lòa che chướng các triền, nhẫn đến chẳng chung lộn với các pháp
tùy thuận thối chuyển phần.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ma
phiền não dục tranh uế trược, chẳng chung lộn với
uẩn ma,
tử ma, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả ma nghiệp.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ma
phiền não đuc tranh uế trược, chẳng chung lộn với
uẩn ma,
tử ma,
thiên ma, nhẫn đến chẳnfg chung lộn với tất cả ma nghiệp.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
chấp ngã,
chúng sanh,
thọ mạng, sát thủ thú,
dưỡng dục, ý sanh ,
trí giả,
kiến giả, nhẫn đến chẳng
cùng chung lộn với các pháp ở nơi
ngã kiến.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
nghiệp chướng,
báo chướng,
phiền não chướng, pháp chướng, kiêén chướng,
trí chướng, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả tùy tục
tập khí Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
tư duy phân biệt, chẳng chung lộn với
tướng mạo,
sở duyên, kiến, văn, niệm thức, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả
kiết phược tăng ích.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với xan xả,
trì phạm, nhẫn giận, siêng lười, tán định, ngu huệ, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả
Ba la mật, năng trị sở trị các
pháp trí tánh.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
viễn ly, chẳng chung lộn với trụ bất
viễn ly, tà tánh, chánh tánh, thiện
bất thiện, hữu tội vô tội,
sanh tử Niết bàn, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả pháp
đối trịBát Nhã ấy chẳng chung lộn với các thứ tánh
sai biệt, tánh
quốc độ sai biệt, tánh chư Phật
sai biệt, tánh
hữu tình sai biệt, tánh các pháp
sai biệt. Tất cả tánh
sai biệt đều không chung lộn.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với
vô trí, chẳng chung lộn với
trí thức,
thế tục,
thắng nghĩa, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả
hữu tình tướng mạo tác ýBát Nhã ấy chẳng chung lộn với huệ chẳng
hiện hành, chẳng chung lộn với vô thân, vô hình
vô tướng,
vô vi, nhẫn đến chẳng chung lộn với các pháp
tư duy, tâm,
ý,thức , an trụ v.v…
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật,
đại Bồ Tát có được
Bát nhã rất
vi diệu thanh tịnh, chẳng chung lộn với
vô lượng vô biên pháp hữu vi như vậy.
Đây gọi là
tu hành Bát Nhã Ba la mật,
tướng đại Bồ Tát Bát Nhã. Phải nên học như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát an trụ
Đại thừa đại Bồ Tát tạng lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật được
Bát Nhã phân biệt thiện xảo. Nên biết
đại Bồ Tát ấy liền ở trong các pháp dùng
Bát Nhã ấy sáng rõ
thông đạt được
thiện xảo.
Thế nào gọi là
Bát Nhã ấy
phân biệt thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thiện xảo ấy có
vô lượng vô biên, nay Phật sẽ lược nói mười thứ. Đó là uẩn
pháp thiện xảo,
giới pháp thiện xảo, xứ
pháp thiện xảo, đế
pháp thiện xảo,
vô ngại giải
thiện xảo, y xu
thiện xảo,
tư lương thiện xảo,
đạo pháp thiện xảo,
duyên khởi thiện xảo và
nhất thiết pháp thiện xảo. Mười thứ
thiện xảo vi diệu ấy có bao nhiêu
phân biệt, nếu
thông đạt được thì gọi là
Bát Nhã phân biệt.
Đại Bồ Tát phải nên học như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát do tu
Bát Nhã Ba la mật nên có thể
thông đạt uẩn
pháp thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Uẩn
pháp thiện xảo là
y cứ uẩn pháp mà
phát khởi ngôn thuyết. Những
ngôn thuyết gì ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Ngôn thuyết ấy
như ảo, hóa, dương diệm, mộng, ảnh , hưởng. Do đó
đức Như Lai dùng
vô ngại biện vì
chúng sanh mà nói pháp ấy.
Nầy
Xá lợi Phất ! Phật nói sắc ấy như khối bọt nước . Chính khối bọt ấy vốn không có ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả. Bởi tánh khối bọt là
tự tánh sắc.
Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy
thiện xảo biết rõ, thì gọi là uẩn
pháp thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Phật nói thọ ấy như bóng nước. Chính bóng nước ấy vốn không ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả. Bởi tánh bóng nước là thọ
tự tánh.
Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy biết rõ
thiện xảo thì gọi là uẩn
pháp thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Phật nói tưởng ấy như dương diệm.Chính dương diệm ấy vốn không ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả. Bởi tánh dương diệm là
tự tánh tưởng.
Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy
thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn
pháp thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Phật
nói hành ấy như cây chuối. Chính cây chuối ấy vốn không ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả. Bởi tánh cây chuối ấy là
tự tánh hành.
Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy
thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn
pháp thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Phật nói thức ấy như sự
ảo thuật. Chính sự ảo ấy vốn không ngã, nhơn,
chúng sanh,
thọ giả. Bởi tánh sự
ảo thuật ấy là
tự tánh thức.
Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy
thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn
pháp thiện xảo vậy.
Nầy
xá Lợi Phất ! Nói là uẩn ấy có tên
thế gian. Pháp
thế gian tức là tướng
bại hoại. Vì thế nên biết tánh
thế gian là
tự tánh uẩn.
Những gì là tánh
thế gian ? Đó là tánh
vô thường, tánh khổ, tánh
vô ngã. Những tánh ấy là tánh uẩn. Tánh uẩn ấy tức là tánh
thế gian.
Đại Bồ Tát ở trong đó nếu
thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn
pháp thiện xảo vậy.
Đại Bồ Tát tu
Bát Nhã Ba la Mật phải nên
tu học như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật mà có thể
thông đạt giới pháp thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Giới pháp thiện xảo là nói
pháp giới tức là
địa giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng cứng rắn vậy.
Lại
pháp giới tức là
thủy giới, tại sao ? vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng ướt nhuần vậy.
Lại
pháp giới tức là
hỏa giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng
thành thục vậy.
Lại
pháp giới tức là
phong giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng
giao động vậy.
Nầy
Xá lợi phất ! Ở trong đây, nếu
đại Bồ Tát biết rõ như thiệt, thì gọi là
giới pháp thiện xảo vậy.
Lại này
Xá Lợi Phất ! Nói
pháp giới tức là
nhãn thức giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng
soi sáng vậy.
Lại
pháp giới tức là
nhĩ thức giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng nghe tiếng vậy.
Lại
pháp giới tức là
tỷ thức giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng ngửi hương vậy.
Lại
pháp giới tức là
thiệt thức giới , tại sao ?Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng nếm vị vậy.
Lại
pháp giới tức là
thân thức giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng
giác xúc vậy.
Lại
pháp giới tức là
ý thức giới, tại sao ? Vì
pháp giới ấy chẳng phải tướng
phân biệt vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
đại Bồ Tát ở trong đây biết rõ như thiệt, thì gọi là
giới pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Ngã giới cùng
pháp giới bình đẳng.
Hữu tình giới cùng
pháp giới bình đẳng.
Dục giới sắc giới vô sắc giới cùng
pháp giới bình đẳng.
Sanh tử giới
Niết bàn giới cùng
pháp giới bình đẳng . Nhẫn đến
hư không giới cùng
pháp giới bình đẳng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do nghĩa gì mà được
bình đẳng ?
Nghĩa là do không
bình đẳng nên tất cả
pháp bình đẳng. Do vô biến dị
bình đẳng nên tất cả
pháp bình đẳng.
Nầy
Xá Lợi Phật ! Nếu tuyên nói
hữu vi giới
chứng nhập,
vô vi giới chứng nhập thì có
vô lượng vô biên. Nếu
chư đại Bồ Tát quan sát chứng nhập pháp giới thì gọi là
giới pháp thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật, phải nên siêng tu
giới pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật nên
thông đạt được xứ
pháp thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nhãn là không, không có
ngã ngã sở,
đại Bồ Tát biết rõ nhãn tánh như vậy. Nhẫn đến ý là không, không có
ngã ngã sở, đại BồTát biết rõ ý tánh như vậy.
Đại Bồ Tát dầu ở nơi các xứ pháp chẳng chứa họp
bất thiện mà chứa họp thiện, nhưng ở trong thiện và
bất thiện chẳng
phát khởi hai tướng. Biết rõ như
vậy thì gọi là xứ
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát ở nơi nhãn xứ
sắc xứ hay
thông đạt thiện xảo biết rõ ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ở nơi nhãn sắc
quan sát thấy
ly dục , nhưng ở nơi
ly dục cũng chẳng
tác chứng . Biết rõ như
vậy thì gọi là xứ
pháp thiện xảo.
Ở nơi nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc và ý pháp,
đại Bồ Tát quan sát thấy
ly dục , nhưng ở nơi
ly dục cũng chẳng
tác chứng . Biết rõ như
vậy thì gọi là xứ
pháp thiện xảo.
Lại này
Xá Lợi Phất !
Chư Phật Như Lai nói pháp
vi diệu, hoặc nói thánh xứ, hoặc nói phi thánh xứ.Thánh xứ là kham thọ
đạo pháp. Phi thánh xứ là rời xa
đạo pháp.
Đại Bồ Tát an trụ nơi đạo, đối với các
chúng sanh xa rời đạo,
đại Bồ Tát được đạo xứ
đại bi chẳng bỏ
chúng sanh.
Nếu biết rõ khéo
thông đạt như
vậy thì gọi là
đại Bồ Tát xứ
pháp thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật phải nên siêng
tu học xứ
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật mà hay
thông đạt đế
pháp thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nên biết
đại Bồ Tát có bốn thứ hạnh nhập vào đế
pháp thiện xảo. Đó là
khổ trí,
tập trí,
diệt trí và
đạo trí.
Thế nào là
khổ trí đến
đạo trí ?
Nơi các uẩn vốn
vô sanh . Trí ấy gọi là
khổ trí.
Nơi
nhiễm ái vĩnh viễn đoạn diệt. Trí ấy gọi là
tập trí.
Nơi tất cả
vô sanh vô diệt. Trí ấy gọi là
diệt trí.
Nơi tất cả
thời gian đối với các pháp
sở duyên không tổn ích. Trí ấy gọi là
đạo trí.
Đại Bồ Tát ở nơi
tứ đế ấy dùng các
trí huệ như vậy biết rõ như thiệt, dầu
thông đạt nhưng chẳng
tác chứng. Tại sao ? Vì muốn
thành thục các
chúng sanh vậy.
Đầy đủ như
vậy thì gọi là
đế thiện xảo.
Lại có ba thứ
đế thiện xảo. Đó là
thế tục đế,
thắng nghĩa đế và tướng đế.
Thế gian có bao nhiêu
văn tự ngữ ngôn âm thanh giả thuyết v.v…gọi là
thế tục đế.
Ở chỗ ấy còn chẳng phải
tâm hành huống là
văn tự mà có thể trình bày nói lên được. Các
pháp như vậy gọi là
thắng nghĩa đế.
Các tướng tức là nhứt tướng. Nhứt tướng ấy tức là
vô tướng. Đây gọi là tướng đế.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ở nơi
thế tục đế,vì
chúng sanh nên giảng nói không nhàm mỏi. Ở nơi
thắng nghĩa đế tác chứng không lui mất. Nơi tướng đế, sâu đạt bổn tánh biết rõ
vô tướng. Đây gọi là
đại Bồ Tát đế
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát chuyên cần tu học đế thiện xảo phải biết lại có một đế không có đế thứ hai, đó là điệt đế.
Chư Phật Như Lai ở nơi đế
duy nhứt ấy
thông đạt rõ ràng không có
tăng ích.
Thông đạt rồi vì muốn thông ích cho các
chúng sanh mà tuyên nói đế
duy nhứt ấy khiến họ
tu học tỏ
ngộ không tăng ích.
Đại Bồ Tát biết rõ như
vậy thì gọi là đế
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đế thiện xảo là khéo
thông đạt các
thánh đế. Thế nào là
thông đạt thánh đế ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Khổ thánh đế là nói
ngũ uẩn tánh nó thiệt khổ nên gọi là
khổ đế. Ở trong đế nầy,
đại bồ Tát thông đạt năm uẩn đều là tướng khổ. Luận về tướng khổ tức là
tướng không, đây gọi là
khổ thánh đế.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Tập thánh đế là nói
tùy miên ái kiến làm nhơn cho
năm uẩn, đây gọi là
tập đế. Ở trong nhơn tập này, hoặc
ái hoặc kiến ,
đại Bồ Tát không có
tăng ích hoặc lấy hoặc mê mà
thông đạt rõ ràng, đây gọi là
Tập thánh đế.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Diệt thánh đế là nói
năm uẩn cứu cánh dứt hết, đây gọi là
diệt đế.
Đại Bồ Tát quan sát đế ấy,
tiền tế chẳng sanh,
hậu tế chẳng đến,
hiện tại chẳng trụ,
thông đạt rõ ràng như
vậy thì gọi là
diệt thánh đế.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đạo
thánh đế là
y cứ đạo ấy mà chứng được
khổ trí tập trí và
diệt trí không có trí nào khác, đây gọi là
đạo đế. Ở nơi đế ấy,
đại Bồ Tát thông đạt rõ ràng không có
phân biệt, đây gọi là Đạo
thánh đế.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nơi đế này ,
đại Bồ Tát dùng
trí quan sát cùng khiến
chúng sanh quan sát hiểu rõ. Đây gọi là
đại Bồ Tát đế
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Đối với đế ấy,
đại Bồ Tát lại phải
quan sát biết bốn đế
như vầy :
Nơi tất cả năng thọ sở thọ đều là
khổ đế. Trong ấy phải khéo biết rõ,
chính trí tánh khéo biết rõ ấy
thông đạt rõ ràng thì gọi là
Bồ Tát khổ thánh đế.
Từ nơi nhơn ấy mà các uẩn tập họp
phát khởi, đây đều là
tập đế. Nơi nhơn ấy biết rõ như thiệt thì gọi là
Bồ Tát khổ tập thánh đế.
Các thọ dứt hẳn không chỗ
giác thọ, đây gọi là
diệt đế. Dầu
quan sát thọ diệt mà chẳng
tác chứng,
thông đạt như
vậy thì gọi là
Bồ Tát khổ diệt thánh đế.
Khéo
tu hành thánh đạo rời lìa thọ, đây gọi là
đạo đế.
Ví như thuyền bè, chẳng lấy cầu nơi thọ cũng chẳng lấy cầu nơi đạo thì gọi là
Bồ Tát khổ diệt đạo thánh đế.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
đại Bồ Tát hiện quán như vậy,
y cứ chánh định tịch tĩnh phát khởi bốn
chánh kiến, mà ở nơi bốn
chánh kiến ấy cũng chẳng
tác chứng.
Thông đạt được pháp ấy thì gọi là
Bồ Tát đế
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát thiện xảo thông đạt nơi đế pháp ấy, nếu chúng
diệt đế thì khổ chẳng sanh,
trí quán vô sanh thì gọi là
khổ trí.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Hữu là sanh duyên.
Quan sát hữu ấy chẳng có chẳng không, trí nầy gọi là
tập trí.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả sanh đều là
vô sanh , đã
vô sanh thì đều vô diệt. Trí vô diệt ấy gọi là tận
diệt trí.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thánh đạo ấy không chỗ cân lường, không chỗ lấy tìm , không chỗ
quan sát, đây gọi là trí
quảng đại. Trí ấy gọi là
đạo trí.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nơi đế pháp ấy
đại Bồ Tát khéo
kiến lập được, mà ở nơi đế trí không chỗ
trụ trước. Đây gọi là
đại Bồ Tát đế
pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật, nên được
vô ngại giải
thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu học đầy đủ
Bát Nhã Ba la mật nên được bốn thứ vô
chướng ngại giải. Đó là
nghĩa vô ngại giải, pháp
vô ngại giải, từ
vô ngại giải và
biện vô ngại giải.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những gì là
nghĩa vô ngại giải ?
Chư đại Bồ Tát y cứ Bát Nhã Ba la mật nên được
nghĩa vô ngại giải. Đó là nhứt thiết
pháp thắng nghĩa xứ trí .
Quan sát trí ấy tức là
nghĩa vô ngại giải. Như là những giác trí, nhơn trí, duyên trí, hòa hiệp trí , biến tùy hành trí, quãng đại
duyên sanh trí ,
pháp tánh vô tạp trí,
Như Lai tùy nhập trí, an trụ
thiết tế tạp chí.
Như Lai tùy nhập trí, an trụ thiệt tế trí ở trong
pháp không tùy
giác quán trí, ở trong pháp
vô tướng như sở
quán trí, ở trong pháp
vô nguyện khởi
nguyện hành trí, ở nơi không
gia hạnh khởi
gia hành trí, nơi không
gia hạnh khởi
gia hạnh trí, nơi
lý thú nhứt quán nhập
chứng trí, nơi
không hữu tình quán nhập
chứng trí, nơi không
ngã pháp quán nhập
chứng trí, nơi hông
thọ mạng nhứt hướng nhập trí, nơi không sát thủ thú quán
thắng nghĩa trí, nơi
quá khứ thế quán
vô ngại trí, nơi
vị lai thế quán
vô biên trí, nơi
hiện tại thế quán nhứt thiết xứ trí, nơi các uẩn pháp quán
như ảo hóa trí , nơi các
giới pháp quán đồng
độc xà trí, nơi các xứ pháp quán như
hư không trí, nơi các
nội pháp quán
tịch tĩnh trí, nơi các
ngoại pháp quán
vô sở hành trí, nơi các
cảnh giới quán
vô sở hữu trí, nơi các niệm trụ quán an trụ trí, nơi các
thú đạo quán tùy hành trí, nơi các
duyên khởi quán hiện kiến trí, nơi các đế pháp
quán thông đạt trí, nơi tất cả khổ quán
vô sanh trí, nơi tất cả tập
quán không gia hạnh trí, nơi tất cả
diệt quán ly tướng trí, nơi tất cả
đạo quán cứu tế trí, ở trong tất cả pháp, quán phân
tích trí, nơi các căn pháp quán
chứng nhập trí, nơi các lực pháp
quán không khuất phục trí, nơi
xa ma tha quán
sở y xứ trí, nơi
tỳ bát xá na quán minh chiếu trí, nơi các ảo
sự quán hư
tập trí, nơi các dương diệm quán mê
loạn trí, nơi các mộng
sự quán hư kiến trí, nơi
tiếng vang quán duyên hiệp trí, nơi bóng sáng quán
vô động trí, nơi tướng
sai biệt quán nhứt
tướng trí, nơi các
hệ phược quán ly phược trí, nơi các
tương tục quán không tương tục trí, nơi trí
Thanh Văn quán tùy
thanh nhập trí, nơi trí
Độc Giác quán
duyên sanh rộng lớn nhập nhứt
cảnh trí, nơi Phật
Đại thừa quán biết tất cả
thiện căn tư lương hay tích
tập trí. Tất cả các
quán trí như vậy gọi là
đại Bồ Tát nghĩa vô ngại giải.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại bồ Tát còn có
nghĩa vô ngại giải. Đó là nghĩa y thú nơi
lý thú, vì là chỗ y thú của các
pháp tánh. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều là không, nghĩa
tánh không gọi là nghĩa. Vì tất cả pháp đều
vô tướng, nghĩa
vô tướng gọi là nghĩa. Vì tất cả pháp đều
vô nguyện, nghĩa
vô nguyện gọi là nghĩa. Vì tất cả pháp đều
viễn ly, nghĩa
viễn ly gọi là nghĩa. Vì tất cả
pháp không hữu tình không
thọ mạng không sát thủ thú,
nghĩa không hữu tình thọ mạng sát thủ thú gọI là nghĩa.
Đại Bồ Tát tùy nhập được
nghĩa tướng như
vậy thì gọi là
nghĩa vô ngại giải.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
Bồ Tát nói nghĩa như vậy, nên biết đó là nói pháp
vô trụ, nói pháp
vô tận , là nói tất cả chỗ được nói rõ, là nói những nghĩa của bực
nhứt thiết trí dung
vô ngại giải đã biết rõ. Nên biết
Bồ Tát được sự
ấn khả tùy hỉ của chư
Phật Thế Tôn. Nên biết trí ấy là chơn huệ, là thiệt huệ là vô
dị huệ, là
vô ngại huệ.
Đại Bồ Tát biết rõ như
vậy thì gọi là
nghĩa vô ngại giải.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát pháp
vô ngại giải ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên được pháp
vô ngại giải . Đó là ở trong các pháp, tùy
chứng nhập trí. Những gì gọi là tùy
chứng nhập trí ? Đó là ở trong các pháp có chỗ
chứng nhập. Những pháp gì ? Đó là những pháp : thiện
bất thiện, hữu tội vô tội,
hữu lậu vô lậu,
thế gian xuất thế gian,
hữu vi vô vi,
nhiễm ô thanh tịnh,
sanh tử Niết bàn. Ở trong các pháp ấy theo đó có thể
chứng nhập pháp tánh bình đẳng,
bồ đề bình đẳng. Trí tánh như vậy gọi là pháp
vô ngại giải.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Pháp
vô ngại giải là :
Đại Bồ Tát dùng pháp
vô ngại giải ấy,
tâm trí chứng nhập tham hành
như vầy; nhập chứng
giả lập tham hành,
phương tiện tham hành,
kiên cố tham hành , vi bạc tham hành, phi xứ tham hành, doanh cầu tham hành,
túc thế tham hành,
vô biên dị tướng tham hành,
hiện tại chúng duyên tham hành. Tất cả tướng tham hành ấy đều
chứng nhập.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát rõ biết những tướng
tham của các
hữu tình : Hoặc có
chúng sanh nội tham chẳng phải ngoại tham, hoặc ngoại tham chẳng phải nội tham, hoặc
nội ngoại tham.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham sắc chẳng tham thanh, hoặc tham thanh chẳng tham sắc, hoặc tham
sắc thanh.
Hoặc có
chúng sanh tham sắc chẳng tham hương, hoặc tham hương chẳng tham sắc, hoặc tham sắc hương.
Hoặc có
chúng sanh tham sắc chẳng tham vị, hoặc tham vị chẳng tham sắc, hoặc tham
sắc vị.
Hoặc có
chúng sanh tham sắc chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham sắc, hoặc tham sắc xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham thanh chẳng tham hương, hoặc tham hương chẳng tham thanh, hoặc tham thanh hương.
Hoặc có
chúng sanh tham thanh chẳng tham vị, hoặc tham vị chẳng tham thanh, hoặc tham thanh vị.
Hoặc có
chúng sanh tham thanh chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham thanh, hoặc tham thanh xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham hương chẳng tham vị, hoặc tham vị chẳng tham hương , hoặc tham hương vị.
Hoặc có
chúng sanh tham hương chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham hương, hoặc tham hương xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham vị chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham vị, hoặc tham vị xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham
sắc thanh chẳng tham hương , hoặc tham hương chẳng tham
sắc thanh , hoặc tham
sắc thanh hương.
Hoặc có
chúng sanh tham
sắc thanh chẳng tham vị, hoặc tham vị chẳng tham
sắc thanh, hoặc tham
sắc thanh vị.
Hoặc có
chúng sanh tham
sắc thanh chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham
sắc thanh, hoặc tham
sắc thanh xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham thanh hương chẳng tham vị, hoặc tham vị chẳng tham thanh hương, hoặc tham thanh hương vị.
Hoặc có
chúng sanh tham thanh hương chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham thanh hương; hoặc tham thanh hương xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham hương vị chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham hương vị, hoặc tham hương vị xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! hoặc có
chúng sanh tham
sắc thanh hương chẳng tham vị, hoặc tham vị chẳng tham
sắc thanh hương , hoặc tham
sắc thanh hương vị.
Hoặc có
chúng sanh tham
sắc thanh hương chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham
sắc thanh hương, hoặc tham
sắc thanh hương xúc.
Lại nầy
Xá lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham thanh hương vị chẳng tham xúc, hoặc tham xúc chẳng tham
sắc thanh hương vị, hoặc tham thanh hương vị xúc.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Hoặc có
chúng sanh tham
sắc thanh hương vị chẳng tham xúc, hoặc xúc chẳng tham
sắc thanh hươngvị, hoặc tham
sắc thanh hương vị xúc.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Vô lượng chúng sanh ấy đều riêng
phát khởi vô lượng tướng tham nhập vào tham hành,
đại Bồ Tát do
chứng nhập pháp
vô ngại giải nên nhập vào hai vạn một ngàn tham hành, hai vạn một ngàn sân hành, hai vạn một ngàn si hành,, hai vạn một ngàn đẳng phần hành
phiền não của
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát chứng nhập tám vạn bốn ngàn
phiền não hành môn ấy, nên biết
đại Bồ Tát nầy đầy đủ
thành tựu tâm
quảng đại trí, tùy hành thuyết trí,
bất tăng bất giảm thuyết trí, bất quá thời thuyết trí,
căn khí sai biệt trí, lập ngôn bất hư thuyết trí.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
đại Bồ Tát có đủ những trí
thù thắng như vậy, nên gọi là
đại Bồ Tát pháp
vô ngại giải.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát từ
vô ngại giải ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên có đủ từ
vô ngại giải. Đó là
trí chứng nhập các
ngôn từ.
Được trí nầy rồi thì hay biết rõ
ngôn từ của
chư Thiên chư Long,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà,
A Tu La,
Ca Lâu La,
Khẩn Na La,
Ma Hầu La già, Nhơn và
ngôn từ của các
Phi nhơn, nhẫn đến tất cả
hữu tình trong
ngũ đạo có bao nhiêu
ngôn từ âm thanh nói bàn,
đại Bồ Tát đều dùng trí ấy
chứng nhập, lại có thể dùng các
ngôn từ âm thanh ấy
tùy theo các
hữu tình mà nói pháp. Đây gọi là
Bồ Tát từ
vô ngại giải
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại bồ Tát khéo biết rõ
ngôn từ ấy chỉ nên
hiển bày pháp ấy,
ngôn từ ấy chỉ nên tùy
biện pháp ấy,
ngôn từ ấy nên dùng chữ ấy ẩn chứa pháp ấy.
Đại Bồ Tát dùng trí ấy biết rõ là một
danh ngôn, là hai
danh ngôn, là nhiều
danh ngôn. lại biết rõ là
danh ngôn nữ
danh ngôn nam,
danh ngôn phi nam phi nữ. Lại biết rõ là
danh ngôn lược
danh ngôn rộng,
danh ngôn tốt
danh ngôn xấu. Lại biết rõ là
danh ngôn quá khứ danh ngôn vị lai,
danh ngôn hiện tại. Lại biết rõ các tướng như vậy một chữ
tăng ích.
Biết rõ như
vậy thì gọi là
đại Bồ Tát từ
vô ngại giải.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát phát ra
ngôn từ, đó là do
vô lượng công đức họp lại thành. Tại sao ? Vì
ngôn từ được
đại Bồ Tát phát ra không nhỏ yếu, chính
ngôn từ ấy rất khéo
sắp đặt, không phiền trọng, không gấp mau, lời rất
rõ ràng, văn nghĩa tròn đủ, thuận
đẹp lòng đại chúng, các thứ mỹ diệu bày rõ
thâm áo,
trang nghiêm với những
thế tục và
thắng nghĩa,
tự tâm trí kiến
thông đạt vô ngại, chư
Phật ấn khả, làm vui đẹp
chúng sanh.
Đầy đủ như
vậy thì gọi là
đại Bồ Tát từ
vô ngại giải.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát biện
vô ngại giải?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba La mật nên được
ngôn từ vô ngại biện, biện nói
ký biệt không trệ, biện nói
tuyên dương không dứt, biện nhanh biện mau biện nhanh chóng, biện chẳng ai động được, biện chẳng vấp chậm, biện đáp theo lời hỏi, biện chẳng khiếp lui, biện chẳng
tương vi, biện chẳng
tranh luận,
biện pháp đáng thích, biện an trụ sức nhẫn, biện
vi diệu rất sâu, biện các thứ
sai biệt, biện các thứ
vi diệu, biện
thế tục thắng nghĩa, biện nói
xây dựng tất cả
công hạnh bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
tĩnh lự Bát Nhã, biện nói
xây dựng tất cả niệm trụ
chánh cần thần túc căn lực giác phần chánh đạo xa ma tha và
tỳ bát xá na, biện nói
xây dựng tất cả
tĩnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát để, biện
quảng đại trí, biện sở thừa của tất cả thánh nhơn, biện
tâm hành của tất cả
chúng sanh, biện nói không ngọng nghịu, biện nói không cứng nghẹn, biện nói không
liến thoắng, biện nói không thô cộc, biện nói giọng nhuần mến, biện nói giọng
trong sạch, biện nói giọng bàng bạc, biện nói
không chấp dính, biện nói
dạy bảo, biện nói
đại tự tại, biện nói diệu
tương ưng, biện nói không khóa chặt, biện nói giọng mỹ diệu, biện nói giọng mềm trơn, biện nói không gây ra sự
quở trách, biện nói được chư thánh khen ngợi.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát dùng bao nhiêu ngôn biện như vậy tuyên cáo khắp
vô lượng vô biên quốc độ chư Phật mười phương. Ngôn âm được
đại Bồ Tát phát ra vượt hơn tất cả
ngôn từ phạm âm. Ngôn âm ấy
sáng tỏ trong sạch được sự
ấn khả của chư Phật.
Đại Bồ Tát có
đủ tài biện, thương các
hữu tình nên dùng ngôn âm ấy tuyên nói rộng
chánh pháp vi diệu khiến họ
xuất ly sanh tử hết hẳn các sự khổ. Đây gọi là
đại Bồ Tát vô ngại biện.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Như trên ấy gọi là
vô ngại giải
thiện xảo. Do
vô ngại giảI
thiện xảo ấy mà
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La mật chuyên cần tu tập vô ngại giải
thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát y xu
thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát nhã Ba La mật nên khéo hay đầy đủ bốn thứ y xu. Đó là y xu nơi nghĩa mà chẳng y xu nơi văn, y xu nơi trí mà chẳng y xu nơi thức, y xu nơi kinh
liễu nghĩa mà chẳng y xu nơi kinh chẳng
liễu nghĩa, y xu nơi pháp mà chẳng y xu nơi nhơn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là y xu nơi nghĩa mà chẳng y xu nơi văn? Và những gì là văn là nghĩa ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Văn là nói
văn từ truyền quen theo
tác dụng của pháp
thế gian. Nghĩa là nói chỗ
thông đạt pháp
xuất thế.
Văn là
ngôn từ tuyên bày
bố thí điều thuận
tịch tĩnh đáng
ưa thích. Nghĩa là trí
quyết định biết rõ sự
bố thí điều thuận
tịch tĩnh ấy.
Văn là
ngôn từ phân biệt quở trách sanh tử. Nghĩa là chẳng nhiễm
sanh tử thấy suốt
pháp tánh.
Văn là
ngôn từ ca ngợi công đức Niết bàn. Nghĩa là
pháp tánh Niết bàn tánh không sai biệt.
Văn là
tùy thuận các thừa mà
kiến lập ngôn thuyết. Nghĩa là trí khéo
thông đạt pháp nhứt lý.
Văn là tuyên nói bỏ rời các pháp
sở hữu. Nghĩa là
tam luân ấy
cứu cánh thanh tịnh.
Văn là tuyên nói
luật nghi thân ngữ
ý nghiệp thọ trì công đức học xứ đầu đà. Nghĩa là thân ngữ
ý nghiệp đều
bất khả đắc, chẳng do
gia hạnh giới luật thanh tịnh.
Văn là tuyên nói nhịn chịu
sân khuể bớt dứt giận
kiêu mạn phóng dật, làm được hạnh nhẫn ấy gọi là thiện
trượng phu. Nghĩa là khéo chứng được
vô sanh pháp nhẫn.
Văn là
diễn tả các
thiện căn phát khởi tinh tấn. Nghĩa là vô thủ vô xả
vô trụ tinh tấn.
Văn là tuyên nói
tĩnh lự giải thoát đẳng tri đẳng chí. Nghĩa là trí
diệt tận định.
Văn là tất cả
văn trì các
huệ căn bổn. Nghĩa là nghĩa
bất khả thuyết.
Văn là hay khai thị ba mươi bảy phần
trợ đạo thánh pháp. Nghĩa là chứng được quả của
chánh hạnh Bồ đề phần pháp.
Văn là hay khai thị phổ tập
đạo đế. Nghĩa là
tác chứng diệt đế.
Văn là hay khai thị
vô minh đến
lão tử. Nghĩa là
vô minh diệt đến
lão tử diệt.
Văn là tuyên nói
chánh pháp chỉ quán tư lương. Nghĩa là sáng
giải thoát trí.
Văn là tuyên
nói hành pháp
tham sân si và đẳng phần. Nghĩa là tâm
vô phân biệt trí giải thoát.
Văn là khai thị tất cả pháp
chướng ngại. Nghĩa là trí
giải thoát vô
chướng ngại.
Văn là khai thị
Tam Bảo ca ngợi công đức. Nghĩa là
pháp tánh ly dục công đức chánh hạnh vô vi vô trước.
Văn là tuyên nói
công đức tu học phát khởi chánh hạnh của
Bồ Tát sơ phát tâm đến ngồi
đạo tràng . Nghĩa là
sát na tâm
tương ưng chứng nhập nhứt thiết chửng trí.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Tóm lại đức Như Lai diễn nói tám vạn bốn ngàn
pháp tạng thanh giáo đều gọi là văn,
lý thú tất cả thuyết rời lìa tất cả ngôn âm
văn tự thì gọi là nghĩa.
Đây gọi là
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật y xu nghĩa chẳng y xu văn vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát y xu trí chẳng y xu thức ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba La mật nên
thiện xảo biết rõ bao nhiêu
ngôn giáo văn nghĩa tất cả pháp theo sự
phân biệt của tất cả
hữu tình thì gọi là thức,
đại Bồ Tát chẳng nên
y theo. Còn những
ngôn giáo đúng nghĩa
pháp tánh tức gọi là trí,
đại Bồ Tát phải
y theo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Do hai
pháp thiện xảo mà
đại Bồ Tát có thể
tu hành Bát Nhã Ba la mật. Đó là thức và trí.
Những gì là thức ? Những gì là trí ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thức ấy là bốn chỗ thức an trụ : Một là sắc chỗ
y chỉ của thức. Hai là thọ, chỗ
y chỉ của thức. Ba là tưởng, chỗ
y chỉ của thức. Bốn là hành, chỗ
y chỉ của thức. Thức an trụ bốn chỗ như
vậy thì gọi là thức, chẳng nên
y theo.
Nơi năm
thủ uẩn, thức chẳng an trụ,
thức uẩn khắp ở nơi trí thì gọi là trí, phải
y theo trí ấy.
Thức là hay biết rõ
địa giới thủy giới hỏa giới phong giới, biết rõ bốn giới ấy thì gọi là thức, chẳng nên
y theo. Nơi bốn giới ấy thức chẳng an trụ thì gọi là thức
pháp tánh. Nơi
pháp tánh trí chẳng tạp loạn thì gọi là trí, nên
y theo trí ấy.
Thức là biết rõ sắc được nhãn biết, thanh được nhĩ biết, hương được tỷ biết, vị được thiệt biết, xúc được thân biết, pháp được ý biết. Biết rõ như vậy gọi là thức, chẳng nên
y theo.
Với nội xứ, tâm lự
tịch tĩnh, với ngoại xứ tầm từ chẳng hành, chẳng sanh
phân biệt nơi pháp, đây gọi là trí, nên
y theo.
Từ
cảnh sở duyên mà sanh hay biết, từ các
tác ý mà sanh hay biết, từ khắp
phân biệt mà sanh hay biết, đây gọi là thức.
Không thủ
không chấp không duyên không
phân biệt, đây gọi là trí.
Nơi tất cả
hành pháp hữu vi phân biệt biết rõ, đây gọi là thức. Nơi
pháp vô vi không có thức duyên hành được, trí
vô vi ấy gọi là trí.
Thức hay biết có sanh có diệt có nơi an trụ thì gọi là thức, chẳng nên
y theo. Không
sanh không diệt không chỗ an trụ, đây gọi là trí,
đại Bồ Tát nên
y theo trí ấy.
Đây gọi là
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La mật y xu trí chẳng y xu thức vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát chẳng y xu kinh chẳng
liễu nghĩa mà y xu kinh điễn
liễu nghĩa ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát hay khéo
thông đạt văn
rộng rãi như trước đã tuyên nói, đây gọi là kinh chẳng
liễu nghĩa, chẳng nên y xu. Còn những nghĩa
rộng rãi đã tuyên
nói trước ấy, đây gọi là kinh
liễu nghĩa, nên y xu.
Những gì trong kinh mà cho là
liễu nghĩa, hoặc chẳng liễu nghĩa?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Vì
y Bát Nhã
Ba la mật nên
đại Bồ Tát khéo
thông đạt phân biệt rõ.
Nếu trong kinh tuyên nói về đạo,
ngôn giáo ấy gọi là chẳng
liễu nghĩa. Nếu nói về quả,
ngôn giáo ấy gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong các kinh nói về
thế tục đế, đây gọi là chẳng
liễu nghĩa. Nếu nói về
thắng nghĩa đế thì gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong các kinh nói về
tác nghiệp phiền não hoặc nhiễm thì gọi là chẳng
liễu nghĩa.
Nếu nói
phiền não nghiệp dứt hết thì gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong các kinh tuyên nói
quở trách pháp
nhiễm ô thì gọi là chẳng
liễu nghĩa. Nếu nói
tu trị thanh tịnh thì gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong có kinh nói nhàm
sanh tử ưa
niết bàn thì gọi là chẳng
liễu nghĩa. Nếu nói
sanh tử Niết bàn không
sai biệt thì gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong các kinh
nói nhiều thứ
văn cú sai biệt thì gọi là chẳng
liễu nghĩa.
Nếu nói
thậm thâm khó thấy khó biết thì gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong các kinh
văn cú rộng rãi hay khiến tâm ý
chúng sanh hớn hở thì gọi là chẳng
liễu nghĩa. Nếu nói
văn cú và tâm ý đều đồng với tro tàn thì gọi là
liễu nghĩa.
Nếu trong kinh tuyên nói có ngã,
hữu tình, mạng giả, dưỡng giả, sát thủ thú giả, ý sanh giả,
tác giả,
thọ giả, lại lập có các thứ
thọ uẩn không có chủ thể,
ngôn giáo như
vậy thì gọi là chẳng
liễu nghĩa, chẳng nên y xu. Nếu nói không,
vô tướng,
vô nguyện,
vô sanh, vô khởi, vô
xuất hiện,
vô ngã, vô nhơn,
vô hữu tình, vô mạng giả, đây gọi là
liễu nghĩa, nên y xu.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đây gọi là
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật y xu kinh
liễu nghĩa, chẳng y xu kinh chẳng
liễu nghĩa.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát y xu pháp mà chẳng y xu nhơn?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
y Bát Nhã
Ba la mật nên ở nơi các
kinh giáo khéo
phân biệt được nếu là tuyên nói kinh chẳng
liễu nghĩa tức là những nghĩa về các
hữu tình,
ngôn giáo ấy chẳng nên y xu. Còn các kinh
liễu nghĩa tức như nghĩa
pháp tánh,
ngôn giáo ấy nên y xu.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là pháp và thế nào gọi là nhơn ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những
pháp tướng sở duyên được
hữu tình thấy biết thì gọi là nhơn. Còn
pháp tánh mà các
pháp tướng sở duyên ấy an trụ thì gọi là pháp vậy.
Nói là nhơn ấy, đó là người phàm, người phàm thiện, người tùy tính hành, người
tùy pháp hành, người đệ
bát nhẫn, người
Dự Lưu, người
Nhứt Lai , người
Bất Hoàn, người
A La Hán, người
Độc Giác, người
Bồ Tát.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lại còn có một người
xuất hiện thế gian làm
lợi ích an vui
vô lượng chúng sanh,
thương xót thế gian đem nghĩa lợi
an lạc cho người cho trời. Người này là
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả danh từ người như vậy,
đức Như Lai y theo thế tục đế vì
chúng sanh mà tuyên nói. Nếu có người ở nơi
ngôn giáo ấy mà
sanh khởi chấp lấy, thì chẳng nên y xu người ấy. Tại sao ? Vì muốn
Bồ Tát chánh y xu, nên
đức Như Lai tuyên dạy rằng các ông nên y xu thiệt tánh của các pháp, chớ nên y xu nơi người ấy.
Những gì là thiệt tánh của các pháp?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những tướng : Không biết dị, không
tăng ích, không tác không bất tác, chẳng trụ không căn bổn, đây goị là
pháp tánh. Lại những tướng : tất cả xứ thông chiếu
bình đẳng, trong các
bình đẳng khéo trụ
bình đẳng, trong bất
bình đẳng hay khéo
bình đẳng, đây gọi là
pháp tánh.
Pháp tánh ấy không có
phân biệt, không có
sở duyên, nơi tất cả pháp chứng được
thể tướng cứu cánh quyết định, đây gọi là thiệt tánh của các pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu ai có y xu
pháp tánh, thì các
pháp tánh không có chẳng y xu.
Chư đại Bồ Tát do
chứng nhập môn ấy nên ở nơi tất cả
pháp y xu tất cả
pháp tánh.
Đây gọi là bốn thứ y xu của
đại Bồ Tát.
Nếu
đại Bồ Tát thông đạt được nơi đây thì gọi là y xu
thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
tư lương thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên khéo
thông đạt được hai thứ
tư lương. Đó là phước và trí. Thế nào gọi là
phước đức tư lương ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Thể tánh bố thí đem phước đến cho
việc làm,
thể tánh thi la đem phước đến cho
việc làm,
thể tánh các hạnh tu đem phước đến cho
việc làm,
đại từ tam muội ,
đại bi phương tiện đều gọi là
phước đức tư lương.
Đại Bồ Tát do làm những
sự nghiệp phước đức nên ở nơi các
thiện căn, hoặc tự hoặc tha,
cố gắng phụng tu đều hưng khởi được
phước đức ba đời, tất cả những pháp ác đều
phát lộ.
Ở nơi
công đức của tất cả
chúng sanh có,
công đức của các bậc
hữu học vô học có,
công đức của bậc
Độc Giác có,
công đức của tất cả
Bồ Tát từ
sơ phát tâm đến
bất thối chuyển nhứt sanh
bổ xứ có
vô lượng vô biên, đều sanh lòng
tùy hỉ khắp tất cả .
Ở nơi chư
Phật Thế Tôn quá khứ vị lai hiện tại có bao nhiêu
thiện căn cũng đều sanh lòng
tùy hỉ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy lại hay khéo
tùy hỉ sự nghiệp câu sanh phước. Lại có thể
thỉnh Phật chuyển pháp luân
vi diệu, cũng thỉnh
chư Hiền Thánh diễn nói
thắng pháp. Cũng khuyến cáo
sự nghiệp câu sanh phước. Lại hay đem các
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề,
hồi hướng sự nghiệp vô sanh phước.
Đại Bồ Tát ấy thấy người chưa
phát Bồ đề tâm thì
phương tiện khuyên khiến phát. Với người đã
phát Bồ đề tâm thì
thuyết pháp khai thị khiến
thành thục. Với người nghèo cùng thì dùng của vật nhiếp họ.Với người tật bịnh thì
bố thí thuốc men
ân cần săn sóc cung kính hầu hạ. Với kẻ
bạo ác thì nhịn chịu. Với
giới phẩm vị phạm thì chẳng phú tàng mà
phát lộ các lỗi khéo trừ hết sạch. Với chư
Phật Thế Tôn đã
nhập Niết bàn thì luôn luôn sắm đồ
cúng dường. Với
Hòa Thượng và
A Xà Lê thì kính thờ như Phật. Với
chánh pháp thì phát
tinh tấn suy tìm thỉnh hỏi. Với
thuyết pháp sư thì kính mến tôn thờ như
thờ Phật. Có hội
thuyết pháp dầu cách xa trăm
do tuần cũng phải đến đó nghe
chánh pháp không nhàm mỏi. Hoặc có
chúng sanh đến thưa hỏi chỗ nghi, thì dùng tâm
vô nhiễm mà tuyên nói
pháp thanh tịnh, với
cha mẹ thì thờ kính
cúng dường biết ơn, tỏ ơn không hề
hối tiếc. Chứa họp tất cả những phước
thanh tịnh tu hành xây dựng lòng không nhàm mỏi, dùng các
giới luật phòng
hộ thân mình, thân không ngụy trá, phòng hộ nơi ngữ phát ngôn
hòa nhã, phòng hộ nơi tâm lòng không xiểm cuống. Vì muốn nhiếp các
phước đức thanh tịnh nên
xây dựng tháp miếu thờ Phật. Vì muốn tướng
trượng phu được
viên mãn nên chứa họp
pháp hội bố thí lớn
vô giá. Vì muốn
tùy hình hảo viên mãn nên chứa họp các thứ
thiện căn tư lương. Để
trang nghiêm thân nên rời bỏ
kiêu mạn. Để
trang nghiêm ngữ nên rời các lỗi nơi ngữ. Để
trang nghiêm tâm nên xa rời tất cả ghét ganh
giác quán. Vì
đại trang nghiêm Phật quốc độ nên
hóa hiện thần thông chuyển biến tự tại. Vì muốn
trang nghiêm các
pháp tướng nên
thành tựu diệu trí vô thượng thiện tánh thanh tịnh. Vì muốn
trang nghiêm pháp chúng nên rời xa tất cả
ngữ ngôn ly gián thô ác
phá hoại.
Vì chẳng
thủ trước tất cả pháp nên rời lìa
hư vọng phân biệt. Vì khiến người
thuyết pháp không lo buồn nên
hoan hỉ khen
thiện tai. Vì muốn người
thuyết pháp không luống công nên trừ bỏ chướng cái mà
cung kính nghe pháp. Vì muốn
trang nghiêm Bồ đề thọ nên phụng thí vườn rừng
thanh tịnh cho chư Phật. Vì muốn
trang nghiêm Phật đạo tràng nên tu đủ các
thiện căn không thối chuyển. Vì muốn trừ sạch pháp
sanh tử nên chẳng nhiễm tất cả nghiệp
phiền não. Vì muốn được tay trân bửu nên
bố thí tất cả trân bửu. Vì muốn được của
vô tận và tạng
vô tận nên đem vật ái trọng
bố thí trước. Vì muốn khiến các
chúng sanh tạm thấy mình thì liền sanh
lòng tin thanh tịnh nên
vui vẻ hỏi thăm trước xa rời vẻ
âu sầu. Vì muốn được tướng bàn tay bằng phẳng nên đối với
chúng sanh sự chiếu cố
bình đẳng. Vì muốn phóng
vô biên màn
tia sáng nên đối với các
chúng sanh không
học thức lòng chẳng khinh miệt và chẳng
bỏ rơi. Vì muốn thọ sanh được
thanh tịnh thường gìn chứa giới phước
thanh tịnh.Vì muốn thai tạng được
thanh tịnh nên ở nơi các hủy phạm khéo có thể
thanh tịnh. Vì muốn sanh trong người
trên trời nên
tu tập thanh tịnh mườinghiệp đạo lành. Vì rời xa sự đi đứng qua lại
vô tri , nên ở nơi các sự
dạy bảo không vọng
phân biệt. Vì được
pháp tài giàu dư
tự tại nên đối với pháp
thâm áo không giấu tiếc. Vì muốn được
thế gian chiêm ngưỡng nên sửa trau
thanh tịnh dục giải
tăng thượng.Vì muốn được
pháp thắng giải
quảng đại nên các hạnh
vi diệu đều chứng cả. Vì muốn
nhiếp thọ tất cả phước nên tâm hằng
tư duy đấng
Nhứt thiết trí. Vì muốn
viên mãn bảy thánh tài nên ở nơi
Phật pháp chánh tín là
tiền đạo. Vì muốn
nhiếp thọ các
tịnh pháp nên đối với
thân mạng mình không hề đoái đến. Vì được
thế gian ủy nhiệm nên có hứa điều gì quyết làm xong . Vì muốn cho tất cả Phật
diệu pháp được
viên mãn tu tập tất cả
Phật pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
đại Bồ Tát đầy đủ
thành tựu những tướng ấy thì gọi là
đại Bồ Tát phước đức tư lương thiện xảo vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát trí đức tư lương thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật,
đại bồ Tát ấy vì an trụ các pháp
nhơn duyên như vậy nên
nhiếp thủ được trí, đây gọi là
trí đức tư lương.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nhiếp trí như vậy lấy pháp gì làm nhơn làm duyên ?
Nầy
Xá Lợi Phất! nên biết
đại Bồ Tát nguyện dục không nhàm mỏi,
tinh tấn tìm cầu tánh trí tùy hành, gần gũi
thiện hữu xu hướng Phật trí mà chẳng
xu hướng trí
Thanh Văn,
Độc Giác. Đối với
thiện hữu ấy lòng
không giải đãi khinh mạn mà
cung kính mến
trọng như bực
đại sư.
Bồ Tát biết
thiện hữu ấy có đủ dục giải nên không có phần ít
ngôn thuyết thuận trí nào mà chẳng thưa hỏi để học.
Thiện hữu ấy lại biết
Bồ Tát ấy là
pháp khí liền tuyên nói không tạm
gián đoạn.
Bồ Tát nghe nói hạnh
tương ưng với
chánh pháp tư lương liền
tinh tấn tầm tư
phương tiện tu tập. Đây gọi là
chánh hạnh tương ưng trí đức tư lương.
Thế nào là
chánh hạnh tương ưng chánh pháp tư lương ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chánh pháp tư lương là
đại Bồ Tát vì
tu tập chánh hạnh nên với sự uống ăn khéo có thể
tiết kiệm. Với các
duyên sự khéo có thể giảm ước. Với chuyện trò
đàm thoại khéo có thể xa rời. Với các
âm thanh khéo có thể
vứt bỏ. Đầu hôm cuối đêm không ngủ nghỉ mà siêng
tu tập chánh hạnh tương ưng.
Đại Bồ Tát ấy vì cân lường
nghĩa lý trịnh trọng tầm tư nên lòng không uế trược. Vì hiện
trừ nghi hối nên không chỗ truy cầu. Vì bền tu
chánh hạnh nên
tùy thuận chánh pháp xu hướng chánh pháp thích đến
chánh pháp. Vì nơi
pháp dũng mãnh thường như cứu khăn đầu bị cháy nên siêng cầu
diệu trí không tạm thôi nghỉ. Vì chẳng ở
hắc ám nên không lười biếng.Vì chẳng bỏ
việc lành nên xa rời ồn náo.
Thường hay ở
một mình nên ngồi lặng
tư duy. Vì
thánh chủng trí đức nên chẳng bỏ những
công đức đầu đà. Vì yêu thích
pháp lạc nên thường ưa tìm
cầu pháp xuất thế mà chẳng nghĩ đến trân bửu. Vì
tùy thuận thế gian văn chương chú thuật nên
thành tựu chánh niệm. Vì chẳng quên mất
chánh niệm nên đủ nghĩa
thậm thâm. Vì khéo tùy hành nghĩa
thậm thâm nên có được
diệu huệ. Vì
tùy thuận chánh đạo kiên cố nên
dũng mãnh. Vì phòng vệ
ngoại duyên nên trong lòng
hổ thẹn. Vì
trang nghiêm tàm úy nên làm theo Phật lý. Vì rời lìa phi trí nên bỏ màn
ngu si. Vì
huệ nhãn thanh tịnh khéo
giác ngộ nên giác huệ
rộng rãi. Vì giác huệ ấy không hẹp kém nên dịu huệ
sáng tỏ chứng hiện trí vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy chỗ có
công đức chẳng
tùy theo người. Với tự
công đức chẳng
tăng thượng mạn. Với tha
công đức chẳng
ganh ghét chẳng chê bai, khéo
tu hành nghiệp lành chẳng khinh
nghiệp báo, vì thế nên đầy đủ thành
mãn nghiệp thanh tịnh trí.
Nầy
Xa Lợi Phất ! đầy đủ thành mãn những tướng ấy thì gọi là
trí đức tư lương thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có
trí đức tư lương thiện xảo. Đó là có thể đầy đủ bốn
pháp bố thí thì
thành tựu được
trí đức tư lương . Những gì là bốn ?
Đại Bồ Tát nếu thấy biên chép
kinh điển nầy thì
cung cấp giấy mực viết các vật
cần dùng. Đây là
pháp thí thứ nhứt
Đại Bồ Tát thỉnh
pháp sư diễn nói nghĩa
thâm diệu. Đây là
pháp thí thứ hai.
Đại Bồ Tát đem những
lợi dưỡng cung kính danh văn tán tụng khen tặng dâng lên
pháp sư. Đây là
pháp thí thứ ba.
Đại Bồ Tát ở nơi
pháp sư nhiếp thọ chánh pháp không siễm khúc.
Khen tặng cho
vui lòng mà nói
thiện tai thiện tai. Đây là
pháp thí thứ tư.
Đại Bồ Tát làm đủ bốn
pháp thí ấy thì khéo có thể chứa họp
trí đức tư lương thiện xảoLại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ tích tập
vô tận trí đức tư lương. Những gì là bốn ?
Một là
đại Bồ Tát khéo
thủ hộ thân mạng pháp sư.
Hai là khéo
thủ hộ những
thiện pháp đã có.
Ba là khéo
thủ hộ chỗ ở của
pháp sư.
Bốn là khéo
thủ hộ đồ chúng của
pháp sư.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ nhiệm trì
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là bốn ? Đó là ở nơi
pháp sư,
Bồ Tát dùng pháp để nhiệm trì, dùng trí để nhiệm trì , dùng của vật để nhiệm trì và dùng
công đức để nhiệm trì vậy.
Lại nầy
Xá lợi Phất !
Đại bồ Tát còn có năm thắng lực hay làm
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là năm ? Đó là
đại Bồ Tát có đủ
tín lực để
thành tựu tâm
tín giải. Có đủ tấn lực để cầu
thiện tri thức thành tựu đa văn,. Có đủ
niệm lực để tâm Bồ đề không quên mất. Có đủ
định lực để
suy gẫm quan sát bình đẳng giác tánh. Có đủ huệ lực do vì từ lâu đã
tu tập sức lực đa văn vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ
thi la thanh tịnh hay tích
tập trí đức
tư lương. Những gì là bốn ? Đó là
đại Bồ Tát có
thi la thích
chánh pháp, có
thi la cầu
chánh pháp, có
thi la quán
chánh pháp và có
thi la hồi hướng Bồ đề vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ
pháp nhẫn hay làm
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là bốn ?
Một là lúc
đại Bồ Tát cần cầu chánh pháp, khéo nhẫn chịu được tất cả lời lẽ thô ác
phi pháp.
Hai là lúc
đại Bồ Tát cần cầu chánh pháp, khéo nhẫn chịu được tất cả gió nắng rét nóng
đói khát.
Ba là lúc
đại Bồ Tát cần cầu chánh pháp nơi hai
đại sư Hòa Thượng và
A Xà Lê có
dạy bảo thì đều đảnh đới
lãnh thọ.
Bốn là lúc
đại Bồ Tát cần cầu chánh pháp, khéo tin hiểu được
pháp không,
vô tướng,
vô nguyện.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lại còn có bốn thứ
tinh tấn hay làm
trí đức tư lương tinh tấn. Những gì là bốn ? Đó là
đại Bồ Tát kiên cố tinh tấn lắng nghe
chánh pháp ,
kiên cố tinh tấn nhiệm trì
chánh pháp,
kiên cố tinh tấn diễn thuyết chánh pháp và
kiên cố tinh tấn tu hành chánh hạnh vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ
tĩnh lự tu tập chánh pháp hay làm
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là bốn ? Đó là
đại Bồ Tát thường thích
thực hành pháp viễn ly, thích ở
một mình nơi 4núi rừng yên tĩnh, thường thích tìm cầu
thần thông tĩnh lự và thường siêng
tu Phật trí
quảng đại.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ
chánh pháp trí huệ quang minh hay làm
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là bốn ? Đó là
đại Bồ Tát tu hành trí huệ quang minh ấy : chẳng an trụ nơi đoạn, chẳng nói nơi thường, chẳng trái
duyên khởi và tin hiểu
vô ngã vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn thứ
chánh pháp vô thượng phương tiện hay làm
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là bốn ? Đó là
đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật mà
tùy thuận thế gian,
tùy thuận kinh điển,
tùy thuận diệu pháp và
tùy thuận tịnh trí vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát có thể tiến đến bốn thứ
pháp đạo hay làm
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì là bốn ? Đó là
đại Bồ Tát do
y Bát Nhã
Ba la mật nên đầy đủ
tu hành đạo đến
bỉ ngạn, đạo
thất giác phần, đạo
bát chánh chi và đạo
xu hướng nhất thiết chủng trí vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bốn
pháp không chán đủ hay chứa họp
trí đức tư lương thiện xảo. Những gì la Bốn ? Đó là
đại Bồ Tát do
tu hành bát Nhã Ba la mật nên phụng trì
chánh pháp vô lượng nghe pháp không chán đủ, vì người
thuyết pháp không chán đủ,
quan sát lý
nghĩa không chán đủ và
trí huệ phương tiện không chán đủ vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát có
trí đức tư lương thiện xảo như vậy liền vào khắp tất cả
chánh hạnh.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nên biết rằng
bố thí do trí
tư lương mà
thành tựu,
trì giới nhẫn tấn
định huệ cũng đều do trí
tư lương mà
thành tựu vậy. Nhẫn đến
từ bi hỉ xả tất cả
thiện pháp đều do
trí đức tư lương mà
thành tựu cả.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phát khởi bao nhiêu
chánh hạnh kiên cố đều
y chỉ nơi trí. Tất cả
chánh hạnh đều do trí làm
tiền đạo. Vì
đại Bồ Tát có
đại trí nên được các người
vô trí quy về, tất cả
ác ma không được dịệp tiện,
chư Phật Như Lai đồng
gia hộ, sẽ được xu nhập nhứt thiết
chủng trí.
Đây là
đại Bồ Tát trí đức tư lương thiện xảo vậy.
Nếu
chư Đại Bồ Tát có đủ hai thứ
phước đức và
trí đức tư lương thiện xảo, nên biết là do
tu hành Bát Nhã Ba la mật mà được
công lực tư lương thiện xảo như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đại Bồ Tát niệm trụ
thiện xảo ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát y Bát Nhã
Ba la mật tu tập đầy đủ bốn thứ niệm trụ thì có thể
thành tựu phương tiện thiện xảo. Những gì là bốn ? Một là ở nơi thân theo thân
quán sát tu tập niệm trụ. Hai là ở nơi thọ theo thọ
quan sát tu tập niệm trụ. Ba là ở nơi tâm theo tâm
quan sát tu tập niệm trụ. Bốn là ở nơi pháp theo pháp
quan sát tu tập niệm trụ.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Tu hành Bát Nhã Ba la mật, thế nào
Đại Bồ Tát ở nơi thân theo thân
quan sát tu tập niệm trụ ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát ở nơi thân trụ theo thân mà niệm,
quan sát thân nầy từ
tiền tế có
tội lỗi.
Bồ Tát nghĩ rằng : Thân nầy do nghiệp
điên đảo phát khởi từ
nhơn duyên mà
sanh không có chủ tế không chỗ
nhiếp thọ. Như những cây cỏ kia từ
nhơn duyên sanh không có chủ tế không chỗ
nhiếp thọ.
Thân thể nầy lại như nhà cửa dựng lên do cây gổ tường vách các duyên chung họp mà thành.
Thân thể nầy cũng vậy, chỉ do
uẩn xứ giới chung họp nhiếp trì mà bổn tánh nó vốn không
ngã không ngã sở, không thường không hằng không ở bền, chẳng phải là pháp chẳng
biến đổi. Nay tôi chẳng nên ở nơi
thân thể nầy mà
vọng chấp. Nay tôi nên đem thân chẳng bền nầy đổi lấy thân bền chắc. Thân
Như Lai là thân bền chắc vậy.
Tôi
quan sát thân thể nầy rất là
hư ngụy cần phải tạo nên thân
Như Lai . Vì thân
Như Lai là thân
pháp giới, là thân
kim cương , là thân chẳng bị hoại, là thân
kiên cố, là thân
tối thắng siêu
tam giới.
Thân thể tôi đây có
vô lượng tội lỗi làm
tạp nhiễm. Tôi phải cầu chứng thân
Như Lai rời lìa
tội lỗi tạp nhiễm.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy dùng các
năng lực giác huệ
quan sát thân thể do
tứ đại nhiếp trì, là hang ổ của các phiến não, vì thế nên nay tôi nên đem thân nầy
cung cấp hầu hạ các
chúng sanh. Tại sao?
Ví như bốn đại chủng ngoài là địa
thủy hỏa và phong
vô lượng phương cách tư tài
vật dụng sai biệt làm
lợi ích dưỡng dục tất cả
chúng sanh. Nay tôi cũng đem thân do
tứ đại hiệp thành nầy dùng nhiều
phương tiện cảnh giới của cải cho
chúng sanh thọ dụng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do
y Bát Nhã
Ba la mật quan sát thân thể nầy có
đại nghĩa dụng như vậy, nên
đại Bồ Tát dầu
quan sát thân này
thể tánh nó là khổ mà chẳng chán sợ thân khổ ấy, dầu
quan sát thân nầy tánh nó
cứu cánh tận mà chẳng chán sợ
lưu chuyển thọ sanh, dầu
quan sát thân nầy tánh nó
vô ngã mà không chán mỏi với sự
thành thục chúng sanh, dầu
quan sát thân nầy tánh nó
tịch diệt mà chẳng rơi vào chỗ bỏ rời
vĩnh viễn tịch diệt, dầu
quán sát thân nầy là
không vô tướng
viễn ly, mà chẳng rơi vào
biên tế viễn lyNầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ở nơi
thân thể nầy an trụ pháp, quán nơi thân,
quán sát thân ấy không thiệt không bền. Với nội thân thì an trụ pháp quán theo thân thấy biết ở trong chỗ chẳng dung thọ các
phiền não , với
ngoại thân an trụ pháp quán theo thân thấy biết ở ngoài chẳng
cùng chung với
phiền não.
Nầy
Xá Lợi Phất !
đại Bồ Tát ấy
thành tựu thân niệm trụ rồi, thì
thân thanh tịnh không có
nhiễm ô, đầy đủ tất cả
thân nghiệp thanh tịnh, được thân
trang nghiêm với tướng
thanh tịnh. Vì có thân
trang nghiêm nên được trời người
quy ngưỡng.
Đây gọi là
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La mật, nơi
thân thể theo thân
quan sát tu tập thân niệm trụ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật, thế nào là
đại Bồ Tát ở nơi thọ theo thọ
quán sát tu tập thọ niệm trụ ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát nghĩ rằng bao nhiêu thọ đều là khổ. Nay tôi có
năng lực giác huệ ở nơi thọ ấy nên khéo
quan sát, dùng
trí quan sát dùng huệ
quan sát, dùng
phương tiện quan sát. Vì có
năng lực quan sát thù thắng như vậy nên
đại Bồ Tát ấy dầu
thọ sự vui, đương lúc thọ vui liền đối với
chúng sanh ở
thiện đạo phát khởi tâm
đại từ, chẳng bị
phiền não tham dục làm não; dầu
thọ sự khổ, đương lúc thọ khổ liền đối với
chúng sanh ở
ác đạo phát khởi tâm
đại bi, chẳng bị
phiền não sân khuể làm não ; dầu
thọ sự chẳng khổ chẳng vui, đương lúc thọ chẳng khổ vui ấy chẳng bị
phiền não ngu si làm não.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Do
y Bát Nhã
Ba la mật có đủ
năng lực quan sát thấy biết như vậy, nên
đại Bồ Tát theo thọ mà
quan sát tu tập niệm trụ, đương lúc
cảm xúc các thọ : hoặc khổ hoặc vui hoặc chẳng khổ chẳng vui liền khéo
quan sát được các thọ
xuất ly, lại có thể làm cho
chúng sanh chứng được pháp thọ
biến trí tịch diệt.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng các
chúng sanh ấy vì có đủ
phiền não nên không có
trí huệ chẳng biết được các thọ
xuất ly. Lúc thọ vui họ sanh
tham ái , lúc thọ khổ họ sanh
sân khuể, lúc thọ chẳng vui chẳng khổ họ khởi
ngu si.
Chúng ta là hàng
Bồ Tát có
trí huệ, bao nhiêu
lỗi lầm do thọ đều đã dứt diệt, há lại đương lúc
cảm thọ mà sanh
phiền não. Nay tôi phải
phát khởi đủ
phương tiện thiện xảo và
đại bi để nhiếp các
chúng sanh, cho họ dứt diệt các xúc thọ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
Bồ Tát ấy do
nhơn duyên gì ở nơi các thọ mà nói chẳng thối đọa ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đó là ở các thọ có
trí huệ quan sát hay dẫn sanh vui mà chẳng dẫn
sanh khổ.
Trí huệ quan sát thế nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Bồ Tát quan sát trong ấy không năng thọ mà chỉ có thọ, đó là
chấp thọ,
nhiếp thọ, thủ thọ, hữu đắc thọ,
điên đảo thọ,
phân biệt thọ, kiến
phiền não thọ, chỉ có thọ do nhãn tưởng sanh, nhẫn đến thọ do
ý tưởng sanh, thọ do sắc tưởng sanh, nhẫn đến thọ do pháp tưởng sanh, và các thứ nhãn xúc nhẫn đến ý xúc sanh ra thọ, hoặc
nội pháp hoặc
ngoại pháp nhẫn các xúc
duyên sanh ra thọ, hoặc khổ hoặc lạc hoặc chẳng khổ chẳng lạc, các tướng như
vậy thì gọi là thọ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Chư Phật Như Lai phân biệt các thọ có
vô lượng tướng. Có lúc nói một thọ , đó là
nhứt tâm liễu biệt các cảnh. Hoặc nói hai thọ là nội và ngoại. Hoặc nói ba thọ là
quá khứ liễu biệt,
vị lai liễu biệt và
hiện tại liễu biệt. Hoặc nói bốn thọ là địa
thủy hỏa và phong
liễu biệt sai khác. Hoặc nói năm thọ là
tư duy năm uẩn. Hoặc nói sáu thọ là
phân biệt sáu xứ. Hoặc nói bảy thọ là bảy
thức trụ. Hoặc nói tám thọ là tướng tám tà phương
tiện. Hoặc nói chín thọ là chín chỗ ở của
chúng sanh. Hoặc nói mười thọ là mười
nghiệp đạo lành. Như vậy nhẫn đến
vô lượng tất cả các thọ. Theo
cảnh sở duyên, theo chỗ
tác ý có bao nhiêu thì có bấy nhiêu thọ. Nhưng chư
Như Lai nói thọ
vô lượng, tại sao, vì
chúng sanh vô lượng. Tùy các
chúng sanh đều riêng có
vô lượng thọ như vậy.
Đại Bồ Tát ở nơi thọ an trụ tùy thọ
quán thế nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát dùng trí
thanh tịnh phương tiện khéo nhiếp bao nhiêu thọ
sanh trụ dị diệt của tất cả
chúng sanh và khéo biết rõ bao nhiêu thọ trí của tất cả
chúng sanh thiện và
bất thiện. Nếu tùy quán như
vậy thì gọi là
quan sát đủ nơi thọ.
Đây gọi là
đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật ở nơi thọ theo thọ
quan sát tu tập thọ niệm trụ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật,
đại Bồ Tát ở nơi tâm theo tâm
quan sát tu tập tâm niệm trụ thế nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát không
vọng niệm, phòng thủ
giữ kín rời lìa
tán loạn,
quan sát nơi tâm
sanh diệt tan hư
niệm niệm chẳng dừng , ở trong ở ngoài chẳng trụ chẳng chuyển. Đây gọi là
đại Bồ Tát chánh
quan sát nơi tâm.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng tôi nhớ lúc tối sơ đã từng
phát tâm, các tâm ấy phát sanh rồi liền diệt nó ly tán
biến hoại chẳng biết được nó đến phương nào. Tôi lại có
vô lượng tâm chứa họp
thiện căn, nó sanh rời liền diệt đi tán
biến hoại không có
phương sở. Tôi lại có
vô lượng tâm tướng
hồi hướng Bồ đề mà tâm
thể tướng chẳng tự biết được làm sao tâm ấy nghĩ được rằng tôi sẽ chứng
vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì tâm thể ấy chẳng biết được tâm chẳng quán được tâm chẳng
thông đạt được
tự tâm vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng nếu tâm
Bồ đề do tâm
thiện căn mà không mất, thì tâm
thiện căn do tâm
hồi hướng mà không mê mất, nếu tâm
hồi hướng do
Bồ đề mà không mất thì
Vô thượng Bồ đề là không mất vậy.
Quan sát như vậy rồi, ở nơi mê mất,
đại Bồ Tát không e sợ và lại nghĩ rằng :
pháp duyên khởi ấy nhơn quả chẳng hư hoại. Dầu
tâm pháp tánh ấy không có
tự tánh không có
tác dụng, không có chủ thể, nhưng các pháp ấy
y chỉ nhơn duyên mà được
sanh khởi. Tôi phải
tùy theo chí nguyện mà chứa họp
thiện căn.
Đã chứa họp rồi tu
công hạnh tương ưng trọn chẳng bỏ rời
tâm pháp tánh ấy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! tướng chứa họp trong ấy thế nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát quan sát tướng chứa họp
như vầy : Bổn tánh tâm ấy như huyển hóa không có một
pháp bố thí được mà
tâm pháp tánh ấy hay
bố thí cho tất cả
chúng sanh hồi hướng chứa họp
trang nghiêm Phật độ, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm bổn tánh ấy như cảnh
mộng tướng nó
tịch tĩnh mà
tâm pháp tánh ấy hay
gìn giữ thi la đều
hồi hướng tác dụng thần thông, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm bổn tánh ấy như dương diệm
cứu cánh tận diệt mà
tâm pháp tánh ấy hay
tu tập tất cả
năng lực nhẫn nhục đáng
ưa thích hồi hướng trang nghiêm Bồ đề, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm bổn tánh ấy như trăng trong nước
cứu cánh xa rời tướng chứa họp mà
tâm pháp tánh ấy
phát khởi tất cả
chánh cần hồi hướng thành thục vô lượng Phật pháp, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm bổn tánh ấy chẳng thủ đắc được chẳng quan kiến được, mà
tâm pháp tánh ấy hay
tu tập tất cả
tĩnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề
hồi hướng chư Phật thắng
tam ma địa, đây gọi là chứa họp
thiện căn .
Quan sát tâm tánh ấy vốn chẳng phải
sắc tướng không kiến không đối chẳng rõ biết được, mà
tâm pháp tánh ấy hay
tu tập tất cả huệ
cú và trí thuyết
sai biệt hồi hướng viên mãn chư
Phật trí huệ, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm không sở duyên không
sanh không khởi, mà
tâm pháp tánh ấy
kiến lập được
vô lượng thiện pháp nhiếp thọ sắc tướng, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm không sở nhơn cũng không sở sanh, mà
tâm pháp tánh ấy hay
nhiếp thọ giác phần pháp nhân, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Tâm tánh xa rời sáu thứ
cảnh giới cũng chẳng
sanh khởi, mà
tâm pháp tánh hay dẫn phát
cảnh giới Bồ đề làm nhơn
sanh khởi tâm, đây gọi là chứa họp
thiện căn.
Đây gọi là
đại Bồ Tát do
y Bát Nhã
Ba la mật nên ở nơi tất cả tâm
tùy theo tâm
quan sát tu tập tâm niệm trụ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Do
y Bát Nhã
Ba la mật, nên
đại Bồ Tát ở nơi tất cả tâm trụ theo tâm
quan sát, vì cầu chứng được thắng
thần thông nên nhiếp cột tâm mình
tu tập thông trí, được
thần thông rồi chỉ dùng một tâm mà khéo biết được tất cả
tâm tướng, đã biết rõ rồi y nơi tâm tự thể mà tuyên nói các pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất ! An trụ
tùy tâm quán ấy,
đại Bồ Tát dùng sức đại bi chế ngự tâm mình để
thành thục chúng sanh không hề nhàm mỏi.
Do
Bồ Tát tùy tâm quán nên chẳng bị tâm tận chẳng bị
tâm diệt mà an trụ nơi tâm, chỉ khiến tâm xa rời
kiết phược sanh tử tương tục mà an
trụ tâm. Lại đem
năng lực chư
tâm niệm trí để an trụ nơi các
pháp không sanh không khởi tánh chánh
quyết định không thối đọa vào trong bực
Thanh Văn,
Độc Giác. Lại dùng
năng lực niệm trí ấy giữ tâm
tương tục đến thành mãn tất cả
Phật pháp, một
sát na tâm
tương ưng diệu huệ giác ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
đại Bồ Tát y Bát Nhã
Ba la mật ở nơi tất cả tâm theo tâm
quan sát tu tập tâm nìệm trụ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Lúc
tu hành Bát Nhã Ba la mật,
đại Bồ Tát ở nơi pháp
tùy theo pháp
quan sát tu tập pháp niệm trụ thế nào ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy dùng
thánh huệ nhãn nhìn thấy các
pháp nhẫn đến ngồi
đạo tràng, chặng giữa không hề mê mất.
Bồ Tát ấy ở nơi tất cả
pháp an trụ theo pháp
quan sát chẳng thấy chút pháp nào xa rời
không vô tướng
vô nguyện vô trụ vô khởi vô
gia hạnh. Lại
quan sát nữa chẳng thấy chút pháp nào xa rời
duyên khởi.
Đại Bồ Tát ấy do an trụ nơi
tùy pháp quán ấy nên chẳng
quán pháp và
phi pháp. Trong đây lấy gì làm pháp, đó là nghĩa
vô nghĩa gọi là nghĩa của pháp,
nghĩa không hữu tình không mạn giả không nhơn là nghĩacủa pháp. Lại lấy những gì làm nghĩa
phi pháp, đó là
ngã kiến hữu tình kiến mạn giả kiến nhơn kiến là nghĩa của
phi pháp,
đoạn kiến thường kiến hữu kiến vô kiến gọi là
phi pháp.
Tóm lại mà nói, tất cả các pháp hoặc gọi là pháp, hoặc gọi là
phi pháp. Nếu biết rõ được các pháp đều
không vô tướng
vô nguyện thì tất cả pháp đều gọi là pháp. Nếu kế
chấp ngã và
ngã sở cùng các kiến
phiền não thì tất cả pháp đều gọi là
phi pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát y Bát Nhã
Ba la mật an trụ
tùy pháp quán rồi chẳng thấy một pháp nào là chẳng phải
Phật pháp là chẳng phải Phật, là chẳng phải đạo, là chẳng phải
giải thoát, là chẳng phải
xuất ly. Đã biết các pháp đều là
xuất ly rồi,
đại Bồ Tát ấy lại được
đại bi vô chướng
quan sát bao nhiêu
phiền não của các
chúng sanh đều do
vọng tưởng mà phát sanh, biết các
phiền não thể tánh nó tự ly. Tại sao ? Vì các
phiền não đồng về nơi
liễu nghĩa, không có chút
phiền não nào tích được tập được, tùy quán như
vậy thì Bồ đề phiền não tánh là
Bồ đề tánh.
Bồ Tát ấy dầu an trụ niệm mà không chỗ an trụ, chẳng nhớ chẳng quên mà biết rõ được chỗ an trụ của niệm.Tại sao? Chỗ an trụ niệm tức là
pháp giới. Nếu an trụ
pháp giới thì tức là an trụ
hữu tình giới. Nếu an trụ
hữu tình giới tức an trụ
hư không giới. Do đây nên nói các pháp cùng
hư không bình đẳng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! An trụ
tùy pháp quán như vậy,
đại bồ Tát do y xu
Phật pháp nên tin hiểu các pháp tức là
Phật pháp. Dầu lại
phát khởi tận trí như vậy nhưng ở nơi
pháp vô vi tận diệt có thể chẳng
tác chứng. Dầu lại
phát khởi trí
vô sanh nhưng thương các
chúng sanh mà thọ sanh vẫn chẳng rời bỏ thiệt tế
vô sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy ở trong các pháp vì an trụ niệm nên
nhiếp thọ được khắp các pháp
nhị thừa. Dầu ở nơi tất cả
pháp giả lập an trụ nơi niệm, mà
chánh niệm ấy không
tán không thất nhẫn đến tận
hậu tế ở nơi tất cả các pháp
tùy theo pháp
quan sát tu tập niệm trụ, có thể đem
vô lượng ngôn thuyết sở thuyết những cảnh bất
bình đẳng mà
bình đẳng xu nhập tất cả
Phật pháp, hay khiến lòng tất cả
chúng sanh vui mừng, hay xô dẹp tất cả quân ma
kiên cố, do đó chứng được
tự nhiên đại trí.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ấy do
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên ở nơi tất cả pháp theo pháp
quán sát tu tập niệm trụ.
Đây gọi là bốn thứ niệm trụ
thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật phải nên
tu tập thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát tứ chánh cần thiện xảo?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do tu
bát Nhã Ba la mật nên đạo có bốn thứ. Những gì là bốn ?
Một là với pháp ác
bất thiện chưa sanh, vì chẳng sanh nên sanh
dục lạc dũng mãnh cố gắng phát siêng
tinh tấn nhiếp trì nơi
tâm bình đẳng an trụ.
Hai là với pháp ác
bất thiện đã sanh, vì dứt
vĩnh viễn nên sanh
dục lạc dũng mãnh cố gắng phát sanh
tinh tấn nhiếp trì nơi
tâm bình đẳng an trụ.
Ba là với
pháp thiện chưa sanh, vì
sanh khởi nên sanh
dục lạc dũng mãnh cố gắng phát siêng
tinh tấn nhiếp trì nơi
tâm bình đẳng an trụ.
Bốn là với
pháp thiện đã sanh , vì khiến còn chẳng quên
tu tập viên mãn nên sanh
dục lạc dũng mãnh cố gắng phát siêng
tinh tấn nhiếp trì nơi
tâm bình đẳng an trụ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Bốn thứ đạo ấy cũng gọi là bốn thứ chánh thắng, cũng gọi là bốn thứ
chánh cần tinh tấn vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo thắng thứ nhất ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nói rằng với pháp ác
bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nên sanh
dục lạc dũng mãnh cố gắng, đó là nói như lý
tác ý vậy. Còn nói phát siêng
tinh tấn, đó là nói chẳng bỏ như lý
tác ý vậy. Còn nói phát siêng
tinh tấn, đó là nói chẳng bỏ như lý
tác ý vậy. Còn nói nhiếp trì nơi
tâm bình đẳng an trụ, đó là như lý
quan sát vậy. Tại sao ? Vì do như lý
phương tiện nên pháp ác
bất thiện chẳng còn
hiện hành.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là pháp ác bất thiện? Do nghĩa gì mà pháp ác
bất thiện chẳng còn
hiện hành.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Pháp ác
bất thiện là những
pháp bị đối trị của giới
thi la, của định của huệ.
Thế nào gọi là bị
đối trị của giới?
Nói bị
đối trị đó là nói
phạm giới và những pháp phát xu hủy phạm
thi la, là những thứ bị
đối trị của các khối
diệu giới. Đây gọi là bị
đối trị của giới
Những gì gọi là bị
đối trị của định ? Đó là
vi phạm quỹ tắc và những pháp dẫn tâm tán lọan, những pháp
đối trị của các khối diệu định. Đây là bị
đối trị của định.
Những gì gọi là bị
đối trị của huệ ? Đó là hủy phạm
chánh kiến và những pháp hay dẫn những kiến triền chướng cái, bị
đối trị của các khối
diệu huệ. Đây gọi là bị
đối trị của huệ.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Các
pháp như vậy đều gọi là pháp ác
bất thiện. Nếu có những như lý
tác ý chẳng cho các pháp ác
bất thiện ấy được
sanh khởi, thì gọi là pháp ác
bất thiện chẳng còn
hiện hành.
Đây là
đại Bồ Tát chánh thắng thứ nhất.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo chánh thắng thứ hai ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu các pháp ác
bất thiện chứa họp nơi
tâm không phương
không xứ và các pháp ác
bất thiện hiện hành,
tâm giác quán
y chỉ nơi
nhơn duyên sở duyên cảnh mà được
sanh khởi. Thế nào gọi là duyên cảnh
sanh khởi ? Đó là nhơn tướng
tịnh diệu mà
khởi tâm tham, nhơn tướng tổn hoại mà
khởi tâm sân, nhơn tướng
vô minh mà
khởi tâm si. Bấy giờ
Bồ Tát liền an trụ như lý
tư duy như vầy : Do tướng
bất tịnh mà
tham dục tịch tĩnh, do tướng từ mẫn nên sanh
sân khuể tịch tĩnh, do tướng
duyên khởi nên
ngu si tịch tĩnh. Các
phiền não ấy dầu do như lý
tác ý nên dứt diệt hẳn nhưng
giả lập ngôn thuyết mà gọi là
tịch tĩnh. Còn thiệt
tịch tĩnh thì không gì có được khác mà chỉ là tánh
đoạn diệt bình đẳng.
Hiện quán các pháp, tức lấy pháp nầy mà gọi là chánh thắng. Đây là
đại Bồ Tát chánh thắng thứ hai.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo chánh thắng thứ Ba ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Về nghĩa của
pháp thiện,
văn cú vô lượng ; Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát vô lượng pháp thiện đều phải chứa họp, do đó mà
văn cú vô lượng.
Nầy
Xá Lợi Phất ! nên biết tất cả
thiện căn của
Bồ Tát lấy
lạc dục làm gốc, do
tinh tấn mà có thể chứa họp tất cả
thiện căn. Tại sao ? Vì do pháp ấy nhiếp trì an trụ nên tất cả
thiện căn đều được
cứu cánh. Đây gọi là
đại Bồ Tát đạo chánh thắng thứ ba.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo chánh thắng thứ tư ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! nghĩa ấy nên biết tức là
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì do
hồi hướng nên bao nhiêu
thiện căn đã có chẳng còn hư mất. Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát chẳng y
tam giới mà
phát tâm.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát đã chẳng y
tam giới mà
tu tập thiện căn lại còn
hồi hướng Nhứt thiết
chủng trí, nên biết bao nhiêu
thiện căn đã có thì là
cứu cánh vô tận vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát đạo chánh thắng thứ tư.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên
tinh tấn tu tập bốn đạo phần
thiện xảo như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào là
đại Bồ Tát năm phần đại thiện xảo?
Những gì là năm ? Đó là
tín căn,
tinh tấn căn,
niệm căn,
định căn và
huệ căn. Thế nào là
đại Bồ Tát tín căn?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát có bốn pháp tín :
Một là tin ở trong
sanh tử như vậy có
chánh kiến thế gian, do điều tin nầy mà
đại Bồ Tát nương ở
nghiệp báo dầu có đến phải
mất mạng cũng chẳng hề
tác ý gây tạo
ác nghiệp.
Hai là tin nơi những
Bồ Tát hạnh, do điều tin nầy mà
đại Bồ Tát tu
chánh hạnh chẳng hề khởi ý thích chứng
nhị thừa.
Ba là tin
thắng nghĩa liễu nghĩa duyên khởi thậm thâm như vậy, tất cả các
pháp không ngã không hữu tình chỉ là
giả lập do
ngôn thuyết, chỉ là
tướng không vô tướng vô nguyện, do điều tin nầy mà
chấp kiến hữu tình và các
phiền não chẳng còn
tăng trưởng.
Bốn là tin những
lực vô úy tất cả
Phật pháp , đã tin rồi thì rời lìa
nghi hoặc mà
tu tập tất cả
Phật pháp dã có.
Những tưởng như vậy goi là
đại Bồ Tát tín căn.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát tinh tấn căn ? Đó là những pháp được tín do
tinh tấn mà
sanh khởi, tức là lấy phap ấy mà gọi là
tinh tấn căn vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát niệm căn ? Đó là các pháp do sức
tinh tấn chứa họp rồi do sức
niệm căn mà chẳng hư mất tức là lấy pháp nầy mà làm
niệm căn vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát định căn ? Đó là các pháp đã do sức
niệm căn nên không hư mất , chính các pháp ấy do sức
định căn ở một
cảnh duyên, tức là lấy pháp nầy mà gọi là
định căn vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát huệ căn ? Đó là các pháp do sức
định căn nhiếp ở một duyên, các pháp ấy do sức
huệ căn mà thấy suốt
tỏ rõ nên gọi là
huệ căn vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát có đủ năm căn
tăng thượng ấy nối luôn không hở
tu hành chánh hạnh có thể mau
viên mãn tất cả
Phật pháp cũng mau xu nhập
nhãn lực thọ ký.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Ví như ngoại đạo ngũ thông tiên nhơn kia, nếu trong thai tạng hai hình
nam nữ còn chưa
sanh khởi thì tiên nhơn trọn chẳng
ký biệt cho họ.
Cũng vậy, nếu chư
Bồ Tát chưa đủ
thành tựu năm căn
tăng thượng nối luôn không hở ấy, thì
đức Như Lai trọn chẳng
thọ ký cho họ vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Những tưởng như vậy gọi là
đại Bồ Tát năm phần
đạo pháp.
Đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên có thể
tu tập năm phần đạo
thiện xảo như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát đạo
thiện xảo lại còn có năm phần. Đó là
tín lực,
tinh tấn lực,
niệm lực, dịnh lực và huệ lực.
Thế nào gọi là
đại Bồ Tát tín lực ? Các
Bồ Tát ấy
thắng giải thanh tịnh tín thọ quyết định kiên cố khó hư chẳng bị
chế phục.
Giả sử có
ác ma giả làm
tượng Phật đến chỗ
Bồ Tát để làm
chướng ngại muốn khiến
Bồ Tát ở nơi
chánh trí và
thắng giải thoát xa rời chẳng ưa, ma lại nói pháp ấy chẳng phải Phật
chánh giáo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Giả sử tánh
tứ đại chuyển biến lẫn nhau cũng trọn chẳng thể khiến
Bồ Tát đã
thành tựu tín lực thắng giải bị ma
ảo hoặc mà
tín lực bị lay động. Đây gọi là
đại Bồ Tát tín lực.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát tinh tấn lực ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát phát cần
tinh tấn phương tiện tu tập tất cả
thiện pháp , nơi đó được sức
kiên cố trụ trì , do
sức lực ấy , những sự được làm chưa đến
cứu cánh, không có tất cả
chư thiên hay
thế gian nào làm cho dời động được sức
trụ trì của
Bồ Tát ấy khiến chẳng ở tại bổn xứ . Đây gọi là
đại Bồ Tát tinh tấn lực vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát niệm lực ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát ở nơi các pháp ấy do niệm an trụ nên khiến
tâm an trụ không có gì làm dời động
tán loạn được. Do sức niệm
gia trì nên
đại Bồ Tát ấy có thể xô dẹp tất cả
phiền não mà không có gì chế phụ được niệm ấy. Đây gọi là
đại Bồ Tát niệm lực.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát dịnh lực ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát an trụ xa rời các chi thiền, dầu
quan sát tất cả
âm thanh các đạo
ngữ nghiệp và
âm thanh văn tự mà
vẫn có thể chẳng chướng sơ thiển.
Bồ Tát ấy dầu đem tất cả
thiện pháp như vầy tầm từ suy cầu
vô lượng pháp mà
vẫn có thể chẳng chướng
đệ nhị thiền.
Bồ Tát ấy dầu an trụ nơi
hoan hỉ được sanh mà
vẫn có thể chẳng chướng
đệ tam thiền.
Bồ Tát ấy dầu vì
thành thục tất cả
chúng sanh mà
nhiếp thọ chánh pháp chẳng trụ nơi xả mà
vẫn có thể chẳng chướng
đệ tứ thiền.
Bồ Tát an trụ bốn thứ
tĩnh lự ấy, tất cả
pháp bị đối trị của
tĩnh lự chẳng
thể chế phục được.
Bồ Tát ấy dầu an trụ
chánh định chẳng bỏ mà chẳng theo
định lực ấy thọ sanh . Đây gọi là
đại Bồ Tát định lực.
Lại nầy
Xá Lợi PHất ! Thế nào là
đại Bồ Tát huệ lực ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Sức
trí huệ ấy
kiên cố khó lay động. Tất cả
thế gian và
xuất thế chẳng có gì
chế phục được
trí lực ấy.
Bồ Tát đời đời sanh ra chỗ nào, nhẫn đến tất cả
chánh hạnh công nghiệp thiện xảo thế gian khó làm khó hiểu , mà
Bồ Tát ấy chẳng do thầy dạy đều
hiện tiền biết rõ tất cả.
Lại ở nơi pháp
xuất thế, đó là hay
cứu độ các
thế gian,
đại Bồ Tát do sức
trí huệ đều
nhiếp thọ được cả mà chẳng bị tất cả
thế gian trời người
chế phục. Đây gọi là
đại Bồ Tát huệ lực.
Các tướng như vậy gọi là
đại Bồ Tát năm phần đạo
thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã ba la mật nên
tinh cần tu tập năm phần đạo
thiện xảo như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát còn có bảy thứ
giác phần. Đó là niệm
giác phần,
trạch pháp giác phần,
tinh tấn giác phần hỉ
giác phần, an
giác phần,
đẳng trí giác phần và
xả giác phần.
Thế nào là
đại Bồ Tát niệm
giác phần ? Đó là chư
Bồ Tát y
do nơi sức
chánh niệm mà tùy giác các pháp,
quan sát các pháp, tầm tư các pháp, biết rõ các pháp,
giản trạch các pháp,
soi xét các pháp, do sứ
chánh niệm,
Bồ Tát tùy giác
thể tướng của các pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là trí
liễu đạt tự
thể tướng của tất cả pháp ? Đó là do dịnh lực của giác sát của pháp tu
thể tướng không.
Bồ Tát thông đạt thể tướng không ấy thì gọi là niệm
giác phần.
Thế nào gọi là
trạch pháp giác phần ? Đó là
Bồ Tát có trí
giản trạch tám vạn bốn ngàn
pháp tạng, theo các
pháp tạng ấy phải nên
giản trạch, như vậy gọi là
liễu nghĩa.
Liễu nghĩa ấy do
bất liễu nghĩa.
Bất liễu nghĩa ấy do
thế tục nghĩa.
Thế tục nghĩa ấy do nghĩa
thắng nghĩa. Nghĩa
thắng nghĩa do giả thi thiết. Giả thi thiết ấy do thắng
quyết trạch . Thắng
quyết trạch ấy gọi là
giản trạch.
Bồ Tát thành tựu giản trạch ấy thì gọi là
trạch pháp giác phần vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát tinh tấn giác phần?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tức ở nơi niệm trạch tấn hỉ
an định xả trí ấy,
đại Bồ Tát nhiếp thọ ưa vui
thế lực dũng mãnh,
lạc dục không lui giảm
tinh tấn cố gắng chẳng bỏ pháp lành , vì đạo
hiện quán mà
phát khởi chánh cần.
Bồ Tát thành tựu pháp quán
chánh cần như
vậy thì gọi là
tinh tấn giác phần.Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát hỉ
giác phần ?
Do vì
Bồ Tát ở nơi pháp sanh hỉ bèn
vui thích nơi pháp. Do
vui thích nơi pháp nên tâm chẳng
trầm lặng do tâm chẳng
trầm lặng nên phát sanh
thanh tịnh hỉ. Do hỉ
thanh tịnh nên
thân tâm an ổn rời lìa
phiền não. Đây gọi là hỉ
giác phần.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát an
giác phần ?
Bồ Tát do thân an nên được tâm an. Do tâm an nên dứt các
phiền não rời xa tất cả chướng cái. Nơi
cảnh sở duyên tâm ấy liền an trụ mà nhập các
chánh định .
Bồ Tát thành tựu pháp ấy thì gọi là an
giác phần.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát tam ma địa giác phần?
Bồ Tát dùng
định tâm ấy giác trú nơi pháp mà chẳng phải là tâm
bất định . Tại sao ? Vì nếu tâm được định mà giác trí các pháp thì chẳng hề
phát khởi các tà giác triền chướng
ái kiến v.v... chi trừ ở nơi thiệt tánh
bình đẳng của pháp,
tâm định xu nhập giác tri tánh
bình đẳng của tất cả pháp.
Bồ Tát thành tựu noi đây thì gọi là định
giác phần.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát xả giác phần ?
Bồ Tát hay thuận nơi
pháp hỉ duyệt tâm không chấp trước , nên các pháp
thế tục tâm chẳng
nhiếp thọ, chẳng cao chẳng hạ an trụ
bất động, không mừng không chán không yêu không giận, chỉ hay
tùy thuận tu tập thánh đạo. Đây gọi là
Bồ Tát xả giác phần.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát muốn ở nơi bảng
giác phần ấy
thông đạt thiện xảo , thì thích
tu hành Bát Nhã Ba la mật chuyên cần tu tập giác phần thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát có
tám thánh đạo phần. Đó là
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh
tam ma địa.
Thế nào gọi là
Bồ Tát chánh kiến ? Dó là
xuất thế kiến của
chư Hiền Thánh ? Kiến ấy chẳng phải
ngã kiến khởi, chẳng phải
hữu tình kiến khởi, chẳng phải mạng giả kiến khởi, chẳng phải chơn kiến khởi, chẳng phải
đoạn kiến khởi , chẳng phải
thường kiến khởi, chẳng phải
hữu kiến khởi, chẳng phải
vô kiến khởi, chẳng phải
thiện kiến khởi, chẳng phải
bất thiện kiến khởi, nhẫn đến chẳng phải
Niết bàn kiến khởi.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
Bồ Tát rời lìa những kiến ấy thì gọi là
Bồ Tát chánh kiến.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
Bồ Tát chánh tư duy ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu là
tư duy hay
phát khởi tất cả
phiền não tham sân si v.v...
Bồ Tát chẳng hề
phát khởi. Nếu là
tư duy hay sanh trưởng những khối
công đức giới định , huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến v.v...
Bồ Tát hằng thường phát khởi ? Đây gọi là
đại Bồ Tát chánh tư duy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
Bồ Tát chánh ngữ ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Ngữ ngôn của
Bồ Tát chẳng tự tổn não chẳng tổn não tha, chẳng
tranh cãi với
chúng sanh. Do
thành tựu ngữ ngôn ấy mà
Bồ Tát hay nhập chứng
thánh đạo nên gọi là
Bồ Tát chánh ngữ.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát chánh nghiệp ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát chẳng hề tạo tác những
hắc nghiệp hay cảm hắc báo. Nếu là những nghiệp hay cảm báo bạch tịnh , nếu là nghiệp hay dứt hết tất cả nghiệp ,
Bồ Tát phương tiện phát khởi và lấy những nghiệp ấy làm
sự nghiệp của mình. Nương nghiệp ấy,
Bồ Tát phương tiện tu nghiệp
bình đẳng. Đây gọi là
Bồ Tát chánh nghiệp.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát chánh mạng ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát bao nhiêu
thánh chúng đã có ,
công đức đầu đà, chẳng siễm cầu chẳng lừa dối, với sự khất cầu
tánh không quan thiết, dễ đủ dễ nuôi, với
luật nghi thì kính thờ
tu hành chẳng lười biếng, với
lợi dưỡng của người thì chẳng
ganh ghét, với
lợi dưỡng của mình thì biết
vừa đủ, với chỗ Phật khai cho thì chẳng
nhiễm trước lắm mà thường
thanh tịnh tự giữ hạnh
chánh mạng. Đây gọi là
Bồ Tát chánh mạng.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát chánh tinh tấn ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu là những
tà đạo những
phiền não tham sân si v.v... mà
phát khởi tinh tấn thì
Bồ Tát chẳng hề
ưa thích . Nếu là những
chánh cần nhiếp trong
thánh đế, xu
nhập thánh đạo, hay đến
Niết bàn, dẫn phát
chánh hạnh thì
Bồ Tát ưa thích tu học phát khởi tinh tấn . Đây gọi là
Bồ Tát chánh tinh tấn .
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát chánh niệm ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Có những niệm rất
thiện tánh chẳng
hạ liệt làm cho tâm lành
chánh trực không tà khúc, hay
quan sát lỗi hại của
sanh tử, hay làm
con đường về
đại Niết bàn. Nếu chư
Bồ Tát giữ luôn được những niệm ấy khiến chẳng quên mất
thánh đạo thì gọi là
Bồ Tát chánh niệm.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát chánh
tam ma địa ?
Nầy
Xá Lợi Phất !
Tam ma địa là, nếu ở nơi chánh tánh
bình đẳng thì ở nơi tất cả
pháp bình đẳng , chư
Bồ Tát an trụ
tam ma địa ấy rồi vì muốn
giải thoát tất cả
chúng sanh nên
xu nhập chánh tánh.
Chánh định ấy là
vô tận đạo mà
tam thế chư Phật tuyên nói khai thị cho chư
Bồ Tát chứng
hiện quán. Đây gọi là
đại Bồ Tát chánh định.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Đây gọi là
đại Bồ Tát tám thánh đạo phần.
Chư đại Bồ Tát nếu muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật, thì nên siêng tu
tám thánh đạo phần như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên
tu học đạo
thiện xảo. Đạo
thiện xảo ấy còn có hai thứ : đó là
xa ma tha và
tỳ bát xá na.
Thế nào gọi là
xa ma tha đạo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát tâm
an tĩnh, rất tột
tịch tĩnh,
tối thắng tịch tĩnh, không
tán loạn, các căn
điềm đạm, chẳng điệu cử, không tháo nhiễu, không
hôn trầm ,
an tĩnh giũ kín không siễm khúc, điều thuận siêng giỏi, ưa thường ở
một mình rời lìa huyên náo thích hạnh
viễn ly, thân không nhiễm trần,
tâm không mê loạn, nơi môn
tịch tĩnh tư duy tác ý rời các dục không
hy vọng, xa các đại dục,
vui thích trí túc,
chánh mạng thanh tịnh ,
chánh hạnh viên mãn,
giữ kín oai nghi biết thời biết phần dễ nuôi dễ đủ, khéo biết chừng
lượng thường ưa
tư duy quan sát không cao không hạ, tánh hay nhịn chịu được lời thô
tiếng xấu, nơi môn
tương ưng thì
phát tâm an trụ, ưa ở nhà rảnh vắng, nơi phần
tĩnh lự thì
tác ý duyên niệm,
sanh khởi đại từ dẫn phát
đại bi, an trụ
đại hỉ,
tu tập đại xả, từ
sơ thiền đến
bát định thủ đệ
chứng nhập. Đây gọi là
Bồ Tát xa ma tha đạo.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Lại còn có
vô lượng xa ma tha chánh hạnh. Chư
Bồ Tát ở nơi những
tư lương chánh hạnh ấy
phương tiện xu nhập , như vậy lại gọi là
Bồ Tát xa ma tha đạo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là
tỳ bát xá na đạo ?
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát ở nơi
diệu huệ phần mà
tu tập thánh đạo. Trong các pháp,
Bồ Tát phát khởi vô tác quán trí, lại
phát khởi vô ngã quán trí,
vô hữu tình
quán trí, vô mạng
giả quán trí, vô nhơn
quán trí . Trong các uẩn,
phát khởi pháp
quán trí , trong các giới
phát khởi pháp giới quán trí , trong các xứ
phát khởi không quán trí, trong các nhãn
phát khởi chiếu
liễu quán trí, trong
duyên khởi phát khởi bất
tương vi quán trí, nơi các
chấp kiến phát khởi viễn ly quán trí, nơi các nhơn quả
phát khởi nghiệp báo quán trí, nơi quả đáng được
phát khởi tác chứng quán trí, nơi chánh tánh được nhập
phát khởi xu
nhập quán trí.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Tỳ bát xá na là ở trong các pháp
phát khởi như lý kiến, chơn thiệt kiến,
bất biến dị kiến,
không kiến,
vô tướng kiến,
vô nguyện kiến.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Tỳ bát xá na là chẳng phải do nhơn có mà quán, chẳng phải do nhơn mà quán, chẳng phải do
sanh trụ diệt mà quán, chẳng do nhơn
hữu sở đắc mà quán.Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát ở nơi các nhơn ấy đều không chỗ thấy, mà lại
quan sát chẳng thấy mà thấy, thấy mà chẳng thấy.
Nầy Xá Lơi Phất ! Nếu
chư đại Bồ Tát khởi quán như
vậy thì gọi là như thiệt quán, là chơn thiệt quán,, cũng gọi là chứng được
tỳ bát xá na thiện xảo phương tiện.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát ở trong quán nầy dầu
phát khởi quán giải như
vậy mà chẳng sa vào chỗ không làm, cũng chẳng xa rời
thiện căn gia hạnh. Đây gọi là
đại Bồ Tát tỳ bát xá na.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát nhã Ba la mật nên
tinh cần tu tập xa ma tha,
tỳ bát xá na đạo pháp thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi !
Đạo tràng của
đại Bồ Tát tu hành như vậy, nếu nói lược thì chỉ có một xu đạo
thiện xảo. Đó là
đại Bồ Tát riêng lộ giữa
đại chúng không ai bằng chẳng nhờ bạn giúp vì chứng
Vô thượng Bồ đề nên do mình tiếp thọ
thế lực tinh tấn dục giải
thanh tịnh mà mặc áo giáp
kiên cố. Tại sao ? Vì
đại Bồ Tát chẳng do người mà
giác ngộ, chẳng duyên nơi người, tự mình
xây dựng tự lực phát khởi quan niệm rằng áo giáp ấy tất cả
chúng sanh chẳng ai mặc được, chỉ riêng tôi mặc, áo giáp ấy tất cả
Hiền Thánh hàng tấn
phát ý và chư
Bồ Tát chưa an trụ chánh vị chưa từng được mặc, nay riêng tôi mặc.
Bồ Tát lại nghĩ rằng nay tôi trang bị thế nầy há lại để
bố thí tự tại độ tôi, mà tôi phải
tự tại độ
bố thí ấy, há lại để những
trì giới nhẫn nhục tấn định
Bát Nhã tự tại độ tôi, mà tôi phải
tự tại độ trì giới nhẫn tấn định
Bát Nhã ấy.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng nay tôi lại để
Ba la mật phát khởi tôi, mà tôi phải
phát khởi Ba la mật, nhẫn đến tất cả
thiện căn đều sẽ nhơn nơi tôi mà được
phát khởi, chẳng để
thiện căn phát khởi tôi. Nếu
chư đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy chẳng nhờ bạn giúp tự có thể
xây dựng tôi là độc nhứt không ai bằng, tôi sẽ ngồi tòa
kim cương kiên cố thù thắng dùng
thế lực mình xô dẹp quân ma, dùng một
sát na tương ưng huệ chứng
Vô thượng Bồ đềNầy
Xá Lợi Phất ! Nếu
đại Bồ Tát phát khởi dục giải
phương tiện quyết định quan sát như
vậy thì gọi là
đại Bồ Tát phát một đạo
thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát vì muốn tu hạnh
Bát Nhã Ba la mật nên
tu tập phát xu một đạo
thiện xảo như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Chư
Bồ Tát y Bát Nhã
Ba la mật tu tập duyên khởi , ở
tịnh thất kín
suy nghĩ như vậy : khối thuần khổ lớn của
thế gian như vậy, từ chỗ nào mà nó được tập họp
phát khởi ? Liền tự biết khối khổ ấy do
tác ý bất như lý
tập khởi nên
vô minh do
vô minh tập khởi nên hành
tập khởi , do các hành
tập khởi nên các thức
tập khởi, do thức
tập khởi nên
danh sắc tập khởi, do
danh sắc tập khởi nên luc xứ
tập khởi , do
lục xứ tập khởi nên các xúc
tập khởi, do xúc
tập khởi nên các thọ
tập khởi, do thọ
tập khởi nên các ái
tập khởi, do ái
tập khởi nên các thủ
tập khởi, do thủ
tập khởi nên các hữu
tập khởi, do hữu
tập khởi nên sanh
tập khởi, do sanh
tập khởi nên
lão tử ưu sầu bi khổ bức não đều
tập khởi.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng dầu các pháp ấy
tập khởi như vậy nhưng là
vô tác vô dụng không có
chủ tể. Các pháp ấy
thập thiện làm nhơn,
bất động làm nhơn,
Niết bàn làm nhơn, các pháp ấy do
duyên sanh khởi cũng không có
chủ tể. Nếu là các
chúng sanh ,
hạ căn làm nhơn ,
trung căn làm nhơn ,
thượng căn làm nhơn , các nghiệp làm nhơn, nhơn quả lưu
chuyển cũng làm
chủ tể.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả bao nhiêu
pháp như vậy do
nhơn duyên hòa hiệp mà được
tập khởi,
đại Bồ Tát đều biết rõ cả. Đây gọi là
duyên khởi thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng do gì diệt mà các pháp nầy dứt diệt ? Liền tự biết rằng do bất như lý
tác ý diệt nên
vô minh diệt, do
vô minh diệt nên các hành diệt , do các hành diệt nên các thức diệt, nhẫn đến do
sanh diệt nên
lão tử ưu bi khối thuần khổ lớn diệt. Có trí biết như đây gọi là
duyên khởi thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng nhơn y nơi
chánh pháp y chỉ các duyên
y chỉ hòa hiệp mà được tu các
thiện pháp.
Thiện pháp ấy đã
y chỉ hòa hiệp
y chỉ các duyên thì nó chẳng y nơi ngã nó chẳng
y chỉ nơi
hữu tình nơi
thọ mạng nơi nhơn, như
vậy thì các pháp lành ấy chẳng cân lường được. Như
lý quán sát như
vậy thì gọi là
duyên khởi thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát lại
quan sát tất cả
Phật pháp đều là tướng
Bồ đề, là tướng do duyên
phát khởi ,
quan sát các
duyên khởi, đều là tướng tận diệt. Do vì hay
quan sát chẳng bỏ
chúng sanh nên chẳng xu nhập vào
cứu cánh tịch diệt. Đây cũng gọi là
duyên khởi thiện xảo vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất !
Chư đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên
tu tập duyên khởi thiện xảo như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
đại Bồ Tát nhứt thiết
pháp thiện xảo ?
Này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ Tát do
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên ở nơi tất cả pháp nhiếp khắp tất cả
hữu vi và
vô vi.
Đại Bồ Tát nên
tu thiện xảo nơi tất cả pháp ấy.
Này
Xá Lợi Phất ! Thế nào là
Bồ tát hữu vi thiện xảo? Đó là
thân hành diệu thiện, ngữ hành diệu thiện, ý hành diệu thiện, đây gọi là
hữu vi thiện xảo.
Thế nào là
vô vi thiện xảo? Tức là đem thân ngữ ý
hành thiện xảo ấy
hồi hướng cứu cánh vô vi Bồ đề,
hồi hướng diệu quán vô vi Bồ đề , lại
hồi hướng nhất thiết chủng trí. Đây gọi là
vô vi thiện xảo.
Lại này
Xá Lợi Phất !
Đại Bồ tát hữu vi thiện xảo tức là tích tập năm
Ba la mật:
Bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn và tĩnh tự
Ba la mật. Nếu do trí
vô vi Bát Nhã Ba la mật thì năm
ba la mật ấy chẳng đè phá được
diệu trí này, lại còn có thể tích tập được các
ba la mật thì các
ba la mật tư lương thiện pháp,
tín giải vô lậu Vô thượng Bồ đề và
hồi hướng Nhứt thiết
chủng trí. Đây gọi là
vô vi thiện xảo.
Lại này
Xá Lợi Phất :
Đại Bồ Tát hữu vi thiện xảo là dùng ánh sáng
vô ngại chiếu các
chúng sanh, dùng
tứ nhiếp pháp nhiếp các
chúng sanh, đây gọi là
hữu vi. Nếu
quan sát các
pháp vô ngã vô hữu tình vô thủ vô chấp, ở nơi
tứ nhiếp pháp phương tiện thiện xảo mến thích tin nhận những
trí quán vô vi và
hồi hướng Nhứt thiết
chủng trí. Đây gọi là
vô vi thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát hữu vi thiện xảo là chẳng đoạn dứt kiết tục hay khiến
sanh tử tương tục mà lại dứt đoạn hẳn
phiền não hay khiến
sanh tử tương tục. Nhiệm vận
chấp trì tướng phược
Bồ đề kiết phược, một phần
kiết phược chẳng còn
hiện hành. Đây gọi là
hữu vi thiện xảo. Nếu lại
tu tập các
pháp chánh trí
như không,
vô tướng,
vô nguyện,
vô tác, vô khởi,
hiện quán thiện xảo Vô thượng Bồ đề chẳng do
tha duyên mà tự
tác chứng nơi
pháp vô vi. Đây gọi là
vô vi thiện xảo.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát hữu vi thiện xảo là
chư đại Bồ Tát đi trong
tam giới mà chẳng bị
tam giới ô nhiểm. Còn
đại Bồ Tát dầu có
thông đạt tất cả pháp
xuất ly tam giới mà chẳng trụy đọa trong
xuất ly giới, thì gọi là
vô vi thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nhứt thiết
pháp thiện xảo thì gọi là Nhứt thiết chủng
trí. Nếu
đại Bồ Tát viên mãn chứng nhập Nhứt thiết
chủng trí thì tất cả
thời gian trí huệ thiện xảo, đây gọi là nhứt thiết
pháp thiện xảo.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên
tu tập nhứt thiết
pháp thiện xảo như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát y nơi
Bồ Tát tạng vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên
y theo huệ
phân biệt thiện xảo thong
đạt tu tập mười thứ
thiện xảo như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là
đại Bồ Tát diệu huệ? Thế nào là nghĩa
Ba la mật !
Nầy
Xá Lợi Phất ! Huệ hay
hiểu rõ tất cả pháp lành là hiện
kiến huệ vì
tùy thuận thông đạt tất cả pháp. Là chơn lượng huệ vì như thiệt
thông đạt tất cả pháp. Là
thông đạt huệ vì tất cả chỗ thấy đến các pháp
phiền trược chẳng làm
chướng ngại. Là ly
nguyện huệ vì xa rời tất cả nguyện
dục cầu. Là an duyệt huệ , vì dứt hẳn tất cả các
nhiệt não. Là
hoan hỉ huệ vì duyên
pháp hỉ lạc không
đoạn tuyệt. Là y xu huệ vì ở nơi các
nghĩa trí đều hiện thấy. Là
kiến lập huệ vì
kiến lập tất cả pháp giác phẩm. Là chứng tướng huệ vì
tùy theo thừa được tu mà chứng được
đạo quả. Là liễu tướng huệ vì khéo chìếu rõ được trí tánh ấy. Là
tế độ huệ vì
cứu độ tất cả các
bạo lưu. Là xu nhập huệ vì hay xu nhập
pháp chánh tánh
vô sanh. Là sách lệ huệ vì chấn phát tất cả các pháp lành . Là thanh trừng huệ vì rời
xa lìa phiền não trược. Là
tối thắng huệ vì trèo lên đảnh tất cả pháp. Là
vi diệu huệ vì dùng trí
tự nhiên tùy giác các pháp. Là ly hành huệ vì không còn
tạp nhiễm pháp
tam giới. Là
nhiếp thọ huệ vì là của
hiền thánh nhiếp thọ. Là đoạn
nguyện huệ vì trừ khiến tất cả tướng
phân biệt. Là xả dật huệ vì xa rời tất cả
ngu si hắc ám. Là
phương tiện huệ vì an trụ chỗ
thành tựu của tất cả
du già sư địa. Là phát xu huệ vì sẽ an trụ nhứt thiết
chánh trí đạo. Là chiếu
minh huệ vì
trừ diệt tất cả màn lòa tối
vô minh bạo lưu. Là thí nhãn huệ vì khai đạo tất cả như mặt sáng. Là
vô lậu huệ vì
huệ nhãn siêu quá đường tà tịch. Là
thắng nghĩa huệ vì chiếu rõ
đại thánh đế ấy. Là vô biệt huệ vì khéo điều thuận. Là
quang minh huệ vì là cửa của các trí. Là
vô tận huệ vì khắp tất cả chỗ tùy hành chiếu soi. Là vô diệt huệ vì thường thấy rộng. Là
giải thoát đạo huệ vì dứt hẳn tất cả
chấp thủ. Là bất ly xứ huệ vì chẳng đồng ở với tất cả
phiền não chướng pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Huệ tướng ấy nay Phật lược nói, nên biết
đại Bồ Tát còn có
vô lượng vô biên huệ. Tại sao ? Như bao nhiêu
tâm hành mà tất cả
chúng sanh có, thì nên biết
đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu
huệ nghiệp trí hành. Như tất cả
chúng sanh có bao nhiêu dục giải, nên biết
đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu
trí huệ quan sát. Như tất cả
chúng sanh có bao nhiêu
phiền não, nên biết
đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu
quảng đại huệ. Như tất cả
Thanh Văn,
Độc Giác và
Đẳng Giác có bao nhiêu
biến trí, nên biết
đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu chỗ huệ sở hành.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả huệ xứ như vậy,
chư đại Bồ Tát ở trong ấy đều
tinh cần tu học. Đây gọi là
đại Bồ Tát diệu huệ vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là nghĩa
Ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nhẫn đến tất cả chỗ biết các pháp diệu thiện được đến bờ kia, nên biết đều là nghĩa
Ba la mật ;
Nầy
Xá Lợi Phất ! Tất cả huệ cú đã rộng nói ở trên, nên biết đều là nghĩa
Ba la mật.
Chư đại Bồ Tát tu hành nghĩa
sai biệt viên mãn, nên biết đều là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa Nhứt thiết
chủng trí viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa không chấp trước tất cả
pháp hữu vi vô vi, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa khéo
giác ngộ được
tội lỗi lớn của
vô lượng sanh tử, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa hay
khai ngộ bất giác nơi tất cả pháp, là nghĩa
Ba la mật.
Hay khai thị pháp bữu tạng nghĩa
vô cùng tận, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa vô chướng
giải thoát viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Giác ngộ nghĩa
bình đẳng của thí
giới nhẫn tấn
định huệ, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa
tối thắng quyết trạch thiện xảo, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa đi khắp
chúng sanh giới, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa
vô sanh pháp nhẫn viên mãn, là nghĩa
Ba la mật .
Nghĩa
bất thối chuyễn địa
cứu cánh viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa thanh tịnh
tu trị chư
Phật độ, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa
thành thục tất cả
chúng sanh, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa qua đến
đạo tràng lên ngồi tòa
Bồ đề, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa
cứu cánh xô dẹp tất cả quân ma, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa tất cả
Phật pháp đều
viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa chánh an trụ
pháp môn sai biệt Bồ Tát tạng, là nghĩa
Ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Ở nơi
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng chánh tu
giác ngộ rồi,
đức Phật nói đó đều được
cứu cánh nơi tất cả
Ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
thiện nam tử thiện nữ nhơn an trụ
Đại thừa phải nên
thỉnh cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng rồi
thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa lý giảng dạy
mọi người. Tại sao? Vì nếu có ai ở nơi kinh
Bồ Tát tạng mà ân trọng lắng nghe
thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa lý giảng dạy
mọi người, thì người ấy
quyết định được mười thứ
công đức xưng tán lợi ích. Những gì là mười ?
Một là những chỗ được sanh đều
cứu cánh thông đạt tất cả công xảo nghiệp
vi diệu.
Hai là sanh tại xứ nào đều ở dòng tộc cao vinh vọng đương đời.
Ba là sanh tại xứ nào đều có oai nghiêm lớn
thế lực tự tại.
Bốn là có
lời nói ra
mọi người đều tin phục nghe theo.
Năm là sanh tại xứ nào đều được
giàu sang lớn.
Sáu là sanh tại xứ nào đều được trời người thường kính mến.
Bảy là sanh trong người thì làm Chuyễn
Luân Vương được
đại tự tại.
Tám là sanh
cõi trời thường làm
Thiên Đế Thích.
Chín là nếu sanh cõi sắc thì làm
Đại Phạm Vương.
Mười là sanh làm chỗ nào thường chẳng xa rời tâm
Bồ đề.
Lại nầy
Xá Lợi Phất !
Thiện nam tử thiện nữ nhơn ấy lại còn được mười thứ
công đức xưng tán lợi ích. Những gì là mười ?
Một là chẳng tạp loạn với tà luận
ngoại đạo luận.
Hai là chẳng
phát khởi ngã kiến.
Ba là không có
hữu tình kiến.
Bốn là không có mạng giả kiến.
Năm là không có sát thủ thú kiến.
Sáu là không
phát khởi đoạn kiến.
Bảy là không
phát khởi thường kiến.
Tám là lòng không có cập tất cả sự đời.
Chín là hằng
phát tâm thù thắng thích muốn
xuất gia.
Mười là nếu nghe
kinh điển thi mau
thọ trì ngộ hiểu thâm nghĩa.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Người
thọ trì nhẫn đến giảng dạy kinh
Bồ Tát tạng nầy còn được mười thứ
công đức xưng tán lợi ích. Những gì là mười ?
Một là
thành tựu chánh niệm.
Hai là
thành tựu chánh giác.
Ba là
thành tựu chánh xu.
Bốn là
thành tựu chí dũng.
Năm là
thành tựu chánh huệ.
Sáu là được đủ không
chướng nạn.
Bảy là nhớ sự việc các đời trước.
Tám là tánh mỏng
tham dục không tham mạnh nhiều chẳng bị tham nặng nhiễu loạn
khổ não.
Chín là tánh mỏng tham sân không sân mạnh nhiều chẳng bị sân nặng nhiễu loạn
khổ não.
Mười là tánh mỏng
ngu si không si mạnh nhiều chẳng bị
ngu si nặng nhiễu loạn
khổ não.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Các người ấy còn được mười
công đức lợi ích. Những gì là mười ?
Một là
thành tựu cơ tốc huệ.
Hai là
thành tựu thiệp biện huệ.
Ba là
thành tựu mãnh lợi huệ.
Bốn là
thành tựu tấn tật huệ.
Năm là
thành tựu quảng bác huệ.
Sáu là
thành tựu thậm thâm huệ.
Bảy là
thành tựu thông đạt huệ.
Tám là
thành tựu vô trước huệ.
Chín là thường
hiện tiền thấy chư
Như Lai và dùng lời đẹp
ca ngợi Phật.
Mười là khéo như lý thỉnh hỏi Phật, lại hay như lý khai
thích nghi vấn.
Lại nầy
Xá Lợi Phất ! Các người ấy lại còn được mười
công đức. Những gì là mười ?
Một là thường muốn xa rời các
bất thiện hữu.
Hai là thường thích thân cận với các
thiện trí thức.
Ba là hay tháo các thứ
trói buộc của ma.
Bốn là hay dẹp trừ các quân trận của ma.
Năm là hay khéo quở chán tất cả phiền nảo.
Sáu là với tất cả hành lòng luôn rời bỏ.
Bảy là vì bội tất cả
con đường hướng đến
ác đạo.
Tám là hướng về tất cả đường đến
Niết bàn.
Chín là khéo nói tất cả hạnh
bố thí thanh tịnh vượt qua sanh tử.
Mười là hay khéo theo học tất cả quỹ tắc của
Bồ Tát làm , lại hay
phụng hành lời chư Phật dạy.
Nầy
Xá Lợi Phất ! Nếu có
thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi
pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nầy mà có thể ân trọng lắng nghe
thọ trì đọc tụng nghiên tầm
nghĩa lý thông đạt rõ ràng lại giảng dạy
mọi người, nên biết những người ấy được những
công đức xưng tán lợi ích như trên ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Người thông sáng có huệ
vô biênHay khéo
thông đạt pháp và nghĩa
Văn từ tôn thắng khéo tròn đủ
Do
thọ trì được
kinh vương nầy
Thường được giàu nhiều tạng pháp bửu
Hằng vui đẹp dạ làm
pháp thíPhát sanh sự vui
tối thượng thắng
Do
thọ trì được
kinh vương nầy
Nhiều
chúng sanh nghe
thuyết pháp ấy
Chứng
công đức thắng rộng lớn nầy
Phật sẽ tuyên bày
công đức ấy
Như người trì kinh đã được có
Người được
huệ tối thắng như đây
Ở nơi
chánh pháp không hề hư
Do niệm phát sanh trí
vi diệuNói chỗ nương của
vô thượng trí
Siêng cầu khéo nói câu
chánh phápChỗ được
ngợi khen của
chúng thánhThường nghe
phát khởi hạnh siêu thắng
Do trì đọc
giảng kinh vương nầy
Người trí nghe rồi trì thâm nghĩa
Ở nơi
văn cú không
vọng chấpThường theo
nghĩa lý để
quán chiếuTăng trưởng diệu trí vô biên nghĩa
Vô biên diệu trá
vô biên nghĩa
Nghĩa giải đệ nhứt khó nghĩ bàn
Đi khắp
mười phương rộng khen ngợi
Nghe kinh được lợi không
cùng tậnRất khéo làm mỏng
tham sân siMau được
đệ nhứt tâm thanh tịnhDo nghe kinh
Bồ Tát tạng nầy
Công đức thắng lợi vô biên tếDầu được thắng tài không
phóng dậtSo lý với của gì
kiên cốBiết thấu của đời chẳng bền thiệt
Không luyến của đời đi
xuất giaRa đến chỗ vắng ở
núi rừngHôn trầm kia thường xa rời hẳn
Lắng nghe
tịnh pháp không hề nhàm
Chánh giáo tĩnh lự không lẫn tiếc
Thỉnh hỏi
quyết nghi nơi
Đạo SưNghe rồi vì người dạy rộng lại
Do đây
tăng trưởng trí
vi diệuNơi pháp bạch
tịnh không hề mất.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Chư đại Bồ Tát vì muốn
tu hành Bát Nhã Ba la mật nên ở nơi
kinh điển đại Bồ Tát tạng nầy
tinh tấn tu học thật hành
Bồ Tát hạnh.
Đây gọi là
đại Bồ Tát ở nơi
Bát Nhã Ba la mật phương tiện tu học pháp yếu”.
Pháp Bồ Tát tạng
Phẩm Bát Nhã Ba la mật
Thứ mười một
Hết