Thiền Tông Việt Nam

[Trang chu] [Kinh sach]

HOA V� ƯU

(Tập I)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


ĐỨC TỰ T�N CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

 

Đề t�i ch�ng t�i giảng h�m nay l� Đức tự t�n của người Phật tử. Nếu x�t tận gốc của đạo Phật, ch�ng ta phải hiểu đạo l� phương ph�p, l� con đường, Phật l� gi�c ngộ. Ch�ng ta tu theo đạo Phật l� tiến tr�n con đường gi�c ngộ, m� tiến tr�n con đường gi�c ngộ th� phải c� tr� tuệ.

Tr� tuệ kh�ng đi đ�i với l�ng tin, nhưng tại sao ở đ�y t�i n�i đức tin của đạo Phật? Bởi v� qua bao nhi�u năm l�m Phật sự ở miền Nam, đi giảng dạy v� li�n hệ c�c nơi t�i thấy Phật tử ch�ng ta gần đ�y dường như l� mất l�ng tự t�n. Tự t�n tức l� tin m�nh, m� đức tin trong đạo Phật l� đức tự t�n, chứ kh�ng phải đức tin để cầu xin ở b�n ngo�i.

Người tu theo đạo Phật l� phải dẹp bỏ những thứ phiền n�o căn bản như: tham, s�n, si, mạn, nghi, �c kiến. Dẹp được phiền n�o mới c� c�ng phu tu h�nh. Nhưng muốn dẹp phiền n�o ch�ng ta phải dẹp hay cầu xin Phật dẹp gi�m ch�ng ta.

T�i thấy nhiều Phật tử đến trước b�n Phật thắp hương khấn nguyện, nguyện Phật gia hộ cho con được ti�u trừ phiền n�o, nhưng Phật c� thể l�m cho ta sạch phiền n�o được kh�ng? Hay l� ch�ng ta phải tự phủi, tự dẹp, phải đập ph� cho n� ti�u tan. Ch�ng ta nguyện đem hết sức mạnh của m�nh ti�u diệt c�c thứ phiền n�o? Chứ Phật l�m sao gi�p được.

Nếu ch�ng ta ra đường thấy c�i b�p rơi, l�ng tham dấy l�n, đưa tay ra lượm th� l�m sao Phật can thiệp kịp phải kh�ng? Ngay l�c ấy chỉ c� lương tri, tr� tuệ của m�nh mới chặn đứng, mới ngăn cản được l�ng tham. Như vậy phiền n�o ở nơi m�nh, th� cũng ch�nh m�nh l� chủ nh�n �ng ti�u diệt n�, chớ kh�ng phải cầu xin nơi đức Phật hoặc vị thần linh n�o kh�c.

Như vậy Phật tử tu cứ cầu Phật cho m�nh hết phiền n�o l� đ�ng hay sai, l� tự tin hay kh�ng tự tin? Tin Phật chứ kh�ng phải tin m�nh. M� chỉ tin Phật th� ch�ng ta đ� mất tự t�n rồi. Phật dạy ch�ng ta dẹp phiền n�o để chứng Bồ-đề, nhưng ch�ng ta kh�ng dẹp phiền n�o th� Bồ-đề l�m sao chứng được.

Qu� đạo hữu, qu� Phật tử nữ đi ch�a thắp hương thường cầu xin điều g�? Xin Phật cho l�m ăn ph�t t�i, cho con thi đậu, cho gia đ�nh hạnh ph�c, cho con được mọi người thương mến v. v... m� những điều đ� Phật cho được kh�ng? L�m sao cho được, bởi ch�ng ta kh�ng tự t�n, kh�ng tin ở m�nh, m� chỉ tin ở Phật. Nhưng Phật đ� n�i, đ� tuy�n bố hẳn hoi rằng: "Ta kh�ng c� quyền ban phước gi�ng họa cho ai". Phật kh�ng c� quyền ban phước gi�ng họa m� ch�ng ta xin th� l�m sao đ�y? Đ� l� điều hết sức rắc rối.

Phật dạy dẹp phiền n�o th� t�m an tịnh, dẹp phiền n�o th� hết khổ đau m� m�nh kh�ng chịu dẹp, cứ cầu cho m�nh hết khổ, cho m�nh được nhẹ nh�ng thảnh thơi, l�m sao m� được. Đ� l� điều m� người Phật tử kh�ng th�m nhập được đạo l� ch�n ch�nh n�n mới c� những thứ mong cầu kh�ng hợp đạo l� như vậy.

Đ� l� t�i n�i mất tự t�n nơi bản th�n m�nh. V� điều đ�ng buồn hơn nữa, ch�ng ta lại kh�ng tin m�nh m� lại tin ở những sức mạnh b�n ngo�i.

T�i th� dụ như một số cư sĩ tại gia, khi muốn cất nh� trước hết qu� vị kiếm thầy xem tuổi, đo�n tốt xấu. Nếu �ng thầy n�i năm nay s�t chủ, qu� vị c� d�m cất kh�ng? Đang l�c trong t�i c� tiền nhưng nghe n�i năm tuổi hay năm s�t chủ kh�ng d�m cất, chờ tới năm tốt. Nhưng tới năm tốt th� lỡ x�i hết tiền, phải l�m sao đ�y? Như vậy ch�ng ta tin v�o số, tin v�o tuổi, tin tất cả những thứ b�n ngo�i m� kh�ng tin ở m�nh.

Đ� l� c�c Phật tử, nhưng thậm ch� ở trong nh� ch�a c� nhiều thầy sửa soạn cất ch�a cũng phải coi năm tốt kh�ng, cất được kh�ng? Nếu được năm th� mới d�m cất, bằng kh�ng th� th�i. Đ� l� quan niệm sai lầm rất lớn.

Ng�y nay ch�ng ta đ� kh� giả, nhiều Phật tử cất nh� đ�c b� t�ng, m� nếu đ�c b� t�ng th� ở �t ra cũng năm ba chục năm, người đ� b�y giờ nếu đ� năm s�u mươi tuổi th� c� chết trong nh� đ� kh�ng? Nếu chết trong nh� đ� th� lựa ng�y n�o cũng s�t chủ cả. T�i n�i v� dụ n�y cho qu� vị thấy cụ thể rằng, sợ ng�y s�t chủ kh�ng d�m cất nh�, vậy cất ng�y n�o khỏi s�t chủ đ�y! Chỉ c� cất ch�i mới khỏi s�t chủ, c�n cất nh� đ�ng ho�ng chắc chắn phải s�t chủ th�i.

Như vậy gi� trị của ng�y giờ c� đ�ng hay kh�ng? Nếu ng�y giờ đ�ng th� tr�n thế gian n�y mọi người đều gi�u, đều b�nh y�n hết. V� c� người cất nh�, họ coi ng�y rất kỹ nhưng sau năm bảy năm hay năm s�u th�ng họ cũng vẫn bỏ nh� chạy như thường. Như vậy coi ng�y đ�ng hay kh�ng?

Sự việc cụ thể trước mắt như vậy m� đa số Phật tử cứ nơm nớp sợ. Như c� việc phải đi xa th� sợ ng�y m�ng 5,14,23 n�n lựa ng�y l�nh đi. Nếu ng�y l�nh đi được b�nh y�n th� mấy ch� ăn trộm, ăn cướp cứ lựa ng�y l�nh l�m ăn chắc ph�t đạt lắm phải kh�ng? Nhưng đ� ăn trộm, ăn cướp th� ng�y n�o cũng l� ng�y nguy hiểm hết. C�n ch�ng ta l�m l�nh, l�m phước th� ng�y n�o cũng l� ng�y tốt, v� nh�n tốt th� quả phải tốt; nh�n �c th� quả phải �c.

Như vậy ch�ng ta tin ng�y giờ hay tin nh�n quả! Ng�y giờ kh�ng phải do Phật dạy m� đ� l� s�ch Nho thời xưa. Nh�n quả mới l� gi�o l� của Phật dạy. Ch�ng ta l� đệ tử Phật th� phải lấy nh�n quả l�m căn bản tu h�nh, kh�ng n�n lệ thuộc v�o s�ch vở thời xưa, những tập tục cũ để lại. Nếu ch�ng ta theo những thứ đ� l� ch�ng ta m� t�n. M� t�n tức l� l�ng tin u tối kh�ng s�ng suốt, kh�ng phải l� đệ tử Phật.

Ch�ng ta tu theo Phật th� phải tin nh�n quả. Tại sao? V� nh�n quả x�y dựng cho ch�ng ta một nền tảng tự t�n rất vững chắc. Trong nh� Phật thường n�i, tất cả c�c khổ kh�ng phải bỗng dưng n� đến m� đều c� nguy�n nh�n. Từ c�i nh�n trước hoặc gần hoặc xa, ch�ng ta đ� tạo n�n ng�y nay quả b�o đến ch�ng ta phải chịu.

Th� dụ qu� vị l�m nghề n�ng, gieo giống l�a th� thu hoạch l�a, gieo giống nếp th� thu hoạch được nếp. Gieo giống n�o sẽ c� quả giống ấy theo � muốn của m�nh. Như vậy t�y theo nh�n ch�ng ta đ� gieo m� kết quả sẽ đến. Tuy nhi�n, kh�ng phải nh�n quả chỉ c� một chiều m� rất tế nhị. Kết quả kh�ng phải từ ai cho hay từ đ�u đến m� ch�nh l� c�ng phu tạo nh�n của ch�nh m�nh, m�nh tạo nh�n n�n m�nh hưởng quả, đ� l� lẽ thật.

Tất cả mọi việc đều do c�ng của ch�ng ta, ch�ng ta săn s�c th� sẽ c� kết quả như sự mong cầu của ch�ng ta, chứ kh�ng phải bỗng dưng ai đem lại cho, v� điều đ� m�nh muốn, m�nh tạo th� m�nh được. Như vậy, nh�n quả dạy cho ch�ng ta tạo lấy nh�n tốt để hưởng quả tốt, c�n gieo nh�n xấu th� bị khổ. Vui hay khổ đều do nơi m�nh tự tạo.

Như vậy mọi sự khổ vui tr�n đời m� ch�ng ta gặp phải, kh�ng n�n đổ thừa người n�y, tr�ch m�c kẻ kia m� ch�ng ta phải nhận lấy tr�ch nhiệm, v� nh�n ch�ng ta đ� g�y th� quả ch�ng ta phải chịu. Hiểu được l� nh�n quả, ch�ng ta c� sức tự t�n phi thường, bởi v� ch�ng ta c� đủ điều kiện l�m cho m�nh tốt, hay đủ điều kiện l�m cho m�nh xấu. Vậy tốt xấu gốc từ m�nh, kh�ng phải do lực n�o b�n ngo�i.

Th� dụ, qu� Phật tử đi ra đường thấy một người bị tai nạn t� xe khổ, kh�ng ai đỡ, kh�ng ai cứu. Ch�ng ta cứu đưa họ đến bệnh viện, săn s�c cho họ được y�n ổn. Ch�ng ta thấy người bị tai nạn, tự l�ng m�nh khởi niệm thương x�t n�n cứu gi�p họ, đưa tới bệnh viện. L�c đ� đức Phật c� n�i nho nhỏ b�n tai ta "ngươi phải đỡ, phải chở người đ� đến bệnh viện"? Chắc kh�ng c�. Do tự t�m ch�ng ta khởi l�ng thương, cứu người. Ch�ng ta gi�p người đ� m� kh�ng cầu người biết ơn, đền ơn. Bất ngờ khi ch�ng ta gặp lại họ, tự nhi�n họ rất mừng v� biết rằng đ�y l� �n nh�n đ� cứu m�nh n�n người ấy vui mừng, ch�ng ta vui theo. Vậy niềm vui đ� từ đ�u ra? Từ m�nh chớ đ�u phải Trời, Phật n�o ban cho.

Ngược lại nếu qu� vị ra chợ mua h�ng, gặp người b�n h�ng quạu quọ, cự với m�nh. M�nh nổi tức l�n cự lại với họ. Khi nổi tức l�n g�y gổ với nhau, qu� vị nghĩ l�c đ� c� Phật x�i m�nh kh�ng? Hay l� c�i s�n x�i m�nh? Từ sự chưởi bới đ�nh nhau đưa tới c�c thứ kh� khăn kh�c như bị bắt bớ v. v... Khổ đ� ai l�m cho qu� vị, ai x�i qu� vị, ai mang đến cho qu� vị? Tất cả đều do s�n giận của m�nh l�m ra, n� đẩy m�nh tạo tội, thọ khổ.

Như vậy, tạo nh�n l�nh đưa đến quả vui, tạo nh�n dữ đưa đến quả khổ đều do ch�nh m�nh, kh�ng ai chen v�o đ� cả. Khi gặp khổ, vui ch�ng ta n�n đổ thừa tại Trời khiến, Phật định hay phải biết đ�y ch�nh l� do ch�ng ta thiếu tu n�n gặp quả khổ, hoặc ch�ng ta kh�o tu n�n gặp quả vui? Ch�ng ta đổ thừa cho người hay phải nhận lấy tr�ch nhiệm về m�nh? Hiểu như vậy, tin như vậy l� ch�ng ta tin ai? M�nh l� chủ nh�n đem c�i vui, c�i khổ đến cho m�nh. Đ� l� l� nh�n quả hết sức cụ thể.

Ch�ng ta tu theo đạo Phật phải hiểu s�u, tin chắc l� nh�n quả như vậy, ch�ng ta ứng dụng cho cuộc đời, kh�ng phiền h� ai, kh�ng o�n hận ai, chỉ quay lại m�nh để chuyển hướng. Nếu từ nhỏ tới lớn ch�ng ta chưa g�y điều g� �c m� gặp khổ nhiều th� biết c�i nh�n đời trước đ� tạo, n�n ng�y nay tuy chưa l�m khổ người kh�c m� khổ vẫn đến với ch�ng ta. N�n ch�ng ta hoan hỷ chấp nhận, kh�ng o�n trời tr�ch đất, đ� l� biết ứng dụng l� nh�n quả.

Ngược lại đời n�y ch�ng ta kh�ng l�m l�nh, l�m phước m� được ở trong cảnh sung sướng, gi�u sang, ch�ng ta cũng kh�ng tự h�o ng� mạn v� biết rằng đ�y l� phước đời trước, ch�ng ta cũng đ� c� tu. Tuy được phước l�nh nhưng nếu kh�ng kh�o tu, kh�ng biết l�m l�nh nữa th� phước sẽ hết, sau sẽ khổ. N�n kh�ng c� t�m ngạo mạn khinh người.

Người Phật tử biết ứng dụng nh�n quả tu l� người rất tự do, v� biết r� khổ vui đều do m�nh n�n kh�ng o�n tr�ch, cũng kh�ng ph� phạm, lu�n c� t�m khi�m nhường, kh�ng ngạo nghễ ki�u mạn. Đ� l� một đức t�nh tốt, v� ch�ng ta hiểu được l� nh�n quả v� biết ứng dụng trong cuộc sống.

Kế đến t�i n�i về nghiệp b�o. Phật dạy ch�ng ta bị nghiệp dẫn đi trong đường khổ hoặc trong đường vui, đ� l� gốc do xưa kia ch�ng ta đ� g�y tạo. Th� dụ như những người uống rượu. Ng�y n�o họ cũng v�o qu�n uống rượu, uống như vậy chừng năm bảy th�ng th� họ th�nh người ghiền rượu. Th�nh người ghiền rượu rồi th� h�m n�o kh�ng c� tiền v�o qu�n họ sẽ khổ sở, chạy mượn người n�y, người kia để c� tiền uống rượu. Đi qu�n uống rượu đ� l� nghiệp rượu, đ� th�nh nghiệp rượu l� th�nh nghiệp xấu. V� n� dẫn m�nh đi vay mượn c� khi sanh trộm cắp. Khi đ� th�nh nghiệp ghiền rồi rất kh� bỏ, thiếu n� kh�ng chịu nổi, n�n dễ sanh những th�i xấu, những điều bậy.

Ngược lại một người mỗi th�ng v�o ng�y rằm, ng�y ba mươi đi ch�a, tụng kinh, s�m hối. Th�ng n�o cũng vậy, giả sử c� th�ng n�o bận việc kh�ng đi được, người ấy thấy buồn. Như vậy đi ch�a, tụng kinh, s�m hối cũng l� nghiệp m� l� nghiệp l�nh. V� vậy thiếu cũng thấy buồn nhưng buồn nh� nhẹ th�i. C�n nghiệp rượu l� nghiệp dữ n�n n� h�nh gh� gớm lắm. Biết bao trường hợp v� rượu m� trong nh� g�y gổ, c�i lộn v. v...

Do đ� ch�ng ta thấy nghiệp l�nh dẫn ch�ng ta tới chỗ l�nh, nghiệp dữ dẫn ch�ng ta tới chỗ dữ. Người th�ch uống rượu th� đi tới qu�n rượu, người th�ch đi ch�a th� tới ch�a. Nghiệp l� một th�i quen do ch�ng ta g�y ra, chớ kh�ng phải Trời, Phật xui khiến.

X�t tr�n l� nh�n quả của đạo Phật, r� r�ng ch�ng ta tự do ho�n to�n, tự do tạo khổ, tự do tạo vui, chứ kh�ng phải Phật, kh�ng phải ai hết. Như vậy ch�ng ta phải c� đức tự t�n m�nh liệt v� ch�ng ta c� đủ thẩm quyền l�m cho m�nh khổ hay l�m cho m�nh vui.

Một x� hội mọi người d�n đều c� đức tự t�n như vậy th� x� hội đ� mạnh hay yếu? X� hội đ� l� x� hội tiến bộ, v� mọi người đều biết c�i g� cũng gốc từ m�nh th� m�nh phải nỗ lực, phải cố gắng x�y dựng điều tốt, dẹp bỏ th�i xấu, nhờ vậy x� hội trở th�nh đẹp đẽ, văn minh. Hiểu được � nghĩa nh�n quả, nghiệp b�o của đạo Phật, ch�ng ta đủ điều kiện x�y dựng cho x� hội m�nh ng�y c�ng đẹp đẽ, c�ng ph� cường hơn. Đ�y l� điều hết sức quan trọng.

Đ� l� t�i mới n�i tin v�o nh�n quả nghiệp b�o, c�n một niềm tin đặc biệt nữa m� tất cả người Phật tử ai cũng phải cố gắng, phải nhớ. Đ� l� ch�ng ta tu theo Phật, ch�ng ta c� tin m�nh sẽ th�nh Phật kh�ng? Gần đ�y c� nhiều Phật tử n�i: "Con tu kh�ng mong g� hết, chỉ mong niệm Phật đến khi chết, Phật cho con về bển l�m t�i tớ của Phật l� được rồi". Nghe thật l� dễ thương nhưng đ� l� người thiếu đức tự t�n lớn lao. Tại sao?

Bởi v� đức Phật dạy ch�ng ta tu l� để th�nh Phật, chớ kh�ng phải dạy cho ch�ng ta tu để l�m t�i tớ cho Phật, m� ch�ng ta đ�i l�m t�i tớ chớ kh�ng th�ch l�m Phật. Vậy th� nguyện ước của ch�ng ta qu� nhẹ, qu� yếu phải kh�ng? Tại sao ch�ng ta kh�ng can đảm, kh�ng ph�t t�m quyết liệt cầu quả Phật.

Qu� vị nhớ, Phật l� bậc V� thượng Ch�nh đẳng Ch�nh gi�c. V� thượng l� kh�ng c� g� tr�n, Ch�nh đẳng l� ch�n ch�nh li�n tục, Ch�nh gi�c l� gi�c ngộ đ�ng đắn. Gi�c ngộ đ�ng đắn li�n tục kh�ng ngừng, kh�ng c�ch khoảng l� V� thượng Ch�nh đẳng Ch�nh gi�c.

Ở đ�y t�i muốn n�i chữ V� thượng, lẽ ra phải t�n xưng Phật l� Tối thượng mới phải, v� c� ai tr�n Phật, c� ai bằng Phật? Nhưng Phật chỉ gọi V� thượng nghĩa l� kh�ng tr�n, kh�ng tr�n nhưng c� người bằng. V� vậy n�n Phật n�i: "Ta l� Phật đ� th�nh, c�c ngươi l� Phật sẽ th�nh". Sẽ th�nh, nghĩa l� bằng Phật nhưng kh�ng tr�n Phật, v� gi�c ngộ tới đ� tức l� vi�n m�n, kh�ng c�n g� tr�n nữa.

Phật dạy ch�ng ta tu theo Phật cốt l� để th�nh Phật. Cho n�n trong Ph�t Bồ-đề T�m Văn dạy: Người tu Phật chỉ l�m l�nh, tu Thập thiện m� kh�ng ph�t t�m Bồ-đề th� sau n�y c� thể lạc v�o đường t� hoặc l�m Ma vương. Nghe vậy chắc qu� vị thấy lạ. Bởi v� Phật l� một vị gi�c ngộ vi�n m�n, ch�ng ta tu theo Phật th� cũng cốt gi�c ngộ vi�n m�n. Kh�ng phải gi�c ngộ vi�n m�n chỉ d�nh ri�ng cho Phật, c�n ch�ng ta v� phần. Tu theo Phật l� để gi�c ngộ vi�n m�n, n�n ph�t nguyện như vậy th� khỏi rơi v�o đường t�. Tại sao?

V� ch�ng ta đ�u phải tu một đời m� được gi�c ngộ vi�n m�n, đời n�y ch�ng ta gi�c được phần n�o hay phần đ�, đời sau tiếp tục cho đến ng�y vi�n m�n. Nếu ch�ng ta kh�ng ph�t nguyện đời đời, kiếp kiếp tiến tu th� c� khi nửa chừng do phước đức tu Thập thiện v� l�m những điều l�nh kh�c, được sanh c�c c�i l�nh, gặp ho�n cảnh sung sướng ch�ng ta qu�n. Đ� qu�n th� c� thể lạc v�o đường t� hay lạc v�o Ma vương.

Cho n�n m�nh tu theo Phật, l�c n�o cũng phải ph�t nguyện đạt đến quả vị Phật, chớ kh�ng mong quả vị n�o kh�c. Bao l�u cũng được, kh�ng hạn cuộc thời gian, đời n�y chưa rồi th� đời sau; đời sau chưa rồi th� đời sau nữa. Bởi v� chết kh�ng phải l� mất, kh�ng phải l� hết. Ch�ng ta kh�ng sợ chết, chỉ sợ bản nguyện, chỉ sợ h�nh động của ch�ng ta kh�ng đ�ng th�i.

Nếu ch�ng ta c� bản nguyện ch�n ch�nh, quyết liệt v� h�nh động lu�n lu�n li�n tục kh�ng ngừng, th� con đường th�nh Phật nhất định sẽ đến. Cho n�n ch�ng ta phải tin khẳng định l� ch�ng ta tu theo Phật, ch�ng ta sẽ th�nh Phật.

Ng�y xưa đức Phật sanh trong gia đ�nh vua ch�a, lớn l�n c� vợ con sau thức tỉnh đi tu. Như vậy Phật c� kh�c ch�ng ta kh�ng? C� cha, c� mẹ, c� cả gia đ�nh nữa. Ng�i cũng l� người thế tục như ch�ng ta, nhưng Ng�i thức tỉnh đi tu v� gi�c ngộ th�nh Phật. Ch�ng ta b�y giờ c� phải l� người thế tục như Ng�i kh�ng? Ng�i l� con người thức tỉnh đi tu th�nh Phật, th� ch�ng ta l� con người thức tỉnh đi tu cũng sẽ th�nh Phật. Việc ấy t�i khẳng định quả quyết như vậy, kh�ng nghi ngờ.

Nếu n�i Ng�i từ tr�n trời rơi xuống hay từ dưới đất vọt l�n n�n Ng�i tu được, c�n ch�ng ta l� con người b�nh thường n�n tu kh�ng được th� hợp l�. Đằng n�y Phật cũng l� con người, chỉ kh�c l� Ng�i thức tỉnh sớm n�n Ng�i đi tu v� được gi�c ngộ th�nh Phật. Ch�ng ta l� một con người, nếu thức tỉnh, ch�ng ta tu cũng sẽ th�nh Phật. Đ� l� l� do thứ nhất để ch�ng ta tin rằng ch�ng ta tu sẽ được th�nh Phật.

L� do thứ hai, Ng�i dạy rằng tất cả ch�ng sanh ai ai cũng c� Phật t�nh. Phật c� v� Ng�i khai th�c được n�n Ng�i gi�c ngộ. Ch�ng ta c� nhưng chưa khai th�c được n�n ch�ng ta c�n m�, c�n l�m ch�ng sanh. T�i th� dụ, cha mẹ gi�u khi mất để của qu� chia cho c�c con. Trong đ� c� những người con lớn kh�n, biết đem số của được chia, đi b�n tạo vốn l�m ăn n�n th�nh gi�u sang. C�n người nhỏ chưa biết đem của qu� ra b�n n�n ngh�o thiếu. Tuy ngh�o m� c� thật ngh�o đ�u, chỉ v� họ chưa đem ra d�ng th�i.

Ch�ng ta cũng vậy, Phật biết khai th�c t�nh gi�c n�n Ng�i th�nh Phật, Ng�i gi�c ngộ trước. C�n ch�ng ta cũng c� t�nh gi�c nhưng chưa biết khai th�c, n�n chưa gi�c ngộ. Tuy chưa gi�c ngộ nhưng ch�ng ta kh�ng bị mất, t�nh gi�c vẫn c�n. V� vậy nếu ch�ng ta cố gắng khai th�c, tức l� tu h�nh th� ch�ng ta cũng gi�c ngộ kh�ng nghi ngờ.

Trong kinh Ph�p Hoa, c� th� dụ hệ ch�u v. v..., g� thanh ni�n được cột hạt ch�u trong ch�o �o, nhưng v� uống rượu say qu� n�n qu�n, đến khi c� người chỉ nhắc lại mới nhớ. Như vậy th� biết rằng, nơi ch�ng ta ai cũng c� khả năng th�nh Phật hết. Đ�y l� l�ng tin thứ hai. L�ng tin n�y rất quan trọng.

L� do thứ ba, Phật dạy tất cả ch�ng sanh đều c� sẵn tr� v� sư. Tr� v� sư l� tr� kh�ng thầy, đức Phật khi ngồi tu dưới cội Bồ-đề, Ng�i kh�ng học, kh�ng truy t�m, kh�ng nghi�n cứu, Ng�i chỉ định t�m. Khi t�m an định th� bỗng nhi�n gi�c ngộ. Từ sự gi�c ngộ đ� mới thấu suốt được tất cả c�c ph�p, từ con người đến ngoại vật, kh�ng trở ngại.

Đức Phật c� tr� v� sư, ch�ng ta c� tr� v� sư kh�ng? Ch�ng ta cũng c�, chỉ v� hiện giờ nội t�m ch�ng ta c� bao nhi�u thứ vọng tưởng, phiền n�o tr�n đầy, n� che lấp tr� v� sư. Khi n�o ch�ng ta định t�m được, hoặc tọa thiền hoặc niệm Phật tới chỗ nhất t�m th� tr� v� sư ph�t ra. Kinh Di Đ� gọi đ� l� thấy Phật v� Th�nh ch�ng ở trước mặt. C�n đối với người tu Thiền gọi đ� l� gi�c ngộ hay l� đại ngộ. Như vậy, tr� v� sư l� c�i sẵn c� của tất cả ch�ng ta, ai ai cũng c� chớ kh�ng phải ri�ng người n�o.

Bằng chứng cụ thể như qu� vị thấy ở thế gian hiện nay nhiều nh� b�c học nghi�n cứu một đề t�i g�, họ dồn t�m lực trong đ�, những đề t�i ấy trước kia chưa ai ph�t minh. Đến khi họ nghi�n cứu tới chỗ qu�n hết cả vợ con, qu�n ăn, qu�n ngủ bỗng nhi�n họ s�ng l�n. S�ng l�n đ� gọi l� ph�t minh. Nhiều nh� ph�t minh đ� đem lại cho khoa học những th�nh quả mới, gi�p nh�n loại được nhiều phương tiện. Đ� cũng l� do tr� v� sư.

T�m t�i nghi�n cứu c�i nhỏ th� được kết quả nhỏ, nghi�n cứu c�i lớn th� được kết quả lớn. Người tu của ch�ng ta nghi�n cứu về vấn đề sinh tử của con người, l� vấn đề trọng đại. V� vậy phải ngồi thiền từ năm n�y qua năm nọ cho t�m tư l�ng lặng. Do l�ng lặng n�n tr� v� sư ph�t ra. Như đức Phật ng�y xưa ngồi y�n định bốn mươi ch�n ng�y dưới cội Bồ-đề m� chứng được tam minh, lục th�ng v. v...

Chủ yếu người tu Phật ng�y nay phải l�m sao đem lại cuộc sống ch�n thật, đem lại con đường đi s�ng sủa, đem lại gi� trị tu h�nh cao si�u vượt bậc, chớ kh�ng phải l� chuyện tầm thường. Bởi v� ch�ng ta t�m t�i để ph�t minh một việc trọng đại của kiếp sống con người. V� vậy tất cả ch�ng ta phải tin rằng ai cũng c� tr� v� sư. Ch�ng ta phải cố gắng dẹp vọng tưởng, dẹp phiền n�o. Vọng tưởng, phiền n�o sạch th� tr� v� sư hiện ra.

C�c Thiền sư thường v� dụ t�m ta như một hồ nước. Đ�m rằm tr�n hư kh�ng c� trăng, nếu hồ nước đục th� trăng kh�ng hiện. Chỉ khi n�o hồ nước trong th� b�ng trăng hiện dưới đ�y hồ. Cũng vậy ch�ng ta tu đến t�m thanh tịnh trong s�ng, sẽ tự thấy Phật ở nơi ch�ng ta chớ kh�ng t�m đầu non g�c bể n�o cả.

B�y giờ t�m qu� vị c� l�ng, c� trong kh�ng hay l� đang như những đ�m m�y d�y mịt? Hết vọng n�y đến vọng kia che ho�i, bởi che ho�i n�n n� ngầu đục dơ bẩn. Chỉ khi ch�ng ta l�ng được những thứ đ� xuống th� tr� s�ng suốt của ch�ng ta bừng l�n chớ kh�ng c� g� lạ, tr� ấy ch�ng ta c� sẵn chớ kh�ng phải từ đ�u ra. Cho n�n sự tu trong đạo Phật hết sức thực tiễn, kh�ng phải mơ hồ. Giờ đ�y ch�ng ta hiểu được đạo Phật, thấy r� được đạo Phật n�n ch�ng ta phải nỗ lực tinh tấn, ứng dụng theo lời Phật cho t�m thanh tịnh.

V� dụ vị n�o chuy�n tu niệm Phật th� r�ng niệm Phật được nhất t�m bất loạn. Kinh Di Đ� Phật n�i rất r�: "... nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật... nhược thất nhật, nhất t�m bất loạn. Kỳ nh�n l�m mạng chung thời, A Di Đ� Phật dữ chư Th�nh ch�ng, hiện tại kỳ tiền, thị nh�n chung thời t�m bất đi�n đảo, tức đắc v�ng sanh A Di Đ� Phật Cực lạc quốc độ". Nghĩa l�: Hoặc một ng�y, hoặc hai ng�y, hoặc ba ng�y... cho đến bảy ng�y nhất t�m bất loạn. Người ấy khi sắp mạng chung, Phật A Di Đ� v� Th�nh ch�ng hiện ra ở trước, t�m người ấy kh�ng đi�n đảo, liền được v�ng sanh c�i nước Cực Lạc của Phật A Di Đ�. Hiện giờ Phật tử được nhất t�m chưa hay l� thi�n t�m, vạn t�m? Bởi vậy m� n�i niệm Phật kh�ng thấy linh, v� đ�u c� nhất t�m. Phải nhất t�m, chừng đ� mới thấy Phật.

Tu Thiền cũng vậy, Thiền m� kh�ng định cũng kh�ng bao giờ ngộ, kh�ng bao giờ gi�c. V� vậy phải định, c� định mới được gi�c ngộ. Như vậy đạo Phật dạy kh�ng ri�ng kh�c, chỗ mục đ�ch cứu k�nh đều gặp nhau. Chỉ tại ch�ng ta tu lơ mơ n�n th�nh c� kh�c.

T�i n�u l�n những điều n�y cho qu� vị nhận ra cội gốc của đạo Phật, gi�p qu� vị thấy được con đường tu đ�ng đắn kh�ng bị lầm lẫn m� trở th�nh mất gốc, trở th�nh m� t�n. M� t�n th� kh�ng xứng đ�ng l� Phật tử.

Phật tử ở ch�a Hoằng Ph�p m� m� t�n th� người ta n�i thầy Hoằng Ph�p kh�ng kh�o dạy đệ tử. C�n nếu đệ tử của t�i m� cứ tin như vậy th� người ta n�i t�i kh�ng biết dạy đệ tử. Kh�ng c� đủ l�ng tin ch�nh ph�p, chẳng những qu� vị c� lỗi m� c�n g�y tiếng kh�ng tốt cho những bậc thầy của m�nh. Cho n�n qu� vị phải can đảm, biết sai phải sửa bỏ, chớ đừng nắm n�u, đừng sợ. Điều sai, ch�ng ta biết r� n� sai th� ch�ng ta sửa liền. Điều đ�ng, ch�ng ta biết đ�ng th� phải thực h�nh ngay. Đ� l� người Phật tử ch�n ch�nh.

Để kết th�c buổi n�i chuyện h�m nay, t�i xin nhắc lại cho qu� vị Phật tử nhớ:

- Đạo Phật l� đạo dạy cho ch�ng ta đầy đủ l�ng tự t�n. Ch�ng ta tu theo Phật l� tin chắc nơi m�nh. M�nh c� quyền tạo c�i vui, m�nh c� quyền g�y c�i khổ. Khổ vui do ch�nh m�nh, chớ kh�ng ai đem đến cho m�nh. Hiểu như vậy l� c� đức tự t�n.

- Ch�ng ta c� đủ khả năng th�nh Phật. Phật l� con người, ch�ng ta l� con người. Phật c� t�nh gi�c, ch�ng ta cũng c� t�nh gi�c. Nếu ch�ng ta quyết t�m tu rồi cũng sẽ th�nh Phật, kh�ng nghi ngờ. Như vậy, tất cả ch�ng ta ai c� đủ � ch� quyết liệt tu h�nh th� tr�n đường tu nhất định ch�ng ta sẽ th�nh c�ng.

- C� đủ � ch� quyết liệt rồi th� đối với x� hội, đối với ho�n cảnh đất nước của m�nh đang ngh�o, ch�ng ta cố gắng tạo cho được những nh�n tốt th� quả tốt sẽ đến, ch�ng ta x�y dựng một x� hội cố gắng vươn l�n. Đ� l� đem lại sức mạnh cho đất nước, cho xứ sở của m�nh. Kh�ng n�n ỷ lại hay tr�ng chờ, kh�ng n�n sợ sệt những quyền lực v� nghĩa.

Ch�ng ta phải can đảm, phải nh�n thẳng, phải thấy đ�ng. Như vậy mới thật l� người Phật tử ch�n ch�nh, mới thật l� người biết đạo; bằng ngược lại ch�ng ta tu theo Phật chỉ c� danh tự, chớ thực chất kh�ng c� g� cả.

Vậy mong rằng tất cả qu� Phật tử nghe t�i giảng, x�t cho thật kỹ, nếu đ�ng th� qu� vị phải ph�t t�m quyết liệt thực h�nh v� ứng dụng tu cho c� kết quả. Đ� l� chỗ mong đợi của ch�ng t�i.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]