Thiền Tông Việt Nam

[Trang chu] [Kinh sach]

HOA V� ƯU

(Tập I)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


NGHIỆP TỪ Đ�U M� RA

 

Vừa qua Ban Đại Diện Phật gi�o Quận 8 c� mời ch�ng t�i về đ�y n�i chuyện đạo l� với Tăng, Ni v� Phật tử. V� thế, nh�n dịp về thăm ch�ng t�i n�i lại những điều cần yếu tr�n đường tu cho tất cả qu� vị l�nh hội v� ứng dụng tu trong m�a an cư n�y cũng như m�i về sau.

Tất cả ch�ng ta tu, nhất l� h�ng Tăng, Ni xuất gia ai ai cũng n�i r� rằng tu để cầu giải tho�t sanh tử. B�y giờ t�i đặt c�u hỏi lại, ch�ng ta giải tho�t sanh tử nhưng c�i g� dẫn ch�ng ta đi v�o con đường sanh tử, đ�y l� một vấn đề rất then chốt. Nếu ch�ng ta cầu giải tho�t sanh tử m� kh�ng biết c�i g� l�i dẫn m�nh đi trong sanh tử th� l�m sao giải tho�t được. Cho n�n trước hết ch�ng ta phải nghiền ngẫm xem c�i g� dẫn ch�ng ta, c�i g� tr�i buộc ch�ng ta phải tr�i lăn trong d�ng sanh tử.

Sở dĩ ch�ng ta bị sanh tử l� do nghiệp dẫn. Trong kinh Phật dạy: "Do nghiệp l�i dẫn ch�ng sinh đi trong sanh tử lu�n hồi". Nhưng nghiệp từ đ�u m� c�? Trong kinh đức Phật dạy: Nghiệp xuất ph�t từ th�n, khẩu v� �, tức l� th�n nghiệp, khẩu nghiệp v� � nghiệp. Như vậy sức mạnh l�i cuốn ch�ng ta đi trong sanh tử l� nghiệp m� nghiệp lại xuất ph�t từ th�n, khẩu, � của m�nh, đ� l� c�i căn bản, cho n�n ch�ng ta tu l� phải chuyển nghiệp hay dứt nghiệp th� mới c� thể dừng sanh tử được.

Ch�ng t�i thường n�i, người tu nếu chưa giải tho�t th� phải chuyển nghiệp. Từ nghiệp �c lẽ ra phải đọa trong ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, s�c sanh, ch�ng ta chuyển th�nh nghiệp thiện để sanh trong ba c�i l�nh l� c�i người, a tu la v� c�i trời. Như vậy biết chuyển nghiệp xấu th�nh nghiệp tốt sanh c�i l�nh, đ� gọi l� tu chuyển nghiệp. V� nếu muốn dứt lu�n hồi sanh tử th� ch�ng ta phải dứt nghiệp, v� c�n nghiệp d� nghiệp l�nh cũng l� sanh trong c�i l�nh, kh�ng phải dứt sanh tử. Vậy ch�ng ta phải l�m sao để chuyển h�a nghiệp của m�nh, l�m sao để ti�u diệt nghiệp của m�nh. Điều n�y thật quan trọng.

N�i ba nghiệp th�n, khẩu, � nhưng thực t�nh trọng t�m nằm ở �. � nghĩ l�nh, th�n l�m l�nh, miệng n�i l�nh. � nghĩ dữ, miệng n�i dữ, th�n l�m dữ. Tuy n�i ba nghiệp nhưng gốc từ �. � nghiệp l� căn bản, l� nh�n cho hai nghiệp kia hoặc tốt, hoặc xấu. N�n ch�ng ta tu muốn dứt sanh tử th� phải dừng � nghiệp. � nghiệp dừng th� sanh tử mới dứt.

V� vậy người tu Tịnh độ phải niệm Phật nhất t�m, nhất t�m th� � nghiệp lặng lẽ mới được sanh về T�y phương, mới tho�t ly sanh tử. Nếu tu chưa nhất t�m th� chưa thể tho�t ly được. Qu� vị nhớ trong kinh Di Đ� đức Phật dạy rất r�: Người niệm Phật hoặc một ng�y, hoặc hai ng�y cho đến bảy ng�y nhất t�m bất loạn th� khi l�m chung người đ� được Phật v� Th�nh ch�ng hiện ở trước. R� r�ng khi ch�ng ta được nhất t�m tức � nghiệp đ� thanh tịnh, kh�ng c�n nghiệp nữa th� được v�ng sanh về c�i Phật.

Người tu theo thiền Nguy�n thủy th� qu�n Tứ niệm xứ. Trong kinh A-h�m dạy: "Người n�o từ một ng�y cho tới bảy ng�y trụ t�m nơi Tứ niệm xứ kh�ng c� di chuyển (tức l� kh�ng c� dời đổi) th� được nhập Niết-b�n, chứng A-la-h�n. Chẳng những bảy ng�y m� s�u ng�y, năm ng�y, bốn ng�y, ba ng�y, một ng�y nếu trụ t�m nơi Tứ niệm xứ kh�ng di chuyển, người đ� cũng chứng từ A NA-h�m trở xuống".

Như vậy ch�ng ta thấy tu Tịnh độ hay tu Thiền đều phải dừng lặng � nghiệp. � nghiệp dừng lặng rồi th� ch�ng ta được sanh về Tịnh độ, được chứng quả A-la-h�n, nhập Niết-b�n v. v� Do đ� trọng t�m l� phải dừng � nghiệp, � nghiệp dừng rồi th� ch�ng ta mới giải tho�t sinh tử được. Đ� l� ch�ng t�i dẫn tổng qu�t để qu� vị nhận r� đường lối tu của m�nh.

Song, h�m nay được qu� Thầy y�u cầu giảng về Thiền n�n ch�ng t�i n�i về Thiền, đặc biệt l� Thiền t�ng của Việt Nam. Nếu x�t về Thiền t�ng Việt Nam từ khi Việt Nam bắt đầu c� Phật gi�o, kể từ ng�i Khương Tăng Hội trở về sau, tất cả chư Sư đều l� Thiền sư, đều tu Thiền.

Ng�i Khương Tăng Hội giải th�ch Thiền theo Lục Diệu Ph�p M�n l� sổ tức, t�y tức, chỉ, qu�n, ho�n, tịnh. Ng�i lại giảng Lục ba la mật, trong đ� c� Thiền ba la mật cho ch�ng ta thấy Thiền của Phật gi�o v� ứng dụng tu. Từ ng�i Khương Tăng Hội về sau, c�c Thiền sư từ Trung Hoa, Ấn Độ sang Việt Nam truyền b� thiền.

Ng�i Khương Tăng Hội c� mặt ở Việt Nam v�o thế kỷ thứ III, m�i đến thế kỷ thứ XIX, ng�i Liễu Qu�n ở Huế l� một Thiền sư đắc đạo. Như vậy ch�ng ta thấy r� từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ XIX Phật gi�o ch�ng ta l� Phật gi�o tu Thiền. Bắt đầu thế kỷ thứ XIX cho đến thế kỷ XX th� chư Tăng, chư Ni đa số tu Tịnh độ.

Thế n�n, n�i về Thiền tức l� n�i tới c�i gốc của Phật gi�o Việt Nam, đ� l� tr�n phương diện lịch sử. Nếu n�i cụ thể hơn, tất cả qu� H�a thượng cũng như chư Thượng tọa ch�ng ta ng�y nay đang tu Tịnh độ, nhưng x�t kỹ nguồn gốc th� c�c Ng�i đều c� hệ ph�i Thiền hết. Hoặc l� hệ ph�i Liễu Qu�n hay hệ ph�i của c�c vị kh�c như hệ lấy chữ Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thi�n� Đ� l� theo b�i kệ của c�c Thiền sư.

C�n c�c vị đ� qu� cố khi tịch đều ghi hoặc l� đời thứ 40,42,43,ai cũng đều Từ L�m Tế ch�nh t�ng hết. Từ L�m Tế c� nghĩa l� kế thừa d�ng L�m Tế, nhưng giả sử c� ai hỏi: Thưa Thầy, L�m Tế l� ai, Ng�i tu h�nh ra sao th� chắc c� vị kh�ng biết. Đ� l� điều t�i cho rằng rất đ�ng buồn. Tại sao đ� thừa nhận m�nh kế thừa tổ L�m Tế hoặc tổ T�o Động v. v� m� lại kh�ng biết c�c Ng�i tu ph�p g�, th� l�m sao kế thừa? Như vậy nghĩa l� kh�ng nắm vững nguồn gốc, cội rễ đường lối m�nh đang tu.

Khi xưa t�i xuất gia, c� phước n�n sớm v�o Phật học đường. Khi học ch�ng t�i băn khoăn, tại sao tất cả kinh Phật, chỉ c� một �t bộ như kinh Di Đ�, kinh Qu�n V� Lượng Thọ v. v� l� n�i về Tịnh độ, c�n hầu hết như bốn bộ A-h�m đều n�i về Thiền. Kế nữa, c�c vị Tổ ở Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam cũng đều tu Thiền m� ng�y nay ch�ng ta kh�ng biết g� về Thiền.

Thậm ch� c� ch�a c�c Thầy nghe n�i tu Thiền, liền bảo: "Coi chừng tu Thiền đi�n". T�i ngạc nhi�n gh� lắm, bởi v� nếu tu Thiền đi�n th� đức Phật đ� đi�n mất rồi v� chư Tổ cũng đi�n hết. Nhưng c�c Ng�i kh�ng đi�n, tại sao b�y giờ m�nh tu Thiền đi�n? Phải trả lời được c�u đ�.

Cho n�n t�i �m ấp, t�i t�m kiếm xem tại sao ch�ng ta lại như vậy. Khi t�m kiếm được rồi, t�i chỉ trả lời một c�u gọn rằng: "Kh�ng phải tu Thiền đi�n, chỉ kh�ng biết tu Thiền n�n tu Thiền mới đi�n". Người kh�ng học Thiền m� tu đại, nghe ai chỉ đ�u đ�u cũng bắt chước tu th�nh đi�n rồi đổ thừa tu Thiền đi�n. Nếu thật tu Thiền đi�n th� chắc t�i cũng đi�n mất rồi. Nhưng tới b�y giờ t�i vẫn chưa đi�n th� kh�ng phải tu Thiền đi�n. Đ� l� một điều hết sức nguy hiểm.

Đức Phật tu Thiền ngộ đạo dưới cội Bồ đề kh�ng ai kh�ng biết, c�c ng�i Mục Kiền Li�n, ng�i X� Lợi Phất v. v� c�c vị đại đệ tử Phật khi xưa, một ng�n hai trăm năm mươi vị thường theo Phật cũng tu Thiền m� chứng quả A-la-h�n. Cho đến chư Ni, như hệ của b� Di mẫu năm trăm vị, khi nghe Phật sắp Niết-b�n, liền rủ tới xin Phật nhập Niết-b�n trước. Được Phật cho ph�p, năm trăm b� liền tụ hội lại một chỗ m� nhập Niết-b�n. C�c vị ấy cũng đ� tu Thiền, chứng đạo quả, sanh tử tự tại. Bao nhi�u đ� đủ cho ch�ng ta thấy thời Phật, đệ tử Phật đều tu Thiền.

V� sau đ� từ tổ Ca Diếp truyền thừa tới Tổ thứ hai mươi t�m l� Bồ Đề Đạt Ma, sang Trung Hoa đến Tổ thứ s�u l� Lục tổ Huệ Năng cũng đều tu Thiền lu�n. Như vậy Phật tu Thiền, Tổ tu Thiền nhưng ch�ng ta lại kh�ng biết tu Thiền. Chẳng những kh�ng biết m� c�n chống đối lại nữa chứ. Như vậy v� t�nh m�nh đ� mất gốc rồi.

Từ khi đọc c�c bộ kinh hệ A-h�m, c�c bộ kinh Pali do H�a thượng Minh Ch�u dịch, t�i đối chiếu, khảo s�t, so s�nh lại theo đường lối tu Nguy�n thủy. Qua c�c bộ kinh Đại thừa như kinh Vi�n Gi�c, kinh Lăng Nghi�m v. v� t�i đọc rất kỹ cũng thấy n�i về tu Thiền, cho đến bộ kinh Ph�p Hoa mọi người hay tr� tụng cũng dạy tu Thiền. Vậy m� ch�ng ta kh�ng biết tu Thiền. Nếu kh�ng biết tu Thiền th� l�m sao l�nh hội được � chỉ c�c kinh đ�.

Như trong kinh Ph�p Hoa phẩm T�ng Địa Dũng Xuất kể rằng: C�c vị Bồ-t�t từ xa đến thưa Phật: "Bạch Thế T�n, xin chứng minh cho ch�ng con sẽ truyền b�, hộ tr� kinh Ph�p Hoa ở c�i n�y". Phật lắc đầu n�i kh�ng được. V� c�c Ng�i l� những vị Bồ-t�t ở tha phương n�n Phật kh�ng hứa thuận. Bỗng dưng sau đ� quả đất rung động nứt nẻ ra, c�c Bồ-t�t từ dưới đất vọt l�n v� số, đi nhiễu quanh Phật xin Phật hộ tr� kinh Ph�p Hoa c�i n�y, bấy giờ Phật mới chấp nhận.

Khi xưa đọc tới chỗ n�y t�i ngơ ngẩn, sao lạ vậy? Một, v� sao qu� nhiều Bồ-t�t từ đất vọt l�n. L�u nay ch�ng ta hay nghe n�i dưới l�ng đất l� địa ngục, chẳng lẽ Bồ-t�t dưới địa ngục l�n sao? Hai, chẳng lẽ đức Phật c� c�i nh�n địa phương? Bồ-t�t ở đ�y xin th� cho, Bồ-t�t nơi kh�c xin kh�ng cho. N�n đọc kinh Ph�p Hoa t�i thấy rất kh� hiểu.

Đến khi nghi�n cứu tu Thiền, l�nh hội được yếu chỉ rồi, đọc lại đến đ�y t�i cười, thật l� ch�ng ta bị lừa. V� kinh Ph�p Hoa hầu hết l� ẩn dụ m� m�nh tưởng thật. Bồ-t�t từ phương kh�c đến l� hữu t�nh gi�c, m� c�i gi�c từ b�n ngo�i đến l� hữu sư tr�. Tr� ở ngo�i, tr� nhờ người kh�c m� c�, kh�ng phải thật của m�nh. Kinh Ph�p Hoa dụ cho Tri kiến Phật l� c�i thấy biết của ch�nh m�nh, n�n ở ngo�i đến l�m sao bảo vệ được. V� vậy Phật từ chối.

Chư Bồ-t�t dưới l�ng đất vọt l�n đ�ng v� số, xin hộ tr� được Phật chấp nhận. Bồ-t�t dưới l�ng đất tức l� chỉ cho trong th�n tứ đại n�y c� t�nh gi�c lưu xuất, đ� mới ch�nh thật của m�nh, gọi l� v� sư tr�. Hữu sư tr� l� tr� c�n nhờ b�n ngo�i, n� thuộc về sanh diệt. V� sư tr� từ ở trong ph�t ra đ� l� tr� bất sanh, bất diệt mới bảo hộ được Tri kiến Phật của ch�nh m�nh.

Trong nh� Phật n�i rất nhiều về v� sư tr�, hữu sư tr� nhưng ch�ng ta kh�ng hiểu. Khi mới v�o đạo phải học ba huệ học: văn huệ, tư huệ, tu huệ, gọi tắt l� văn, tư, tu. Văn l� học với người kh�c, với bậc Thầy, nghe Thầy giảng dạy ch�ng ta hiểu rồi mở mang tr� tuệ. Tr� tuệ đ� l� văn huệ. Tư l� suy gẫm lời Phật Tổ dạy cho ch�n chắn, x�t n�t kỹ c�ng thấy đ�ng liền ứng dụng tu, gọi đ� l� tu.

Như vậy tam huệ học thuộc về hữu sư tr�. C�n ba m�n giải tho�t l� giới, định, tuệ, thuộc về v� sư tr�. Nh�n giới tu Thiền định. Thiền định th� đ�u c� học với ai, chỉ l�ng lặng t�m tư cho thanh tịnh rồi tr� tuệ ph�t ra n�n gọi l� v� sư tr�. Tam huệ học chưa phải l� giải tho�t, giải tho�t l� tam v� lậu học n�n c�n gọi l� tam giải tho�t m�n, tức l� giới định tuệ. Tuệ đ� l� tuệ giải tho�t, n� thuộc về v� sư tr�, từ định m� c�.

Tr� tuệ Phật n�i trong kinh Ph�p Hoa l� tr� tuệ của ch�nh m�nh mới bảo vệ được tri kiến của m�nh, tr� tuệ đ� do định ph�t ra. Vậy c� phải Phật dạy ch�ng ta tu Thiền định kh�ng? Muốn được tr� tuệ v� sanh th� phải tu Thiền định. Nếu ch�ng ta x�t thật kỹ, thấy cho tường tận th� ch�ng ta mới kh�ng nghi ngờ, kh�ng thấy kh� hiểu.

Ch�nh t�i ng�y xưa học kinh Đại thừa, c� lần t�i than rằng kinh Đại thừa chỉ để tr�n trang thờ chớ kh�ng c� ứng dụng g� được hết. Nhưng khi tu, hiểu được kinh Đại thừa mới thấy hay đ�o để, một bộ kinh c� thể thấu suốt hết.

Như kinh A-h�m hỏi v� minh l� g�, ch�ng ta định nghĩa thế n�o? V� minh c� nghĩa l� thấy biết kh�ng đ�ng như thật. Ngược lại, minh l� g�? L� thấy biết đ�ng như thật. Thấy sự vật, thấy con người, thấy vũ trụ đ�ng như thật. Ch�ng ta ng�y nay c� thấy đ�ng như thật kh�ng? Thấy to�n l� sai lầm, kh�ng đ�ng như thật.

Như n�i về th�n th� ch�ng ta lu�n thấy th�n n�y l� qu�, l� sạch sẽ, tốt đẹp hay l� � uế, bất tịnh? Kinh dạy th� � uế bất tịnh nhưng nếu c� ai ch�: "Thầy ăn mặc h�i h�m qu�", ch�ng ta giận kh�ng? M�nh h�i h�m l� sự thật, m� n�i h�i h�m l� giận. Người tu c�n thế huống nữa người đời, thấy c�n sai lầm nhiều hơn. Chẳng những thấy sai lầm m� c�n muốn đ�nh lừa người kh�c sai lầm th�m nữa. Người ta kh�ng bao giờ d�m nh�n nhận lẽ thật, m� kh�ng thấy lẽ thật l� gốc v� minh. Do thấy sai lầm th�nh ra m� chấp, chấp ng�. Nếu thấy đ�ng đắn th� đ�u c� chấp, kh�ng chấp tức l� tỉnh gi�c.

Đến c�i nh�n của kinh Vi�n Gi�c, trong kinh Phật giải th�ch tất cả ch�ng sanh bị lu�n hồi sanh tử gốc từ v� minh. Trong kinh Vi�n Gi�c, Phật định nghĩa: V� minh nghĩa l� chấp th�n tứ đại giả hợp l� th�n m�nh thật, chấp t�m suy t�nh lăng xăng (tức l� t�m duy�n theo b�ng d�ng s�u trần) l� t�m m�nh thật, đ� l� v� minh. Nếu ch�ng ta hiểu được kinh, ch�ng ta thấy việc tu kh�ng kh�. V� ch�ng ta kh�ng ứng dụng được kinh n�n ch�ng ta tu cứ tuột l�n, tuột xuống ho�i.

Với tinh thần Đại thừa, Phật gi�o n�i th�n n�y l� hư dối. Như kinh Kim Cang n�i tất cả c�c ph�p đều l� hư ảo, kh�ng c� thật, như c�u "ph�m sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai", hết sức đơn giản. Tất cả những g� c� tướng đều l� hư dối. Tại sao? V� n� do duy�n hợp, m� hợp th� phải tan, chỉ tan muộn hay sớm th�i. Ph�p g� sớm muộn cũng tan th� ph�p đ� c� thật kh�ng? Phật bảo kh�ng thật.

Nếu thấy c�c tướng kh�ng phải l� tướng, nghĩa l� thấy c�c tướng nhưng kh�ng chấp n� l� thật th� đ� l� thấy Phật. Dễ l�m sao! Như vậy Phật đ�u c� xa. Thấy c�c tướng biết n� kh�ng thật l� đ� gi�c, đ� minh rồi. Minh th� tự nhi�n dễ thấy Phật, dễ gần với Phật. Tuy nhi�n thấy được như vậy chưa hẳn l� sống được như vậy.

Giả sử b�y giờ c� ai hỏi chư Tăng ch�ng ta: "Thưa Thầy, th�n n�y thật hay giả? " Qu� Thầy trả lời sao? Nhất định l� giả, n�i nghe hay lắm, nhưng nếu c� ai chạm đến th�n m�nh một ch�t, l�c đ� mới biết thật hay giả? Ch�ng ta n�i theo lời Phật dạy nhưng ch�ng ta chưa sống được đ�ng như lời Phật dạy, nghĩa l� n�i được m� l�m chưa được.

N�i th�n n�y giả, qu� vị x�t kỹ giả như thế n�o? Đa số đều cho rằng v� do nh�n duy�n, đủ duy�n th� hợp, thiếu duy�n th� tan n�n n�i l� giả. T�i xin n�i một c�ch cụ thể hơn nữa để qu� vị nhận được th�n n�y giả trăm phần.

Tất cả chư Tăng, Ni đang ngồi đ�y, lỗ mũi m�nh đang l�m g�? Ai cũng bảo lỗ mũi m�nh đang thở. T�i đặt c�u hỏi lại, thở nghĩa l� g�? L� mượn kh�ng kh� ở ngo�i đem v�o. Mượn v�, trả ra, mượn v�, trả ra. N�i ngồi chơi nhưng thật kh�ng phải ngồi chơi, l�c n�o cũng mượn, trả.

Trong kinh Phật dạy, th�n ch�ng ta c� nội tứ đại l� đất, nước, gi�, lửa ở trong nhưng phải nhờ ngoại tứ đại hỗ trợ th� nội tứ đại mới c�n. Nếu ngoại tứ đại kh�ng phụ trợ th� nội tứ đại tan n�t. Như vậy hiện giờ lỗ mũi của ch�ng ta mượn kh�ng kh�, h�t v� l� mượn, thở ra l� trả. Cứ mượn trả li�n tục. L�c n�o đ� ch�ng ta trả m� kh�ng mượn nữa th� sao? Th� đi rồi phải kh�ng? Như vậy mượn trả đều đặn l� sống, trả m� kh�ng mượn l� chết.

Ch�ng ta mượn �t t�ch nước uống, mượn rồi cũng trả, mượn cơm cũng thế. Như vậy mượn nước, mượn đất, mượn gi�, mượn lửa đem v�o rồi trả ra. Thế th� gi� trị cuộc sống của ch�ng ta ở chỗ n�o? Nếu n� thật th� kh�ng cần mượn trả. Đ� vay mượn th� kh�ng thật.

Người đời đi t�m hạnh ph�c nơi n�y nơi kia, nhưng t�i n�i hạnh ph�c đơn giản lắm, chỉ mượn trả �m xu�i th� hạnh ph�c, mượn trả trục trặc l� mất hạnh ph�c. Như vậy ch�ng ta c� thể kết th�c lại, th�n n�y l� hư giả, sống bằng vay mượn, c� thật đ�u. Đ� l� n�i về th�n.

Về t�m, ch�ng ta lu�n lu�n suy gẫm, t�nh to�n một việc g� th� n�i t�i t�nh, t�m t�i nghĩ như vậy. Cho c�i suy t�nh đ� l� m�nh, l� t�i. T�i suy t�nh, t�i nghĩ ngợi, t�i ph�n biệt. Qu� vị thử x�t, nếu suy t�nh đ� l� t�i, khi một hai ph�t n�o ngồi chơi, kh�ng suy t�nh, l�c đ� c�i t�i kh�ng c�n sao? C�i t�i vẫn c�n, l�m sao n�i suy nghĩ l� t�i được. Nếu c�i suy nghĩ l� t�i thật th� l�c n�o cũng c�. Nhưng qu� vị tự soi lại t�m xem c�i suy nghĩ đ� ở đ�u, c� thấy n� kh�ng hay c�ng nh�n th� c�ng mất. B�nh thường n� dấy l�n nhưng soi lại t�m th� n� mất, vậy c� phải thật kh�ng? Đ�u phải thật.

Qu� vị thử nghĩ xem, từ thuở b� cho tới lớn, m�nh l� một hay m�nh l� nhiều? Nếu suy nghĩ l� m�nh th� suy nghĩ trăm thứ xấu tốt v. v� chẳng lẽ m�nh c� một trăm c�i t�i hay sao? Đ� l� những sai lầm m� ch�ng ta kh�ng biết, cứ tưởng thậ�t. Nếu ch�ng ta biết r� th�n n�y l� vay mượn, tạm bợ, ch�ng ta sẽ sống nhẹ nh�ng, thảnh thơi, tự tại.

Biết t�m lăng xăng, tưởng tượng l� hư ảo giả dối th� ch�ng ta kh�ng c�n cố chấp để tranh hơn, tranh thua với người. Cho n�n chấp th�n tứ đại giả hợp cho l� th�n m�nh thật, đ� l� si m�, l� v� minh. Chấp th�n đuổi theo b�ng d�ng s�u trần l� m�nh thật, đ� l� v� minh. Như vậy nếu ch�ng ta biết r�, ch�ng ta kh�ng chấp nữa th� v� minh th�nh minh. Minh tức l� gi�c, v� minh l� m�. C�i m� c�i gi�c đ� thay đổi như trở b�n tay. M� gi�c giống như s�ng v� tối vậy, đổi qua đổi lại hết sức dễ d�ng.

Vậy muốn gi�c ngộ dễ hay kh�? Ch�ng ta thường c� quan niệm, gi�c ngộ l� ph�ng h�o quang s�ng cả bầu trời, chớ kh�ng ngờ gi�c ngộ l� thấy được lẽ thật. Thật nơi người, thật nơi m�nh, thấy đ�ng như vậy l� gi�c ngộ.

Thiền t�ng cốt chỉ cho ch�ng ta th�n n�y l� giả dối tạm bợ, t�m vọng tưởng ph�n biệt suy gẫm l� b�ng d�ng kh�ng thật. Kh�ng chấp hai thứ đ� m� t�m cho ra c�i thật của ch�nh m�nh, đ� l� người tu Thiền. N�n tu Thiền l� phản quan tự kỷ, l� soi s�ng lại ch�nh m�nh t�m cho ra c�i ch�n thật.

V� l�u nay ch�ng ta cứ chấp giả l� thật n�n qu�n mất c�i thật. Ch�ng ta biết r� c�i giả kh�ng chấp nữa th� sẽ đ�o xới được c�i thật ngay trong đ�, chớ kh�ng đ�u xa hết, n�n n�i phải quay lại. T�i dẫn c�u chuyện tổ Huệ Khả, Ng�i l� Tổ thứ hai nhưng l� vị Tổ Trung Hoa đầu ti�n ngộ l� Thiền.

Khi được tổ Đạt Ma nhận l�m đồ đệ, Ng�i thưa:

- Bạch H�a thượng, t�m con kh�ng an, xin H�a thượng dạy con ph�p an t�m.

Tổ Đạt Ma bảo:

- �ng đem t�m ra đ�y ta an cho.

Nghe n�i vậy Ng�i sững người, xoay lại t�m một đỗi nhưng kh�ng thấy, Ng�i mới thưa:

- Bạch H�a thượng, con t�m t�m kh�ng được.

Tổ bảo:

- Ta đ� an t�m cho ngươi rồi.

C�u n�i n�y ng�y xưa t�i đọc chừng một trăm lần nhưng vẫn kh�ng hiểu g� hết. Sao m� kỳ lạ, an l�c n�o? T�m đ�u c� h�nh tướng m� đem ra, n�n l�c đ� tổ Huệ Khả mới nh�n lại t�m lăng xăng của m�nh. Đ�y gọi l� phản quan. Nhưng khi nh�n lại th� n� mất, mất tức l� kh�ng thật. N�n Tổ n�i "Ta đ� an t�m cho ngươi rồi". Đ� l� ph�p an t�m m� kh�ng c� ph�p. Chỉ phản quan t�m lại n� th� n� mất, mất l� an chớ c� g� đ�u.

Th� dụ ch�ng ta tu Tịnh độ, d�ng c�u niệm Phật để an t�m. Niệm từng c�u, từng c�u cho qu�n c�c niệm kh�c gọi l� an. Qu�n tất cả c�c thứ tạp nhạp nhưng c�n c�u niệm Phật, kế phải bỏ lu�n c�u niệm Phật nữa mới được. C�n tu theo Tổ, cứ nh�n thẳng v� trong xem t�m bất an ở đ�u, t�m lại kh�ng ra th� tự n� an rồi.

N�n đường lối tu Thiền của Thiền t�ng l� phản quan tự kỷ, soi s�ng lại ch�nh m�nh chớ kh�ng c� t�m kiếm ở đ�u xa, đ� l� lẽ thật. An rồi, tuy kh�ng c�n nghĩ suy m� vẫn biết. Qu� vị nhớ lại những ph�t gi�y ngồi kh�ng nghĩ suy, ch�ng ta c� biết hay kh�ng? Ch�ng ta quen cho rằng c� suy nghĩ mới biết, nhưng thật t�nh kh�ng phải vậy.

Trong kinh Lăng Nghi�m Phật chia ra hai thứ t�m: vọng t�m v� chơn t�m. Vọng t�m l� t�m suy nghĩ lăng xăng, hư dối n�n gọi l� vọng. Ch�n t�m l� c�i biết hằng hữu, kh�ng vắng mặt l�c n�o hết, sẵn c� nơi m�nh. Khi qu� vị nh�n một sự vật kh�ng suy nghĩ g� hết, qu� vị c� biết sự vật đ� kh�ng? Khi nghe tiếng kh�ng suy nghĩ g� hết, ch�ng ta c� biết tiếng đ� kh�ng? Tiếng người biết tiếng người, tiếng chu�ng trống biết tiếng chu�ng trống. Như vậy l� biết. C�i biết đ� c� vắng l�c n�o đ�u.

Nơi ch�ng ta c�i thấy, c�i nghe thường hằng hữu, kh�ng thiếu vắng l�c n�o cả. Nhưng v� ch�ng ta qu�n, chạy theo c�i lăng xăng sanh diệt cho đ� l� m�nh. B�y giờ lặng được những thứ lăng xăng suy nghĩ th� c�i ch�n thật hiện tiền, khỏi phải t�m kiếm đ�u xa. Do đ� Thiền hết sức l� gần.

Khi Lục tổ ngộ đạo rồi, Ngũ tổ tiễn Ng�i đi về ph�a Nam. Qua s�ng, Ng�i l�n bộ, c� một đo�n người đuổi theo gi�nh lại y b�t. Trong số đ� c� ng�i Huệ Minh đi trước, ng�y xưa �ng l� tướng đi tu n�n cỡi ngựa giỏi, v� vậy rượt theo kịp. Lục Tổ để y b�t tr�n tảng đ� rồi trốn v�o l�m cỏ n�i: "Y b�t l� biểu t�n, h� c� thể d�ng sức mạnh m� tranh gi�nh được sao? " (Biểu t�n l� để người thấy v� tin vị ấy đ� được Tổ ấn chứng ngộ đạo).

Huệ Minh thấy y b�t mừng qu�, nhấc l�n nhưng nhấc kh�ng nổi liền biết vật n�y c� g� si�u việt, phi thường n�n kh�ng gi�nh giựt nữa. Khi t�m gi�nh giựt hết, Ng�i liền gọi: H�nh giả! H�nh giả!

Ng�i Huệ Năng ở trong bụi c�y bước ra. Huệ Minh n�i:

- T�i đến đ�y v� ph�p chớ kh�ng v� y b�t.

Tổ bảo:

- Nếu �ng v� ph�p chớ kh�ng v� y b�t th� t�i sẽ n�i ph�p cho nghe, nhưng trước hết �ng phải lặng t�m, đừng nghĩ tưởng g�, t�i sẽ n�i.

Huệ Minh lặng lẽ. Tổ n�i:

- Kh�ng nghĩ thiện, kh�ng nghĩ �c th� c�i g� l� bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?

Nghe c�u đ� Huệ Minh liền ngộ.

Ch�ng ta nghĩ thiện, nghĩ �c, nghĩ phải, nghĩ quấy, những c�i nghĩ đ� l�m mất bản lai diện mục của m�nh. Nếu dừng n� lại th� bản lai diện mục hiện tiền. Hết sức l� đơn giản. Đ� l� � nghĩa th�m trầm trong nh� Thiền. Như vậy tu Thiền l� quay lại, phăng t�m c�i ch�n thật của ch�nh m�nh, chớ kh�ng phải c�i g� xa lạ ở b�n ngo�i.

Cho n�n gần đ�y ch�ng ta thấy người T�y phương c� khuynh hướng t�m hiểu đạo Phật, nhất l� t�m hiểu về Thiền. Năm 1964 t�i được qua Nhật Bản, c�ng một chuyến t�u với t�i c� v�i người T�y phương qua Nhật Bản học Thiền. Chẳng những Nhật Bản m� T�ch Lan, Miến Điện, Th�i Lan, người ta cũng t�m học kh� nhiều. Bấy giờ t�i mặc cảm, buồn, tại sao Thiền ở Việt Nam, n�i ri�ng l� Thiền t�ng, đ� c� trước Nhật Bản năm trăm năm v� k�o d�i m�i đến thế kỷ thứ XIX nhưng người ta lại kh�ng t�m học, m� họ qua Nhật Bản, Đ�i Loan, Mianma, Xri Lanca, Th�i Lan t�m học. Đ� l� điều ch�ng ta đ�ng buồn.

Chỗ người ta hướng về l� tu Thiền, v� đ� l� đường lối tu rất thực tế. C� thể n�i Thiền l� một m�n khoa học t�m linh chớ kh�ng phải chuyện xa x�i, ch�ng ta tu Thiền l� xoay lại b�n trong. Kinh A-h�m dạy, khi tọa thiền nếu c�n tham s�n si, biết c�n tham s�n si. Nếu hết tham s�n si biết hết tham s�n si. Như vậy biết r� nơi m�nh c�n điều g� xấu, điều g� tốt. Biết r� đ� l� Thiền. Tu Thiền theo Thiền t�ng l� quay lại m�nh để nhận ch�n rằng nơi m�nh c� c�i ch�n thật, gọi l� bản lai diện mục, l� Phật t�nh v. v� n� sẵn nơi m�nh nhưng m�nh bỏ qu�n. B�y giờ xoay lại t�m cho ra n�. Đ� l� việc thực tế nơi m�nh chớ kh�ng phải ở đ�u hết.

Nhưng muốn biết c�i thật th� trước phải hiểu c�i giả, nếu chấp giả l�m thật th� mu�n đời kh�ng biết c�i thật. N�n n�i đến tu Thiền phải thấy th�n như điện ảnh. Nếu chấp th�n n�y thật, t�m suy nghĩ thật th� kh�ng bao giờ ch�ng ta thấy được c�i thật. V� nhận giả l�m thật th� l�m sao biết được c�i thật ngay con người giả của ch�ng ta.

Như kinh Lăng Nghi�m n�i ch�n t�m v� vọng t�m. Ch�ng ta đang đuổi theo sống với vọng t�m th� ch�ng ta kh�ng thấy được ch�n t�m. Ch�ng ta quay lại tự nhận, tự thấy nơi m�nh, c�i g� thật, c�i g� giả, đừng theo c�i giả th� sống với c�i thật. Cho n�n t�i n�i đừng theo vọng tưởng, đ� l� m�nh đừng để c�i giả lừa, biết giả rồi th� c�i thật mới hiển lộ, đ� l� tinh thần tu Thiền.

Thiền th�ch hợp với khoa học hiện đại, v� n� rất cụ thể, kh�ng ai cho l� m� t�n hay tưởng tượng được. Trong Phật gi�o ch�ng ta c� rất nhiều ph�p m�n, song ph�p m�n n�o th�ch hợp với ho�n cảnh hiện tại th� ch�ng ta ch� t�m khai th�c, t�m hiểu v� truyền b�.

Mai sau con ch�u của ch�ng ta sẽ học h�nh giỏi hơn ch�ng ta nhiều, hiểu biết khoa học hơn. M� đ� c� kiến thức khoa học rồi nếu cha mẹ bảo c�ng đi con, lạy đi con c� phước, ch�ng sẽ kh�ng tin. Nếu thế hệ sau kh�ng tin, Phật gi�o l�c đ� sẽ ra sao? V� vậy ch�ng ta l� người lo xa, nh�n đến tương lai, ch�ng ta phải cố gắng gầy dựng đạo đức th�ch hợp với ho�n cảnh hiện tại v� tương lai. C� thế Phật gi�o mới trường tồn.

Giới Tăng Ni muốn mai kia l�m Phật sự được vu�ng tr�n, được tốt đẹp cần phải c� c�i nh�n s�ng suốt ấy. Nếu ch�ng ta cứ h�i l�ng với hiện tại, thấy Phật tử đi ch�a nhiều, c�ng lạy nhiều, ch�ng ta thỏa m�n. Như thế th� mai kia con ch�u ch�ng ta mất l�ng tin, chừng đ� Phật gi�o sẽ suy đồi. Ch�ng ta phải l�m sao cho Phật gi�o ph�t triển với thời đại khoa học, chớ kh�ng phải ph�t triển với thời xa xưa.

V� vậy l�c n�o t�i cũng cố gắng nỗ lực hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử cũng như những ai mộ đạo, đều thấy đạo Phật đ�ng như thật, đạo Phật l� ch�n l�, chớ kh�ng phải đạo Phật l� tưởng tượng. Như vậy mới hy vọng đạo Phật tồn tại l�u d�i hơn v� người ở c�c nước T�y phương sẽ tới Việt Nam nghi�n cứu những g� hay đẹp của Tổ ti�n m�nh, nhất l� Phật gi�o đời L� Trần, cả thế giới đều qu� k�nh. Ch�ng ta c� của qu� m� kh�ng khai th�c, để người T�y phương coi thường, khinh khi m�nh. B�y giờ ch�ng ta chịu kh� khai th�c, người ngo�i sẽ qu� sẽ k�nh.

T�i mong rằng tất cả qu� vị Tăng Ni trẻ c�n học được, c�n l�m nhiều Phật sự, cố gắng t�m hiểu cho thấu đ�o, để mai kia việc Phật sự tốt đẹp hơn. Đời ch�ng t�i cũng sắp t�n rồi, việc l�m kh�ng được bao nhi�u, ch�ng t�i tr�ng cậy nơi tất cả qu� vị. Buổi n�i chuyện h�m nay mong qu� vị suy nghĩ cho kỹ, gẫm lại xem c�i g� thật, c�i g� đ�ng, ứng dụng tu l�m sao cho Phật ph�p được l�u bền.

         Đ� l� chỗ mong mỏi của ch�ng t�i.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]