HOA V� ƯU
(Tập I)
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]
TAM HUỆ HỌC - TAM V� LẬU HỌC
Ng�y xưa t�i đ� từng n�i, t�i l� kẻ nợ của Tăng Ni. C� nhiều người lấy l�m lạ, tại sao t�i l� kẻ nợ của Tăng Ni? Bởi v� suốt đời t�i từ khi học đạo rồi đi dạy m�i cho tới ng�y nay, l�c n�o cũng đem hết t�m tư lo lắng suy nghĩ, gi�p cho Tăng Ni tu được, học được, c� kết quả tốt. Bởi suy nghĩ như vậy n�n ở đ�u t�i cũng lo lắng cho Tăng Ni. Thế n�n t�i nghĩ rằng người l�nh đạo Phật gi�o Việt Nam, hiện tại v� mai sau kh�ng thể chối bỏ tr�ch nhiệm đối với Tăng Ni được. Tại v� Phật gi�o Việt Nam c�n hay mất l� gốc ở Tăng Ni. L� đệ tử Phật, l�c n�o ch�ng ta cũng nhắm thẳng cội gốc để lo x�y dựng v� giữ g�n mạng mạch của Phật ph�p. Một ng�i ch�a m� thiếu Tăng Ni trụ tr� hướng dẫn cho Phật tử th� ng�i ch�a đ� kh�ng ph�t triển được. Như vậy r� r�ng tr�ch nhiệm của Tăng Ni rất nặng đối với Phật gi�o. Nếu Tăng Ni kh�ng đủ tư c�ch học, tu v� gi�o h�a th� tr�ch nhiệm đ� kh�ng tr�n. Muốn việc học, tu v� gi�o h�a đầy đủ th� phải hội tụ được ba yếu tố m� nh� Phật gọi tam huệ học, nghĩa l� Văn Tư Tu. Văn l� ch�ng ta học với những bậc trưởng thượng, những người đi trước, c�c Ng�i đem sự thấy, nghe, hiểu giảng dạy cho ch�ng ta. Ch�ng ta lắng nghe để nhập thần những điều ấy, đ� l� văn. Tuy nhi�n đạo Phật kh�ng cho ph�p ch�ng ta nghe rồi tin liền, m� phải vận dụng tr� tuệ của m�nh để gạn lọc, suy lường, xem lời dạy ấy c� phải l� ch�n l� chưa, đ�ng lẽ thật chưa? Bởi v� những vị đi trước ch�ng ta cũng l� ph�m tăng chứ chưa phải th�nh tăng. Đ� l� ph�m th� c� điều n�i rất đ�ng nhưng thỉnh thoảng vẫn c� điều n�i sai. V� vậy m� ch�ng ta phải gạn lọc, nghe rồi suy tư, gẫm x�t lại điều ch�ng ta nghe c� đ�ng lẽ thật hay kh�ng? Khi suy gẫm x�t đo�n như vậy l� ch�ng ta c� tr� tuệ n�n gọi l� tư huệ. C� văn m� kh�ng c� tư l� thiếu s�t lớn, bởi v� nghe đ�u tin đ�, n�i đ�ng cũng tin, n�i sai cũng tin th� người đ� chưa đủ th�ng minh tr� tuệ. N�n tư huệ l� điều kiện thiết yếu gi�p ch�ng ta mở s�ng con mắt tr� tuệ của m�nh. Nhưng tư kh�ng chưa đủ. Nghe v� nghiệm lời đ� đ�ng th� ch�ng ta phải tu, nghĩa l� ứng dụng điều đ� v�o ngay trong cuộc sống. Đ�y gọi l� tu huệ. Như nghe n�i về l� v� thường th� ch�ng ta phải suy gẫm l� v� thường c� thật đ�ng hay chưa, c� g� ngoại lệ kh�ng? Suy gẫm đến nơi đến chốn thấy đ�ng liền ứng dụng l� v� thường v�o cuộc sống của m�nh. Ứng dụng thế n�o? Ch�ng ta thấy đời v� thường n�n ch�n qu�, hết muốn l�m g� phải kh�ng? V� v� thường nay c�n mai mất th� l�m chỉ uổng c�ng nhọc sức. Suy nghĩ như vậy đ�ng kh�ng? Kh�ng đ�ng. Khi ch�ng ta hiểu cuộc đời l� v� thường, ch�ng ta cần phải tranh thủ. Ng�y nay, giờ n�y m�nh c�n khỏe mạnh, phải học, phải tu, l�m lợi �ch cho ch�ng sanh, để mai kia chết rồi l�m sao tu, l�m sao học, l�m sao lợi �ch cho ch�ng sanh được. Như vậy l� biết ứng dụng l� v� thường. Cho n�n c�c Tổ hồi xưa thường dạy: Thị nhật dĩ qu�, mạng diệc t�y giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu h� lạc, đại ch�ng đương cần tinh tấn, như cứu đầu nhi�n v. v� Nghĩa l�, ng�y nay đ� qua, mạng sống của ch�ng ta giảm đi một phần, như con c� ở dưới ao nước sắp cạn, mỗi ng�y qua l� mỗi ng�y gần với c�i chết. Vậy phải l�m sao? Phải tinh tấn tu h�nh, l�m lợi cho người gấp, như cứu lửa ch�y đầu. Nếu đầu c� t�c bị một đốm lửa rớt v�o, l�c đ� ch�ng ta thong thả xem n� ng�n ra sao hay phải dập tắt liền? Phải dập tắt liền. Cũng vậy, biết được th�n n�y v� thường, mạng người trong hơi thở th� ch�ng ta kh�ng thể chần chờ được, kh�ng thể sống ng�y nay, chờ ng�y mai, sống ng�y mai chờ ng�y mốt. Cứ như vậy để ng�y qua ng�y, mất hết th� giờ qu� b�u. Ch�ng ta phải ứng dụng l� v� thường v�o việc tu, việc học để tự lợi v� l�m lợi �ch cho ch�ng sanh. Đ� l� hiểu được l� v� thường. Như vậy l� Văn Tư Tu nhịp nh�ng theo nhau. Nếu n�i hiểu l� v� thường m� chỉ ngồi n�i d�c với nhau chơi chớ kh�ng gắng tu, gắng học, gắng l�m việc lợi �ch cho ch�ng sinh th� chưa thể gọi l� hiểu l� v� thường đ�ng với tinh thần Phật dạy. T�i nhắc lại Văn Tư Tu huệ. Văn l� học, học rồi suy gẫm nhận x�t l� Tư. Từ Văn, Tư ứng dụng tu h�nh l� Tu, đ� l� gi�o l� căn bản của người học Phật. Nhưng ngo�i ba điều căn bản của người học Phật n�y c�n c� ba điều nữa l� Giới, Định, Tuệ. Ba điều n�y gọi l� tam v� lậu học, nghĩa l� sao? Tức l� ba việc học kh�ng bị lọt, kh�ng bị rớt. N�i c�ch kh�c l� ba m�n học giải tho�t. Chữ v� lậu: V� l� kh�ng, lậu l� rớt. Kh�ng rơi rớt ở đ�u? Kh�ng rơi rớt trong tam giới. M� kh�ng rơi rớt trong tam giới l� giải tho�t rồi. N�n n�i tam v� lậu học nghe kh� hiểu, m� phải n�i r� rằng ba m�n học để giải tho�t sanh tử. Tam huệ học l� để sống tu v� l�m lợi �ch ch�ng sinh, c�n tam v� lậu học n�y l� để giải tho�t sanh tử. Muốn tu giải tho�t sanh tử th� phải c� đủ giới định tuệ. Giới l� giới luật. H�ng Sa di th� giữ 10 giới. Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo Ni 348 giới. Giữ giới l� điều căn bản, nhưng thực t�nh t�i thấy chư Tăng Ni b�y giờ kh�ng giữ nổi những giới chi tiết. Như hiện ch�ng ta tu theo Bắc t�ng, buổi chiều đ�u phải ai cũng ăn ch�o sơ sơ như trong luật dạy. Như vậy c� giữ được giới thứ ch�n chưa? Đ� l� t�i n�i chi tiết nhỏ, hạn cuộc trong giới của Sa di th�i m� m�nh c�n chưa giữ tr�n, huống nữa l� giới Tỳ kheo, c�c phần chi tiết như y b�t v. v� kh�ng thể giữ được. V� vậy n�n chủ trương của t�i l� Tăng Ni phải giữ những giới căn bản, giữ cho được. C�n những chi tiết, giữ được bao nhi�u tốt bấy nhi�u. Quan trọng l� những giới căn bản. Đ� l� giữ giới. Từ giới sanh định. Thường người ta n�i giới sanh định nhưng thật sự giới chưa sanh định. Giới chỉ gi�p để bảo vệ cho ch�ng ta tăng trưởng thiền định. Th� dụ ch�ng ta ngồi thiền cốt để cho t�m kh�ng xao l�ng, kh�ng chạy bậy. Nếu người n�o phạm giới rồi th� ngồi nhưng t�m vẫn chạy bậy, kềm kh�ng nổi. Vậy n�n giới l� h�ng r�o ngăn ngừa kh�ng cho ch�ng ta chạy bậy hay rơi v�o những nơi tội lỗi s�u thẳm kh�c. Nếu n�i cho đủ giới l� Ph�ng phi chỉ �c. Ph�ng l� ngừa, phi l� lỗi, ngăn ngừa c�c lỗi cho m�nh, chỉ �c l� dừng bỏ tội �c. Như vậy giới c� t�nh c�ch ngừa lỗi v� dứt �c cho ch�ng ta, chớ kh�ng phải l� thiền định. Nhưng giới gi�p cho thiền định. N�n trong kinh hay v� dụ ngọn đ�n đốt để ngo�i trời bị gi� thổi n�n dễ tắt. Nếu ngọn đ�n đ� c� ống kh�i chụp l�n th� n� đứng y�n. Cũng vậy, giới như ống kh�i chụp đ�n, giữ cho ngọn đ�n tr� tuệ của ch�ng ta được s�ng. Giới l� ngừa đ�n, n�n n�i giới sanh định l� v� thế. Nhờ c� giới cũng như nhờ c� b�ng đ�n n�n ngọn đ�n kh�ng bị tắt. Cũng vậy, nhờ giới m� t�m ch�ng ta kh�ng xao l�ng, được y�n định, y�n định n�n tr� tuệ ph�t khởi. V� vậy m� n�i giới sanh định, ch�ng ta kh�ng n�n hiểu lầm giới trực tiếp sanh ra định. Phải c� ph�p tu thiền định mới tăng trưởng được tr� tuệ. N�n n�i định sanh tuệ. Tại sao thiền định lại sanh tr� tuệ? Ch�ng ta do học n�n sanh tr� tuệ th� c� l�, c�n thiền định l� kh�ng suy nghĩ g� cả, sao lại sanh tr� tuệ? Đ�y l� vấn đề Tăng Ni cần phải hiểu cho tường tận. T�i mượn một v� dụ để n�i r� điều n�y. V� như c� c�i lu kh�ng, ch�ng ta xuống ao m�c nước đổ v�o lu. Nước mới đổ v�o c�n đục, ch�ng ta nh�n v� trong lu kh�ng thấy b�ng mặt m�nh. Tại sao? V� nước đục cấu bợn, kh�ng trong, kh�ng s�ng n�n kh�ng thấy h�nh ảnh b�n ngo�i. B�y giờ ch�ng ta chịu kh� quậy rồi l�ng cặn xuống chừng một v�i giờ, c�c cặn b� lặng hết xuống tận đ�y lu rồi th� khi đ� nước trong, ch�ng ta nh�n v� mới thấy mặt m�nh r� r�ng. Chẳng những đầu mặt m�nh m� tất cả cảnh vật đều chiếu rọi tr�n mặt nước đ�. Cũng như vậy, ch�ng ta tu thiền định l� để l�ng lặng t�m vọng. V� t�m n�y chạy như khỉ vượn. Bởi chạy như khỉ vượn n�n n� x�o trộn, muốn hết ng�u đục th� phải l�ng lặng lại. L�ng lặng lại tức l� thiền định, khi l�ng lặng rồi th� tr� tuệ ph�t s�ng. Vậy tr� tuệ đ� l� tr� tuệ g�? Tr� v� sư. Từ Văn Tư Tu cũng c� tr� tuệ. Từ Giới Định Tuệ cũng c� tr� tuệ, vậy hai thứ tr� tuệ n�y l� một hay kh�c? Kh�c vậy. Tr� tuệ trước l� tr� hữu sư, tr� do c� học. Tr� tuệ sau l� tr� v� sư, kh�ng do học. V� l�c thiền định đ�u c� học với ai. Mọi thứ vọng động lặng xuống th� s�ng. Đấy gọi l� tr� v� sư. Tr� hữu sư l� tr� từ b�n ngo�i m� được, c�n tr� v� sư l� tr� tự t�m m�nh ph�t ra. Như vậy tr� v� sư mới c� c�ng năng giải tho�t sanh tử, c�n tr� hữu sư kh�ng giải tho�t nổi. Hiểu như vậy ch�ng ta mới nắm vững con đường tu. Đức Thế T�n khi chưa th�nh đạo, Ng�i ngồi dưới cội Bồ-đề bốn mươi ch�n ng�y đ�m. Ng�i ngồi như vậy để l�m g�? Ngồi để thiền định. Khi định đ� s�u, t�m vắng lặng bỗng dưng ph�t ra tr� tuệ s�ng suốt v� c�ng. Tr� tuệ ấy từ trong nội t�m lưu xuất, cho n�n khi s�ng l�n rồi, Ng�i biết tất cả những g� trước kia chưa từng biết. Bởi v� sau khi ngộ đạo dưới cội Bồ đề th� Ng�i c� đủ Tam minh, Lục th�ng, Tứ v� sở �y, Thập b�t bất cộng v. v� Ở đ�y t�i chỉ n�i Tam minh th�i. Một l� T�c mạng minh: Khi Ng�i tu, t�m l�ng định ph�t s�ng liền nhớ lại v� số kiếp về trước đ� từng ở đ�u, l�m g�, t�n g� v. v� đ�y gọi l� T�c mạng minh. Khi ấy t�m ho�n to�n thanh tịnh, Ng�i nhớ lại c�u hỏi khi c�n tại gia Ng�i đ� thắc mắc, con người từ đ�u đến, trước khi c� mặt ở đ�y m�nh ở đ�u? Giờ ph�t ch�t bừng s�ng Ng�i nhớ r� r�ng. Trong một b�i kinh A-h�m Phật c� kể: Khi Ng�i chứng T�c mạng minh Ng�i nhớ lại v� số kiếp về trước như chuyện mới xảy ra h�m qua. Nhớ một c�ch r� r�ng tường tận. Từ đ� Ng�i hiểu được v� giải quyết được vấn đề con người từ đ�u lại. Ch�ng ta kh�ng phải ngẫu nhi�n c� mặt một lần ở đ�y, m� từ thuở n�o lang thang lu�n hồi. B�y giờ được l�m người mới biết tu h�nh để thấy r� cội gốc ấy. Do đ� đức Phật thừa nhận thuyết lu�n hồi l� ch�n l�. Hồi c�n học Tăng, t�i thường khổ sở về vấn đề n�y. Bởi nghi�n cứu kỹ những s�ch vở Ấn Độ t�i thấy thuyết lu�n hồi nghiệp b�o c� từ đạo B�-la- m�n, chớ kh�ng phải do Phật đặt ra. T�i hơi mặc cảm, tại sao Phật lại nhận gi�o ph�p của người ta. Nhưng về sau t�i thấy điều đ� kh�ng lỗi lầm g� cả. Khi ngộ đạo, thấy được lẽ thật rồi th� ai n�i đ�ng ch�ng ta nhận l� đ�ng, sai biết l� sai. Nếu việc đ�ng m� ch�ng ta kh�ng thừa nhận l� m�nh qu� thi�n kiến rồi. Cho n�n đức Phật rất s�ng suốt. Những g� trước đ�ng th� Ng�i d�ng, trước sai th� Ng�i sửa, chớ kh�ng phải b�c bỏ tất cả để lập một triết thuyết ho�n to�n của ri�ng m�nh. Như vậy tinh thần của đức Phật rất l� khoa học. Ng�y nay c�c nh� khoa học nghi�n cứu những vấn đề m� họ thắc mắc. Khi ph�t minh được, thấy đ�ng như những g� người trước ph�t minh th� họ kh�ng b�c bỏ m� c�ng tr�n trọng thừa nhận. Như vậy tinh thần học Phật rất khoa học, kh�ng c� t�nh c�ch độc đo�n tự lập để khoe m�nh giỏi. Điều g� trước đ�ng nhận l� đ�ng. Điều g� biết sai bảo l� sai để chỉnh lại, đ� l� tinh thần của đạo Phật. Khi chứng T�c mạng minh rồi, Ng�i thấy kh�ng phải Ng�i c� mặt một lần m� v� số lần hiện th�n trong c�c lo�i kh�c nhau. Hiểu như vậy n�n Ng�i n�i con người l� lu�n hồi. Do đ� nh� Phật thường n�i lang thang trong kiếp lu�n hồi, nay đ�y mai kia, kh�ng biết bao nhi�u lần sanh bao nhi�u lần tử. Điều n�y Phật đ� thấy r� chớ kh�ng phải học của người trước. Thế n�n trong kinh A-h�m, mới nghe Phật n�i thấy như bi quan, như "nước mắt ch�ng sanh nhiều hơn nước biển". Lời n�y đ�ng kh�ng? X�t trong một đời ch�ng ta gom lại chừng bao nhi�u nước mắt? Được một ch�n đi. Như vậy mỗi người một ch�n, một triệu người gom lại chừng một hồ, một ao l� nhiều. Nếu mấy trăm triệu người gom lại chừng bằng con s�ng nhỏ th�i, sao Phật n�i nhiều hơn nước biển cả? Ch�ng ta hiểu cạn cợt th� kh�ng thể tin lời Phật n�i được. Phải hiểu xa hơn, v� Phật n�i nước mắt ch�ng sinh đ�u chỉ một lần n�y m� v� số kiếp sanh tử, vậy nước mắt ấy kh�ng nhiều hơn nước biển cả l� g�? Gom hết c�i khổ đời n�y đời trước, đời trước nữa v. v� mới thấy c�i khổ qu� lớn v� kh�ng phải chỉ ở một đời. Song phần nhiều ch�ng ta chỉ nhớ trong đời n�y n�n cho rằng Phật n�i qu� đ�ng, chớ sự thật kh�ng phải qu� đ�ng. Đ� l� lời n�i ch� l�. Đức Phật n�i lu�n hồi kh�ng phải do suy gẫm m� do ngộ đạo rồi, thấy đ�ng như thật m� n�i. Hai l� Thi�n nh�n minh: T�c mạng minh l� đứng về thời gian qu� khứ, hiện tại, vị lai. Thi�n nh�n minh l� đứng về kh�ng gian. Minh n�y thấy được vật hết sức nhỏ, hết sức xa, thấy tường tận nghiệp quả của tất cả ch�ng sanh. Ch�ng sanh ra đời l� do nghiệp của qu� khứ hoặc l�nh hoặc dữ, m� dẫn tới thọ sanh đời n�y, tốt xấu kh�c nhau, thấy rất r� r�ng. Kinh n�i, khi chứng được Thi�n nh�n minh rồi, Ng�i thấy trong b�t nước c� v� số vi tr�ng. Hai mươi lăm thế kỷ trước khoa học chưa ph�t triển, chưa c� k�nh hiển vi m� đức Phật đ� thấy được vi tr�ng. V� vậy c�c ch�a Bắc t�ng trước khi uống nước hay tụng b�i kệ "Phật qu�n nhất b�t thủy, b�t vạn tứ thi�n tr�ng" v. v� Nghĩa l�, Phật nh�n trong một b�t nước thấy t�m vạn bốn ng�n vi tr�ng. Hồi đ� ai tin lời Phật n�i. Kh�ng ai tin hết. Chỉ c� những vị chứng A La H�n mới tin. Một lần c� vị Tỳ-kheo chứng A La H�n đi đường, khi qua sa mạc kh�t nước qu�, Ng�i gặp c�i ao hơi cạn định lấy nước uống. Nhưng khi d�ng thi�n nh�n, Ng�i nh�n thấy v� số vi tr�ng ở trong nước n�n kh�ng d�m uống v� trở lại bạch Phật: - Con qu� kh�t nước m� t�m được ao nước th� thấy v� số vi tr�ng n�n kh�ng uống được. Bạch Thế T�n, b�y giờ con phải l�m sao, nhịn kh�t để chết hay l� uống? Phật quở: - Sao �ng kh�ng d�ng nhục nh�n để nh�n. Nếu d�ng nhục nh�n th� kh�ng thấy vi tr�ng. Nghe Phật dạy vậy Ng�i liền d�ng nhục nh�n nh�n n�n kh�ng thấy vi tr�ng. Nhờ thế Ng�i khỏi chết kh�t. Như vậy r� r�ng Phật thấy được vi tr�ng, c�c vị A La H�n thấy được vi tr�ng. N�n trong Luật dạy ch�ng ta lọc nước trước khi uống l� v� thế. Đi đ�u phải mang theo đ�y lọc nước v� sợ uống nước sẽ giết hại vi tr�ng. Ng�y nay ch�ng ta kh�ng mang đ�y lọc nước theo l� v� nước đ� được lọc sẵn rồi, chỉ cần vặn robinet l� uống liền, mang đ�y lọc theo chi nữa. Hiện nay c� người đi đ�u cũng quải theo n�o l� đ�y lọc nước, y b�t, đủ thứ hết nhưng kh�ng bao giờ d�ng. Đ� l� chỉ biết giữ m� kh�ng biết d�ng. Sở dĩ Phật chế giới, chế m�n đồ l� cần thiết với ho�n cảnh bấy giờ. C�i lọc d�ng để lọc nước uống cho kh�ng hại vi tr�ng. Ng�y nay nước hoặc nấu ch�n, hoặc đ� khử tr�ng rồi th� đem theo lọc để l�m g�? T�i chủ trương giới luật l� quan trọng nhưng giới n�o hợp với ho�n cảnh của m�nh th� �p dụng, c�n giới n�o kh�ng hợp th� xin học cho biết th�i, chớ như c�i đ�y lọc nước đi đ�u cũng mang theo m� kh�ng d�ng th� thật l� cố chấp. Đ� l� n�i về vật rất nhỏ. C�n vật xa, Phật nh�n trong bầu vũ trụ thấy c� hằng h� sa số thế giới tức l� thế giới nhiều như c�t s�ng Ganga ở Ấn Độ. C�t s�ng Ganga chừng bao nhi�u? T�i n�i gần nhất như c�t s�ng Đồng Nai, c� ai đếm được kh�ng? S�ng Đồng Nai chỉ bằng một phần tư s�ng Ganga m� ch�ng ta c�n kh�ng thể đếm nổi th� c�t s�ng Ganga chừng bao nhi�u? Ng�y xưa người ta cứ tưởng trời tr�n đất vu�ng. Đất l� mảnh ở dưới để chở, c�n trời l� m�i ở tr�n để che, chỉ biết tr�n trời dưới đất thế th�i, nhưng Phật nh�n thấy ngo�i h�nh tinh của ch�ng ta c�n v� số h�nh tinh kh�c. Hồi xưa đ�u c� viễn vọng k�nh, Phật d�ng thi�n nh�n thấy được vật ở rất xa, rất nhỏ v� do đ� Ng�i thấy được tường tận nghiệp của ch�ng sanh. Ai mang nghiệp thiện, nghiệp �c th� theo nghiệp đ� dẫn đi thọ sanh. Trong A-h�m c� một b�i kinh Phật n�i: Ta nh�n thấy ch�ng sanh theo nghiệp đi lu�n hồi trong lục đạo như người đứng tr�n lầu cao nh�n xuống ng� tư đường, thấy kẻ đi qua người đi lại r� r�ng tường tận, kh�ng ch�t nghi ngờ. V� vậy Ng�i dạy mọi ch�ng sinh nếu biết tu thiện, tạo nghiệp l�nh th� sanh trong c�i l�nh, c�n tạo nghiệp dữ th� sanh trong c�i �c, kh�ng sai chạy, kh�ng nghi ngờ. Những g� Phật thấy v� n�i lại l� do Ng�i chứng kiến chớ kh�ng phải suy luận. Những b�i kinh Bổn sanh hay Bổn sự ng�y nay ch�ng ta đọc được trong tạng chữ Pali hoặc chữ H�n l� những b�i kinh n�i về tiền kiếp của đức Phật v� c�c vị Th�nh đệ tử. Kinh bổn sanh l� n�i tiền kiếp nhiều đời của đức Phật. Kinh Bổn sự n�i sự việc xảy ra giữa c�c vị B� la m�n hay c�c vị Tỳ kheo đời trước đ� từng l�m g�, b�y giờ chịu cảnh nghiệp quả ấy. Như c� vị Tỳ kheo chứng quả A La H�n rồi nhưng đi khất thực vẫn kh�ng c� cơm ăn. Phật n�i vị Tỳ kheo n�y đời trước bỏ đ�i một vị Tỳ kheo c�ng tu, n�n b�y giờ đi khất thực kh�ng ai c�ng, d� đ� chứng quả A La H�n. Như vậy những sự việc của chư Tăng xảy ra trong thời đức Phật, Ng�i thấy r� từ những kiếp trước, Ng�i n�i v� người sau ghi ch�p lại gọi l� kinh Bổn sự. C�n những sự việc của Ng�i về v� số kiếp trước gọi l� kinh Bổn sanh. Từ chỗ chứng được T�c mạng minh, nhớ v� số kiếp trước, cho n�n mới ghi chuyện Bổn sanh của Ng�i. Từ chứng được Thi�n nh�n minh, thấy được r� r�ng mỗi người sanh ở đ�u. Do theo nghiệp m� sanh c�i l�nh, c�i dữ chớ kh�ng phải ngẫu nhi�n, cũng kh�ng phải do Phật thương ai đưa về c�i đ�, gh�t ai đẩy qua c�i kia hoặc thi�n đường hoặc địa ngục v. v� Gi�o l� đạo Phật kh�ng phải vậy, l�m l�nh th� được quả l�nh, l�m dữ th� chịu quả dữ. Cho n�n đối với l� nh�n quả lu�n hồi của Phật dạy kh�ng c� g� để nghi hết. Ba l� Lậu tận minh: Lậu l� lọt, l� rớt. Kh�ng c�n rớt trong tam giới nữa, tức l� chứng được Lậu tận minh. Đ�y l� vấn đề m� trước khi xuất gia Ng�i đi dạo bốn cửa th�nh thấy người gi�, người bệnh, người chết, Ng�i thức tỉnh. Từ đ� Ng�i nghĩ phải t�m một phương ph�p n�o tho�t khỏi sanh gi� bệnh chết, n�n Ng�i đi tu ch�nh v� mục đ�ch ấy. Minh cuối c�ng n�y giải quyết được mục đ�ch của Ng�i l� ra khỏi sanh tử lu�n hồi v� do chứng được Lậu tận minh n�n Ng�i biết r� nguy�n nh�n đi trong sanh tử lu�n hồi v� nguy�n nh�n ra khỏi lu�n hồi sanh tử. Biết một c�ch r� r�ng tường tận. V� vậy Ng�i mới tuy�n bố "Ta đ� th�nh Phật". Như vậy việc ngộ đạo của Ng�i từ đ�u c�? Đ� l� vấn đề m� người học đạo ch�ng ta phải nắm thật vững. Nếu kh�ng ch�ng ta sẽ l�ng t�ng. Hồi xưa t�i c� c�i nghi, nghi Ng�i ngồi bốn mươi ch�n ng�y đ�m dưới cội Bồ đề l� ngồi suốt hay ngồi �t tiếng đồng hồ rồi xả, phải đi ra ngo�i giải quyết những vấn đề tiểu tiện v. v� Thật ra những việc n�y nếu thiếu kinh nghiệm ch�ng ta sẽ l�ng t�ng. N�n hồi xưa t�i đ� nghi v� chắc rằng qu� vị cũng c� người nghi. Nhưng b�y giờ th� t�i hết nghi, t�i biết r� r�ng lắm. Bởi v� thiền định m� chưa đến nơi đến chốn th� ch�ng ta ngồi tr�ng cho hết giờ. Nếu ngồi một giờ th� tới nửa giờ sau thấy hơi kh� chịu, nghe đồng hồ reo l� mừng lắm. Đ� l� bệnh của người mới tập tọa thiền, c�n người nhập định được rồi th� qu�n thời gian. Hồi xưa s�ch sử kể lại c�c Ng�i nhập định một năm, nửa năm. Gần đ�y t�i thấy r� quanh t�i c� những người nhập định suốt bảy ng�y m� kh�ng nghe n�i đ�i, kh�ng mắc tiểu tiện g� hết. T�i đ� chứng kiến việc n�y chớ kh�ng phải chỉ nghe kể lại. Ng�y nay chư tăng nhập định sơ sơ như vậy c�n được bảy ng�y, huống nữa l� Phật. Nếu nhập diệt tận định th� thời gian rất l�u. S�ch ghi c� vị Tỳ kheo v�o đời Đường nhập diệt tận định trong một bọng c�y bảy trăm năm, cho tới đời Minh c�y đ� h�p lại. Một h�m nh�n c� gi�ng b�o ngang qua, v� bọng c�y mỏng qu� n�n g�y, Ng�i rơi ra ngo�i. L�nh đi tuần kh�ng biết khối g�, họ mời c�c Thiền sư đến xem mới biết đ�y l� một vị Tăng nhập định. Thiền sư lắc linh (chu�ng nhỏ), l�c ấy t�c, m�ng tay bung lần ra. Vị Tăng nhập định hỏi b�y giờ l� l�c n�o, thời n�o. Nghe mọi người kể lại mới biết đ� bảy trăm năm. Sức định thật phi thường, ch�ng ta kh�ng thể lấy lượng ph�m t�nh m� hiểu được. C� tu mới thấy c�i hay, c�i cao si�u của người xưa. Nh�n chứng Lậu tận minh n�n Ng�i r� được nguy�n nh�n v� sao con người phải tr�i lăn trong sanh tử v� thấy r� con đường tho�t ly sanh tử. Ch�nh bản th�n Ng�i tho�t ra được rồi n�n mới thấy, c�n ở trong đ� th� kh�ng thấy. Th� như người ngồi trong lu, kh�ng thấy được b�n ngo�i lu. Muốn thấy to�n bộ c�i lu th� phải ra ngo�i mới thấy. Ng�i cũng vậy, chứng Lậu tận minh rồi dứt d�ng sanh tử, nh�n lại mới thấy manh mối sanh tử v� biết c�ch để tho�t ly. Đ� l� chủ yếu đời tu của Ng�i. Ng�i tuy�n bố gi�c ngộ th�nh Phật l� gi�c ngộ vi�n m�n. Ch�ng ta thử t�m xem tr� ngộ đạo đ� ở đ�u m� c�, do đ�u Ng�i biết được manh mối sanh tử v� tho�t ly sanh tử. Ch�ng ta nhớ trong kinh Ph�p C�, đức Phật n�i: "Ta học đạo kh�ng thầy". Kh�ng thầy m� sao th�nh đạo? Do Ng�i thiền định n�n tất cả vọng tưởng, tất cả những thứ t�m ng�u đục u tối đều lặng tan hết. Từ đ� v� sư tr� bừng s�ng, cho n�n Ng�i tuy�n bố học đạo kh�ng thầy. Ch�ng ta tu theo Phật phải c� hai tr�. Hữu sư tr� l� giai đoạn đầu v� v� sư tr� l� giai đoạn cuối, chớ kh�ng thể h�i l�ng thỏa m�n với hữu sư tr�. Trong những năm dạy ở Vạn Hạnh, t�i c� ch�t buồn. T�i nghĩ rằng v� t�nh người lớn đ�nh lừa người nhỏ. Tại sao? Bởi v� tu Phật l� dứt bỏ tham s�n si, m� bắt Tăng Ni thi. V� sợ rớt n�n họ phải quay b�i. Mỗi lần g�c thi t�i thấy buồn qu� m� kh�ng n�i được. Như vậy c� phải gian tham kh�ng? V� t�nh người trước b�y cho người sau gian tham. Họ sợ rớt th� họ phải b�y tr�. V� vậy sau n�y t�i chủ trương học, hiểu, tu chớ kh�ng thi. Đ� l� t�i n�i trong nội bộ nước m�nh. C�n chuyện nước ngo�i nữa. Những năm t�i đi Ấn Độ, đến trường Nalanda thăm qu� thầy, t�i cũng thấy được việc học. Văn bằng Tiến sĩ kh�ng phải l� vị Gi�o sư tu tại Thiền viện cấp m� do Bộ Gi�o dục cấp. �ng Bộ trưởng l� Th�nh hay ph�m? Như vậy bằng Tiến sĩ do một người thế tục cấp th� thử hỏi l�m sao? Bởi ch�ng tal� người xuất gia giải tho�t, cao si�u hơn tục gia cư sĩ, b�y giờ nhận bằng cấp từ một người đời th� đi tới đ�u. Cho n�n c� nhiều vị n�i đ�a: Vua Di�m Vương kh�ng sợ bằng Tiến sĩ của qu� thầy đ�u. Chừng nhắm mắt xuống dưới tr�nh, n�i t�i đậu bằng Tiến sĩ chắc Di�m Vương cũng cười th�i. Bằng cấp của �ng đ�u phải do những vị Th�nh nh�n hoặc chứng A La H�n, Tu đ� ho�n, Tư đ� h�m cấp m� l� cư sĩ ph�m tục cấp th� ai m� sợ. Sang Nhật Bản gặp qu� thầy học ở đ�y, t�i cũng thấy tương tự như vậy. Bằng Tiến sĩ do Bộ Gi�o dục cấp l� một danh dự, nhưng cũng từ cư sĩ cấp nữa. C� Bộ trưởng gi�o dục n�o l� người tu đ�u. Vậy m� ch�ng ta rất h�nh diện. Ch�ng ta hiếu học th� tốt nhưng hiếu danh l� kh�ng tốt. Đ� l� điều l�m cho ch�ng ta phải cực nhọc, c� khi phạm lỗi lầm. Người xưa cho học cho thi l� c� � n�ng đỡ Tăng Ni học tới nơi tới chốn. Nếu chỉ n�i tu th� c� nhiều người lười kh�ng chịu học, n�n bắt phải thi l�n lớp như vậy mới ham học. Người sau kh�ng hiểu th�m � ấy n�n v� t�nh th�nh ra bị mắc kẹt trong danh tướng. Nếu học l� học chớ kh�ng mắc kẹt tr�n danh tướng th� hay. Điều n�y đ�ng. Ngược lại học m� kẹt danh tướng rồi sanh ra tự cao ng� mạn th� sai. Như vậy trở th�nh ph�m tục mất, kh�ng c�n đạo l� nữa. Tr� v� sư kh�ng phải l� tr� của sở học m� tr� của sự tu. Tu l� g�? Nếu mỗi ng�y ch�ng ta chỉ c� hai thời kh�a tụng th� suốt đời kh�ng bao giờ ph�t sinh tr� v� sư. Phải thiền định. Dứt kho�t như vậy. Tr� của đức Phật thấy v� số thế giới ngo�i thế giới của ch�ng ta, thấy được vi tr�ng, thấy cả tế b�o ở trong con người. Ng�y xưa kh�ng n�i tế b�o m� n�i vi tr�ng. Tr�ng c� hai thứ, một l� hộ tr�ng, hai l� hoại tr�ng. B�y giờ gọi l� tế b�o. Tế b�o c� sự sinh hoạt giống như vi tr�ng. C� loại tế b�o bảo vệ chống những vi tr�ng b�n ngo�i x�m nhập cơ thể, n�n gọi l� hộ tr�ng. Tế b�o l�u ng�y hư hoại n�n gọi l� hoại tr�ng. Đức Phật thấy tường tận con người, tường tận thế giới chung quanh. Chỗ Phật thấy Ng�i chưa n�i hết với ch�ng ta. C� một b�i trong kinh A-h�m kể, đức Phật đi v�o rừng, Ng�i nắm một nắm l� kh� trong tay rồi hỏi c�c thầy Tỳ kheo: - L� c�y trong nắm tay ta nhiều hay l� c�y trong rừng nhiều? C�c Thầy trả lời: - Bạch Thế T�n, l� c�y trong rừng nhiều c�n l� c�y trong nắm tay của Thế T�n rất �t. Phật bảo: - Cũng vậy, những g� ta biết v� dạy cho c�c �ng �t như l� ở nắm tay. C�n những g� ta biết m� chưa dạy cho c�c �ng như l� c�y trong rừng. Bởi vậy n�n n�i Phật được nhất thiết tr� hay nhất thiết chủng tr� l� tr� biết tất cả. Nhưng v� người sau hiểu qu� �t n�n Ng�i chỉ dạy một �t th�i, chớ chưa dạy hết được. Qua đ�, ch�ng ta thấy gi� trị của sự tu cao si�u phi thường, chớ kh�ng phải tầm thường. Nhưng phần nhiều những người tu b�y giờ chỉ h�i l�ng với những c�i tầm thường. Kế tiếp ch�ng ta t�m hiểu xem nguy�n nh�n n�o khiến cho ch�ng ta đi trong sanh tử v� l�m sao để tho�t khỏi sanh tử? B�i kinh đầu ti�n đức Phật thuyết l� Tứ diệu đế. B�i kinh đ� l� căn bản của sự giải tho�t, trong kinh ch�ng ta thấy hai phần r� r�ng như Khổ đế, Tập đế. Tập đế l� nh�n, Khổ đế l� quả. Quả khổ kh�ng thể ngẫu nhi�n c� m� do tập nh�n mới c�. Tại sao đức Phật n�i ngược, lẽ ra phải n�i tập trước, khổ sau. Đ�y l� những � tứ nhỏ nhưng rất vi tế. V� như ng�y nay, trong ng�nh y học thấy hiện những tướng bệnh nặng hay nhẹ l� quả. Từ đ� người ta phăng t�m ra nguy�n nh�n, xem hư bộ phận n�o, do vi tr�ng g� v. v� mới c� c�ch trị liệu diệt vi tr�ng. Trước khi t�m vi tr�ng phải dựa v�o hiện tượng ở ngo�i v� n� dễ thấy dễ biết. Từ đ� phăng lần v� trong. Như vậy c�ch dạy của Phật rất khoa học. Nếu n�i tập nh�n th� đ�u biết tập nh�n l� g�, n�n n�i quả khổ trước. M� mọi người c� ai kh�ng c� quả khổ n�y đ�u. T�i n�i về tứ khổ trước. Ch�ng ta c� ai tr�nh khỏi tứ khổ kh�ng? Sanh, gi�, bệnh, chết. Ai cũng sanh gi� bệnh chết, đ� l� việc trước mắt. Th�m nữa l� b�t khổ: �i biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, o�n tắng hội khổ, ngũ ấm x� thạnh khổ. Tứ khổ hay b�t khổ ai kh�ng c�? Đ�y l� lẽ thật kh�ng nghi ngờ n�n gọi l� Đế. Tứ đế l� bốn điều ch�n thật, kh�ng bao giờ sai chạy. Như khổ đế, c� người n�o tho�t khỏi sanh gi� bệnh chết? C� người n�o khỏi �i biệt ly khổ? � Như vậy hoặc tứ khổ hoặc b�t khổ, người n�o cũng gặp kh�ng ai tr�nh khỏi. Từ quả n�y mới đi t�m nguy�n nh�n xem quả khổ từ đ�u m� ra. Phăng tới nguy�n nh�n của n� l� tập đế. Tập đế l� g�? Tức l� tham s�n si, n�i th�m ch�t nữa l� tham, s�n, si, mạn, nghi, �c kiến. C�n n�i nhiều hơn nữa th� v� số. Những thứ phiền n�o n�y l� nguy�n nh�n đưa tới đau khổ, kh�ng thể chối c�i được. Tất cả ch�ng ta ai kh�ng c� tham s�n si? Về tham th� c� tham t�i, tham sắc, tham danh, tham lợi, tham thực, tham th�y hoặc tham sắc, thinh, hương, vị, x�c. Nhưng t�i cho rằng con người tham sống l� số một. C� người n�o kh�ng sợ chết đ�u? Nếu kh�ng sợ chết th� kh�ng tham sống, c�n sợ chết l� tham sống. Bởi sợ chết cho n�n ch�ng ta mới muốn c� c�i n�y, c�i kia để bảo vệ sự sống. Tham sống l� c�i tham căn bản, l� c�i tham chấp ng� cho n�n chỗ kh�c d�ng từ �i ng� để chỉ cho c�i tham n�y. Ch�ng ta n�i thương người n�y, thương người kia, thương người nọ, nhưng thật ra ch�ng ta kh�ng thương ai bằng thương m�nh hết. Thương m�nh l� thương c�i g�? Thương th�n tứ đại giả hợp n�y. Song x�t cho kỹ th�n tứ đại giả hợp n�y c� g� đ�ng y�u, đ�ng thương kh�ng? Trong kinh Niết B�n c� th� dụ h�nh ảnh tứ x� đồng nhiếp, tức l� c� bốn con rắn ở chung trong một c�i rọ. Đất l� rắn, nước l� rắn, gi� l� rắn, lửa l� rắn. Bốn con cứ g�y lộn nhau ho�i. Tất cả ch�ng ta đều c� bốn con rắn đ�. Ch�ng c� h�a kh�ng? Rắn đất với rắn nước hay rắn đất với rắn gi� cắn nhau th� sanh bệnh. Như khi n�o ch�ng ta bị tr�ng gi� th� phải đ�nh gi� cấp tốc. C� g� lạ đ�u v� gi� mạnh th� đất rung rinh, � m�nh, đ�nh gi� một hồi nghe bớt đau. Nước với lửa cũng vậy. H�m n�o nghe đầu n�ng hổi th� biết lửa mạnh qu�, phải kiếm đồ m�t uống v�. Khi n�o thấy sưng ph� l� nước tăng, phải uống đồ ấm để b�nh trở lại. Ch�ng ta điều h�a đất nước gi� lửa như điều h�a bốn con rắn. Ch�ng cứ cắn lộn nhau ho�i. Nếu bắt ch�ng ta điều h�a bốn con rắn thật ở ngo�i chắc m�nh ch�n lắm. Vậy tại sao điều h�a bốn con rắn ở trong th� lại thương n�. N� l�m m�nh phiền đủ thứ hết m� thương l� sao, ch�ng ta s�ng suốt hay si m�? Bởi si m� n�n bị ch�ng điều khiển. Nay chạy kiếm thầy n�y, mai chạy kiếm thầy kia để điều trị cho n� h�a lại. Bản chất n� kh�ng khi n�o chịu h�a m� ch�ng ta cứ thương n� ho�i. Th�n n�y do bốn thứ chống chọi nhau hợp th�nh. Nhiều khi nh�n kỹ t�i thấy tức cười. Người ta cứ tr�ch sao huynh n�y, huynh kia sống chung kh�ng h�a thuận, nhưng t�i đặt lại c�u hỏi: Bản th�n m�nh c� h�a thuận với m�nh chưa? Th�n th� bốn thứ chọi nhau. T�m cũng vậy, c� l�c nghĩ hay, c� l�c nghĩ bậy. C�i nghĩ hay n� rầy c�i nghĩ bậy rồi hối hận, tự m�u thuẫn nhau. M�nh m� kh�ng h�a được th� h�a với ai. Chưa c� người n�o tự h�a được trọn vẹn. Nếu h�a được th� khỏi đi b�c sĩ. Ch� nước, ch� đất lấn nhau, ch� gi�, ch� lửa cũng cự ho�i, kh�ng cho m�nh y�n. Cho n�n điều h�a th�n m�nh đ� kh�, điều h�a t�m m�nh lại c�ng kh� hơn, huống nữa điều h�a với người kh�c. Cho n�n sống giữa đời n�y l� c�i v�ng m�u thuẫn. M�u thuẫn về th�n, m�u thuẫn về t�m. V� vậy n�i tới tu l� điều hết sức cay đắng. Bởi c� nh�n s�u v�o con người ch�ng ta mới thấy đủ thứ phiền. Phật n�i người chủ nu�i bốn con rắn, cố điều h�a m� n� cứ cắn nhau ho�i. H�m n�o rọ hư, bốn con mạnh đứa n�o đứa nấy chạy. Thế l� �ng chủ sửa rọ lại nu�i bốn con kh�c. Thời gian sau rọ lại hư, ch�ng bỏ chạy rồi �ng chủ cũng tiếp tục sửa rọ nu�i nữa. Cứ như vậy m� tiếp tục nu�i ho�i, vừa nu�i rắn vừa thương n� nữa, khổ chưa! Cuộc đời của ch�ng ta c� giống ch� nu�i rắn đ� kh�ng? Cứ rọ n�y hư sửa rọ kh�c nu�i rắn. Kh�ch quan ch�ng ta phải n�i thế n�o? Sao m�nh ngu qu� vậy, n� chạy đi lẽ ra ch�ng ta hết nợ, dại g� lại phải nu�i nữa. Do đ� m� đức Phật n�i ch�ng sanh đ�ng thương. C� th�n l� khổ m� cứ y�u th�n. Mất th�n n�y chụp th�n kh�c, chịu khổ v� c�ng tận, cứ mải đi trong lu�n hồi. Đức Phật n�i tham, s�n, si, mạn, nghi v. v� l� Tập đế, nguy�n nh�n của mất th�n n�y, t�m th�n kh�c tiếp tục m�i m�i. Khổ l� quả c�n nh�n th� c� nhiều thứ nhưng trọng t�m l� �i ng�. V� �i ng� m� c� tham, c� s�n, c� si v. v� Muốn ra khỏi sanh tử phải ph� cho được nh�n �i ng� n�y th� khổ sanh tử mới dừng. Nếu c�n �i ng� th� d� n�i tu hay g� nữa cũng phải trở lại, chớ chưa thể tho�t khỏi sanh tử. Cho n�n Phật dạy muốn giải tho�t sanh tử th� phải v� ng�. Bởi ch�ng ta �i ng� n�n mất th�n n�y tạo th�n kh�c li�n tục trong lục đạo lu�n hồi. Muốn khỏi lu�n hồi phải v� ng�, kh�ng c�n niệm �i ng�, kh�ng c�n niệm y�u chuộng c�i ta n�y l� thật nữa, th� l� v� ng� sẽ gi�p cho ch�ng ta tho�t ly sanh tử. V� từ �i m� sanh ra c�c thứ kh�c tạo quả khổ. Nh�n v� quả theo nhau. C�n �i ng� th� c�n lu�n hồi, kh�ng nghi ngờ g� nữa. Như vậy Khổ v� Tập l� nh�n quả trong lu�n hồi. B�y giờ Phật dạy Diệt đế v� Đạo đế l� nh�n quả giải tho�t. Đức Phật n�i nếu ch�ng ta kh�ng c�n sanh tử nữa, đ� l� Diệt đế. Phật kh�ng n�i Niết b�n giải tho�t m� n�i Diệt v� diệt hết mầm sanh tử l� giải tho�t. Muốn diệt hết mầm sanh tử phải thực h�nh Đạo đế. Đạo đế gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo như: Tứ niệm xứ, Tứ ch�nh cần, Tứ như � t�c, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất gi�c chi, B�t ch�nh đạo v. v� Đ�y l� ph�p để diệt �i ng�. Ch�ng ta thử x�t như Tứ niệm xứ c� phải l� căn bản để ph� �i ng� kh�ng? Một l� qu�n th�n bất tịnh. Do qu�n th�n bẩn thỉu, nhớp nh�a kh�ng ra g� n�n ch�ng ta ch�n n�, kh�ng c�n tiếp tục �i n� nữa. Kế qu�n thọ thị khổ, tất cả cảm gi�c m� mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n, � tiếp x�c với s�u trần b�n ngo�i cảm thọ khổ, lạc, kh�ng khổ, kh�ng lạc; ba thứ n�y Phật kết luận đều l� khổ. Tại sao? D� khổ, lạc hay kh�ng khổ kh�ng lạc đều l� những hiện tượng tạm bợ, v� thường, m� v� thường th� khổ chớ kh�ng vui được. V� dụ như ta nếm được vị ngon. Khi c�n ở lưỡi th� thơm ngon nhưng l�c sắp loại ra th� h�i thối, v� n� v� thường n�n đ�u phải lạc thật. Nếu lạc thật th� trước ngon, sau ngon, trước tốt, sau tốt nhưng kh�ng phải thế. Tất cả những thứ kh�c cũng như vậy. Người ta m� lầm l� v� �i th�n. Cứ trau dồi cho n� tốt, n� đẹp để gạt thi�n hạ m� cũng gạt ch�nh m�nh lu�n. V� m�nh cũng tưởng m�nh thật đẹp, do đ� �i ng� c�ng trầm trọng. M� đ� �i ng� trầm trọng th� lu�n hồi kh�ng dứt. N�n Phật bảo thấy th�n n�y nhớp nh�a, bất tịnh. Nhờ thế ch�ng ta ch�n kh�ng muốn mang th�n lần thứ hai nữa, hết lần n�y th� bỏ kh�ng tiếp tục. Những cảm gi�c ngon dở, vui buồn Phật kết luận l� tướng v� thường đều khổ. Như vậy thọ l� khổ. Hai điều vừa n�u l� phần thể x�c. Đến t�m v� thường, để thấy bệnh của con người hết chấp th�n lại chấp t�m. Thi�n hạ hay chấp t�m l� thật, t�m l� m�nh. Nhưng t�m đ� c� thật kh�ng? Ch�ng ta h�y kiểm lại xem. Chấp t�i nghĩ thế n�y l� đ�ng, ai c�i lại th� giận. Nhưng kh�ng biết điều m�nh nghĩ c� bảo đảm đ�ng ch�n l� chưa. Bởi nghĩ qua kinh nghiệm hoặc đọc s�ch vở b�n ngo�i rồi cho l� suy nghĩ của m�nh th� đ�u hẳn đ�ng. V� dụ t�i đang ngồi tr�n n�i, xa xa thấy c� đ�m m�y ở hướng Nam, gi� thổi tới một hồi th� mưa. H�m sau cũng thấy trời sắp chuyển mưa như vậy, n�n t�i k�u mọi người dọn đồ đạc v�. Ai kh�ng nghe lời t�i giận. Sau đ� gi� Đ�ng chuyển hướng, m�y bay nơi kh�c, trời kh�ng mưa nữa. Như vậy chắc g� kinh nghiệm của m�nh l� đ�ng. Ng�y h�m qua m�y gi� chuyển như vậy th� mưa, nhưng h�m nay lại kh�c. Cho n�n kinh nghiệm l� � niệm của qu� khứ, kh�ng thể thấu suốt được vị lai th� chắc g� suy nghĩ từ qu� khứ l� đ�ng. T�i rất th�ch lời đức Phật dạy trong kinh A-h�m: Người t�n trọng ch�n l� l� khi nghĩ điều g� th� n�i "Đ�y l� c�i nghĩ của t�i". Nếu người kh�c nghĩ kh�ng giống m�nh th� đ� l� c�i nghĩ của người. Như vậy đ�u c� c�i nhau, nếu cho rằng c�i nghĩ của t�i đ�ng, ai n�i kh�c l� sai, hai người đ�ng gặp nhau th� đưa tới c�i v�. Đ� l� kh�ng t�n trọng ch�n l�. T�n trọng ch�n l� l� t�n trọng lẽ thật. Biết suy nghĩ của m�nh do kinh nghiệm từ qu� khứ, c� khi đ�ng, c� khi sai th� người kh�c cũng vậy. V� thế ch�ng ta đừng cho c�i nghĩ của t�i l� đ�ng, của người kh�c l� sai. Ch�ng ta v� kh�ng biết t�n trọng ch�n l� n�n cứ xảy ra đấu tranh, c�i v� nhau ho�i. Nếu biết t�n trọng ch�n l� th� kh�ng như thế. Ch�ng ta kiểm lại sẽ thấy c�i nghĩ của m�nh kh�ng chắc, kh�ng đ�ng. Ng�y nay nghĩ thế n�y, ng�y mai nghĩ thế kh�c, do ho�n cảnh m� c� sai biệt, như vậy th� đ�u c� cố định được. N�n Phật dạy qu�n t�m v� thường l� một d�ng chảy, lu�n đổi thay kh�ng thật, đừng cố chấp n�. Đến qu�n ph�p v� ng�. Ph�p c� hai: một l� t�m ph�p, hai l� sắc ph�p. T�m ph�p tức l� t�m sở ph�p. Trong Duy thức học kể r� buồn, thương, giận, gh�t, những thứ đ� kh�ng phải l� ta. Vậy m� c� ai hỏi th� n�i t�i buồn qu� hoặc t�i giận qu�. T�i buồn, t�i giận tức chấp t�m sở ph�p l� t�i. Nếu buồn giận l� t�i th� khi hết buồn giận l� ai? Nếu buồn giận l� t�i th� lẽ ra khi hết buồn giận, c�i t�i cũng hết, nhưng t�i vẫn sờ sờ đ�y. Như vậy c� phải sai lầm kh�ng? N�n biết t�m ph�p kh�ng phải l� t�i. C�n sắc ph�p v� ng� l� sao? V� dụ như b�nh hoa, nh�n c� b�nh c� hoa n�n gọi l� b�nh hoa. Vậy c�i g� l� chủ? Nếu c� b�nh m� kh�ng hoa th� gọi b�nh hoa được kh�ng? Hay kh�ng b�nh, chỉ c� c�nh hoa để ở ngo�i th� gọi l� b�nh hoa được kh�ng? Như vậy qu�n s�t b�nh hoa chỉ l� giả danh, kh�ng c� chủ thể n�n kh�ng c� ng�. Nhận s�u nơi ch�ng ta chấp t�m ph�p l�m m�nh l� sai, sự vật b�n ngo�i chấp l� thật cũng kh�ng đ�ng. Đ�y gọi l� qu�n ph�p v� ng�. Qua đ� ch�ng ta thấy qu�n th�n bất tịnh, thọ l� khổ, t�m v� thường, ph�p v� ng� l� xo�y thẳng để ph� �i ng�. �i ng� hết l� v� ng�, l� Niết-b�n, l� v� sanh, r� r�ng như vậy. Việc tu của ch�ng ta cốt để đi tới giải tho�t sanh tử, n�n đức Phật dạy từ cạn đến s�u để ch�ng ta thấy tường tận. Như vậy ph�p qu�n Tứ niệm xứ ch�nh l� ph�p tu thiền. N�n biết gi�o l� trọng t�m của đạo Phật, Tứ đế l� căn bản. M� ngay từ Tứ đế, Phật đ� dạy như thế n�n Thiền định ch�nh l� cốt tủy, l� nền tảng của đạo Phật. T�m lại, ch�ng ta tu Phật trước nhất phải bắt đầu từ Tam huệ học tức l� Văn, Tư, Tu. Kế đ� l� Tam v� lậu học tức Giới, Định, Tuệ. Tu học như thế để giải tho�t sanh tử, l� mục đ�ch cứu c�nh của người xuất gia. Như vậy, một tu sĩ biết bổn phận của m�nh th� kh�ng thể thiếu Tam huệ học v� Tam v� lậu học. C� thế ch�ng ta tu mới đạt được kết quả tốt. Mong rằng tất cả ch�ng ta nghe hiểu, suy ngẫm v� tu tập đ�ng như những g� đức Phật đ� dạy, th� quả giải tho�t quyết sẽ đạt được, kh�ng nghi. ]
|