HOA V� ƯU
(Tập I)
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]
LỤC TẶC V� LỤC TH�NG
Đề t�i ch�ng t�i sẽ tr�nh b�y cho qu� Tăng Ni v� Phật tử h�m nay l� lục tặc v� lục th�ng. Thường người thế gian c� điều g� giận dỗi hay n�i "nổi tam b�nh lục tặc". Vậy lục tặc l� g�? Chữ tặc l� kẻ cướp, kẻ giặc. Trong kinh Phật lu�n lu�n dạy, mỗi ch�ng ta c� đủ s�u căn l� mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n, �. S�u căn đ� nếu m� lầm bị s�u trần l�i cuốn th� s�u căn biến th�nh lục tặc. C�n nếu ch�ng ta kh�o tu, kh�o gỡ, kh�ng cho d�nh nhiễm s�u trần th� s�u căn liền th�nh lục th�ng. Như vậy th� mắt, tai, mũi, lưỡi� của ch�ng ta l� lục tặc m� cũng l� lục th�ng. Chỉ kh�c một b�n kh�ng biết tu để cho d�nh nhiễm, c�n một b�n biết tu gỡ bỏ kh�ng cho d�nh nhiễm. Như mắt ch�ng ta thấy vật g� đẹp liền trầm trồ khen ngợi rồi sanh t�m ưa th�ch. Đ� gọi l� d�nh, l� nhiễm. Như vậy con mắt l� một đứa giặc. V� d�nh nhiễm với sắc trần cho n�n n� ph� hoại c�ng đức l�nh của m�nh, do đ� gọi n� l� giặc, l� kẻ cướp. C�c vị n�o tu m� thấy người đẹp, đồ vật đẹp, hoa đẹp liền ch� �, khen ngợi, ch�nh l� bị một đứa giặc dẫn đi rồi. Kế đến lỗ tai nghe lời khen, tiếng ch�. Nghe lời khen trong l�ng ch�ng ta vui mừng, bị ch� ch�ng ta phiền n�o, đ� l� đứa giặc thứ hai. Bởi v� vui mừng l� hiếu danh, phiền n�o l� bệnh hoạn n�n n� cướp mất c�ng đức l�nh của ch�ng ta. Lỗ mũi cũng vậy. Khi ta đi qua những chỗ c� hoa thơm, c� m�i ngọt ng�o th� ưa th�ch, c�n qua những chỗ c� m�i h�i thối th� kh�ng ưa. Như vậy lỗ mũi đ� ph� hoại c�ng đức của ch�ng ta. Đ� l� đứa giặc thứ ba. Đến lưỡi của ch�ng ta. Khi m�n ngon ch�ng ta thấy th�ch, ăn m�n dở ch�ng ta bực bội. Th�ch m�n ngon m� kh�ng được ăn, gh�t m�n dở m� bị ăn ho�i đ�m ra bực bội. Vậy c�i lưỡi th�ch ngon, ch�n dở đ� l� đứa giặc thứ tư. Thứ năm l� x�c chạm. X�c chạm những g� �m �i ta c� cảm gi�c th�ch th�, x�c chạm những g� th� nh�m kh� chịu th� ch�ng ta gh�t. Những x�c chạm đ� l�m ch�ng ta đắm mến, say m� hoặc l�m ch�ng ta kh� chịu ch�n gh�t, n�n n� l� đứa giặc thứ năm. Đứa thứ s�u l� �. � ch�ng ta tiếp x�c với ph�p trần, trần n�y hơi thầm k�n một ch�t. Khi ch�ng ta nhớ h�nh ảnh người ph� hoại m�nh th� bực bội, nhớ h�nh ảnh người thương mến m�nh liền dễ chịu. Đ� l� đứa giặc thứ s�u. Ch�ng ta h�y thật th� xem x�t c� phải s�u căn l� s�u đứa giặc kh�ng? Nếu phải th� ch�ng ta c�n c�ng đức hay mất c�ng đức? Nu�i s�u đứa giặc ph� ph�ch n�y th� c�ng đức ch�ng ta ti�u tan hết. Như vậy ch�ng ta tu l� phải l�m sao đừng để s�u căn d�nh nhiễm với s�u trần. Đ� l� đuổi được s�u đứa giặc hay c�n gọi l� lục tặc, nếu kh�ng bọn ch�ng sẽ l�m hư hoại c�c c�ng đức của ch�ng ta. Mỗi vị h�y tự kiểm lại m�nh để cố gắng kh�o tu. T�i dẫn một h�nh ảnh m� mọi người đều dễ thấy, dễ nhớ. Khi v�o ch�a ch�ng ta thường thấy thờ một vị Bồ-t�t h�nh tướng mập mạp, miệng cười toe to�t. Đ� l� Bồ-t�t Di Lặc. C� tượng Bồ-t�t ngồi với s�u đứa trẻ, đứa m�c con mắt, đứa chọc lỗ tai, đứa khều lỗ mũi, đứa thọt v�o miệng v. v� S�u đứa chọc ph� như vậy nhưng Bồ-t�t vẫn cười, kh�ng bực bội, kh�ng rầy r� g� hết. S�u đứa trẻ đ� tượng trưng cho lục tặc. Mặc d� ch�ng n� chọc ph� nhưng Ng�i vẫn thanh thản tự tại. S�u đứa giặc tức l� mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n, �, d� bị quấy nhiễu nhưng Bồ-t�t vẫn tươi cười, chứng tỏ Ng�i đ� thắng được lục tặc. Chi�m ngưỡng h�nh tượng Ng�i ch�ng ta phải học theo gương của Ng�i. Một vị Bồ-t�t l�c n�o cũng thong dong tự tại, kh�ng buồn phiền, bực bội. Như vậy lục tặc đối với Ng�i đ� th�nh lục th�ng rồi. Ch�ng ta tu phải l�m sao chuyển lục tặc th�nh lục th�ng mới l� người thắng trận. C�n nếu bị lục tặc nhiễu loạn th� th�nh người thua trận. Trong kinh A H�m chư Phật c� kể c�u chuyện một đ�n khỉ đi ăn. Khỉ ch�a ra lệnh tất cả khỉ con phải đi chung đ�n, theo sau khỉ ch�a kh�ng được đi tản m�t. Trong đ� c� một khỉ con thấy khỉ ch�a đi trước, gặp thức ăn ngon khỉ ch�a lượm ăn hết, n�n n� t�ch đ�n đi ri�ng lẽ để kiếm ăn. Khi thấy miếng mồi thơm ngon n� liền d�ng ch�n trước chụp lấy, kh�ng ngờ đ�y l� bẫy của thợ săn đ� g�i chất nhựa xung quanh n�n n� bị d�nh tay. D�nh tay n�y n� lấy tay kia gỡ n�n cũng d�nh lu�n. Kế lấy ch�n sau gỡ cũng bị d�nh, c�n lại một ch�n cố bươi cũng d�nh. Như vậy d�nh hết bốn ch�n n� d�ng c�i đu�i ngoe ngoe m�c cũng bị d�nh. Sau c�ng n� lấy c�i miệng quặp gỡ n�n bị d�nh lu�n. Bốn ch�n, đu�i, miệng, cả s�u thứ bị d�nh, hết cục cựa. Ch� thợ săn đến lượm bỏ v� giỏ quảy về. Phật mượn v� dụ n�y để n�i chư Tăng, chư Ni tu h�nh nương c�c bậc đạo đức. Nhưng khi thấy Phật tử c�ng dường c�c H�a thượng, kh�ng c�ng cho m�nh th� cảm thấy buồn v� ngh�o thiếu, n�n muốn ra ri�ng để được người ta qu� trọng hơn. Cũng như ch� khỉ con c�n trong đ�n, thấy khỉ ch�a hưởng hết những thức ăn ngon n�n bất b�nh mới bỏ đ�n. V� thiếu kinh nghiệm kh�ng biết đ�u l� mồi người ta bẫy, đ�u l� thật n�n gặp g� lượm nấy mới d�nh tay ch�n cho đến s�u căn, kh�ng c�n dẫy dụa được nữa. V� vậy bị thợ săn lượm bỏ v� giỏ. Đức Phật dụ miếng mồi l� s�u trần. Một tay bị d�nh rồi th� cả s�u bộ phận bị d�nh hết. Bẫy nhựa của thợ săn dụ cho s�u căn d�nh với s�u trần. Khi s�u căn d�nh với s�u trần rồi th� thợ săn (dụ cho Ma vương) x�ch đi đ�u cũng phải chịu. Ch�ng ta tu nếu kh�n ngoan th� như con khỉ đi theo đ�n, c� người bảo hộ. Khỉ con kh�ng d�nh bẫy n�n được tự do d� ăn �t một ch�t cũng kh�ng sao. C�n muốn ăn ngon, đi ri�ng lạc đ�n th� bị mắc bẫy rất l� tai hại. Như vậy s�u căn d�nh với s�u trần tức ch�ng ta bị Ma vương dẫn đi. N� biểu ch�ng ta l�m g� ch�ng ta đều phải nghe theo, kh�ng chạy đ�u được hết. Chư Tăng Ni tu bao nhi�u năm gỡ được mấy trần, c�n lại mấy trần? Nếu d�nh hết th� th�i coi như đầu h�ng Ma vương, c�n nếu d�nh một hai căn th� c�n dẫy dụa được, Ma vương chưa d�m nắm cổ l�i đi. Hiểu như vậy ch�ng ta mới thấy sự tu quan trọng. Hằng ng�y mắt đối sắc, tai đối thanh, mũi đối hương, miệng đối vị, th�n đối x�c, � đối ph�p trần kh�ng bị d�nh kẹt, đ� l� ch�ng ta giải tho�t. Nếu c�n d�nh kẹt th� ch�ng ta bị Ma vương dẫn đi trầm lu�n trong lục đạo lu�n hồi. Như vậy giải tho�t l� kh�ng d�nh mắc, c�n d�nh mắc l� kh�ng giải tho�t. Như ch�ng t�i vừa kể, h�nh ảnh con khỉ bị d�nh nhựa n�n mất tự do. Nếu kh�ng d�nh th� được tự do, đ� l� lục th�ng. Ngược lại c�n d�nh mắc l� lục tặc. Tăng Ni tu đừng để cho căn d�nh với s�u trần th� ch�ng ta được tự tại giải tho�t. C�n bị d�nh nhiễm th� mất hết tự do, đ� l� gốc của sự tu. T�i xin dẫn th�m chuyện của Lục tổ Huệ Năng với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Ngũ tổ đem kinh Kim Cang ra giảng cho Ng�i nghe. Kinh Kim Cang c� hai c�u hỏi của t�n giả Tu Bồ Đề. C�u thứ nhất: "Người ph�t t�m cầu V� thượng Ch�nh đẳng Ch�nh gi�c, l�m thế n�o để h�ng phục được t�m ấy? ". C�u hỏi thứ hai: "Người ph�t t�m cầu V� thượng Ch�nh đẳng Ch�nh gi�c, l�m thế n�o để an trụ được t�m ấy? ". Phần an trụ t�m, Lục tổ nghe giảng tới c�u "Bất ưng trụ sắc sanh t�m, bất ưng trụ thanh, hương, vị, x�c, ph�p sanh t�m. Ưng v� sở trụ nhi sanh kỳ t�m", Ng�i liền đại ngộ v� thốt to l�n: "Đ�u ngờ t�nh m�nh xưa nay thanh tịnh, đ�u ngờ t�nh m�nh vốn kh�ng sanh diệt v. v�". Ngũ tổ biết Ng�i đ� ngộ n�n truyền y b�t v� Ng�i trở th�nh vị Tổ thứ s�u. Như vậy Phật dạy muốn t�m y�n ổn, an trụ th� kh�ng n�n sanh t�m d�nh kẹt nơi sắc, thanh, hương, vị, x�c, ph�p. S�u căn kh�ng bị d�nh kẹt s�u trần l� an trụ t�m. C� nhiều vị tu hoặc ngồi niệm Phật hoặc tọa thiền nhưng t�m cứ chạy ho�i. Chạy theo s�u trần, nhớ người n�y, nhớ việc kia v. v� n�n t�m bị rối loạn. Nếu biết giữ t�m kh�ng cho d�nh với s�u trần th� t�m an trụ. M� t�m an trụ th� tiến đến quả vị V� thượng Ch�nh đẳng Ch�nh gi�c kh�ng kh�. Do đ� ch�ng ta mới thấy � nghĩa của kinh Kim Cang đ� khai ngộ cho Lục tổ l� vậy. Kế đ�y, t�i dẫn kinh Lăng Nghi�m. T�n giả A Nan hỏi Phật: - Bạch Thế T�n, c�i g� l� căn bản của lu�n hồi sanh tử, c�i g� l� căn bản của Bồ-đề Niết-b�n? Khi Ng�i hỏi c�u n�y đức Phật Th�ch Ca chưa trả lời th� mười phương chư Phật ứng thinh đồng n�i rằng: - N�y A Nan, cội gốc của căn bản phiền n�o, lu�n hồi sanh tử l� s�u căn của �ng. Cội gốc của Bồ-đề Niết-b�n cũng l� s�u căn của �ng. R� r�ng kh�ng ri�ng g� đức Phật Th�ch Ca n�i s�u căn l� gốc sanh tử, s�u căn l� gốc Bồ-đề Niết-b�n, m� mười phương chư Phật đều "Dị khẩu đồng �m" (kh�c miệng đồng lời) ph�t ra lời như thế. Do đ� ch�ng ta tu phải l�m sao để ch�nh m�nh dứt hết lu�n hồi sanh tử, để đạt được Bồ-đề Niết-b�n. Đ� l� gốc của sự tu. C�n nếu ch�ng ta vẫn bị phiền n�o k�o l�i, vẫn đi trong lu�n hồi sinh tử th� sự tu đ� kh�ng c� c�ng hiệu. Như vậy l� uổng cơm của đ�n na th� chủ. Muốn cho c� c�ng hiệu, kh�ng uổng cơm của đ�n na t�n th� th� phải biết r� s�u căn l� cội gốc của sanh tử, đừng để cho n� d�nh, đừng để cho n� nhiễm. C� thế ch�ng ta mới đ�ng l� người tu cầu giải tho�t sanh tử. S�u căn từ đ�u m� ra? N� sẵn nơi ch�ng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n, � ở ngay th�n m�nh chớ c� xa đ�u. Chỉ cần đừng để d�nh nhiễm l� đ� kh�o tu. Chớ nếu ch�ng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều m� ai động tới liền nổi s�n, c�i g� đẹp th� ưa th�ch, tu như vậy c� kết quả kh�ng? Mắt thấy sắc đẹp l�ng m� th�ch, tai nghe tiếng ch� trong bụng bực bội, như vậy l� chưa gỡ được c�c căn d�nh với c�c trần. Chưa gỡ được th� l�m sao ch�ng ta giải tho�t sanh tử, cho n�n tr�n đường tu ch�ng ta phải cố gắng nỗ lực, l�m sao gặp cảnh vui, cảnh buồn v. v� ch�ng ta vẫn tự tại. Đ� l� giải tho�t thật sự. Nếu chỉ c� h�nh thức, kh�ng giữ được s�u căn của m�nh th� kh� giải tho�t. � nghĩa Phật dạy hết sức r� r�ng. Trong nh� Thiền c� c�u chuyện n�y. Ng�i Ngưỡng Sơn Huệ Tịch thuộc hệ Quy Ngưỡng. L�c c�n đi tham vấn, Ng�i đến hỏi Thiền sư Trung Ấp - Hồng �n: - Bạch H�a thượng, thế n�o l� Phật t�nh? Ng�i Trung Ấp n�i: - Như c� một con khỉ bị nhốt trong chuồng c� s�u cửa. B�n ngo�i c� con khỉ tới cửa số một k�u ch�o ch�o. Rồi đến cửa thứ hai k�u ch�o ch�o, con khỉ b�n trong cũng đứng dậy k�u ch�o ch�o, cứ như vậy tiếp tục hết s�u cửa. Khi ấy ng�i Ngưỡng Sơn thưa rằng: - Nếu con khỉ b�n trong n� ngủ th� sao? Ng�i Trung Ấp từ tr�n t�a bước xuống nắm đứng n�i: - Ch�ng ta thấy nhau rồi. Qua c�u chuyện, ch�ng ta thấy c�i g�? Thường người ta cứ tưởng rằng Phật t�nh ở đ�u xa, kh� t�m, kh� biết. Nhưng Thiền sư n�i con khỉ nhốt trong lồng nghe con khỉ b�n ngo�i k�u liền đ�p lại. Như vậy Ng�i v� con khỉ b�n ngo�i l� trần, con khỉ b�n trong l� căn. B�n ngo�i c� sắc trần th� nh�n căn d�nh, b�n ngo�i c� thanh trần th� nhĩ căn d�nh, nghĩa l� s�u căn, đụng tới căn n�o th� căn đ� d�nh liền. Nhưng khi ở trong đ� y�n lặng th� b�n ngo�i tới k�u chọc n� vẫn im l�m, l�c đ� Phật t�nh hiện tiền chớ kh�ng c� g� kh�c. V� vậy n�n n�i khi con khỉ b�n trong ngủ y�n th� b�n ngo�i d� c� k�u mấy n� cũng kh�ng cựa quậy, v� n� kh�ng c� tiếp x�c nữa. Cũng vậy khi nội t�m của ch�ng ta y�n lặng s�ng suốt th� Phật t�nh hiện tiền, kh�ng t�m kiếm ở đ�u xa. Ch�ng ta tu v� muốn th�nh Phật, tức l� gi�c ngộ. M� gi�c ngộ ngay nội t�m m�nh, nếu ch�ng ta hằng tri hằng gi�c kh�ng chạy theo s�u trần th� đ� l� Phật t�nh hiển lộ rồi. Tu như vậy kh� hay dễ? C� xa x�i g� đ�u. Hiểu được � nghĩa n�y ch�ng ta mới thấy chuyện tu h�nh kh�ng phải chuyện xa vời m� rất gần, ở ngay trước mắt ch�ng ta, ngay bản th�n ch�ng ta. Tuy nhi�n lời Phật, Tổ dạy, nghe rất gần nhưng đụng sự thật th� ch�ng ta qu�n mất ti�u. Chỉ như lỗ tai, khi ch�ng ta đang b�nh tĩnh đang an ổn, nếu c� người đến chỉ mặt n�i rằng anh hay chị ngu như con b�. L�c đ� ch�ng ta thế n�o? Cười hay muốn t�t tai người ta? Nghe n�i ngu như con b� liền nổi tức l�n, m� nổi tức th� muốn cự lộn. Như vậy lỗ tai ch�ng ta c� d�nh nhựa phiền n�o chưa? Nếu d�nh rồi th� Ma vương chuẩn bị dẫn ch�ng ta đi th�i. Lỗ tai d�nh rồi th� c�c căn kh�c cũng d�nh theo, như mắt đỏ, tay muốn cựa quậy, c�c cơ quan đều muốn hoạt động theo cả. V� vậy ch�ng ta phải d� dặt kh�o tu. Giả sử c� người n�i chị l� con b�, điều đ� c� nhục kh�ng? T�i thấy đ�u c� g� nhục. Nếu ai n�i t�i l� con b�, t�i cười thưa phải, v� t�i c� uống sữa b�. Qu� vị c� uống sữa b� kh�ng? Thưa c�! C� th� người ta n�i m�nh l� con b� cũng phải qu�, c� g� đ�u lỗi lầm. C� g� đ�u để giận. Chuyện đ� rất b�nh thường. Th�n của ch�ng ta được kết hợp bởi rất nhiều th�nh phần. Mỗi một thứ vật chất đều gi�p cho m�nh sống c�n. Nhờ thế, tế b�o ch�ng ta tăng trưởng. Như vậy ch�ng ta sống được l� c� phần con b� trong đ� nữa chớ. Người ta n�i m�nh con b� l� phải qu� rồi. Cớ sao lại giận? Nhưng ở đời c� ai lại chịu như vậy đ�u. Nghe n�i con b� th� nổi giận, la h�t rồi đưa tới đ�nh đập nhau. Ch�ng ta bị đau khổ l� v� ch�ng ta kh�ng nhận ra lẽ thật ở con người. Như vậy kh�ng biết chừng n�o hết bị d�nh mắc, mới giải tho�t sanh tử. Th�m một điều nữa, l�u nay Phật tử ch�ng ta cứ nghĩ rằng m�nh c� c�i g� buồn, c�i g� giận, khi giận n�i t�i giận người đ� qu�, khi buồn n�i t�i buồn người đ� qu�. Như vậy qu� vị cho rằng c�i giận, c�i buồn l� t�i, l� m�nh. Nếu giận l� m�nh th� khi hết giận m�nh mất lu�n phải kh�ng? Nếu hết giận ch�ng ta vẫn c�n nguy�n th� l�m sao n�i giận l� m�nh được. Như vậy, giận kh�ng phải thật m�nh, buồn kh�ng phải thực m�nh. Đ� chỉ l� một phần nhỏ trong t�m ta th�i. N� sinh rồi n� diệt m� ch�ng ta lại đồng h�a n� với m�nh. Từ c�i m� lầm n�y n�n chịu khổ, cứ nghĩ m�nh thế n�y, m�nh thế kia. Sự thật giận kh�ng phải l� m�nh, đ� chỉ l� phản ứng của t�m s�n m� th�i. C�n c�i ta ch�n thật th� l�c n�o cũng tr�m khắp, kh�ng phải c�i s�n đ� đ�u. Nếu n�i s�n l� m�nh th� phải bảo vệ c�i s�n, n�n khi giận ai d� c� người khuy�n: "Huynh tu h�nh rồi m� giận l�m chi" th� cũng bảo vệ c�i giận của m�nh: "Tại v� người đ� l�m dễ giận qu� n�n t�i mới giận". Bởi nghĩ thế n�n cho c�i giận của m�nh c� l�, chấp v� giữ c�i giận của m�nh l� đ�ng. Buồn, thương, hờn, gh�t cũng như thế. Ch�ng ta suy nghĩ xem, nếu giận l� m�nh th� buồn kh�ng phải m�nh, thương kh�ng phải m�nh, gh�t kh�ng phải m�nh. Nhưng buồn, thương, giận, gh�t, c�i n�o ch�ng ta cũng cho l� m�nh cả. Như vậy c� mấy chục c�i m�nh, đ� l� điều sai lầm. N�n biết buồn, thương, giận, gh�t l� những t�m sở tạm thời dấy động rồi mất. Biết r� như vậy mới c� thể h�ng phục n�, thắng n�. C�n cho n� l� m�nh th� th�i hết h�ng phục, bởi v� n� ch�nh l� m�nh th� h�ng phục c�i g�. Đ� l� n�i về nội t�m. Đến phần th�n, khi ch�ng ta bị đau chỗ n�o th� n�i t�i đau qu�. N�i như vậy l� cho đau đ� l� t�i, nhưng khi hết đau th� t�i l�m sao? N�n biết c�i đau chỉ l� đau ở một bộ phận trong cơ thể, hoặc ch�n hoặc bụng đau chớ t�i kh�ng c� đau. V� vậy khi th�n đau ch�ng ta vẫn thấy thảnh thơi, kh�ng khổ. Nếu đau ch�n n�i t�i đau qu�, đau bụng n�i t�i đau, đau chỗ n�o cũng t�i hết th�nh ra quằn quại r�n la. Thấy ch�n đau c�n t�i kh�ng đau mới l� thấy ch�n thật. C�i thấy ch�n thật ấy biết được c�i đau, biết được ch�n đau, biết được bụng đau. Hiểu như vậy th� trong cuộc sống n�y ch�ng ta đ� l�m chủ được phần n�o. Ngược lại, ch�ng ta cứ đồng h�a giận th� t�i giận, đau th� t�i đau�, cứ đồng h�a như thế th� ch�ng ta kh�ng l�m sao điều khiển được ch�ng, kh�ng l�m sao đuổi ch�ng được. Thế n�n người tu phải s�ng suốt, nhận cho thật kỹ, khi gặp bệnh hoạn mới c� thể l�m chủ. Ng�y xưa khi c�c vị Thiền sư bị bệnh, c� người hỏi: H�a thượng bệnh, c� c�i chẳng bệnh chăng? C�c Ng�i đ�p: C�. Hỏi: C�i g� kh�ng bệnh? C�c Ng�i n�i: Ui da! Ui da! C�i biết r�n đ�, c�i ấy kh�ng bệnh. Như vậy để thấy rằng c�c Ng�i kh�ng đồng h�a như ch�ng ta. Do ch�ng ta lầm lẫn n�n từ đ� sanh ra những chướng ngại kh�c. T�i dẫn b�i kệ của một Thiền sư đời Trần, tức vua Trần Nh�n T�ng. L�c Ng�i giao ng�i lại cho con l�n l�m Th�i Thượng Ho�ng, cố vấn cho nh� vua cai trị đất nước. Thời gian n�y Ng�i l�m b�i ph� "Cư trần lạc đạo", tức b�i ph� n�i ở trong c�i đời m� vui với đạo. Kết th�c b�i ph� đ� c� bốn c�u thơ chữ H�n như thế n�y: Cư trần lạc đạo thả t�y duy�n Cơ tắc xan hề khốn tắc mi�n Gia trung hữu bảo hưu tầm m�ch Đối cảnh v� t�m mạc vấn Thiền. Tạm dịch: Ở đời vui đạo h�y t�y duy�n Đ�i đến th� ăn mệt ngủ liền Trong nh� c� b�u th�i t�m kiếm Đối cảnh kh�ng t�m chớ hỏi Thiền. T�i giải th�ch từng c�u ở đời vui đạo h�y t�y duy�n, người ở trong cuộc đời thế tục m� lu�n lu�n vui với đạo th� phải kh�o t�y duy�n. Kh�o l� sao? Đ�i đến th� ăn mệt ngủ liền, kh�o t�y duy�n l� như thế. Nhưng c�u đ� nhiều người hiểu lầm lắm. Giới tu sĩ trẻ nghe n�i thế th�ch lắm. Tu khỏe qu�, c� g� nhọc nhằn đ�u. Đ�i ăn, mệt ngủ thật sướng. C� một Thiền sư tu ở tr�n n�i, khi gặp người hỏi H�a thượng tu h�nh thế n�o, Ng�i đ�p "đ�i ăn, mệt ngủ". Vị cư sĩ ấy n�i đ�i ăn, mệt ngủ th� dễ qu�, t�i cũng đ�i ăn, mệt ngủ, vậy H�a thượng c� g� hơn t�i đ�u? Ng�i đ�p: N�i đ�i ăn, mệt ngủ nhưng người đời đ�i kh�ng chịu ăn, mệt kh�ng chịu ngủ. Ch�ng ta c� như vậy kh�ng? Như h�m n�o đi l�m về c� cơm n�ng, canh n�ng đ�ng ho�ng th� ngồi ăn vui. H�m n�o về mệt m� gặp cơm nguội, thức ăn nguội nữa th� dằn m�m, x�n ch�n một hồi rồi mới ăn. Đ� l� n�i trường hợp nguội lạnh, chưa kể những vị quen ăn ớt, ăn cay. Tới bữa ăn nếu gặp m�n hơi tanh lại kh�ng c� ớt th� sao? Phải chờ kiếm ớt rồi mới ăn. Như vậy đ�i c� chịu ăn đ�u? Rồi đến ngủ. Ng�i n�i người đời mệt m� kh�ng chịu ngủ lại suy nghĩ cả trăm việc. Cứ nằm lăn qua lộn lại, nhớ chuyện năm tr�n, năm dưới ho�i kh�ng chịu ngủ. Như vậy mệt c� chịu ngủ đ�u. Đ� l� người đời đ�i kh�ng chịu ăn, mệt kh�ng chịu ngủ. M� đ�i kh�ng chịu ăn, mệt kh�ng chịu ngủ l� chưa biết t�y duy�n. T�y duy�n l� đ�i đến th� ăn, mệt đến th� ngủ, kh�ng c� suy gẫm g� cả. Nếu được t�y duy�n th� ở trong đời m� vui với đạo. Người kh�ng kh�o t�y duy�n sẽ thấy trong đời kh� tu qu�, chuyện n�y chuyện kia phiền h�. Người kh�o tu thấy kh�ng kh�, việc g� đến th� t�y duy�n, giải quyết liền, kh�ng phải bận t�m lo lắng suy gẫm hay sợ sệt g� cả. Hai c�u ấy mới nghe dễ như trở b�n tay nhưng x�t kỹ kh�ng phải dễ đ�u. Đến c�u thứ ba trong nh� c� b�u th�i t�m kiếm, mỗi người ch�ng ta đều c� sẵn h�n ngọc qu� b�n trong, đừng t�m kiếm đ�u xa. Thường Phật tử ch�ng ta c� bệnh đi t�m Phật b�n ngo�i. Giả sử tr�n n�i c� h�n đ� n�o na n� tượng Phật th� t�m đến lạy l� m�, hoặc c� g� mối n�o na n� giống h�nh người cũng h� to�ng l�n l� Phật, rồi �p nhau lạy. T�m Phật như thế biết bao giờ mới gặp Phật. Ch�ng ta tu, đừng bao giờ lệ thuộc những h�nh ảnh hư ảo đ�, v� n� chỉ l� sự tưởng tượng. T�i đ� từng đi n�i, cũng từng v� những hang động. Trong hang c� những cục đ� na n� đức Quan �m th� người ta cho rằng đức Quan �m hiện về rồi r�p nhau lạy. Thật ra đ� l� chỉ do sự tưởng tượng vậy th�i, c� thật đ�u. Ch�nh �ng Phật ngay nơi m�nh lại kh�ng nhớ, kh�ng biết. Khi s�u căn kh�ng d�nh s�u trần l� Phật t�nh hiển lộ rồi. Phật ngay nơi ta lại kh�ng chịu t�m, cứ lo t�m tr�n n�i tr�n non, trong hang trong động n�n suốt đời cứ chạy ngược chạy xu�i, rốt lại khổ vẫn ho�n khổ. Bởi v� ch�ng ta đ� qu�n mất của b�u trong nh� th� t�m kiếm b�n ngo�i c�ch mấy cũng kh�ng c� được. Đ� l� một lầm lẫn lớn của h�ng Phật tử ch�ng ta. C�u ch�t đối cảnh kh�ng t�m chớ hỏi Thiền, s�u căn đối với s�u trần kh�ng c� d�nh mắc. Kh�ng t�m tức l� kh�ng c� c�c niệm, kh�ng suy nghĩ d�nh mắc. Đ� l� Thiền rồi. Ch�ng ta ngồi thiền một giờ, hai giờ thấy đau ch�n, chớ c�n tất cả giờ, những g� ở ngo�i đến đều kh�ng d�nh, kh�ng mắc th� dễ qu�. Thấy h�nh sắc kh�ng d�nh h�nh sắc, nghe �m thanh kh�ng d�nh �m thanh v. v� Đ� l� ch�ng ta đang tu Thiền, như vậy thảnh thơi biết mấy. Nhưng v� ch�ng ta cứ thấy th� d�nh, nghe th� nhiễm n�n bắt buộc phải ngồi Thiền, xếp ch�n ng� xuống cho bớt nghe, bớt thấy, gỡ lần lần như vậy. Nếu được đối cảnh v� t�m th� khỏi ngồi, ở đ�u cũng Thiền hết. Người biết tu th� mọi việc rất dễ d�ng, rất thuận lợi, c�n kh�ng biết tu th� thấy khổ, thấy kh�. C� nhiều vị tu rất đ�ng thương. Như nghe n�i ăn chay l� tu n�n bắt đầu ăn chay nhưng kh�ng đủ phương tiện th�nh ra xanh xao, khổ sở. Lại nghe người ta quở ăn chay ốm qu�, từ đ� sanh buồn nhưng kh�ng d�m bỏ ăn chay, sợ mất c�ng đức. Do ức chế như vậy n�n ai n�i động tới liền giận, ai chọc tới liền phiền. Cứ giận phiền ho�i th� ăn chay c� lợi �ch g�? Đ� chỉ l� giỏi ăn chay th�i chớ kh�ng giỏi tu. Tu l� đừng d�nh nhiễm, nghe khen chẳng vội mừng, nghe ch� kh�ng vội giận, thấy đẹp đừng ưa th�ch, thấy xấu đừng gh�t bỏ v. v� Tất cả s�u căn kh�ng d�nh nhiễm s�u trần, đ� l� tu kỹ, tu đ�ng. Nếu c�n dễ d�nh nhiễm th� ch�ng ta tu chưa đ�ng, chưa kỹ. Nhiều người v� việc ăn chay của m�nh n�n khi đến nh� ai cầm đ�i đũa ngửi hơi tanh liền bu�ng đũa lắc đầu. Đ� l� c�n chấp hơn thi�n hạ nữa. Đạo Phật kh�ng đặt ăn chay l� tr�n hết, như c�c sư Nguy�n thủy đi khất thực, Phật tử cho g� nhận nấy chớ đ�u c� ch� khen. C�n người tu kỹ qu�, đũa hơi h�i cũng ch�. Đ� l� những điểm kh�ng kh�o, chỉ chuộng về h�nh thức, kh�ng phải tu ngay trong t�m t�nh của m�nh. Tăng Ni ch�ng ta được ph�c duy�n lớn, n�n ng�y nay biết thức tỉnh v�o ch�a tu, bỏ hết triền phược của thế gian để cầu giải tho�t. V� vậy cần phải nắm cho vững, hiểu cho thấu đ�o lời dạy của Phật, Tổ để ứng dụng v�o đời tu của m�nh, như vậy mới kh�ng uổng ph� cuộc đời. Ngược lại ch�ng ta tu để m� tu chớ kh�ng biết g� hết th� chỉ uổng một đời, kh�ng đi tới đ�u cả. Người xuất gia cần phải tu tiến mới c� thể dạy cho h�ng cư sĩ tu được. Nếu người xuất gia tu kh�ng ra g� th� dạy Phật tử tu cũng kh�ng ra g�. Đ� l� mối họa lớn. Mong rằng tất cả Tăng Ni h�y � thức được điều đ�, nỗ lực tu h�nh, đủ t�i đức mai kia dẫn dắt Phật tử đi đ�ng đường. Đ� l� biết lợi m�nh, lợi người hay tự gi�c gi�c tha, gi�c hạnh vi�n m�n. C� thế mới xứng đ�ng dự v�o h�ng Th�ch tử của Như Lai. ]
|