Thiền Tông Việt Nam

[Trang chu] [Kinh sach]

HOA V� ƯU

(Tập I)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


BA ĐIỀU CĂN BẢN
       CỦA NGƯỜI TU PHẬT

 

H�m nay ch�ng t�i xin n�i đề t�i Ba điều căn bản của người tu Phật. V� ch�ng ta tu Phật phải biết thế n�o l� cội gốc, thế n�o l� ngọn ng�nh. Ba điều n�y t�i căn cứ theo kinh Ph�p Hoa, nhắc lại cho qu� vị nhớ v� thực h�nh.

Trong kinh Ph�p Hoa Phật dạy: "Người tu Phật phải v�o nh� Như Lai, mặc �o Như Lai, ngồi t�a Như Lai". Ch�ng ta tu theo Phật th� phải v�o nh� Phật, mặc y Phật v� ngồi t�a của Phật. Như vậy mới trung th�nh với đức Phật, mới c� thể th�nh c�ng được sở nguyện tu h�nh của m�nh.

V�o nh� Như Lai l� g�? Đức Phật dạy v�o nh� Như Lai l� thực h�nh l�ng từ bi. Ch�ng ta muốn v�o nh� Phật phải mở rộng l�ng thương đối với tất cả mọi người. Nếu người tu h�nh m� kh�ng c� t�m từ bi th� kh�ng phải l� đệ tử của Phật. Cho n�n t�m từ bi l� bước đầu để đem lợi �ch cho ch�ng sanh. Đ� l� t�m nguyện của người Phật tử tu theo Phật. Thế th� thương ch�ng sanh bằng c�ch n�o v� thương những ai? T�i sẽ lần lượt dẫn cho qu� vị thấy.

Thứ nhất, ch�ng ta thương mến những người th�n c�ng sống chung quanh với m�nh. Giới xuất gia th� những người c�ng tu trong một viện, một ch�a, huynh đệ phải thương nhau, bảo bọc nhau. V� sao? V� tất cả ch�ng ta c�ng một l� tưởng tu h�nh cầu giải tho�t, cầu gi�c ngộ. Đ� đồng một l� tưởng, v� l� ch�ng ta lại kh�ng thương nhau? Thương nhau để m� đ�m bọc, thương nhau để m� tha thứ cho nhau, đừng l�m phiền lụy, đừng l�m khổ đau cho những người chung sống với m�nh.

Giới cư sĩ tại gia, qu� Phật tử phải thương những người trong gia đ�nh, những người th�n tộc của m�nh, những ai chung quanh c� c�ng, c� nghĩa với m�nh, ch�ng ta đều thương, đều mến, đừng bỏ s�t người n�o, xử sự với tất cả trong t�nh thương y�u k�nh trọng.

Thứ hai, nếu l� giới xuất gia, c�c vị phải thương mến c�c vị th� chủ đ� bỏ c�ng, bỏ của gi�p đỡ ch�ng ta c� phương tiện tu h�nh. Ch�ng ta phải nỗ lực tu sao cho đủ phước, đủ đức để độ những vị đ�, kh�ng thể thọ nhận của th� chủ rồi ăn chơi vui vẻ qua ng�y. Như thế l� phụ �n của đ�n na th� chủ.

Trong kinh Phật thường dạy: Phật tử c�ng dường Tam Bảo giống như người n�ng phu l�m ruộng vậy.

Trước hết ch�ng ta phải lựa những thửa ruộng ph� nhi�u đất tốt để gieo giống. Cũng vậy, Phật tử c�ng dường Tăng Ni cũng phải nghĩ chỗ n�o tu h�nh ch�n ch�nh, những vị tiến l�n theo con đường Phật chỉ dạy� đ� l� những vị g�nh v�c Phật sự đ�ng qu�, đ�ng k�nh. Gieo giống những thửa ruộng tốt hết rồi mới tiếp theo những thửa ruộng vừa phải, kh�ng tốt lắm v� cuối c�ng l� những thửa ruộng kh� cằn.

Như vậy người tu l� người tạo phước đức cho ch�ng sanh, nhận của đ�n na th� chủ c� nghĩa l� ch�ng ta nhận phần gi�p đỡ bằ�ng vật chất để rồi ch�ng ta tu, ch�ng ta sẽ gi�p đỡ lại, cứu độ lại phần tinh thần cho Phật tử. N�n ch�ng ta thương những vị th� chủ. Nếu l� Phật tử tại gia th� phải thương mến những người c� c�ng gi�p đỡ cho m�nh sống, c� c�ng đem lại sự tốt đẹp, an l�nh cho m�nh. Lu�n nhớ ơn v� đền ơn cho xứng đ�ng.

Thứ ba, thương tất cả những người c�n m� lầm. Ch�ng ta được ph�c duy�n lớn n�n mới xuất gia, bởi v� xuất gia l� đ� thức tỉnh, nếu kh�ng tỉnh th� m�nh cứ đi tr�n đường đời chớ kh�ng trở g�t v�o ch�a đi tr�n đường giải tho�t. C�n người đời v� bận bịu thế gian, chuyện gia đ�nh th�n quyến n�n cứ say m� l�m ăn cho c� tiền của, kh�ng nghĩ tới đạo l� thức tỉnh, n�n ch�ng ta thương x�t những người si m� ấy, l�m sao đ�nh thức để họ tỉnh, như vậy mới tr�n bổn phận một người tu. Đức Phật thường dạy người tu phải c� đủ tự gi�c v� gi�c tha. Nếu chỉ tự gi�c đ� l� xong phần m�nh nhưng c�n phải gi�c tha nữa, l�m sao cho những người chung quanh m�nh c�ng gi�c ngộ. Như thế mới tr�n bổn phận của một tu sĩ tu Phật.

Với người cư sĩ, qu� Phật tử cũng phải c� tr�ch nhiệm v� m�nh đ� biết đạo, đ� nếm được m�i vị th�m trầm của Phật ph�p, ch�ng ta cũng phải đem chia xẻ cho huynh đệ m�nh c�ng hưởng, c�ng nếm. Đ� l� tinh thần tự gi�c, gi�c tha. Tinh thần thương y�u n�y kh�ng ri�ng g� người xuất gia m� kể cả người tại gia cũng mở l�ng từ bi thương những người m� lầm hơn ch�ng ta v� cố gắng đ�nh thức họ c�ng tỉnh, c�ng tiến tu, c�ng hết khổ như m�nh.

Thứ tư, từ bi l� thương tất cả ch�ng sanh từ lo�i người cho đến lo�i vật. V� vậy m�a Vu Lan Phật tử thường mua chim thả để thể hiện l�ng từ bi của m�nh, nhưng việc l�m n�y nếu kh�ng kh�o sẽ trở th�nh �ch kỷ. V� qu� vị nhốt chim trong lồng chờ qu� thầy tụng kinh cầu nguyện cho m�nh được an vui hạnh ph�c rồi mới thả, trong khi mấy ch� chim muốn chết ngộp hết cả. Đ� l� tr�i với l�ng từ bi, v� t�nh ch�ng ta trở th�nh �ch kỷ l� vậy.

Khi đ� tu hoặc xuất gia, hoặc tại gia ch�ng ta đều mở l�ng thương v� người, v� ch�ng sanh. Đ� mới thật l� l�ng từ bi. C�n t�nh thương �ch kỷ gọi l� l�ng thương vị ng�.

Đến phần mặc �o Như Lai. �o Như Lai l� g�? Phật dạy �o Như Lai l� l�ng nhu h�a nhẫn nhục. Chữ nhẫn nhục n�y c� nhiều người hiểu theo nghĩa ti�u cực, cho rằng nhẫn l� nhục. V� nhẫn n�n chịu thua, v� thua n�n nhục. Nghĩ như vậy l� sai lầm.

Chữ nhẫn trong đạo Phật nghĩa l� c� sức chịu đựng, c� sức an nhẫn. An nhẫn những điều tr�i tai, gai mắt, ch�ng ta kh�ng tức giận, kh�ng bực bội. An nhẫn được những sự đ�i hỏi, những nhu cầu th�m kh�t của th�n, ch�ng ta đều an nhẫn được. An nhẫn được ho�n cảnh kh� khăn, thời tiết n�ng lạnh bất thường. N�n chữ nhẫn nhục trong nh� Phật n�i l�n một sức chịu đựng mạnh mẽ phi thường. Như c� người chọc giận m�nh, l�m tr�i � m�nh th� ch�ng ta mạnh mẽ l�m chủ, đừng để cơn s�n dấy l�n, hiện ra ở miệng, ở tay. Do đ� phải c� sức chịu đựng cứng cỏi, gan dạ, kh�ng thể yếu đuối được.

Kinh Ph�p C� c� c�u: "Thắng một vạn qu�n kh�ng bằng thắng m�nh. Thắng m�nh mới l� chiến c�ng oanh liệt". Cơn tức giận dấy l�n m� ch�ng ta thắng được tức l� c�ng phu tu h�nh mạnh mẽ, sức chịu đựng cứng cỏi chớ kh�ng phải tầm thường. Như vậy sao gọi l� nhục nh� được! Thắng được m�nh c�n hơn một �ng tướng thắng cả một vạn qu�n. Người nhẫn nhục thắng được m�nh th� đ�u phải yếu đuối.

Trong cuộc sống hằng ng�y ch�ng ta gặp rất nhiều điều bất như �. Nếu ch�ng ta kh�ng c� sức chịu đựng, kh�ng c� sức kham nhẫn th� ch�ng ta sẽ đau khổ li�n mi�n. Ngược lại ch�ng ta đủ sức kham nhẫn chịu đựng th� ch�ng ta sẽ được an vui tự tại. V� vậy Phật dạy người tu phải tập đức nhẫn nhục. Đức nhẫn nhục đ� được đầy đủ gọi l� mặc �o Như Lai.

Cho n�n người tu kh�ng n�n c� th�i độ n�ng giận, l�c n�o cũng e d� sợ sệt một cơn giận nổi l�n. N� l� c�i họa lớn, thi�u đốt c�ng đức bao nhi�u năm tu h�nh khổ cực của m�nh. Đức Phật dạy "chỉ một đốm lửa s�n l�m ch�y cả rừng c�ng đức". Nếu ch�ng ta lu�n nghĩ tới đạo đức, nghĩ tới c�ng phu của m�nh th� phải kh�o d� dặt, đừng cho những cơn n�ng giận khởi l�n.

Nhẫn nhục c� chia l�m ba.

Một l� nhẫn với người. Đối với lời n�i tr�i tai, h�nh động gai mắt hoặc người mắng chưởi đ�nh đập m� ch�ng ta nhẫn được, bỏ qua hết, kh�ng buồn giận. Đ� l� ch�ng ta nhẫn nhục với người kh�c. Trong kinh A-h�m c� c�u chuyện ng�i Ph� L�u Na. Khi Ng�i xin đức Phật về phương Bắc gi�o h�a.

Đức Phật liền hỏi: N�y Ph� L�u Na, người phương Bắc hung hăng lắm, nếu �ng về đ� gi�o h�a họ sẽ chưởi mắng �ng, �ng nghĩ thế n�o?

Ng�i trả lời: Bạch Thế T�n, nếu họ chưởi mắng con, con nghĩ họ cũng c�n lương thiện v� chưa đ�nh đập con.

Phật n�i: Giả dụ họ đ�nh đập �ng th� �ng nghĩ thế n�o?

Ng�i thưa: Bạch Thế T�n, nếu họ đ�nh đập con, con nghĩ họ cũng c�n lương thiện v� chưa giết con chết.

Phật bảo: Nếu họ giết �ng chết th� �ng nghĩ thế n�o?

Ng�i trả lời: Bạch Thế T�n, nếu họ giết con chết th� họ l� người ơn của con v� nhờ họ m� con bỏ được c�i th�n tứ đại h�i thối n�y.

Phật n�i: Được. Như vậy th� �ng n�n đến đ� gi�o h�a.

Qu� vị thấy đức nhẫn nhục của Ng�i cỡ n�o? Trong đại ch�ng, ch�ng ta chỉ nhẫn nhục c�c việc n�i nặng, n�i nhẹ vớ�i nhau th�i, vậy m� c� khi chịu kh�ng nổi. C�n Ng�i bị chưởi bới, đ�nh đập cũng nhẫn được cho đến giết chết cũng nhẫn lu�n, kh�ng th� hằn m� c�n mang ơn nữa.

Đ�y l� tấm gương cho ch�ng ta học. Tu l� phải như vậy. Đừng nghĩ m�nh c�i giỏi, n�i hay l� tốt. C�ng c�i giỏi n�i hay, lấn lướt người th� tội lỗi c�ng tăng chớ kh�ng phải giảm. Đ� l� phần thứ nhất, nhẫn với người.

Hai l� nhẫn với m�nh. M�nh c� g� đ�u m� nhẫn. Thật ra l� nhẫn với m�nh rất kh�. Nhẫn với m�nh l� nhẫn sự đau đớn, bệnh hoạn. C� người n�o đau bệnh m� kh�ng r�n kh�ng? Đ� l� c�i bệnh. N�n ch�ng ta tu phải ẩn nhẫn khi cơ thể bệnh hoạn, đau yếu, phải b�nh tĩnh cố gắng hạn chế, đau trăm phần ch�ng ta chỉ n�i đau hai mươi phần th�i. Chớ mỗi lần đau kh�c l�n, kh�c xuống r�n rĩ om s�m cho mọi người ch� � đến m�nh. Trong đạo như vậy l� kẻ yếu đuối chớ kh�ng phải hay.

Kế l� nhẫn với sự đ�i hỏi của th�n, th�m c�i n�y, muốn c�i nọ� những sự thụ hưởng. Như người mới tu chừng một hai năm, đi ngang qua chỗ nướng thịt c� th� ph�t th�m. Đ� l� nhẫn kh�ng được n�n khởi niệm bậy. Ẩn nhẫn những thứ th�m muốn, những đ�i hỏi của m�nh gọi đ� l� nhẫn với m�nh.

Như vậy nhẫn nhục l� c� sức chịu đựng rất mạnh mẽ cứng cỏi chớ kh�ng phải chuyện thường. Đối với những g� m�nh ưa th�ch cũng phải bỏ. Như người xuất gia xem th�n n�y l� đ�y da h�i thối, vậy m� l�u l�u cũng c� người nh�n m�nh xem đẹp hay kh�ng? Rồi sửa sang ch�t ch�t cho dễ coi. Thậm ch� ng�y nay t�i nghe n�i cũng c� kẻ thoa kem cho da mịn. Việc đ� c� tr�i với đạo l� kh�ng?

Người tu khi xuất gia, cạo t�c đ� tự nguyện hủy h�nh thủ kh� tiết. Hủy h�nh l� l�m cho th�n xấu đi. Phụ nữ ngo�i đời, người ta sửa sang m�i t�c cho đẹp, cho duy�n d�ng. C�n người tu đ� cạo bỏ phức rồi, b�y giờ c�n muốn thoa m�i son hay đ�nh kem th� coi hết được! Đ� l� tr�i với lẽ thật của m�nh. Những g� m�nh ưa th�ch tr�i với tư c�ch của người tu, tr�i với bản nguyện của người xuất gia th� ch�ng ta phải ẩn nhẫn, dẹp n� qua một b�n, đừng để n� l�i k�o m�nh. Được như vậy mới l� người kh�o tu. Nếu kh�ng ch�ng ta sẽ qu�n đi bản nguyện xuất gia cầu giải tho�t ban đầu.

Chẳng những người xuất gia m� h�ng cư sĩ tại gia cũng vậy, thấy điều g� m�nh th�ch m� tr�i với đạo l� th� phải giảm, phải hạn chế chớ đừng theo n�. Như vậy l� biết nhẫn với m�nh.

Ba l� nhẫn với ho�n cảnh, thời tiết. Sống trong đạo cũng c� khi gặp nhiều ho�n cảnh kh� khăn. Trong kinh Phật dạy nơi n�o c� Phật ph�p, d� cho đ�i r�t cũng phải theo thầy tu học. C�n nơi c� gạo dư thừa m� thiếu đạo đức, cũng n�n bỏ m� đi. Như vậy những nơi n�o c� Phật ph�p ch�ng ta ở đ� gặp ho�n cảnh kh� khăn, thiếu thốn, nhiều phiền h�, bực bội cũng phải r�ng ẩn nhẫn, v� Phật ph�p, v� sự tu chớ kh�ng v� sự ăn uống. Người được như vậy l� người chiến thắng bản th�n m�nh, chiến thắng được ho�n cảnh. Rồi c�n phải nhẫn với thời tiết bức b�ch, ch�ng ta chịu đựng kh�ng than van, vẫn thản nhi�n tự tại. Đ� l� ch�ng ta biết nhẫn.

Như vậy người tu muốn mặc �o Như Lai phải nhẫn nhục, tức l� nhẫn người, nhẫn m�nh, nhẫn ho�n cảnh thời tiết v. v� L�c n�o cũng chấp nhận kh� khăn, kh�ng bao giờ ch�n nản. Người mạnh như thế mới sống đ�ng với c�u Phật dạy: "Thắng một vạn qu�n kh�ng bằng tự thắng m�nh". Đ� gọi l� mặc �o Như Lai.

Đến phần ngồi t�a Như Lai l� qu�n tất cả ph�p Kh�ng. Ch�ng ta d�ng tr� tuệ qu�n chiếu tất cả c�c ph�p tr�n thế gian n�y do nh�n duy�n hợp th�nh, kh�ng c� chủ tể cố định. Lu�n d�ng tr� tuệ qu�n s�t thấu triệt như vậy.

V� như nh�n một ng�i ch�a, ch�ng ta qu�n x�t xem c�i g� l� chủ ng�i ch�a. Trong đ� n�o l� xi măng, c�t, đ�, ng�i, gạch v. v� tụ hội lại. Ch�ng ta hiện thấy ng�i ch�a như vậy nhưng thật ra đ� l� một hợp thể do nhiều thứ hợp lại, th� c�i g� l� chủ? Kh�ng c� chủ, cũng kh�ng cố định. Hiểu như vậy th� từ c�i nh�, c�i b�n cho tới con người của m�nh cũng thế, do tứ đại hợp th�nh n�n th�n n�y kh�ng thật, cũng kh�ng c� chủ. Hiểu như vậy l� hiểu được l� Kh�ng.

Ch�ng ta qu�n s�t bằng tr� tuệ, thấu suốt được sự vật b�n ngo�i đều do nh�n duy�n hội hợp, kh�ng c� thực thể cố định. Do kh�ng c� thực thể, kh�ng cố định n�n n�i n� kh�ng thật. Thấy như vậy l� qu�n ph�p Kh�ng. N�i qu�n ph�p Kh�ng l� n�i l� nh�n duy�n. Nh� Phật n�i tất cả ph�p đều từ nh�n duy�n sanh, n�n trong kinh A-h�m c� đoạn đức Phật dạy: "Thấy được l� nh�n duy�n, tức l� thấy được ph�p, thấy được ph�p tức l� thấy được ch�n l�".

V� tr�n thế gian n�y kh�ng c� vật g� tự n� th�nh m� phải do nhiều thứ hợp lại. T�i thường th� dụ, b�n tay của t�i, nếu co năm ng�n lại th� gọi l� nắm tay. Nắm tay n�y thấy dường như c� thật m� kh�ng phải thật. V� năm ng�n co lại, nếu năm ng�n bu�ng ra th� c�n g� l� nắm tay? Do duy�n hợp tạm c�, duy�n tan trở về kh�ng.

Tất cả ph�p tr�n thế gian đều do nh�n duy�n sanh, kh�ng c� chủ thể n�n kh�ng thật, kh�ng cố định. V� vậy n�i l� hư ảo. Trong Trung Qu�n Luận ng�i Long Thọ n�i về l� nh�n duy�n như sau:

Nh�n duy�n sở sanh ph�p

Ng� thuyết tức thị kh�ng

Diệc danh vi giả danh

Diệc danh trung đạo nghĩa.

Nghĩa l� c�c ph�p do nh�n duy�n sanh n�n Phật n�i tức l� kh�ng. Tại sao? V� n� kh�ng c� chủ thể, đ�u c� g� l� cố định, duy�n hợp th� c�, duy�n tan th� mất, kh�ng thật, n�n n�i l� kh�ng. Kh�ng đ�y l� kh�ng c� chủ thể, kh�ng cố định chớ kh�ng phải kh�ng ngơ, kh�ng c� g� hết cả.

Khi duy�n hợp th� tạm c� giả tướng, n�n n�i "Diệc danh vi giả danh". Như nắm tay chưa c� bao giờ, chỉ khi co năm ng�n lại mới c� nắm tay, như vậy nắm tay l� c�i giả danh th�i. Nắm tay giả danh th� b�n tay c� giả danh kh�ng? Nắm tay ch�ng ta dễ thấy c�n b�n tay hơi kh� thấy hơn. Vậy ch�ng ta h�y ph�n t�ch xem, b�n ngo�i b�n tay th� c� da, trong năm đốt xương ng�n tay c� thịt, g�n, m�u. Ph�n ra từng m�n c� c�n b�n tay kh�ng, c� c�n từng ng�n tay nữa kh�ng? Như vậy nắm tay kh�ng thật, b�n tay hay ng�n tay cũng kh�ng thật, chỉ l� giả danh th�i. Nếu ch�ng ta chấp giả l� thật th� đ� l� si m�.

Người tu kh�ng cho ph�p m�nh si m� m� phải lu�n lu�n c� tr� tuệ. Vậy m� l�u l�u, qu� c� muốn đeo c�i g� đ� tr�n tay cho đẹp, th� sao? Hiện tướng g�? Phật tử ngo�i thế gian si m� đ� đ�nh đi, c�n người tu m� si m� như vậy th� kh�ng tha thứ được rồi. Đ� biết n� kh�ng thật, l� giả danh th� c�n g� phải trang sức cho đẹp. Thấy được tướng b�n ngo�i l� giả danh, kh�ng phải thật, n�n n�i " Diệc danh trung đạo nghĩa". Ai thấy được như vậy, biết được như vậy l� hiểu nghĩa trung đạo. N�n chữ Kh�ng trong nh� Phật kh�ng phải kh�ng ngơ m� đ� l� kh�ng c� thực thể, chỉ l� giả danh. Biết r� như vậy ch�ng ta kh�ng chấp thật kh�ng, cũng kh�ng chấp thật c�. Đ� l� thấy được l� trung đạo. L� trung đạo l� l� thật.

Qua b�i kệ n�y qu� vị thấy r�, ch�ng ta tu phải c� tr� tuệ, phải thấy r� tất cả c�c ph�p do nh�n duy�n sanh. Hiểu như vậy th� hết chấp, m� hết chấp l� s�ng suốt. V� vậy người tu Phật phải c� tr� tuệ. Nhờ tr� tuệ n�n thấy đ�ng như thật, kh�ng c�n m�, kh�ng c�n lầm lẫn say m� vật chất thế gian, kh�ng chạy theo những ảo tưởng giả dối, c� thế mới thật l� người học đạo.

V� người học đạo l� người đi t�m ch�n l�, t�m lẽ thật. Nếu hiểu s�u xa c�ng tột đạo l� của Phật th� đối với th�n n�y được cũng kh�ng mừng, mất cũng kh�ng buồn, v� n� tạm bợ giả dối do duy�n hợp. Kinh B�t Nh�, Phật dạy: "Chiếu kiến ngũ uẩn giai kh�ng, độ nhất thiết khổ �ch". Nghĩa l� thấy năm uẩn kh�ng thật, duy�n hợp hư ảo liền qua hết khổ nạn. Đ� l� tr� tuệ.

Qu� vị x�t chỉ cần ba điều Phật dạy trong kinh Ph�p Hoa, nếu ch�ng ta biết ứng dụng tu h�nh th� đ� giải tho�t sanh tử chưa? Cho n�n ch�ng ta kh�o ứng dụng theo lời Phật dạy th� ch�ng ta sớm được an l�nh, sớm được giải tho�t.

Hiện nay Phật tử ch�ng ta th�ch tụng kinh Ph�p Hoa lắm, nhưng tụng để hiểu như t�i n�i hay tụng để t�nh quyển? Nếu tụng để t�nh quyển chớ kh�ng ứng dụng theo lời Phật dạy th� đ�ng l� tu Ph�p Hoa chưa? Lời Phật dạy như v�ng ngọc, nếu ch�ng ta biết ứng dụng tu h�nh, ứng dụng v�o cuộc đời th� qu� v� kể.

Nhưng đ�ng tiếc Phật tử kh�ng biết đ�ng, chỉ nghĩ tụ�ng kinh cho c� phước. N�n l�c n�o l�m ăn sơ thất liền ph�t nguyện đi ch�a tụng kinh Ph�p Hoa để cầu ph�t t�i. Như vậy tụng Ph�p Hoa để t�m ch�n l� hay v� lợi dưỡng. Qu� Phật tử tự kiểm lại xem m�nh ở dạng n�o? Thế n�n Tăng Ni cũng như tất cả Phật tử chỉ cần ch�n th�nh ứng dụng lời Phật dạy v�o cuộc sống hằng ng�y của m�nh th� chắc chắn sớm được hết khổ đau trong đời n�y v� giải tho�t sanh tử ở những đời sau.

T�m lại tất cả người tu ch�ng ta d� xuất gia hay cư sĩ đều phải đủ ba đức t�nh n�y, mới gọi l� người ch�n ch�nh tu Phật. Đ� l� v�o nh� Như Lai, mặc �o Như Lai, ngồi t�a Như Lai. Phật tử l� con ch�u của Phật n�n mới d�m v�o nh� Phật, d�m mặc �o Phật, d�m ngồi t�a Phật. Nếu kh�ng d�m v�o nh� Phật, mặc �o Phật, ngồi t�a Phật th� chừng n�o th�nh Phật tử. Con Phật m� kh�ng d�m v�o nh� Phật th� c�n gọi l� con Phật kh�ng? V� vậy ai l� con Phật, ai l� người đệ tử trung th�nh của Phật phải đủ ba điều kiện tr�n. Được vậy ch�ng ta mới kế thừa địa vị của Như Lai, kh�ng nghi ngờ.

Đ� l� điều t�i nhắc nhở tất cả Ni ch�ng cũng như tất cả Phật tử h�m nay r�ng học, r�ng tu, l�m sao ch�ng ta tu học đ�ng với � nghĩa l� người con ch�n ch�nh của Phật, người xuất gia ch�n ch�nh, đừng để lệch lạc sai lầm uổng một đời, sau n�y hối hận kh�ng kịp.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]