HOA V� ƯU
(Tập I)
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]
V� SƯ TR� VI T�N
Vừa rồi ch�a Cổ Ph�p ở H� Nội c� nhờ t�i đặt cho một đ�i liễn v� một bảng ho�nh phi. Trong bảng ho�nh phi năm chữ t�i đặt như thế n�y V� sư tr� vi t�n. Đ�y l� c�u m� t�i rất t�m đắc. T�i tin chắc rằng qu� Phật tử tu rồi cũng t�m đắc như t�i. V� sư tr� vi t�n nghĩa l� tr� v� sư t�n qu� nhất. Tại sao t�i n�i như vậy? Bởi v� ch�ng ta tu cốt l� được gi�c ngộ, cốt được th�nh Phật nhưng m� gi�c ngộ c�i g�? Đ� l� một vấn đề m� người Phật tử ch�ng ta cần phải hiểu. N�i đến đ�y t�i nhắc lại cho qu� vị nhớ, thuở xưa đức Phật Th�ch Ca đi tu, qua những lần học hỏi với c�c vị ti�n nh�n nhưng chưa đạt được mục đ�ch, cuối c�ng Ng�i từ gi� hết để tu khổ hạnh. Sau khi tu khổ hạnh kh�ng c� hiệu quả, Ng�i sống trở lại b�nh thường v� đến dưới cội bồ đề tọa thiền bốn mươi ch�n ng�y đ�m, Ng�i được gi�c ngộ. Sau khi gi�c ngộ Ng�i tuy�n bố một c�u như thế n�y: "Ta đ� h�ng phục tất cả, r� biết tất cả. Ta kh�ng nhiễm một ph�p n�o. Ta xa l�a hết thảy, diệt dục m� giải tho�t v� tự m�nh chứng ngộ th� c�n ai l� thầy của ta? " (Kinh Ph�p C�). Ngay c�u n�i đ� ch�ng ta tự kiểm nghiệm xem: Ng�i h�ng phục được tất cả, Ng�i kh�ng nhiễm tất cả, Ng�i l�a hết thảy, Ng�i diệt dục được giải tho�t v� tự m�nh chứng ngộ th� c�n ai l�m thầy? Như vậy c�i chứng ngộ của đức Phật kh�ng do ai dạy Ng�i hết. Nếu c� người dạy tức l� c� thầy nhưng ngược lại kh�ng c� ai dạy n�n kh�ng c� ai l� thầy của Phật. Kh�ng thầy tại sao được gi�c ngộ? Điều đ� chắc qu� Phật tử cũng nhớ, như Phật đ� tuy�n bố do Ng�i h�ng phục tất cả, biết được tất cả, kh�ng nhiễm một ph�p n�o, xa l�a hết thảy, diệt dục m� giải tho�t. Nghĩa l� đức Phật tự h�ng phục được nội t�m, tự biết r� được tất cả c�c ph�p thiện �c, nhiễm tịnh v. v... v� Ng�i kh�ng nhiễm c�c ph�p �c, kh�ng kẹt c�c ph�p thiện, do đ� m� diệt dục được giải tho�t l� do tự chứng ngộ chớ kh�ng c� ai l� thầy cả. Hiện giờ tất cả qu� Phật tử đang tu tập tọa Thiền, vậy tọa Thiền để l�m g�? Để h�ng phục m�nh phải kh�ng? H�ng phục từ th�n đến t�m của ch�nh m�nh. Trong khi ngồi thiền, nếu ngồi quen nửa giờ m� th�m chừng mười ph�t nữa th� sao? Chắc l� mười ph�t cay đắng. Như vậy nếu ch�ng ta cố gắng ngồi được một giờ hay hơn một giờ v. v... đ� l� ch�ng ta đ� h�ng phục được sự nhọc nhằn của th�n. Kế đ� đến nội t�m, tức l� � niệm của ch�ng ta như một d�ng nước chảy xiết vậy, hết niệm n�y tới niệm kia li�n tục kh�ng ngừng. Thế n�n ch�ng ta tọa thiền để thắng hết tất cả những thứ niệm đ�, kh�ng cho n� khởi li�n tục, từ từ ch�ng lặng dần cho đến l�c kh�ng c�n dấy động nữa. Như vậy h�ng phục được tất cả niệm lăng xăng của m�nh. Đ� l� ch�ng ta đ� tự chiến thắng, đ� v�o được thiền định. V� định tức l� nội t�m y�n tịnh kh�ng c�n lăng xăng nữa. Được như vậy rồi th� tất cả c�c ph�p nhiễm, tất cả c�c ph�p �c đều xa l�a. Từ đ� mọi ham muốn được th�o gỡ. Nhờ vậy trong khi tu t�m ch�ng ta được trong lặng s�ng suốt, dứt hết c�c nhiễm � rồi th� tự gi�c ngộ. M� tự gi�c ngộ th� ai l� thầy của ch�ng ta? Tự gi�c ngộ l� tr� v� sư sẵn c� của m�nh. Ch�ng ta nhớ đức Phật tọa thiền dưới cội Bồ đề bốn mươi ch�n ng�y đ�m, t�m y�n tĩnh trong lặng, cho đến khi Ng�i hướng t�m về qu� khứ liền nhớ v� số kiếp về trước đ� từng l�m g�, ở đ�u v� tất cả sự việc xảy ra như thế n�o. Ng�i nhớ như l� chuyện xảy ra h�m qua r� r�ng kh�ng thiếu s�t, đ� gọi l� chứng T�c mạng minh. Khi Ng�i hướng t�m về vị lai thấy ch�ng sinh sau khi chết sẽ đi về đ�u? C�i g� l�i dẫn đi? Ng�i thấy r� ch�ng sinh do nghiệp dẫn đi trong c�c đường, đ� l� chứng được Thi�n nh�n minh. Như vậy chứng T�c mạng minh, chứng Thi�n nh�n minh v. v... tất cả c�i chứng đ� đều do v� sư tr� m� ra, chớ kh�ng phải ở đ�u, kh�ng do ai dạy hết. Ch�ng ta tu Thiền l� cốt cho t�m được thanh tịnh trong lặng. Từ t�m thanh tịnh trong lặng đ� hiện ra tr� v� sư. Tr� v� sư hiện ra rồi th� ch�ng ta thấy biết những g� trước kia ta chưa hề thấy biết, điều đ� rất r� r�ng. T�i dẫn một việc nhỏ n�y cho qu� Phật tử nghiệm xem, c� những Phật tử tu được ch�t ch�t, l�c tọa thiền y�n lặng, bất chợt nhớ lại c�u kinh h�m n�o m�nh học kh�ng hiểu, khi nhớ lại bỗng dưng hiểu ra. C�i hiểu n�y do ai dạy? L�c đ� kh�ng c� thầy giảng, kh�ng c� người n�i, tại sao nhớ lại rồi bỗng dưng hiểu, hiểu một c�ch r� r�ng s�ng suốt. Thử hỏi ai dạy? Đ� l� hiện tượng của tr� v� sư, điều nhỏ th� s�ng nhỏ, điều lớn th� s�ng lớn. Như vậy ch�ng ta tu h�nh cần đạt được tr� v� sư th� mới c� thể được gi�c ngộ th�nh Phật. Như vậy Phật ở đ�u? Phật sẵn ở nơi m�nh. Muốn thấy Phật, chịu kh� dẹp hết m�y phiền n�o, m�y nghiệp chướng, nếu n� trong sạch hết th� �ng Phật m�nh hiện ra, chớ kh�ng c� ở đ�u cả. L�u nay ch�ng ta cứ nghĩ Phật ở đ�u tr�n non, tr�n n�i n�n phải tr�o đ�o lội suối, phải đi thật xa t�m Phật, nhưng thực t�nh Phật ở ngay nơi m�nh. V� vậy, người học đạo kh�ng n�n c� t�m t�m kiếm b�n ngo�i m� chỉ dồn hết sức m�nh ph� dẹp phiền n�o, dừng lặng d�ng tư tưởng lăng xăng. Những thứ đ� tan rồi, lặng rồi th� �ng Phật hiện tiền. Vậy qu� Phật tử tu Thiền l� lối tu gần hay xa, kh� l�m hay dễ l�m, thực tế hay mơ hồ? Việc l�m đ� l� thực của m�nh, v� m�nh dẹp được phiền n�o th� m�nh hết khổ, dừng được t�m lăng xăng th� t�m được an định. T�m hết phiền n�o, được an định th� tr� tuệ bừng s�ng, ngay nơi m�nh chớ kh�ng c� ở đ�u xa hết. Cho n�n người Phật tử tu Thiền l�c n�o cũng phải dụng c�ng tu h�nh cho chiến thắng được m�nh, chớ kh�ng được cầu xin ai kh�c. L�u nay Phật tử m�nh đ� quen cầu xin, b�y giờ phải ngồi lại thấy khổ qu� chừng. Hồi đ� quen lạy Phật cầu xin cho con c�i n�y cho con c�i kia, b�y giờ bắt xoay lại m�nh để qu�n s�t đ�u l� thực đ�u l� hư, đ�u l� xấu đ�u l� tốt, nhận định rồi tự m�nh ph� dẹp. Thấy việc đ� nhọc nhằn kh�ng quen nhưng đ� mới thực l� chỗ tu h�nh ch�n ch�nh. Đức Phật ng�y xưa đ� như vậy, b�y giờ ch�ng ta cũng l�m như vậy th� mới đ�ng l� đi theo Phật, c�n m�nh l�m kh�c đi th� kh�ng biết m�nh theo Phật hay theo ai? T�i chủ trương tu theo Phật th� phải sử dụng phương ph�p Phật sử dụng ng�y xưa, ứng dụng v�o sự tu của m�nh sẽ c� kết quả kh�ng nghi. T�i xin dẫn c�u chuyện sau đ�y để qu� Phật tử nghiệm xem. Thiền sư Nham Đầu v� Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn đi đến Ngao Sơn gặp trời trở tuyết, n�n hai huynh đệ v�o trong c�i miếu nhỏ ở tạm. Mỗi h�m ng�i Tuyết Phong đều ngồi thiền, c�n ng�i Nham Đầu th� kh�ng ngồi. Ng�i Nham Đầu mới quở ng�i Tuyết Phong sao ngồi thiền m�i như vậy. Ng�i Tuyết Phong n�i: - T�i thật c�n chưa ổn. Ng�i Nham Đầu bảo: - Nếu �ng thật như thế, cứ chỗ thấy của �ng mỗi mỗi th�ng qua, chỗ phải t�i sẽ chứng minh cho �ng, chỗ chẳng phải t�i sẽ v� �ng đuổi dẹp. Ng�i Tuyết Phong kể lại: - Khi xưa t�i mới đến chỗ Thiền sư Di�m Quan thấy Ng�i thượng đường n�i về nghĩa sắc kh�ng, ngay nơi đ� t�i liền được v�o cửa. Ng�i Nham Đầu bảo: - Từ đ�y đến 30 năm sau rất kỵ kh�ng được n�i đến. Ngộ được l� sắc kh�ng m� Ng�i Nham Đầu n�i chưa được, 30 năm sau rất kỵ n�i đến c�i đ�. Như vậy ch�ng ta mới thấy trong thời gian tu thiền c� nhiều chặng. Bước đầu mới v�o cửa thiền đa số ch�ng ta đều học B�t-nh�. Học B�t-nh� l� để nhận được l� sắc kh�ng (sắc tức thị kh�ng, kh�ng tức thị sắc). Bước v�o cửa kh�ng đ� l� một bước tiến tr�n đường tu rồi, nhưng chưa phải l� chỗ cứu k�nh. N�n ng�i Nham Đầu mới bảo: "Từ đ�y đến 30 năm sau rất kỵ kh�ng được n�i đến". Ng�i Tuyết Phong kể tiếp: - T�i thấy b�i kệ của ng�i Động Sơn khi qua cầu ngộ đạo (Ng�i Động Sơn qua cầu, nh�n dưới d�ng suối thấy b�ng của m�nh, ngay đ� Ng�i ngộ đạo) liền l�m b�i kệ: Thiết kỵ t�ng tha m�ch Điều điều dữ ng� sơ Cừ kim ch�nh thị ng� Ng� kim bất thị cừ. "Thiết kỵ t�ng tha m�ch" nghĩa l� rất tối kỵ, chẳng n�n t�m nơi kh�c m� được. V� nếu t�m nơi kh�c th� đ� c�ch xa, kh�ng phải l� m�nh. "Cừ kim ch�nh thị ng�", nghĩa l� n� ch�nh l� m�nh. "Ng� kim bất thị cừ" nhưng m�nh th� kh�ng phải l� n�. Bởi v� ng�i Động Sơn đi tr�n cầu, nh�n dưới suối thấy b�ng của m�nh, c�i b�ng th� đ�u phải l� m�nh nhưng n� c� rời m�nh kh�ng? V� vậy n�n n�i n� cũng ch�nh l� m�nh "Cừ kim ch�nh thị ng�". Nhưng m�nh kh�ng phải l� n�, tức m�nh kh�ng phải l� b�ng, ng�i Động Sơn do nhận thấy b�ng của m�nh m� ngộ đạo, ng�i Tuyết Phong nh�n nghe được c�u n�y cũng c� tỉnh. Bởi tỉnh n�n tr�nh với ng�i Nham Đầu nhưng ng�i Nham Đầu lại bảo rằng: "Nếu chừng ấy tự cứu cũng chưa xong". Đ� l� chặng thứ hai. Chặng thứ nhất l� thấu suốt được lẽ sắc kh�ng, chặng thứ hai l� biết nơi m�nh, b�n cạnh c�i giả c�c�i thật. B�ng l� giả nhưng c�i giả đ� kh�ng rời c�i thật. Biết được l� ấy rồi cũng vẫn chưa tới nơi, n�n ng�i Nham Đầu n�i: "Chừng ấy tự cứu cũng chưa xong". Ng�i Tuyết Phong kể th�m: "Một h�m t�i hỏi ng�i Đức Sơn việc t�ng thừa con c� phần chăng, ng�i Đức Sơn đ�nh một gậy hỏi t�i n�i c�i g�? T�i khi ấy như th�ng lủng đ�y. " Như th�ng lủng đ�y nghĩa l� rỗng v� sạch hết, vậy m� ng�i Nham Đầu nạt: "�ng chẳng nghe n�i từ cửa v�o chẳng phải của b�u trong nh�. " C�i g� từ cửa v�o th� kh�ng phải l� của b�u trong nh�. C�u n�y để giản trạch cho ch�ng ta hiểu người tu phải nhận được c�i ch�n thật của m�nh. C�i ch�n thật của m�nh lu�n c� sẵn đ�y, chớ c�n nhờ b�n ngo�i th� chưa được. Ch�ng ta ngồi thiền lặng lẽ, tỉnh gi�c, chợt ph�t gi�y n�o bừng s�ng l�n th� đ� mới thật l� của m�nh. C�n đi hỏi người n�y, đi học người kia, th� sự hiểu biết ấy kh�ng phải l� của m�nh, m� l� của người ta. Sau n�y ng�i Tuyết Phong hỏi th�m: - Về sau l�m thế n�o mới phải? Ng�i Nham Đầu bảo: - Về sau, muốn xiển dương đại gi�o mỗi mỗi từ trong h�ng ngực lưu xuất, sau n�y c�ng ta che trời che đất đi. Ng�i Tuyết Phong ngay c�u n�y liền bừng ngộ, n�n gọi l� ngộ đạo ở Ngao Sơn (tức l� ở n�i Ngao). Như vậy chỗ cuối c�ng l� từ h�ng ngực m� ph�t ra, chớ kh�ng phải ở b�n ngo�i. Nếu c�n ở ngo�i th� chưa phải tột. Ch�ng ta tu từ nội t�m ph�t s�ng, từ nội t�m gi�c ngộ, đ� mới l� ch�n thật, l� tr� v� sư hiện. Tr� n�y l� thật của ch�ng ta, n� tr�m khắp kh�ng chỉ giới hạn trong th�n tứ đại th�i. Qua những chặng t�i n�u qu� Phật tử n�n hiểu, m�nh tu Thiền kh�ng phải chỉ một lần ngộ. Khi ch�ng ta bước v�o sự tu, nghe kinh B�t-nh� hoặc đọc kinh Kim Cương, ch�ng ta thấy l�e được nghĩa Sắc Kh�ng cũng đ� đ�ng mừng rồi. Từ chỗ ng�y xưa m�nh thấy Sắc ri�ng Kh�ng ri�ng, b�y giờ thấy Sắc tức l� Kh�ng, Kh�ng tức l� Sắc. Đ�y l� bước đầu c� tỉnh, c� ngộ nhưng chỉ l� tiểu ngộ th�i, chớ chưa phải đại ngộ. Đến như đọc một b�i kệ, một c�u thơ của c�c Thiền sư, m�nh nhận ra v� l�nh hội được � nghĩa c�u đ� đ�ng như điều m�nh đang hiểu, đang tu th� xem như bừng s�ng một chặng nữa. Đ�y cũng l� một chặng đường th�i. Hoặc giả trong khi tu, đem những lời đạo l� b�n luận với huynh đệ, thưa hỏi với thầy, được thầy n�i cho một c�u liền bừng s�ng, nhẹ người l�n. L�c đ� thấy như th�ng lũng đ�y, như vậy đ� m� cũng vẫn chưa rồi. Cho đến bao giờ tự m�nh ph�t s�ng ra, nhận thấy tất cả thực thể mu�n ph�p trong thế gian n�y th� chừng đ� mới thật l� đại ngộ. Thế n�n ở trong nh� Thiền n�i tiểu ngộ th� v� số, c�n đại ngộ cũng đ�i ba lần, chớ kh�ng phải một lần. T�i từ khi tu cho đến b�y giờ, hướng dẫn Tăng, Ni cũng như Phật tử tu, thấy tiểu ngộ kh� nhiều, c�n cũng c� v�i người gần như được đại ngộ. Đ�y l� điều đ�ng mừng. L�c trước t�i c� mặc cảm m�nh dạy người ta tu Thiền, nhất l� giai đoạn đầu ra Ch�n Kh�ng, t�i mở kh�a thứ nhất c� mười người th�i, kh�ng d�m nhận đ�ng. Tại sao vậy? Bởi v� t�i nghe nhiều người n�i: "Coi chừng! Tu Thiền đi�n", n�n t�i th� nghiệm mười vị n�y xem c� đi�n kh�ng. D� biết t�i tu kh�ng đi�n, nhưng chưa r� những người tu theo t�i th� sao? Qua ba năm kh�ng thấy ai đi�n hết n�n kh�a thứ hai t�i tăng l�n ba, bốn chục vị. Rồi b�y giờ đến mấy trăm người cũng kh�ng thấy ai đi�n. Do đ� t�i hết mặc cảm lời người ta n�i. Nếu bảo rằng tu Thiền đi�n l� điều hết sức tai hại cho người tu Phật. Ch�ng ta đ� biết đức Phật Th�ch Ca do ngồi thiền ngộ đạo, b�y giờ sao đệ tử Ng�i ngồi thiền lại đi�n? N�i như vậy l� một c�i họa cho người tu Phật, nhất l� tu Thiền. C�n một điều nữa, c� người n�i tu Thiền chỉ d�nh cho h�ng thượng căn thượng tr� mới tu được th�i, thời n�y m�nh tiểu căn tiểu tr� tu kh�ng được.Ng�y xưa t�i cũng mặc cảm v� c�u n�i đ� nhưng sau n�y t�i lại nghĩ kh�c. Ch�ng ta c� bệnh cứ nghĩ người xưa mới th�ng minh, người xưa mới c� căn tr� b�n nhạy, c�n ch�ng ta b�y giờ đần độn, ngu tối. Thật ra nếu x�t kỹ c� phải vậy kh�ng? Hồi xưa c� người th�ng minh nhưng cũng c� người đần độn. Ng�y nay cũng thế, c� nhiều người th�ng minh lắm chứ. Biết bao điều người xưa chưa biết, b�y giờ nhờ khoa học v� văn minh ch�ng ta được biết. C� những việc người xưa kh�ng l�m được m� b�y giờ ta l�m được, tại sao lại n�i ta đần độn? Như vậy b�y giờ phải kh�n hơn hồi xưa chứ! Nếu dại hơn th� hồi xưa chỉ biết đi bộ, sao b�y giờ biết đi m�y bay. Hồi xưa c�i g� cũng th� sơ sao b�y giờ c�i g� cũng tinh vi? Người đời kh�n hơn thời xưa, chẳng lẽ người tu dại hơn người xưa? Sao tệ vậy! Cho n�n t�i kh�ng chịu. T�i n�i người xưa l�m được th� ng�y nay ch�ng ta l�m cũng được, chỉ c� điều ch�ng ta l�m c� đ�ng như người xưa kh�ng. Người xưa do đủ điều kiện m� th�nh c�ng th� ch�ng ta nếu đủ điều kiện chắc chắn cũng sẽ th�nh c�ng. Cứ cho rằng người xưa th�ng minh, thượng căn thượng tr� v� nghĩ m�nh l� đần độn, như vậy l� tự khi m�nh; m� khi m�nh th� tiến kh�ng được. Trong nh� Thiền c� c�u: "Đệ tử bằng thầy l� đ� thua thầy nửa đức, đệ tử hơn thầy mới kham g�n giữ sự nghiệp của thầy". Tại sao trong nh� Thiền n�i như vậy? Th� dụ như t�i tu năm mươi năm, b�y giờ c� người đệ tử ngộ bằng t�i, nhưng tu mới mười năm th� đ� thua t�i ph�n nửa rồi. V� ngộ th� bằng nhưng c�ng đức tu chưa bằng, n�n n�i thua thầy. Khi n�o thầy ngộ mười m� đệ tử ngộ được hai mươi mới kịp với thầy. Vậy �ng thầy tr�ng cho đệ tử giỏi hơn, chớ kh�ng muốn đệ tử thua m�nh. Kh�ng n�n n�i: "Ta trước căn cơ bậc thượng, c�n người sau căn cơ bậc hạ, tu kh�ng được". Người sau vẫn c� khả năng như người trước, chỉ c� điều nếu người sau kh�ng l�m đ�ng nguy�n tắc người trước đ� l�m th� người sau tu sai trật; sai trật th� tu kh�ng c� kết quả. Gần đ�y t�i thấy Tăng, Ni tu c� tiến, thỉnh thoảng một v�i Phật tử tu cũng c� tiến. Như vậy t�i rất mừng, v� việc l�m của ch�ng ta kh�ng phải ph� c�ng v� �ch, m� c� kết quả thật sự. Người n�o ham tu th� giảm phiền n�o, một trăm phần cũng giảm được v�i chục phần. Như vậy c� tu th� c� tiến. Tu �t th� kết quả �t, tu nhiều th� kết quả nhiều. Tất cả kết quả đ� đều do c�ng phu soi s�ng lại ch�nh m�nh để nhận ra c�i ch�n thật của m�nh. Khi đ� nhận ra rồi th� tự m�nh sẽ vượt qua hết những kh� khăn, những đau khổ ở đời. Đến đ�y t�i kể th�m một chuyện nữa để l�m s�ng tỏ th�m � tr�n. C�u chuyện n�y được tr�ch từ t�c phẩm "G�p nhặt c�t đ�" của Nhật Bản. C� một ch� m� l�u ng�y nhớ bạn, n�n h�m đ� ch� chống gậy đi t�m thăm bạn. Gặp lại bạn cũ ch� mừng qu� n�n ở chơi, n�i chuyện đến khuya vẫn chưa chịu về. Thấy vậy, người bạn nhắc ch�: "Đ� khuya qu� rồi anh n�n về", ch� mới chịu về. Người bạn thấy b�n ngo�i trời tối m� bạn m�nh lại m�, sợ nguy hiểm n�n n�i: - Để t�i đốt cho anh c�y đ�n, anh cầm đi về. Ch� m� cười: - T�i th� ng�y như đ�m, đ�m như ng�y; b�y giờ anh đốt đ�n, t�i cũng đ�u thấy c�i g�. Anh bạn n�i: - Biết vậy. Nhưng nhờ anh cầm c�y đ�n, người kh�c thấy được sẽ kh�ng đụng anh. Nghe c� l� n�n ch� m� cầm đ�n đi về. Được nửa đường bỗng c� người đầu kia đi lại đụng phải, ch� la l�n: - Bộ anh kh�ng thấy t�i sao? Người kia n�i: - Dạ thưa �ng, t�i kh�ng thấy. - T�i cầm c�y đ�n đ�y m� anh kh�ng thấy �? - C�y đ�n của �ng đ� tắt từ bao giờ rồi! Qua c�u chuyện đ� qu� vị hiểu thế n�o? Nếu m�nh kh�ng tự s�ng, d� cho người kh�c đem �nh s�ng đến trao tay cho m�nh cũng kh�ng cứu được m�nh. Đ�n b�n ngo�i đưa lại, đ� l� hữu sư tr�. Tr� do người kh�c cho m�nh th� cứu m�nh kh�ng được, chỉ con mắt m�nh s�ng mới cứu được m�nh th�i. Mắt m�nh s�ng đ� l� v� sư tr�, kh�ng ai dạy m� tự s�ng. Bởi vậy n�n người học Phật hay tu Phật phải khai th�c tr� sẵn c� của m�nh l� qu� hơn hết. Kế nữa l� c�u chuyện của Ng�i Đức Sơn. Một h�m Ng�i đứng hầu thầy l� Thiền sư S�ng T�n. Thấy khuya qu� ng�i S�ng T�n bảo: - �ng đi nghỉ đi. Ng�i Đức Sơn v�ng lời x� thầy, v�n r�m bước ra. Thấy b�n ngo�i tối qu� n�n Ng�i quay trở lại, ng�i S�ng T�n hỏi: - Sao �ng trở lại? Ng�i Đức Sơn thưa: - Bạch H�a thượng, b�n ngo�i trời tối đen. Nghe n�i vậy, ng�i S�ng T�n b�n đốt c�y đ�n cầm đưa cho Đức Sơn. Đức Sơn vừa đưa tay nhận c�y đ�n th� ng�i S�ng T�n vụt thổi tắt. Ng�i Đức Sơn liền ngộ. Như vậy ng�i Đức Sơn ngộ c�i g�? Nếu m�nh thấy tối phải nhờ đ�n, nhưng nếu đ�n do người kh�c trao th� chưa l�m m�nh s�ng được. Ng�i Đức Sơn vừa cầm đ�n th� ng�i S�ng T�n liền thổi tắt. Ngay đ� Đức Sơn tự bừng ngộ, cho n�n "c�i đ�" phải tự m�nh s�ng ra, chớ người kh�c trao cho kh�ng được. Như vậy t�i giảng Thiền, dạy Thiền cũng chỉ l� hướng dẫn cho qu� vị thực h�nh th�i, s�ng hay tối l� do qu� vị chớ kh�ng phải t�i. Bởi t�i kh�ng c� khả năng l�m cho qu� vị s�ng m� chỉ hướng dẫn thế n�y, thế nọ... rồi tự qu� vị theo đ� tự khai th�c, tự ngộ. Chừng n�o ngộ, b�o tin cho t�i mừng th�i. T�i kh�ng l�m g� cho qu� vị cả. Lẽ thực trong đạo l� vậy. Qua những c�u chuyện tr�n, ch�ng ta thấy người tu Thiền l� người đang đ�o bới thửa đất t�m của m�nh để t�m cho ra h�n ngọc trong đ�. Đến khi n�o ch�ng ta ph�t hiện v� nắm h�n ngọc được rồi l� điều qu� nhất, đ�ng mừng nhất của người tu. Được "c�i đ�" mới gọi l� ch�n thật, c�n tất cả những g� ch�ng ta hiểu, ch�ng ta nghe ai n�i chỉ l� phụ th�i. Đ� l� � nghĩa v� sư tr� m� mỗi người ch�ng ta phải tự thấy, tự biết. Nếu kh�ng nhờ v� sư tr� th� c� lẽ c�c nh� khoa học sẽ kh�ng c� c�c ph�t minh. Bởi v� ph�t minh l� thấy biết, ph�t hiện ra những điều từ trước đến giờ chưa ai biết; m� điều chưa ai biết th� ai dạy m�nh? Chỉ người c� ch� dồn hết t�m lực v�o một việc, rồi ng�y n�o tự bừng s�ng l�n, gọi l� ph�t minh. Người thế gian lo gi�p cho đời n�n ph�t minh vật chất, c�n ch�ng ta tu h�nh th� lo ph�t minh c�i sẵn c� của m�nh. "C�i đ�" bị ch�n v�i, b�y giờ ch�ng ta phải l�m cho n� s�ng ra, hiển b�y ra. Khi được s�ng, được hiển b�y rồi th� l�c đ� ch�ng ta phải l�m g� nữa, chui v� non v� n�i ở cho đến chết lu�n phải kh�ng? Khi m�nh nhận được h�n ngọc thật v� biết mọi người cũng đều c� h�n ngọc đ� nhưng họ qu�n, th� ch�ng ta khởi l�ng từ bi thương tất cả, muốn chỉ anh c�, t�i c�, người kh�c c�. Chỉ ra h�n ngọc của mỗi người sẵn c� l� c�i chỉ b�nh đẳng, kh�ng thi�n vị. D� kẻ đ� l� quan nhưng �ng qu�n, m�nh cũng thương như người kh�c, c�n kẻ c�ng đinh m� qu�n th� m�nh cũng thương như �ng quan. Bởi v� ch�ng ta chỉ thương c�i m�, c�i qu�n của họ th�i. Nếu n�i thấy ai ngh�o m�nh thương, c�n người gi�u kh�ng thương, như vậy l� mất b�nh đẳng. Thương c�i m�, c�i qu�n v� họ c� của b�u m� kh�ng nhớ, n�n người n�o qu�n ch�ng ta cũng thương, như vậy l�ng thương đ� mới b�nh đẳng. Ch�nh v� ai cũng c� của b�u, c� h�n ngọc qu�, n�n d� nam hay nữ cũng tu th�nh Phật được hết. Chỉ qu�n th� kh�ng c�, c�n nhớ v� r�ng tu l� được. Thế n�n tinh thần Thiền t�ng hết sức b�nh đẳng, nam nữ như nhau, ai cũng c� h�n ngọc qu� n�n ai cũng c� quyền th�nh Phật cả. Trong kinh Ph�p Hoa, phẩm Đề B� Đạt Đa, c� Long Nữ được ng�i Văn Th� gi�o h�a. Ng�i Văn Th� n�i với ng�i X� Lợi Phất: "Long Nữ n�y sẽ th�nh Phật", ng�i X� Lợi Phất kh�ng tin v� người nữ v� hơn nữa l� s�c sanh th� l�m g� th�nh Phật được. Long Nữ nghe n�i như vậy liền đem vi�n ngọc minh ch�u d�ng l�n c�ng dường Phật. Phật nhận, Long Nữ hỏi ng�i X� Lợi Phất: - T�i d�ng ngọc, đức Thế T�n nhận c� mau kh�ng? Ng�i X� Lợi Phất n�i: - Mau. - T�i th�nh Phật cũng mau như vậy đ�. Liền khi đ� Long nữ ẩn m�nh qua nước kh�c th�nh Phật. Như vậy l� sao? Văn Th� Sư Lợi trong kinh Ph�p Hoa l� ti�u biểu cho v� sư tr�. Đ� c� v� sư tr� th� nam nữ g� cũng th�nh Phật chớ kh�ng ph�n biệt ph�i n�o. Người nữ đứng về mặt nghiệp tướng th� kh�c, nhưng về mặt v� sư tr� th� b�nh đẳng với người nam. V� vậy Thiền t�ng lu�n khai th�c tr� v� sư đ�. Dưới con mắt nh� Thiền thấy nam nữ b�nh đẳng như nhau, ai cũng c� khả năng th�nh Phật. Tăng Ni, Phật tử nam hay Phật tử nữ, cho đến cả người thế gian chưa từng biết đạo cũng c� h�n ngọc qu�, cho n�n kh�ng ai l� kẻ bần c�ng, chỉ người qu�n mới bần c�ng th�i. Nếu ch�ng ta ứng dụng tu cho đến nơi, đến chốn th� quyền th�nh Phật l� quyền của m�nh, chớ kh�ng phải Phật cho m�nh th�nh Phật. Phần nhiều ch�ng ta mong muốn được Phật thọ k�, nhưng ch�ng ta c� l�m được th� Phật mới thọ k�, c�n kh�ng l�m được th� Phật l�m sao thọ k�? Ch�ng ta c� quyền l�mPhật v� ch�ng ta cũng c� quyền l�m ngạ quỷ, s�c sanh. Ch�nh v� ch�ng ta c� quyền đ� n�n ch�ng ta phải nỗ lực tinh tấn tu h�nh, để đi l�n chớ đừng đi xuống. Kh�ng ai phạt ch�ng ta cả, trời kh�ng phạt, Phật kh�ng phạt m� chỉ v� m�nh chọn đường đi. Chọn đường đi xuống th� đi xuống, chọn đường đi l�n th� đi l�n, tất cả đều do m�nh chọn. C� người n�i Thiền t�ng n�i g� cũng hướng về m�nh hết, kh�ng nhờ b�n ngo�i; như vậy kh�ng nhờ Phật sao? Thật ra ch�ng ta phải hiểu như vầy: Phật chỉ cho ch�ng ta đường lối tu, căn bản c�c ph�p tu l� đ� gia hộ cho ch�ng ta rồi. Cũng như qu� vị kh�ng biết g� hết, t�i chỉ cho qu� vị biết ch�t ch�t rằng, qu� vị c� h�n ngọc qu� b�u, c� c�i s�ng suốt, nhưng qu� vị phải tự t�m lấy. Đ� l� t�i đ� gia hộ cho qu� vị, chớ đ�u phải đợi gặp tai nạn rồi ban cho điều n�y, điều kia mới gọi l� gia hộ. Hướng dẫn một lối đi, ch�ng ta theo đ� tự s�ng l�n tr�nh khỏi mọi khổ đau. Đ� gọi l� gia hộ. Lại, n�i về thầm gia hộ th� như đứa học tr� si�ng năng cần mẫn, th�ng minh, thầy c� gi�o dạy đ�u đều học, đều hiểu v� đều thực h�nh được hết. L�m b�i n� c� xin thầy gi�o cho con điểm cao v� thầy c� c� chiều n� kh�ng? Nếu n� th�ng minh, học giỏi, l�m b�i hay th� nhất định thầy c� phải cho điểm cao. Cho điểm cao l� thầy c� thương n� hay l� tại c�i g�? Tại n� cố gắng học. Cũng vậy, người tu của ch�ng ta, nếu tu ch�n ch�nh, cần mẫn th� sau n�y c� kết quả tốt. C�n n�i rằng Phật thọ k� hay Bồ t�t hướng dẫn cho m�nh, thật ra đ� l� do c�ng phu nỗ lực của m�nh, cố gắng thực h�nh theo lời dạy bảo của c�c Ng�i, n�n việc tu mới c� kết quả. Nhờ sự nỗ lực, cố gắng đ� m� được điểm tốt. Thầm gia hộ l� như vậy. Phật thương ch�ng ta, muốn ch�ng ta tu tiến từ ch�nh sự cố gắng nỗ lực của ch�ng ta. Được thế, Phật mừng v� khen ngợi; khen ngợi đ� l� thầm gia hộ rồi. H�m nay t�i đến thăm Đạo tr�ng Th�i Tuệ, vừa để biết chỗ nơi tu h�nh của qu� Phật tử, vừa trực tiếp nhắc nhở s�ch tấn qu� vị tu tập. T�i nghĩ qu� Phật tử cũng từng nghe giảng, nghe t�i n�i nhiều rồi, mong rằng từ đ�y về sau tất cả qu� Phật tử trong Đạo tr�ng v� những Phật tử xung quanh biết m�nh c� của b�u qu� gi� rồi, phải r�ng nỗ lực khai th�c t�m ra cho được m� d�ng, đừng l�m c�ng tử lang thang nữa. Đ� l� sự mong mỏi của t�i. ]
|