PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch
Nhà xuất bản Thời Đại
Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử
Mặc dù tất cả giáo pháp của Đức Phật đều có chung một mục đích, nhưng các giáo pháp này lại vô cùng khác biệt trên phương diện đề tài cũng như sự tu trì. Mỗi quyển kinh sẽ nhấn mạnh một điểm nào, trên một chiều hướng nào đó. Vì đức Phật rất quan tâm việc làm sao giúp các đệ tử Thanh văn đương thời của Ngài một cách hữu hiệu nhất, bằng cách ban cho họ những tư liệu mà họ có thể dùng được và không nhận chìm họ với những dữ kiện dư thừa. Ngài không hề tìm cách giảng về một đề tài từ đầu đến tận cùng rốt ráo để rồi không bao giờ trở lại nữa. Ngài thường phân bố các điều giải thích dần dần trong các bài Pháp, và không ngại nhắc lại nhiều lần các ý niệm quan trọng, nếu cần thì thêm một sắc thái, một sự soi sáng hay mở bày mới hơn.
Theo cách đó, trong quyển "Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử", một lần nữa đức Phật tuyên thuyết về các trạng thái tâm thức mà chúng ta nên phát khởi lúc gần nhắm mắt lìa đời. Lần này có năm tâm thức.
Có một số trong năm tâm thức này đã được đề cập trong bản kinh trước, nhưng lại được phát biểu một cách hơi khác đi, như quý vị sẽ thấy.
Theo thông lệ, trước tiên tôi sẽ truyền dạy kinh này bằng cách đọc lên [toàn văn kinh] một lần:
"Quy mạng nhất thiết chư Phật và chư Bồ Tát.
Tôi nghe như vầy, một thời Bạc Già Phạm tại Sắc Cứu Cánh thiên cung, thuyết Pháp cho đại chúng. Lúc ấy Hư Không Tạng Bồ Tát, vị đại anh hùng, lễ Bạc Già Phạm và hỏi rằng:
– Bạc Già Phạm, Bồ Tát phải quán như thế nào vào lúc cận tử?
Bạc Già Phạm dạy:
– Hư Không Tạng Bồ Tát, lúc cận tử, Bồ Tát phải quán các diệu trí lúc cận tử. Thế nào là các diệu trí lúc cận tử?
1) Vì tất cả các pháp bản thể đều thanh tịnh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán về tánh Không của tất cả các pháp.
2) Vì tất cả các pháp đều có trong tâm Bồ-đề, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm đại bi.
3) Vì tất cả các pháp bản thể là quang minh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán vô nhất vật trong các pháp.
4) Vì tất cả các pháp đều vô thường, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm vô chấp.
5) Vì tâm là nhân của trí huệ bát-nhã, đừng tìm tánh Phật ở đâu khác.
Bạc Già Phạm lặp lại bằng kệ rằng:
Các Pháp vốn thanh tịnh,
Hãy quán về tánh Không.
Đầy đủ Bồ-đề tâm,
Hãy quán tâm đại bi.
Các pháp vốn quang minh,
Quán pháp vô nhất vật.
Các Pháp vốn vô thường,
Hãy quán tâm vô chấp.
Tâm sinh diệu trí huệ,
Phật tánh tìm đâu xa?
Bạc Già Phạm thuyết Pháp như thế rồi, Bồ Tát Hư Không Tạng và đại chúng vô cùng hoan hỉ tán thán.
Phật thuyết Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử."
Kinh Đại thừa này đã được tuyên thuyết trong điều kiện nào? Đó là một ngày đức Phật có các vị đệ tử vây quanh, nhất là các vị Bồ Tát. Một trong các vị Bồ Tát này tên là Hư Không Tạng (Tạng ngữ: Namkhai Nying Po) đảnh lễ đức Phật và hỏi: Lúc cận tử, các vị Bồ Tát nên quán như thế nào?
Trong lời giải đáp, đức Phật dùng chữ "diệu trí vô thượng" để nói về năm trạng thái tâm thức mà Ngài đặc biệt sách tấn. Chúng ta đã thấy rằng mình không bắt buộc phải áp dụng cả năm. Ngược lại, mục đích là để có sự lựa chọn và áp dụng vào từng trường hợp riêng, tùy theo điều mà người lâm chung có thể hay không thể tư duy: tánh Không, hoặc tâm đại bi v.v...
1. Quán tánh Không
Lời dạy rất ngắn gọn này thật ra nói lên sự không có thực của
vạn vật, tức là
tánh Không của chúng. Lúc
lâm chung, khởi lên trong
tâm trí tuệ về
tánh Không của các pháp là một điều
vô cùng lợi ích. Để giảng rộng lời kinh, "các pháp" nghĩa là các
hiện tượng, "bản thể vốn
hoàn toàn thanh tịnh" nghĩa là
bản thể của chúng
hoàn toàn không có
tự tánh hay
thực thể. Vì thế,
chúng ta phải quán xét, phải phát triển
hiểu biết về sự
vắng mặt của
tự tánh [tự tồn] trong tất cả
hiện tượng như nói trên.
Tôi nghĩ rằng quý vị nghe câu này có vẻ
quen thuộc, vì
chúng ta đã gặp lại niệm tưởng thứ mười trong mười một niệm tưởng đã được nêu rõ trong quyển
kinh đề cập trước đây.
Không
cần phải nói, lời khuyến dụ này không phải dành cho bất cứ ai cũng được. Người nghe phải từng được học tập trước đó, phải có một
hiểu biết căn bản. Nhưng nếu đã có được sự
hiểu biết cần thiết, việc có thể quán xét về
tánh Không trong giờ phút ấy sẽ
mang đến một sự
lợi ích lớn lao, bởi rất nhiều
lý do.
Chúng ta đã đề cập qua, nhưng nhắc lại về khái niệm này cũng không phải là một sự
dư thừa.
Trong
Phật giáo, "phàm phu" là người còn ở trong cõi Ta-bà, còn
luân hồi trong các
cảnh giới hữu vi quyết định bởi nghiệp và
phiền não. Cho rằng đó là
trường hợp của
chúng ta, thì
nguyên nhân là từ
vô thủy chúng ta đã bị
đánh lừa bởi
nhận thức sai lầm về cái gì là có. Thế nhưng, nếu phân tích một cách
đúng đắn thì
chúng ta có thể
nhận ra rằng sự vật được
nhận thức – bất cứ một
hiện tượng nào – có thật đấy, nhưng
chắc chắn không phải dưới dạng thức mà nó trình hiện. Đúng vậy, cái
hình tướng trình hiện trong
tâm trí chúng ta là một
sự kiện được
nhận thấy một
cách biệt lập với sự vật khác.
Chúng ta có
cảm tưởng là nó
xuất hiện bằng chính khả năng của nó, không
tùy thuộc vào bất
cứ sự kiện nào khác, vào một nhân hay một duyên nào, trong khi
sự thật lại khác hẳn.
Các
hiện tượng có là một điều đương nhiên, nhưng chúng luôn luôn đến từ một nhóm nhân tố, nói giản dị là từ một nhóm
nhân duyên. Thế mà
tâm trí ta lại thấy ngược hẳn, và trong khi cảm nhận của
chúng ta hoàn toàn sai lầm, ta lại tin đó là
chân thật đến nỗi ta chấp vào sự vật dưới cái
hình tướng chung ấy.
Chúng ta tin rằng sự vật tự có, và có một cách
độc lập, ta
gán cho chúng một
tính cách tuyệt đối. Chính cái thấy
sai lầm đó của
chúng ta đối với tất cả các sự hữu đã tạo nên cái
vô minh gọi là
căn bản, vì
vô minh này đã trói chặt
chúng ta vào cõi Ta-bà từ
vô thủy cho đến nay.
Cho nên, hiểu theo hướng ngược lại, thấy được
sự thật,
nhận thức được sự
vắng mặt của
tự tánh là rất có ích cho
chúng ta. Nhất là nếu quán xét được như thế ngay trước khi chết thì thật là kịp lúc.
Tốt hơn hết là hãy lấy một
thí dụ có
ý nghĩa vì gần với ta nhất, đó là cái "tôi", cái "ta", và cách thức mà
chúng ta tự
nhận thức về mình. Suốt ngày
chúng ta dùng đến chữ "tôi", chữ "ta": "Tôi làm cái này, tôi làm cái kia", "tôi đi đến chỗ đó" v.v... Khi
chúng ta đang nghĩ như thế, "ta đến, ta đi" v.v… và khả năng
thực hiện điều đó
tùy thuộc vào cái
cấu tạo cá nhân chúng ta, nghĩa là vào thân và tâm ta. Ấy
vậy mà chúng ta không thấy khía cạnh đó, và ta không hề nghĩ rằng mọi sự vốn
diễn tiến như thế.
Thật ra,
thỉnh thoảng chúng ta nên dành một ít
thì giờ để
quan sát cách ta
nhận thức về chính mình khi nghĩ đến những gì ta làm, điều này khá quan trọng. Khi
chúng ta đang nghĩ đến
chương trình "ta sẽ đi đến đó", thì ta
hình dung cái "ta" đó như thế nào?
Phải chăng là
chúng ta hình dung nó như một cái "tôi"
hoàn toàn độc lập, tự hữu, không
tùy thuộc vào bất cứ gì khác, ngay cả thân và tâm của nó?
Phải chăng đó là
hình ảnh được
thành lập trong trí của chúng ta?
Hình ảnh một cái "tôi"
độc lập đối với tất cả, và nhất là đối với thân và tâm, là cái mà ta gọi là "chấp ngã", biểu trưng của sự
vô minh.
Rõ ràng chúng ta hiện hữu như một
cá nhân, nhưng để
hiện hữu,
chúng ta phải có một thân và một tâm đã chứ! Không biết
chúng ta sẽ làm cách nào để
hiện hữu như một cái "tôi" nếu
hoàn toàn không kể đến
thân tâm và không
tùy thuộc vào chúng?
Ấy
vậy mà chúng ta nào có
nhận thức sự vật như thế đâu! Thật thế, khi
chúng ta nghĩ "tôi sẽ đi đến chỗ đó", ta
nhận thức về cái "tôi" ấy rất giản dị,
nếu không nói là
đơn giản hoá quá mức!
Chúng ta hài lòng với
ý nghĩ "tôi" trong tâm, không hề đặt
nghi vấn,
cho đến nỗi không một chút
nghi ngờ rằng cái "tôi" ấy không hề
độc lập như mình tưởng!
Để lấy một
thí dụ rõ rệt hơn, hãy tưởng tượng là có người
công kích hay
lăng nhục chúng ta. Thường thì
chúng ta phản ứng như thế nào? Hãy
thú nhận rằng
chúng ta rất phật ý và
cảm thấy có chút gì tức giận. Vì
chúng ta phẫn nộ, có thể
chúng ta nảy sinh
ý nghĩ: "Nó dám nói thế với ta! Với chính ta!" Và cái "ta" ấy có vẻ tự áp đặt lên
chúng ta. Nó
hiển hiện như một
thực tại, tự hữu, một hiện thể tuồng như
độc lập.
Chắc chắn không phải trong những lúc như thế mà
chúng ta có thể tự
nhận ra rằng cái tự xưng là "ta"
tuyệt đối ấy
hoàn toàn không hề
tuyệt đối. Phải,
chúng ta hiện hữu như một cái "ta", như một "cá thể", nhưng là
tùy thuộc vào thân và tâm của mình. Không có thân và tâm,
chúng ta là cái gì?
Xét
trường hợp ngược lại. Lần này chẳng những người
đối diện không
công kích ta mà còn đưa ta lên mây: "Tôi phục ông (hay bà) quá! Ông thật là tài trí vẹn toàn! Ngoài sự
hiểu biết uyên thâm, ông còn
tỏ ra thật là tốt đối với người khác!
Đã vậy mà còn
sang trọng quá!"
Trước những lời tâng bốc như thế, có người
vẫn có thể giữ tâm
bất động và biết rõ mình thật sự như thế nào, nhưng phần đông sẽ
cảm thấy khoái chí, êm tai. Thay vì
nhận thấy đó chỉ là những
lời nói làm
đẹp lòng, thường thì họ lại dễ dàng nảy sinh
ý nghĩ: "Nghĩ cho cùng, ông ta nói đúng! Ta đây cũng khá lắm chứ!"
Đồng thời,
ý niệm chúng ta có về chính mình như là một
cá nhân có thật,
rõ ràng hiện hữu bằng chính khả năng của mình. Hắn có đó,
hoàn toàn có đó.
Chúng ta thấy như vậy và không đi tìm
xa hơn.
Một
thí dụ khác rất thông thường. Cho là
chúng ta có một ngôi nhà. Nhưng mái nhà bị thủng và
chúng ta phát
hiện có nước dột. Là một tay thợ gan dạ,
chúng ta quyết định tự sửa lấy. Vì chỗ dột nằm ngay bên cạnh máng nước,
chúng ta bèn
mạo hiểm trèo lên gần mé.
Thình lình chân ta trượt trên mái nhà,
chúng ta hoảng hồn, sợ
điếng người. Thật ra
chúng ta chưa ngã, chỉ bị trượt chân thôi, nhưng
lập tức chúng ta hãi hùng nghĩ rằng "Tôi ngã!" Và
dĩ nhiên, cái "tôi" đó rất thật có đối với
chúng ta.
Chúng ta thấy đó là một cái gì
hoàn toàn tự nó
hiện hữu, chứ không hề nghĩ rằng cái "tôi" ấy, nghĩa là
cá nhân của chính ta đây, là một
hiện tượng hoàn toàn tương đối và
giả danh. Trong giai đoạn
hiện thời,
chúng ta không có khả năng nghĩ như thế!
Khi ở bờ mé của mái nhà hay của một hố thẳm
chúng ta hoảng hốt kêu lên "tôi ngã", hay
trước mặt mọi người,
sung sướng với những lời tâng bốc
quá khích chúng ta tự bảo "nghĩ cho cùng, ta cũng khá lắm chứ!", cái khái niệm "tôi" hình thành trong trí
chúng ta [theo cách đó] có phải là một sự "chấp thật có" không? Không, chưa hề.
Bề ngoài nó có vẻ
như thật một cách
tuyệt đối, nhưng
chúng ta chưa nảy sinh tâm
chấp trước vốn đi đôi với
sự thật sai lầm ấy.
Tuy nhiên, một
nhận thức về một sự việc mà tướng trạng chung có vẻ như
hiện hữu độc lập theo
lý thuyết lại thường kéo theo một tâm
chấp trước đối với tướng trạng chung ấy. Thế là
chúng ta tin rằng
cá nhân thật sự
hiện hữu dưới
bề ngoài ta nhìn thấy được,
hay nói cách khác, đúng như tướng trạng chung mà họ trình hiện.
Vậy thì, sự chấp thật tức là sự
tin tưởng rằng đối tượng được
nhận thức – ở đây là cái
cá nhân dưới dạng cái "tôi" – tự nó
hiện hữu, không
tùy thuộc vào bất cứ gì khác.
Để
miêu tả từ đầu đến cuối tiến trình này, trong
trường hợp một kẻ
phàm phu, thì người này
hình dung bất cứ đối tượng
nhận thức nào của mình, và
đặc biệt là cái "tôi",
hoàn toàn biệt lập với tất cả mọi
nhân duyên. Trên
căn bản của những
sắc tướng bên ngoài như thế, họ bèn "chấp"
mọi vật dưới dạng ấy: Họ
tin chắc rằng mọi sự vật, và
đặc biệt là chính
con người của họ,
hiện hữu thật sự dưới
hình tướng mà họ
nhận thấy. Đó là cái mà
Phật giáo gọi là "chấp ngã",
hay nói cách khác là "chấp thật".
Sự
chấp ngã ban cho đối tượng bị chấp (cái sở chấp) một
quyền lực rất lớn,
chấp ngã càng nặng bao nhiêu thì
quyền lực càng lớn bấy nhiêu: cái
cá nhân có vẻ
như thật có (với nghĩa là biệt lập với mọi
nhân duyên) được
thành lập như một cái gì
tuyệt đối và có một tầm quan trọng
tối cao đối với người
chấp ngã (năng chấp). Khái niệm về "tôi" càng
chắc chắn bao nhiêu thì khái niệm về "người khác" cũng
đồng thời chắc chắn và rõ rệt bấy nhiêu. Sự ngăn cách giữa "tôi" và "người khác" trở nên rất
rõ ràng và
triệt để, và không hề có một mối tương quan hay một nhịp cầu nào giữa hai bên. Kết quả là, một cách rất
tự nhiên và không thể tránh được, ta
cảm thấy đắm luyến mãnh liệt đối với cái "tôi" mà ta cho là
tối thượng, cùng với tất cả những gì mà ta nghĩ là đứng về phe ta. Và cũng không tránh được, điều đó làm khởi sinh
ác cảm với "kẻ kia" và những gì dính dấp tới hắn. Từ đó – sự đắm luyến đối với chính mình cùng những gì thuộc về mình, và
ác cảm đối với kẻ khác lẫn những gì thuộc về họ – nảy sinh tất cả mọi
phiền não của
tâm thức. Và mỗi lần các
phiền não khởi sinh, dầu là vì đắm trước hay vì
ác cảm, chúng sẽ
tác động lên ba bình diện (thân, khẩu và ý) và kéo theo
sự tích lũy trong tâm những
chủng tử tương đương. Sau đó,
các chủng tử ấy sẽ
biến thành nghiệp báo đưa
chúng ta đi vào những kiếp
tái sinh mới trong cõi Ta-bà.
Đó là cách
phàm phu cứ thế mà xoay vần trong
thế giới Ta-bà, do
phiền não và
nghiệp thức đưa đẩy đi từ cõi
hữu vi này đến cõi tạo tác khác. Khi ta tự bảo là nên,
hay nói cách khác là phải,
cấp bách thoát khỏi cái
vòng lẩn quẩn ấy, cái vòng
luân hồi vô tận đưa ta đến những kiếp
tái sinh đồng loại ấy, thì chỉ có một cách
duy nhất là
chấm dứt ngay những
yếu tố nuôi dưỡng nó. Phải
trừ diệt vô minh, và
chính xác hơn là cái
vô minh ngã chấp. Đó là
lý do vì sao trong
bản kinh này
đức Phật đã
nhấn mạnh ngay từ đầu là người hấp hối mà
tư duy được, tức là hiểu được "vạn pháp đều không", với nghĩa là chúng không "có" một
cách biệt lập và có
thật tánh – thì thật là tốt cho người ấy.
Một người
phàm phu chắc chắn có
chấp ngã, nhưng điều đó không có nghĩa là sự
chấp ngã lúc nào cũng
hiện diện trong
tâm thức họ. Điều đó không phải lúc nào cũng
rõ ràng minh bạch. Chỉ trong những
trường hợp như vừa đề cập trên thì nó mới
xuất hiện một cách rất rõ nét.
Vậy thì chính những
kinh nghiệm hơi
tế nhị, tốt hay xấu, khởi động niệm tưởng về ngã khiến cho sự
chấp ngã công khai phát xuất.
Nếu không,
dĩ nhiên là sự
chấp ngã hiện hữu nơi mỗi người, nhưng rất
thường xuyên một cách tiềm tàng.
Tại sao
tư duy về
tánh Không, về sự
vắng mặt của
tự tánh vào lúc cận tử lại là điều đáng làm và phải lúc?
Vì là
phàm phu, nên từ
vô thủy chúng ta đã quen
chấp ngã, tức là cái
vọng tưởng chấp lấy mọi sự vật và ngay cả chính mình, như những
thực thể tuyệt đối. Lúc giờ chết gần kề, sự
chấp ngã trở nên mãnh liệt bội phần. Nó sẽ nổi lên với một
sức mạnh vô song, một là do
thói quen cố hữu, hai là vì cái giờ phút
tế nhị đang
trải qua. Thế nhưng, sự
chấp ngã tăng cường sẽ
củng cố tất cả những gì mà nó phát sinh.
Với
thời gian,
chúng ta đã
chấp trước khá nhiều vào chính
chúng ta và
thân tâm của mình. Trong những giây phút quá
đặc biệt này, sự
chấp trước tăng lên rất mạnh vì
chúng ta biết rõ rằng mình sẽ không còn ở lâu trong cõi đời này nữa. Thân xác
chúng ta sẽ không còn nữa.
Chúng ta sẽ phải bỏ nó lại phía sau vì nó sẽ bị
tiêu diệt, tan biến. Một người
phàm phu, trong
viễn cảnh ấy gần
như không thể nào không bị
chìm đắm trong một sự
chấp trước vào
thân thể của mình mãnh liệt hơn lúc trước rất nhiều. Càng thấy mình sắp mất nó, mình càng bám chặt vào nó. Sự
khát ái và
tham luyến đối với
thân thể sẽ làm cho một
chủng tử nghiệp trở nên
thành thục, đó là nghiệp đưa ta đi
tái sinh, vì
chính nghiệp này sẽ phóng ta vào một kiếp sống mới trong cõi Ta-bà.
Một người
lâm chung sẽ ở trong
trạng thái tâm thức nào? Họ thường tự nhủ: "Ta sẽ biến mất! Ta sẽ bị tiêu diệt!" Thật ra, cái sẽ biến mất là thân xác của họ, nhưng họ lại không thấy như thế. Họ sẽ không thể phân tích như thế nếu họ không đã từng miên mật
huân tập từ trước.
Phản ứng tự nhiên sẽ là "Tôi đang biến mất" chứ
chắc chắn không phải là "chỉ có
thân thể tôi đang
bị hủy diệt chứ không phải tôi".
Người
lâm chung tự
đồng hóa một cách rất
tự nhiên với
thân thể, và đó là bởi vì quá
chấp chặt vào
thân thể của họ. Sự
chấp trước vào
thân thể của họ mạnh đến nỗi họ thấy mình với nó là một. Họ không thể làm khác hơn được. Đó là những phản xạ
tự nhiên. Vào cuối đời, sự đắm trước đối với chính họ sẽ bùng lên một cách tự động, trừ những
trường hợp ngoại lệ.
Thật thế, điều gì xảy ra cho những người đã nhờ
thiền định mà trực tiếp hiểu được
tánh Không, sự
vắng mặt của một cái ngã tự hữu và tuyệt đối? Những vị đã
chứng đắc điều này được gọi là bậc thánh (arya), nhưng các ngài không có
cùng chung một
trình độ. Có nhiều cấp bậc khác nhau. Hai cấp bậc đầu
bao gồm các vị thánh còn phải sinh vào
Dục giới, tức là cõi mà
chúng ta đang sống.
Thuật ngữ Phật giáo gọi là "nhập lưu" và "nhất lai" (tức là các bậc
thánh Thanh văn chỉ còn mỗi một kiếp
tái sinh nơi
Dục giới).
Mặc dầu thật chứng được
tánh Không, nhưng ngay cả những vị này cũng còn nảy lên một niệm
chấp ngã trong tâm lúc cận tử. Sự khác biệt với
phàm phu – những người chưa chứng được
tánh Không – nằm ở chỗ là nhờ
ý thức được sự
vắng mặt của
tự tánh nơi
vạn pháp và nhất là nơi
con người, các vị thánh này không nhượng bộ tâm
chấp trước. Trong tâm họ nảy sinh niệm
chấp ngã, nhưng họ không để cho niệm này
trói buộc. Họ không bị niệm
chấp trước khống chế, vì họ không tin vào nó. Họ hiểu rất rõ rằng những điều
hiện ra trong trí họ toàn là những
vọng tưởng tai hại,
hoàn toàn sai lầm.
Những vị thánh đã
đạt đến một
trình độ cao hơn, tức là những vị không bao giờ còn phải
tái sinh trong
Dục giới, đã
vượt qua sự
chấp trước cho đến mức, dẫu trong phút
lâm chung, niệm ấy cũng không còn có thể nảy sinh trong tâm họ.
Như vậy, khi chưa
đạt đến trình độ cao của
quả vị thánh,
chắc chắn là lúc cận
tử tâm của
chúng ta bị xâm chiếm bởi sự
ái luyến bản thân. Một trong các
hậu quả là niệm
chấp ngã rất mãnh liệt trong tâm người
lâm chung. Vì thế mà
đức Phật đã khuyên rằng, nếu được thì
lúc ấy nên
tư duy về
tánh Không, và quán "sự vắng mặt" – hiểu theo
nghĩa đen – của mọi
hiện tượng, tức là [
tính chất] "Không, vô tự tánh" của mọi
hiện tượng, dẫu chỉ trong khoảnh khắc.
Mục đích là để
đối trị tâm
chấp ngã,
chấp trước vào
bản thân, và để
hạn chế những
tai hại về sau của các tâm ấy.