PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch
Nhà xuất bản Thời Đại
PHẦN II. Phù trợ người lâm chung
Trong tất cả mọi tình huống, nếu ta chân thành muốn giúp đỡ một người lâm chung, thì điều tốt nhất ta có thể làm, trong lăng kính của sự tái sinh, là làm tất cả để sao cho người này an trụ trong một trạng thái tâm thức hiền thiện vào giây phút cuối cùng, khi tâm trí người này còn hoạt động ở dạng thô, vì tâm thức cuối cùng của họ sẽ định đoạt kiếp tái sinh sắp tới, tốt hay xấu.
Chú trọng tới hoàn cảnh của người lâm chung
Một khi hiểu được nguyên tắc khái quát rồi, khi thực tế đối diện vấn đề, lúc phải ra tay thì phải biết tùy cơ ứng biến. Ta có thể chia làm hai loại người ở giờ phút lâm chung, tùy theo việc họ có được chuẩn bị hay không trước cái chết.
Đối với người đã có một đời sống tâm linh, có tín ngưỡng và đã từng hành trì, đã suy nghiệm về cái chết, lại chia ra làm hai loại nữa, tùy theo sự chuẩn bị của họ có kết quả hay không.
1. Sự chuẩn bị đã hoàn thiện, hơn nữa, người lâm chung vẫn còn sáng suốt.
Nhờ có tu trì, người này đối diện với cái chết một cách bình tĩnh, và đủ sức tiếp tục suy nghiệm, quán chiếu, hay ít nhất cũng tự khơi dậy một trạng thái tâm thức tốt lành. Người này tự đủ sức và đã sẵn sàng. Vì họ có khả năng “xoay sở” một mình, không cần sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, nên trên thực tế thì tốt hơn hết là nên để yên cho họ, tránh làm phiền họ không đúng lúc, mà nên thu xếp cho họ có được sự yên tịnh cần thiết để họ tiếp tục con đường đạo.
2. Người lâm chung không hề được chuẩn bị trước, hoặc có chuẩn bị nhưng không đủ.
Chúng ta có thể gặp nhiều tình huống như sau:
– Người lâm chung đã nghĩ đến cái chết, và vì có hành trì nên họ đã làm hết sức mình để tự chuẩn bị, nhưng sự chuẩn bị không được đầy đủ.
– Người lâm chung đã được chuẩn bị khá đầy đủ, nhưng vì sự đương đầu với cái chết không phải là một chuyện dễ dàng nên họ cảm thấy sợ hãi. Trong cơn khủng hoảng, họ quên mất những pháp môn vẫn thường hành trì và có nguy cơ không an trụ được trong trạng thái tâm thức thích hợp.
– Trong suốt cuộc đời, người lâm chung không hề nghĩ đến cái chết (vì bất cứ lý do nào). Họ rất có thể không biết rằng khởi lên tâm niệm lành vào lúc này là có lợi cho họ. Hơn nữa, họ có muốn cũng chưa chắc làm được.
Một người ở trong những trạng huống kể trên sẽ cần đến một sự giúp đỡ từ bên ngoài. Nếu người đến phù trợ và đưa tiễn họ có khả năng khuyên giải và chỉ dẫn cho họ khởi được những tư tưởng lành thì rất có lợi.
3. Người lâm chung vướng phải một căn bệnh hay bị đau đớn làm cho mất sáng suốt. Người này cũng cần được giúp đỡ một cách thích đáng.
Tôi xin nhắc lại là Phật giáo cho rằng hữu tình nào cũng nên an trụ trong một trạng thái tâm thức hiền thiện vào những giây phút cuối cùng trước khi lìa đời, bất luận tín ngưỡng, và dẫu cho họ có tin hay không tin vào thuyết luân hồi.
Dĩ nhiên, những ai tin rằng người ta sống vỏn vẹn chỉ có một đời này thôi thì sẽ thấy chết là hết. Tuy nhiên, họ có thể công nhận rằng, đối với họ cũng như những người thân, nếu họ được ra đi một cách an bình trong một trạng thái tâm thức an lạc thì vẫn tốt hơn. Điều đó chắc chắn sẽ là một niềm an ủi cho những người ở lại. Đối với bản thân, chết như thế thoải mái hơn nhiều. Ngoài ra, họ sẽ ra đi một cách rất tốt đẹp, phù hợp với điều mong muốn – chính đáng – của họ, tức là cái hạnh phúc mà họ đã gìn giữ suốt cả một đời. Nếu họ làm hỏng hết vào giờ cuối bằng một cái chết khổ sở và rối loạn thì thật là đáng tiếc. Huống chi người tin vào thuyết luân hồi, họ sẽ thấy không những nên có, mà còn cần thiết phải có những tư tưởng thích hợp khi đến giờ đã định, một phần là để một lần nữa có một kiếp tái sinh tốt, mà nếu họ là người tu hành, để có thể tiếp tục hành trì và sớm đạt thành quả.
Chuẩn bị cho việc phù trợ người lâm chung
Ở Âu châu mấy năm gần đây, người ta trở lại quan tâm đến giai đoạn cuối của cuộc đời, và vấn đề hết sức hệ trọng, hết sức tế nhị là giúp đỡ người lâm chung lại chiêu cảm một số người ngày càng đông hơn. Chúng ta có thể lấy đó làm mừng. Nhưng làm thế nào để giúp đỡ [người lâm chung] một cách thiết thực? Phải suy nghĩ cho chu đáo.
Làm với từ bi và tình thương
Theo
Phật giáo, với
tư cách người đến phù trợ và
tiễn đưa thì
điều kiện đầu tiên và cơ bản là tự khởi lên một
trạng thái tâm thức thấm nhuần từ bi và
tình thương đối với mọi loài nói chung, mà
đặc biệt là đối với người đang hấp hối, người mà ta đến để phù trợ. Thật sự nếu ta chú ý bắt đầu bằng việc
phát khởi những
tư tưởng nhân hậu, nếu ta có một
ý chí mãnh liệt muốn giúp đỡ người sắp chết một cách hữu hiệu,
tóm lại, nếu lòng ta tràn ngập
từ bi và
tình thương thì
chắc chắn người
lâm chung sẽ cảm nhận được và nhờ thế mà ta sẽ có một
tác động mạnh hơn đối với họ.
Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Trong
giả thuyết mà ta là người phù trợ, với một tấm lòng
vô cùng chân thành và với
ý muốn duy nhất là đem lại
lợi lạc cho người
lâm chung, thì điều đó sẽ thấm đượm vào trong mỗi
cử chỉ, mỗi
lời nói của ta đối với họ.
Chắc chắn họ sẽ cảm nhận được, nhờ thế
chúng ta sẽ có một tầm
ảnh hưởng rất sâu đậm đối với họ. Vì thế, dầu cho
chúng ta cảm thấy thời gian cấp bách, không thể
trì hoãn phút nào, nhưng việc dành
thời gian để tự khơi dậy một
trạng thái tâm thức tốt lành không phải là
phung phí, mà ngược lại là khác.
Như tôi vừa nói, trong vài thập niên
trở lại đây số người muốn phù trợ, đưa tiễn người
lâm chung và dấn thân để làm việc đó ngày càng nhiều hơn.
Dĩ nhiên, đây là một
chuyển hóa tốt đẹp, và tôi lặp lại,
chúng ta phải lấy đó làm điều
vui mừng.
Tuy nhiên, tôi thấy có hai nguy cơ có thể xảy ra. Tôi xác định đây là
quan điểm chủ quan của riêng tôi, tôi không dám chắc là mình
hoàn toàn đúng, nhưng cũng như bất kỳ ai, tôi có quyền bày
tỏ ý kiến của mình.
Hai nguy cơ mà tôi
nhận thấy trong khuynh hướng
hiện tại khi có rất nhiều người muốn
tham gia việc này là gì?
Sự phù trợ và đưa tiễn người
lâm chung nếu
trở thành một
hoạt động gần như thông thường thì sau một
thời gian người ta sẽ trở nên quá
quen thuộc đến nỗi sẽ
trở thành một
thói quen như đi làm ở
công sở, một
hoạt động như mọi
hoạt động tầm thường khác.
Trong
trường hợp đó, bên tử sàng, thay vì
cảm thấy mối quan hoài và tha thiết muốn giúp đỡ một người
lâm chung và chỉ
đặc biệt riêng người này thôi,
chúng ta có nguy cơ rơi vào chỗ không
dụng công nỗ lực nữa và thấy việc đến với người này như một công việc tầm thường, vô thưởng vô phạt.
Tương tự, người mà ta muốn giúp đỡ cũng sẽ cảm
nhận thấy như vậy. Đó là mối nguy thứ nhất: làm cho sự việc trở nên tầm thường!
Vấn đề thứ hai là ở Âu châu ai cũng
hối hả,
vội vàng. Không ai có nhiều
thì giờ, ai cũng dán mắt vào đồng hồ. Nếu việc phù trợ người
lâm chung trở thành một công việc thông thường, dẫu là trong môi trường hội đoàn hay nghề nghiệp, thì mối nguy lớn là khi
cần phải can thiệp ta sẽ bị
thời gian bức bách, vì ta có một việc gì khác phải làm ngay sau đó.
Thí dụ,
chúng ta ấn định là sẽ đến với người
lâm chung từ 2 giờ tới 4 giờ chiều, không trễ hơn được. Như vậy, nếu ở bên tử sàng mà ta chỉ luôn nghĩ rằng “dù gì đi nữa thì đến 4 giờ tôi cũng phải dông” thì việc phù trợ sẽ
trở thành một
vấn đề thứ yếu.
Dĩ nhiên tôi cũng không
chắc chắn lắm. Cũng có thể là tôi chỉ lo sợ hão, nhưng tôi vẫn thấy có hai mối nguy như thế trong khuynh hướng
hiện tại.
Tại sao ta lại có ít
thì giờ đến thế? Tại sao lúc nào ta cũng phải chạy đua?
Một lần nữa, đây là sự phân tích
của riêng tôi. Tôi nghĩ rằng, đó là vì
chúng ta có khuynh hướng muốn làm quá nhiều việc! Ngay khi vừa nghe nói đến một việc gì,
chúng ta liền muốn thử nghiệm ngay, hoặc
chúng ta cho rằng mình bắt buộc phải làm việc này. Chẳng hạn, khi nghe người khác nói có một việc gì đó
cần phải làm, ta liền xung phong ngay hay
ít nhất cũng
tình nguyện ghi danh, vì ta muốn thử làm việc ấy. Hiềm một nỗi, cứ thêm mãi việc này vào việc khác,
dần dần ta không còn một phút nào cho riêng mình nữa. Từ đó mà
chúng ta có
cảm giác bận túi bụi, phải nói là bận rộn từ đầu này tới đầu kia của
cả đời mình.
Dĩ nhiên, để sống được thì
chúng ta phải
bảo đảm những nhu yếu của mình, và phần đông
chúng ta đều có một nghề nghiệp và tiêu tốn phần lớn
thì giờ của mình vào đó. Ngoài công việc, có thể
chúng ta còn một số
trách nhiệm phải
gánh vác, như chuyện
gia đình chẳng hạn. Đúng vậy, nếu
chúng ta có con,
ít nhất chúng ta cũng phải lo cho con cái v.v...
Như vậy, có một số công việc mà
chúng ta không thể
trốn tránh được, mà ngược lại còn phải
hoàn tất một cách chu đáo. Ngoài những việc ấy ra, khi bị
lôi cuốn bởi một
phạm vi hoạt động mới, liệu
chúng ta có thật sự bắt buộc phải nhảy vào ngay lập tức? Khi ta cứ muốn làm thử mỗi việc một chút và xung phong vào nhiều
hoạt động khác nhau, danh sách
việc làm cứ dài ra, nhưng
thời gian thì không. [Kết quả là] ta có nhiều
việc làm hơn nhưng lại không có nhiều
thì giờ hơn trước.
Chúng ta không thể nào không
rối loạn cả lên nếu cứ
tiếp tục như thế! Mà điều này có thật sự
cần thiết không? Tại sao ta không tự
giới hạn những
việc phải làm, và làm cho đàng hoàng? Có thể đây là một câu hỏi mà
chúng ta nên tự vấn.
Chúng ta có thể lấy câu nói đầy
trí tuệ của một vị
đại học giả Ấn Độ vào thế kỷ thứ 11, ngài A-đề-sa (Atisha Dipamkara – 982-1054) làm
châm ngôn:
“Cái để biết và có thể biết thì nhiều
vô lượng; nhưng
đời người thì ngắn và
chúng ta không biết sẽ chết vào lúc nào. Thế thì, thay vì tự tản mạn, tại sao không bắt chước con
thiên nga mà chắt lấy chất sữa đã bị hòa tan trong nước,
đi thẳng vào điểm chính và rút tỉa cái
tinh hoa của
đời người bằng cách làm tròn những
mục tiêu cao thượng của mình?”
Dĩ nhiên, tôi cũng chỉ đề nghị thế thôi.
Để
trở lại với
chủ đề chính của
chúng ta, điều
lý tưởng nhất là cho dù gấp gáp, người phù trợ cũng phải dành
thời gian để tự khơi dậy một
ý muốn mãnh liệt là đem hết khả năng mình để giúp đỡ người đang sắp trút
hơi thở cuối cùng.
Tôi phải
nhấn mạnh vào điểm này vì ở Âu châu,
vấn đề giúp đỡ người
lâm chung đã được
nghiên cứu sâu rộng đến nỗi nhiều tổ chức xuất sắc đã được
thành lập. Những
phương tiện kỹ thuật đã được
cải thiện một cách
đáng kể và những người làm việc
xung quanh người
lâm chung – người của các ban y tế
điều trị tạm thời hay các hội đoàn – đã soạn ra những
nghi thức ngày càng
tinh vi hơn. Nếu tự động thêm vào đó,
chúng ta có cái mà
Phật giáo gọi là “động cơ hiền thiện” – một tình cảm
vô cùng nhân hậu đối với người
lâm chung – thì
chúng ta đã tự đặt mình vào một
điều kiện tuyệt hảo. Đúng thế,
Phật giáo phân tích rằng giữa
tâm nguyện và
việc làm thực tiễn thì
chính tâm nguyện mới có
tác dụng mạnh hơn. Và nếu
chúng ta dung hợp cả hai,
lòng nhân ái và kỹ thuật cao – thì
chúng ta sẽ gặt hái những kết quả
tốt đẹp hơn nhiều.
Tôi còn có một gợi ý nữa. Quý vị cũng biết rằng hiện nay có rất nhiều hội đoàn đề nghị
đào tạo những người phù trợ
lâm chung – và điều này rất tốt. Có thể nào
chúng ta ghép vào các
chương trình đào tạo một lớp huấn luyện phát triển
tình thương và
từ bi đối với người lâm chung? Tôi nghĩ điều này có thể
thực hiện trong tất cả các hội đoàn,
tôn giáo hay phi
tôn giáo, và bởi tất cả
mọi người. Tại sao? Vì
tình thương và
từ bi chỉ là những
giá trị nhân đạo chứ không
cần phải mang một sắc thái
tôn giáo nào. Ai cũng có thể làm được. Hãy tưởng tượng rằng, trong một lớp huấn luyện, các tập sự viên sẽ được đề nghị
thiền quán về
tình thương và
từ bi. Chỉ cần dạy cho họ những kỹ thuật
thiền quán liên quan đến đề tài ấy, điều này không có gì là
rắc rối lắm. Thật sự, đối tượng phải nghĩ đến là những
hữu tình sắp
lìa trần, tức là đang ở trong một
hoàn cảnh nguy khốn. Một đối tượng như thế sẽ khơi dậy
lòng từ bi một cách
tự nhiên, và
đồng thời khơi dậy
tình thương trong lòng bất kỳ ai, huống chi là những người
hiển nhiên đã có đầy
thiện chí. Cứ cho là sau khi được
đào tạo và khích lệ như thế, các tập sự viên sẽ
thực hành một chút
thiền quán ở nhà về hai đề tài trên. Sau đó, khi trên đường đến bệnh viện hay nhà
dưỡng lão, hay nhà riêng của một người
lâm chung đang cần giúp đỡ, sự
rèn luyện của họ sẽ giúp họ tự đặt mình vào
trạng thái tâm thức thích đáng mà không
cần phải cố gắng nhiều. Từ nay, chỉ cần nhắc đến một người
lâm chung cần được trợ giúp là đủ
kích thích những người phù trợ đã được
rèn luyện như thế, để họ khởi
lòng từ bi và
tình thương. Họ sẽ đến bên cạnh người
lâm chung với
tâm thức từ mẫn, và trong
trạng thái tâm thức đó, họ sẽ
áp dụng những kỹ thuật đã học trong lớp huấn luyện: những
cử chỉ phải làm, những lời phải nói v.v...
Tập trung tinh thần
Ngoài ra, người phù trợ cần nên cải thiện khả năng tập trung của mình, đồng nghĩa với sự quân bình tinh thần, ngõ hầu dành tất cả tâm trí cho đương sự – người lâm chung. Có những kỹ thuật để tập trung mà ai cũng có thể học được, đặc biệt là tập trung vào hơi thở, vào sự hô hấp. Trong quý vị đây, nếu ai đã từng tập yoga dù chỉ chút ít, hẳn cũng đã học qua những kỹ thuật này rồi. Đây cũng là những phương pháp trung dung, không phải riêng của bất cứ một nhóm nào và ai cũng có thể học không chút khó khăn. Bất cứ ai có thiện chí đều có thể tìm học.
Điều này sẽ rất quý cho họ, vì khi muốn giúp đỡ một người, nhất là một người lâm chung, thì chính mình nên, hay phải sẵn sàng. Mà sẵn sàng có nghĩa là phải đủ bình tĩnh và thư giãn. Thế nhưng chúng ta ai cũng có thể gặp chuyện trục trặc trong đời tư và căng thẳng tinh thần, lo lắng bất an. Lúc phải giúp đỡ một người đang gặp khó khăn, đặc biệt là người lâm chung, nếu ta bắt đầu áp dụng những kỹ thuật tập trung, thí dụ chú ý đến hơi thở, ta có thể lấy lại sự an tĩnh đủ để thư giãn và hoàn toàn chú tâm đến người ta muốn giúp đỡ.
Thâu thập một ít dữ kiện liên quan đến người lâm chung
Dĩ nhiên, điều này không phải lúc nào cũng làm được. Nhưng trong khả năng có thể, việc thâu thập một số
dữ kiện liên quan đến người mình trợ giúp sẽ rất có ích. Khi đương sự là một người thân, người trong
gia đình hay bạn bè thì lẽ ra ta đã biết khá rõ về họ.
Chúng ta đã có một vài khái niệm về
sở thích,
quan điểm của họ, về những cam kết hay
tiểu sử của họ. Nhưng để sự giúp đỡ của ta được
thích hợp, trong
trường hợp ta không
quen biết nhiều với người
lâm chung,
lý tưởng nhất là phải làm sao biết được
tối thiểu một vài
dữ kiện về người ấy, như
tính tình, những gì họ
ưa thích, những điều họ đã
thực hiện hay không
thực hiện trong đời họ...
Việc biết được những điều
tốt đẹp mà người
lâm chung đã
thực hiện là những
dữ kiện rất
quý báu.
Chắc chắn là bất kỳ ai cũng đều đã từng làm được một điều tốt vào một lúc nào đó
trong đời. Có thể là trong những
lãnh vực rất khác nhau. Tầm
ảnh hưởng của
nghĩa cử đó có thể lớn hoặc nhỏ. Điều đó không quan trọng.
Chúng ta có thể lấy một vài
thí dụ như: người này có thể đã làm
hết sức mình để nuôi dạy con cái rất đàng hoàng, hay đã
lo lắng đầy đủ cho
gia đình..., người khác thì có thể đã
tham gia các công tác
xã hội và gây
tác động mạnh đối với nhiều tầng lớp dân chúng; người khác nữa thì đã
can thiệp trên bình diện
quốc gia, có thể là quốc tế... Các
lãnh vực để làm
việc thiện có rất nhiều, như xây trường học, nhà thương ở những nơi
thiếu thốn v.v... Dầu ở bình diện quốc tế hay khu vực, trong môi trường nghề nghiệp hay
gia đình, với một tầm vóc
xã hội hay chật hẹp hơn thế, ai ai cũng
chắc chắn đã từng có cơ hội
thực hiện những điều
tốt lành, có khi xuất sắc. Người phù trợ phải
tìm cách dò hỏi để biết.
Tại sao điều này lại quan trọng đến thế? Đừng quên
mục đích của người phù trợ là giúp đỡ người
lâm chung ra đi trong những
điều kiện lợi lạc, tốt nhất là trong một
trạng thái tâm thức thư giãn và
hạnh phúc.
Trong
trường hợp người
lâm chung có
một đời sống
tôn giáo hay
tâm linh, thì điều này đã rất đầy đủ để khơi lên cho họ những
ý nghiệp thiện. Không
cần phải đề cập đến những
lãnh vực khác.
Tuy nhiên trong phần lớn các
trường hợp, việc giúp cho người
lâm chung đạt được một
trạng thái tâm thức hiền thiện không phải là điều dễ dàng. Người phù trợ có thể nhắc lại cho họ nghe tất cả những điều thiện mà họ đã
thực hiện trong đời, rồi nhân cơ hội ấy mà nói thêm rằng “Bạn có thể ra đi trong
an bình, bạn đã làm xong bổn phận và không có gì để
ân hận.”
Nếu
đi vào chi tiết,
trường hợp nào cũng có thể xảy ra. Người
lâm chung có thể đã
cư xử rất tốt với con cái,
cha mẹ, quê hương hay đối với những người trong
hoàn cảnh khó khăn v.v... Họ có thể đã làm rất nhiều hay rất ít. Đây không phải là
vấn đề. Điều cốt yếu là nhắc cho họ nhớ việc gì
tốt lành mà họ đã làm. Dầu rằng trong mắt ta việc ấy chẳng
đáng kể chút nào, cũng không sao. Nhớ được điều ấy, họ sẽ có thể
cảm thấy khá hơn, tự tin hơn, bớt
căng thẳng, và sẽ ra đi trong
điều kiện tốt đẹp hơn.
Chúng ta can thiệp trên bình diện nào khi nhắc cho người
lâm chung những
thành đạt và
việc thiện của họ? Trong sự
tu tập căn bản,
Phật giáo khuyên ta phải vui theo với tất cả những nghiệp thiện của người khác và của cả chính mình: đó là hạnh
tùy hỷ công đức.
Hiện thời,
vấn đề của
chúng ta là làm sao cho người
lâm chung nhớ lại những việc
đáng khen mà họ đã
thực hiện và khiến cho họ sinh lòng
vui mừng. Được như thế sẽ rất có ích cho họ về nhiều mặt: ngoài một sự
an ủi tức thời, hạnh
tùy hỷ còn
tăng cường các
nghiệp lành, và khuyến khích mình
tiếp tục.
Đại sư Tây Tạng Djé
Tông Cáp Ba, sống ở cuối thế kỷ thứ 14 và đầu thế kỷ thứ 15 đã
nhấn mạnh rằng, nếu có một
hành trì tu tập nào không cần
cố gắng mà phát sinh
công đức vô lượng, thì đó là hạnh
tùy hỷ với tất cả những điều
tốt đẹp đã được
thực hiện bởi người khác và chính mình, cũng như với tất cả những điều
may mắn hay
hạnh phúc đã xảy ra cho người khác và cho chính mình, như
đức Phật đã chỉ dạy. Đúng thế,
đức Phật đã từng nói,
miễn là mình đừng
khởi tâm kiêu mạn, việc nhớ lại những nghiệp thiện mình đã làm có
công năng tăng trưởng công đức đã tích tập. Còn hạnh
tùy hỷ công đức của người khác, chẳng những giúp cho ta trừ bỏ tâm
đố kỵ, mà còn giúp cho ta tạo nhiều nghiệp tốt.
Trạng thái tâm thức thích đáng
Chúng ta đã nhắc đi nhắc lại, không có gì tốt cho người chết bằng việc chết đi trong một
trạng thái tâm thức hiền thiện, điều này
áp dụng cho tất cả
mọi người, ngay cả cho chính ta.
Nói chung thì bất cứ
ý nghiệp thiện nào cũng đều được cả.
Dĩ nhiên có những
trạng thái tâm thức có nhiều
uy lực hơn, nhờ nội dung cũng như tầm
ảnh hưởng của chúng.
Vấn đề là phải có khả năng khơi dậy
đúng lúc. Không phải ai cũng đã sẵn sàng. Điều này
tùy thuộc vào các
thói quen chúng ta đã có hay không có
trong suốt cả
cuộc đời.
Thí dụ, việc
cảm thấy yêu thương mọi người chắc chắn là một
trạng thái tâm thức tốt. Người nào đã
nuôi dưỡng tình thương suốt đời họ có thể
hy vọng tìm thấy tình cảm ấy trên ngưỡng cửa tử. Nhưng người chưa từng hay rất hiếm khi
thương yêu ai thì
chắc chắn không phải vào lúc nguy kịch nhất, hoặc
tế nhị nhất của cả
một đời mà có thể
thành công lần đầu tiên [trong việc
khởi tâm yêu thương].
Một lần nữa, đó là
lý do tại sao việc
hiểu biết đôi chút về người
lâm chung là điều tối quan trọng, để
ước lượng điều gì
thích hợp với họ: thay vì khích lệ
lòng tin nơi một người
vô thần – với nguy cơ làm họ bực dọc hay tệ hơn thế nữa – thì
hợp lý hơn là nương theo những ý thích
đặc biệt của họ,
tùy theo các
ưu điểm mà họ có như tính
rộng rãi,
nhẫn nhục,
trí thông minh v.v...
Trong hai quyển kinh mà tôi đã
giới thiệu từ đầu,
đức Phật đề cập đến nhiều phương thức, quyển thứ nhất có 11 phương thức và quyển thứ hai có 5 phương thức.
Tôi đề nghị
chúng ta hãy duyệt qua hai quyển kinh này, sau đó thử xem có góp nhặt được gì
cụ thể không, trước là để giúp đỡ người khác, sau là để tự chuẩn bị cho cái chết của chính mình.
Trong
trường hợp của người phù trợ
lâm chung,
chúng ta sẽ thử rút tỉa ra những
sai lầm không được
vi phạm. Nếu được chuẩn bị trước,
chúng ta sẽ ít có nguy cơ
lầm lẫn trong một lúc
bị cảm xúc quá mạnh.