PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch
Nhà xuất bản Thời Đại
Niệm tưởng tăng trưởng các thiện căn dù nhỏ bé
Kèm theo điều mà chúng ta vừa mới nghe, chúng ta cũng có thể khuếch đại các nghiệp thiện mà chúng ta đã tích lũy, còn gọi là các "thiện căn". Một hành vi tốt, nhưng trước mắt thì thấy chỉ có một tầm ảnh hưởng nhỏ, có thể đạt được một phạm vi rất lớn nếu nó được kèm theo những phương thức thích hợp: phát nguyện và hồi hướng.
Hãy lấy thí dụ một hành động tầm thường, hoàn toàn không có gì đáng kể, với tầm ảnh hưởng dường như không được bao nhiêu. Nếu chúng ta chu đáo phát lên một tâm nguyện bao gồm toàn thể chúng sinh (thí dụ chúng ta muốn đem lại lợi lạc cho tất cả mọi loài .v.v...) và nếu cuối cùng chúng ta không quên phát lời hồi hướng sâu rộng không kém – thí dụ hồi hướng những gì chúng ta đã làm cho hạnh phúc của mọi loài không trừ một loài nào –, thì điều này sẽ tạo công đức cho chúng ta – tức là những nghiệp thiện – theo tỷ lệ thuận với số lượng chúng sinh mà chúng ta đã nghĩ đến. Nếu tâm hồi hướng cũng như tâm phát nguyện bao gồm tất cả chúng sinh – vốn là vô lượng, thì hành động nói trên cũng có một phạm vi vô biên, dầu nó là hành động gì đi nữa.
Chắc chắn chúng ta ai cũng đã từng làm một việc tốt, nhưng thiện căn của chúng ta thường yếu ớt vì không có tâm nguyện và đối tượng hồi hướng thích hợp. Để tăng cường các thiện căn sau đó, Phật giáo khuyên thực hành hạnh tùy hỷ công đức của việc thiện đã làm. Đặc biệt là lúc lâm chung, việc nhớ lại những điều tốt đẹp mà mình đã làm trong hiện đời là vô cùng lợi ích. Dẫu lúc làm thì thấy rất nhỏ bé, nhưng đừng nghĩ là nó không đáng kể. Nếu nhớ lại và hoan hỉ vì đã làm việc thiện, thì điều này sẽ giúp tăng trưởng công đức của việc ấy.
8. Niệm tưởng không sợ sệt trước các kiếp tái sinh tương lai
Trong các
trường hợp có thể
hình dung được, trước hết hãy lấy
trường hợp một người
tin tưởng chắc chắn rằng chỉ có vỏn vẹn một kiếp sống mà thôi, tức là kiếp sống
hiện tại. Đúng lý thì người này được
miễn trừ mọi sự
sợ hãi trước các kiếp
tái sinh tương lai, vì họ không tin có
tái sinh. Nhưng điều này không có nghĩa là họ
hoàn toàn tránh được mọi
sợ hãi, vì họ có thể
kinh hoàng trước
ý nghĩ là mình sắp biến mất, và sắp
đối diện với sự
tiêu diệt trong giây lát. Dầu sao đi nữa, do
tin tưởng như vậy,
đáng lẽ họ không có gì phải lo sợ cho tương lai. Nhưng có chắc là họ giữ nguyên
quan niệm của mình cho tới
hơi thở cuối cùng không? Điều đó còn tùy. Một số người thấy
niềm tin kiên cố của mình bị chao động, và từ đó
cảm thấy lo sợ; một số người khác thì không.
Bây giờ hãy lấy
trường hợp của những người có
tín ngưỡng tôn giáo và
công nhận cái chết có
thể không phải là một sự hủy diệt
toàn diện.
Phật tử gọi đó là sự
tái sinh; trong các
truyền thống khác, người ta có những
ý niệm khác và dùng những
ngôn từ khác, nhưng có một sự tương đồng lớn về cái "đằng sau cửa tử". Làm thế nào để
đừng sợ hãi lúc bước qua ngưỡng cửa tử ấy?
Trong số các
phương pháp, nếu ta có thể
cảm thấy tương đối vững tâm nhờ có
hành trì tu tập và nhờ những nghiệp thiện đã tạo, thì đó là một niềm
an ủi lớn.
Thí dụ, nếu
lương tâm ta
an ổn và nếu ta
ý thức đã làm
hết sức mình để hành xử một cách
thích đáng và hiền thiện, thì ta có khả năng tự nhủ: "Ta sắp chết trong giây phút tới. Ta không thể
trốn tránh cái chết, nhưng ta có một số vốn thiện và có thể nương tựa vào đó." Nếu thật sự ta đã làm
hết sức mình thì ta
không có lý do gì để lo sợ cả.
Đối với một người có
lòng tin, thì
phương pháp khác
bảo đảm cho mình không sợ lúc
lâm chung,
dĩ nhiên là
tín ngưỡng của mình.
Phật tử đã đặt
lòng tin vào
Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng và
đại sư của họ. Người
Thiên chúa giáo nương tựa vào Chúa.
Tín đồ các
tôn giáo khác cũng có đấng
thượng đế mà họ thường
thỉnh cầu và tôn vinh. Khi ta
thành tâm tin tưởng thì ta có thể
chắc chắn đạt được sự
bảo hộ mà ta mong cầu.
Tin chắc mình không bị
bỏ rơi thì tránh được mọi
nghi vấn, mọi
sợ hãi.
Nói thế nhưng
ít nhất là theo
Phật giáo thì sự
sợ hãi không phải lúc nào cũng là một tâm
phiền não. Đó không bắt buộc phải là một điều
bất thiện.
Hiển nhiên, sự
sợ hãi thường là một nền tảng để phát sinh
phiền não, nghĩa là sự
sợ hãi khởi lên trong tâm ta những
phản ứng nguy hại. Nhưng không phải vì thế mà đánh đồng tất cả
mọi việc được.
Phật giáo không phân tích sự
sợ hãi như một điều tự nó
xấu xa và
nhất thiết phải là
bất thiện và có hại.
Thí dụ, sự
sợ hãi trước các
phiền não như
oán hận, tật đố,
giải đãi hay
vô minh, hoặc là sự
sợ hãi trước những
hành vi tác hại như giết hại hay
trộm cắp, những nỗi
sợ hãi như thế được coi là có ích và hiền thiện. Chính sự
sợ hãi đối với cõi Ta-bà sẽ
thôi thúc ta
thoát ly và truyền cho
chúng ta lòng can đảm cần thiết.
Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, sự
sợ hãi vẫn là mảnh đất tốt cho những
ý nghĩ và
hành vi bất thiện nảy mầm.
9. Niệm tưởng về sự vô thường của tất cả các pháp hữu vi
Các pháp nào được gọi là
hữu vi thì có nghĩa là các pháp ấy
vô thường.
Ý thức được điều đó không khó. Chỉ cần
đào sâu vấn đề một chút thì thấy ngay rằng tất cả những sự hữu nhờ nhân và duyên mà
hiện hữu, thì chúng chỉ có
thể hiện hữu trong một
thời gian ngắn. Tất cả các
hiện tượng duyên sinh đều
xuất hiện và
tiêu diệt trong từng niệm, tức là chúng không
thể hiện hữu trong niệm
kế tiếp. Chúng không
thể hiện hữu một cách
hoàn toàn giống
y như nhau trong hai niệm
liên tục.
Phật giáo cho rằng hiểu được như thế rất có lợi, bởi hai
lý do:
– Thứ nhất,
nhận thức như thế là đúng và
thực tế, và
Phật giáo nghĩ rằng một
nhận thức đúng chỉ có thể đem lại
lợi lạc mà thôi.
Đồng ý là như thế. Nhưng một vài người trong quý vị có thể tự hỏi rằng, nằm trên giường bệnh
chờ chết mà
nghĩ tưởng đến
bản thể vô thường của các pháp thì có
ích lợi gì?
– Thứ hai, người nào
tư duy một cách
chắc chắn rằng các
pháp hữu vi không có gì khác hơn là những
hiện tượng vô thường, sẽ
tự nhiên tránh khỏi tâm
chấp trước, tâm
bực bội và các
phiền não khác. Đừng quên rằng đây là một
nhận thức chân chính. Vì
chân chính nên
nhận thức này sẽ chặn đứng các
nhận thức sai lầm, trong đó có tâm
chấp trước, tâm
buồn bực v.v... vì các
tâm thức sai lầm này không thể cùng một lúc phát sinh với
nhận thức chân chính nói trên. Một người
phàm phu không thể có hai niệm tưởng cùng một lúc. Họ có thể có nhiều
ý tưởng, nhưng các
ý tưởng này phải
tuần tự mà phát sinh. Nói cách khác, khi một người
duy trì ý tưởng bản chất các pháp là
vô thường, thì không có
ý tưởng dị biệt nào khác có thể
đồng thời phát sinh trong tâm họ, nhất là các
ý tưởng nhiễm sắc thái
chấp trước hay
sân hận. Các
ý tưởng này có thể rất gần và chớm khởi lên, nhưng chúng bị
ý tưởng chân chính kia chặn lại, nghĩa là
ý tưởng chân chính ấy có một
tác dụng phòng thủ.
Giản dị hơn, khi
chúng ta công nhận bản chất vô thường của các
pháp hữu vi, nếu
chúng ta tiếp tục phân tích thì sẽ thấy rằng chính
bản thân mình cũng là một
hiện tượng hữu vi, do nhân và duyên hợp thành. Đi đến tận cùng của sự
hiểu biết thì
chúng ta phải có khả năng, lúc giờ chết gần kề, tự nhủ rằng sự chết là một điều
hoàn toàn bình thường, đó là
lẽ tự nhiên của
vạn hữu. Thật ra thì
chúng ta đặt mình trên bình diện
quy ước thô: đúng thế,
Phật giáo phân biệt bản chất thô và tế của pháp
vô thường. Cái chết của một
hữu tình hay sự tan vỡ của một đồ vật thuộc về
bản chất vô thường thô. Trong khi đó, sự thay đổi trong từng sát-na của
vạn pháp là
bản chất vô thường vi tế của chúng.
Tóm lại,
vấn đề là
ít nhất cũng nên
công nhận chết là một
hiện tượng tự nhiên không thể tránh, và không có việc gì phải
kinh ngạc hay
đặc biệt sợ hãi. Hãy
ghi nhận rằng đó chỉ là một
trạng thái tâm thức thực tế mà thôi, không có gì khác hơn là sự vật như thế nào thì
chúng ta nhận biết chúng đúng như thế ấy.
Thật ra, việc hiểu được mọi sự đều
vô thường có thể
bảo vệ ta khỏi rơi vào
thường kiến, tức là cái
ý nghĩ mà
chúng ta nuôi dưỡng trong đáy
tâm thức của mình rằng
chúng ta bất diệt. Tự bẩm sinh,
chúng ta mê lầm tưởng rằng cái
cá nhân là
chúng ta đây, hay
ít nhất là một phần của
cá nhân ấy, là một [
thực thể duy nhất],
thường hằng và
độc lập. Việc hiểu ngược lại sẽ phá vỡ
định kiến ấy và
đồng thời phá vỡ tất cả những gì phát sinh từ đó, mà trước hết là tâm
vọng chấp.
10. Niệm tưởng các pháp đều vô ngã
Việc hiểu rằng các pháp đều
vô ngã, [hay] sự
vắng mặt của một cái "ngã" trong tất cả những gì
hiện hữu, là một
ý niệm hơi khó giải bày và cũng khó mà hiểu thấu đáo. Không thể phủ nhận việc
ý niệm này khó hiểu, nhưng nó cũng rất
hấp dẫn. Nói chung, người ta thích nghe nói về
vô ngã, về
tánh Không.
Bởi vì cơ hội đến với
chúng ta, hãy bắt đầu bằng cách tự đặt câu hỏi: Trong những
thuật ngữ mà tôi vừa mới dùng, chữ "ngã" có nghĩa là gì?
Để dịch từ chữ phạn "atman", và chữ
Tây Tạng "bdag", các dịch giả
thường dùng nhiều chữ như "ngã", "cái tôi", "cá nhân" v.v...
tùy theo ngữ cảnh, tuy những chữ ấy không đồng nghĩa.
Chúng ta chỉ cần nhớ rằng theo cách nhìn của
Phật giáo, chữ "ngã" và "tôi", theo
quy ước là chỉ cho cùng một khái niệm.
Như vậy,
ý niệm "ngã" gợi cho
chúng ta điều gì trước tiên? Không
nghi ngờ gì nữa, đó là
ý niệm "tha nhân", "kẻ khác".
Hãy
tóm lại: một bên là chính mình, gọi là "ngã"; một bên là "tha nhân", "kẻ khác". Điều này thật là
hiển nhiên, không ai nghĩ đến chuyện chối bỏ. Thế nhưng, trong các
kinh điển và luận văn
Phật giáo,
chúng ta thấy một cụm từ trở đi
trở lại mãi, đó là hai chữ "vô ngã". Điều này thật đáng cho
chúng ta đào sâu và thử
tìm hiểu. Chính vì không được
giải thích nên trước kia ở Âu - Mỹ, một số lớn các nhà
tư tưởng đã cho rằng
Phật giáo là một
tôn giáo bi quan và theo
thuyết hư vô. Vì hiểu
từ ngữ ấy theo
nghĩa đen nên họ đã tưởng tượng rằng
Phật giáo phủ nhận sự
hiện hữu của
vạn pháp. Không phải như thế.
Chúng ta sẽ
cố gắng phân biệt giữa cái "tôi", cái "ngã" vốn
hiện hữu, và chữ "ngã" trong cụm từ "vô ngã" đã bị phản bác như trên.
Điểm đầu tiên phải ghi nhớ là khi nói "vô ngã", chữ này không chỉ cho bất cứ cái gì hoặc chỉ cho cái gì cũng được. Cái ngã bị chối bỏ là một cái ngã được xem là
tuyệt đối. Nó được tưởng tượng như một cái gì tự nó
sinh khởi,
hoàn toàn độc lập, không
liên hệ với bất cứ điều gì khác, không
lệ thuộc vào gì khác. Một cái "ngã" tự sinh như thế thì
Phật giáo quả thật có phủ nhận.
Ngược lại thì
Phật giáo xác nhận điều gì?
Phật giáo xác nhận là mọi sự tuy có mặt đấy, nhưng
tùy thuộc vào nhau để mà có. Nói cách khác,
Phật giáo công nhận sự
hiện hữu theo thể thức
duyên sinh: các
hiện tượng sinh khởi [trong
điều kiện] cái này
đối đãi với cái kia, chứ không riêng rẽ
độc lập.
Khổ thay, khi trình bày rằng
Phật giáo công nhận sự
hiện hữu nhưng theo thể thức
duyên sinh, thì điều này lại làm nảy sinh một sự
hiểu lầm mới. Người ta thay thế
hiểu lầm này bằng một
hiểu lầm khác. Thật thế, có người tin rằng lần này
Phật giáo cho rằng, để mà có, thì một
hiện tượng phải
tùy thuộc vào tất cả các
hiện tượng khác. Nói như thế thì có hơi phóng đại.
Cái nghĩa phải nhớ là khi nói một pháp phải
tùy thuộc vào pháp khác để mà có, điều này không hề ngụ ý rằng nó phải
tùy thuộc vào tất cả các pháp khác.
Thí dụ nếu
chúng ta quan sát một bên là một con mèo và bên kia là một con chó, thì
chúng ta sẽ không
xác nhận rằng con mèo phải
tùy thuộc vào sự có mặt của con chó mới
hiện hữu được. Hỏi nó đi! Nó sẽ không
đồng ý chút nào. Trên
thực tế, con mèo
hoàn toàn có
thể hiện hữu mà không cần con chó.
Ngược lại có những
hiện tượng hiển nhiên là
tùy thuộc vào nhau mà có. Đúng thế, làm sao
chúng ta nhận thức được "người khác",
nếu không phải là trong mối tương quan với chính chúng ta?
Cũng thế, "tay trái" phải được
nhận thức trong mối tương quan của nó đối với "tay phải" và ngược lại v.v...
Bây giờ, để có thể
chính xác hơn nữa, khi
Phật giáo nói đến sự
hiện hữu duyên sinh, điều này có nghĩa là muốn
hiện hữu, tất cả các pháp đều
tùy thuộc vào
hiện lượng của người
nhận thức. Trong
thực tế,
chúng ta có thể
chấp nhận một vật
hiện hữu chỉ khi nào nó được
chứng thật bởi một
nhận thức. Và
nhận thức đó phải đúng, phải
phù hợp với những
tiêu chuẩn đã được định sẵn. Thế thì để
hiện hữu, tất cả các pháp đều phải
tùy thuộc vào một sự
nhận thức chân chính, khiến cho nó trở nên
chính thức.
11. Niệm tưởng Niết-bàn là tịch tĩnh an lạc
Chắc hẳn đây là một
phát biểu không được sáng sủa tí nào, vì phải
công nhận là nó
hoàn toàn thuộc về
Phật giáo.
Chúng ta phải
giải thích câu này như thế nào?
Chúng ta sẽ không thể
đi vào chi tiết vì đây là một
phạm trù rất rộng.
Tóm lại đối với một
Phật tử, việc nghĩ rằng Niết-bàn là
tịch tĩnh đồng nghĩa với sự
quy y Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng,
chính xác hơn là
quy y Pháp bảo, tức là những
giáo lý mà
đức Phật đã
thuyết giảng. Hãy
ghi nhận rằng những
giáo lý ấy có
hai mặt, tức là
giáo pháp được
Phật thuyết và
thành quả của sự
thực hành giáo pháp ấy: những
đức hạnh đã được phát triển như
tâm từ bi,
trí tuệ hay
bố thí... đi đôi với sự trừ bỏ các khuyết điểm hay
sai lầm đối nghịch như
sân hận,
vô minh hay xan lận.
Tuy có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trước hết "Niết-bàn" có nghĩa là "siêu việt đau khổ" nhờ
công phu tu tập. Khi một người đã
hạ thủ công phu tu tâm cho đến mức
tiêu trừ tất cả các
yếu tố gây
phiền não, kể cả
vô minh, thì ta nói vị ấy đã chứng Niết-bàn: một
trạng thái siêu việt mọi khổ đau, cũng gọi là một
trạng thái an lạc.
Kết luận
Nói
tóm lại, trong quyển kinh mà
chúng ta đã đọc
lướt qua,
đức Phật có
liệt kê 11
thiện tâm và khuyến khích phải làm sao để đến giờ
lâm chung ta
phát khởi được [
ít nhất là] một trong những
thiện tâm đó. Nói chung thì tất cả
giáo pháp của
đức Phật đều quy về một điểm, tất cả đều là những phương thức giúp cho
hành giả có thể
tu tập và
dần dần tự
chế phục tâm mình.