PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch
Nhà xuất bản Thời Đại
PHẦN I. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG
PHÁT KHỞI TÂM NGUYỆN
Trước khi chúng ta đi vào vấn đề, hãy nhắc lại đường lối của Phật giáo. Theo quan điểm Phật giáo, có một điều thường được lặp đi lặp lại: Khi chúng ta sắp làm việc gì (trong lãnh vực tâm linh như văn, tư, tu hay trong tất cả việc làm của thân, khẩu và ý nói chung), điều quý nhất là có thể dành một chút thì giờ để phát khởi một tâm nguyện tốt.
Quý vị đừng sợ. Nói thế không có nghĩa là mọi người phải theo Phật giáo ngay từ giờ phút này. Không đâu. Không hề có một sự xúi giục, sách động để mọi người trở thành Phật tử, mà tôi chỉ mời mọi người hãy tự đặt mình trong một trạng thái tâm thức tốt lành, vì may thay, lòng tốt không chỉ là đặc quyền dành cho Phật tử. Đến với “tâm tốt lành” là điều ở đây ai cũng có thể làm được.
Bây giờ, mỗi chúng ta hãy suy nghĩ một chút để khởi lên một trạng thái tâm thức tốt lành. Tốt lành như thế nào? Có rất nhiều cách. Đối với một Phật tử, họ có thể xử sự theo khuynh hướng Đại thừa [nhập thế] hoặc khuynh hướng Bích Chi Phật, nghĩa là tìm cách tự mình thoát ly ra khỏi cõi Ta-bà. Ở đây tất cả chúng ta có thể gặp nhau trên cùng một điểm, bất luận kiến giải của mỗi người, đó là chúng ta muốn làm điều gì có ích lợi cho tất cả chúng sinh khổ đau, đặc biệt là những chúng sinh sắp chết. Vượt ngoài mọi ngôn từ, chỉ riêng ý muốn giúp đỡ những ai đang cần được giúp đỡ thì tự nó đã là bản chất của một tâm nguyện hiền thiện. Hãy nghĩ rằng, vì muốn làm được việc này một cách hữu hiệu hơn nên hôm nay chúng ta mới cùng nhau học tập và suy nghiệm.
Thật ra, chỉ riêng việc chúng ta đến đây cũng đã chứng minh được ý muốn giúp đỡ người khác của mình, nhất là việc cứu giúp và an ủi những người đang sắp lìa trần; nói cách khác, điều ấy đã nói lên một trạng thái tâm thức tốt lành. Thật sự, đề mục của buổi hội thảo không chỉ liên quan đến riêng chúng ta. Chúng ta đến đây không phải để học làm một cái gì cho riêng mình, vì một lợi ích riêng tư. Trái lại, chúng ta đến đây có nghĩa là tâm ta đã mở ra và hướng đến người khác, kèm với hoài bão cải thiện phương thức giúp đỡ, nhất là trong những tình huống đặc biệt tế nhị. Sự có mặt đông đảo của quý vị chứng minh một tâm lượng rộng mở. Thật là tuyệt diệu! Tôi vô cùng cảm động và tán thán.
Đối với tôi, có ý muốn giúp đỡ người sắp chết là một nghĩa cử cao quý. Thật thế, không có ai cần được sự giúp đỡ quan tâm cho bằng những người lâm chung, những người ở đoạn cuối của cuộc đời. Họ thường ở trong một tình trạng rối loạn, khổ đau cực kỳ. Trong hoàn cảnh đó, biết bao người cảm thấy hoàn toàn bất lực, không một nơi nương tựa, không một ai để trông cậy. Họ ý thức rằng đời sống của họ đang kết thúc, và họ sắp phải buông bỏ tất cả. Hơn nữa, phần đông đều không biết rõ điều gì sắp xảy đến cho họ. Ngay cả những người vẫn nghĩ rằng chết không phải là hết cũng hết sức lo âu, vì không có gì bảo đảm cho họ một tương lai tốt đẹp. Chắc chắn là không có một tình huống nào gian nan và đau khổ hơn. Vì thế, việc giúp đỡ những người đang phải đương đầu với những thử thách ấy quan trọng biết bao!
Như vậy, có thể nói chắc là ở đây ai cũng được thúc đẩy bởi lòng nhân từ và nhiệt tâm muốn giúp đỡ người khác đang trên ngưỡng cửa sinh tử. Nhưng có thể trên phương diện cá nhân, tâm nguyện của chúng ta rất nhỏ bé và giới hạn. Chắc chắn cũng có một số người ở đây rất muốn giúp đỡ tất cả những chúng sinh đau khổ, nhưng thường thì chúng ta quan niệm một phạm vi hoạt động hạn chế hơn.
Thí dụ, chúng ta muốn làm việc hữu hiệu hơn trên phương diện nghề nghiệp. Giả sử chúng ta là bác sĩ, y tá hay người đến thăm nom bệnh nhân ở bệnh viện, nghĩa là thường phải tiếp cận với người lâm chung. Có thể chúng ta đến đây với ý nghĩ “tôi muốn giúp đỡ bệnh nhân của tôi một cách hiệu quả hơn, thích hợp hơn”. Trong trường hợp này, đối tượng của chúng ta chỉ là một nhóm người nào đó, tức là có giới hạn.
Hay thí dụ khác, trường hợp thông thường nhất là chúng ta muốn giúp đỡ đàng hoàng tử tế những người thân, người nhà của mình. Tóm lại chúng ta đến dự buổi hội thảo hôm nay vì tự nhủ “tôi muốn làm một chút gì cho họ”. “Họ” ở đây, có thể là khoảng vài ba mươi người [thân của riêng ta], và chúng ta không có ý định làm gì thêm.
Tôi muốn đề nghị, hay đúng hơn là gợi ý với quý vị, ngay bây giờ hãy mở rộng tầm quan tâm và ước nguyện của mình. Dù trên thực tế hiện thời chúng ta không có khả năng giúp đỡ hơn số vài ba mươi người, nhưng không ai ngăn cấm chúng ta phát một tâm nguyện rộng lớn hơn nhiều. Tâm nguyện tốt lành của chúng ta bây giờ sẽ là “tôi muốn làm sao có thể giúp đỡ càng ngày càng hữu hiệu đại đa số, nếu không nói là tất cả những ai đang gặp khó khăn, đặc biệt là những người đang hấp hối. Vì thế nên tôi đến dự buổi hội thảo hôm nay với kỳ vọng rút tỉa được những phương thức ứng dụng thiết thực”.
Một con người
“Người lâm chung” hay “người ở
giai đoạn cuối của cuộc đời”, trong tiếng
Tây Tạng là “chi kha mai sems can”. Cụm từ này thật ra có hai
ý nghĩa, nhưng thông thường là để nói đến những người bệnh ở
giai đoạn cuối, hay là những người đã
kiệt quệ với năm tháng tuổi tác, nghĩa là cận kề cái chết. Hôm nay
chúng ta sẽ
sử dụng ý nghĩa này.
Nói “giai đoạn cuối của cuộc đời” tức là nói đến “sự chết”.
Vậy thì chúng ta sẽ nói về sự chết. Đây là một giai đoạn mà không ai tránh được, không một
chúng sinh hữu tình nào có thể được miễn. Tuy đây là một
hiện tượng không có gì
tự nhiên cho bằng và được
chứng minh trên tất cả mọi
chúng sinh không ngoại lệ, nhưng
tùy theo nền
văn hóa hay
truyền thống, người ta phân tích
hiện tượng ấy dưới những góc độ khác nhau. Ở đây,
dĩ nhiên chúng ta sẽ
cố gắng lược qua những
kết luận mà
Phật giáo đã
đạt được.
Phật giáo phân tích cái gọi là “sự chết” như thế nào?
Để biết “sự chết” là gì,
chúng ta phải bắt đầu từ khái niệm cái gì là một
cá nhân, một
con người,
hữu tình. Kỳ thật, “chúng ta” là cái gì?
Một
cá nhân là một
hiện tượng phức hợp, được
cấu tạo bởi – nếu dùng chữ thông thường – một thân và một tâm.
Rõ ràng, hẳn quý vị cũng
đồng ý với tôi rằng mỗi người
chúng ta đều có một
thân thể và một
bản tâm. Và bởi vì, trong một khoảng
thời gian nào đó, một hợp thể như thế
hiện hữu, nên
chúng ta hiện hữu như một
cá nhân. Hãy
ghi nhận rằng cả thân lẫn tâm đều
hiển bày qua nhiều tầng lớp từ thô nặng đến
vi tế. Điều mà
chúng ta trực
tiếp nhận biết được chỉ là mức độ thô nặng nhất của
thân tâm, đó là tầng lớp
duy nhất mà ta có thể nhìn thấy hay
nhận biết được. Nhưng theo
Phật giáo thì
thân tâm chúng ta có những tầng lớp
vi tế hơn nhiều mà nhãn quan hay
nhận thức thông thường không thể nắm bắt.
Khi
chúng ta quan sát thân và tâm ở tầng lớp thô nặng của chúng một cách
tinh tế hơn,
chúng ta sẽ phát hiện,
tùy theo góc độ nhìn của mình, có 20 hay 24
thành phần. Tôi sẽ không
liệt kê hết ra đây vì như thế quý vị sẽ chán lắm, nhưng để quý vị có một
ý niệm, trong số các
thành phần ấy ta có thể
phân biệt năm uẩn,
bốn đại, năm
diệu trí (tức là năm loại
ý thức), năm căn và năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc). Hãy
cẩn thận, trong bối cảnh này ta đang nói đến cái sắc, cái thanh v.v... thuộc về dòng
tương tục của một
con người, ở bên trong họ, chứ không nói đến các sắc, các thanh v.v... ở ngoài họ. Đừng quên là
chúng ta đang nói đến những
thành phần cấu tạo của một
con người.
Trong suốt một quãng
thời gian, 24
thành phần ấy – giản dị hơn là thân và tâm ở bình diện thô – còn ở trong một
trạng thái lành lặn đủ để có thể
cộng đồng sinh hoạt, nghĩa là khi những
thành phần vật chất (thân xác) còn có thể làm chỗ
y cứ, tức là chỗ dựa cho tâm. Với
thời gian, những
thành phần vật chất ấy sẽ có lúc
cũ kỹ, hư hoại. Theo
thuật ngữ Phật giáo thì cái thân xác thô đang phải
trải qua một sự tan rã, một sự phân hóa. Xin đừng hiểu lầm! Ở giai đoạn này cái thân xác thô không hề biến mất. Tuy vẫn còn sống, nhưng nó đang suy thoái, đang yếu mòn đến nỗi mất đi khả năng làm chỗ
y cứ cho
tâm thức. Kết quả là
tâm thức, ở bình diện thô của nó, cũng không
hoạt động được nữa. Sự đứt quãng trên bình diện thô của thân và tâm khiến bình diện
vi tế của chúng được
hiển lộ, nhưng rồi cũng
suy tàn một cách nhanh chóng.
Và khi hai bình diện thô và tế đều
vô hiệu thì
cá nhân này chỉ còn có thể
hoạt động ở bình diện
cực vi tế. Chỉ
lúc ấy và như thế, họ mới
kinh nghiệm sự chết. Nói
tóm lại, theo
Phật giáo, cái chết của một
cá nhân trùng hợp với sự
xuất hiện trong họ bình diện
cực vi tế của
tâm thức, tức là “ánh tịnh quang của sự chết”.
Nếu có ai thích
tìm hiểu về tiến trình của sự chết, với những chu kỳ
tuần tự tan rã để
kết thúc bằng sự
hiển lộ của một
tâm thức cực vi tế trong một
cá nhân, tôi khuyên quý vị hãy tìm đến những trước tác có
liên quan đến đề mục này. Hiện nay đã có bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tôi nghĩ là còn có trong nhiều
ngôn ngữ khác, bởi vì
chúng ta không thể đi sâu hơn [vào
chủ đề này] tại
pháp hội hôm nay. Đó không phải là đề tài chính của
chúng ta. Hơn nữa, đề tài này rất chuyên môn và có thể rất
tẻ nhạt, khó hiểu đối với một số người. Hiện nay, việc tìm những cuốn sách nói về tiến trình của sự chết không khó khăn gì, quý vị có thể tự tìm đọc lấy. Nhưng xin cho tôi nói lên một
nhận xét. Có nhiều cách để đọc một cuốn sách. Ta có thể đọc
lướt qua một
tác phẩm và
hoàn toàn đứng ngoài nội dung
tác phẩm ấy. Trong
trường hợp này, ngoài sự thâu thập một vài
hiểu biết trên
lãnh vực thuần túy kiến thức, đọc như thế chả có
ích lợi gì nhiều.
Vì đề tài được
thảo luận, ít ra là theo nhãn quan
Phật giáo – ta có thể có những
quan điểm khác nhau trên đề tài này – nên dù ta đọc sách chỉ để tự
tìm hiểu,
tốt hơn hết là nên tự đặt mình vào
vai trò chính và
cảm thấy trực
tiếp liên quan đến những dòng chữ đang đọc.
Thí dụ, trong tiến trình của sự chết có giai đoạn nói đến
sắc uẩn. Đó là một danh từ chuyên môn chỉ cho thân xác, thân xác của ta. Thay vì đọc “sắc uẩn” và dừng lại ở cái
thuật ngữ khái quát ấy, thì nếu ta tự bảo rằng đây không phải là một khái niệm, hay là một cái gì
thuần túy trừu tượng mà chính là
sắc uẩn của tôi, là thân xác của tôi, và đây là một trong những
thành phần cấu tạo ra tôi, và
hiện thời mục đích của tôi là
tìm hiểu xem cái gì sẽ xảy ra cho nó... Đọc như thế có lợi hơn nhiều,
tốt hơn nhiều. Nếu
chúng ta tham dự như thế thì những
hiện tượng trừu tượng kia sẽ trở nên
cụ thể hơn vì có
dính líu đến
chúng ta.
Một
thí dụ khác. Trong chu kỳ tan rã thứ nhất, theo
lý thuyết thì giữa những
thành phần có
liên quan tới
sắc uẩn thì “đại viên cảnh trí” cũng
đồng thời suy tàn. Trong
trường hợp của
chúng ta, cụm từ đó có nghĩa là những gì
nhãn căn của ta có thể
nhận thấy được. Thay vì đứng như một người ngoại cuộc và đọc những dòng chữ nằm cạnh nhau mà không
tìm hiểu ý nghĩa của chúng,
tốt hơn là
chúng ta nên
ý thức được câu ấy nói về
nhãn thức của
chúng ta, về khả năng
nhận biết những đồ vật có một hình dạng (
sắc tướng), và khả năng ấy đang bị tiêu mòn đi trong giai đoạn này của tiến trình sự chết.
Đồng thời, ta nói đến sự tan rã của
địa đại. Hãy cố hiểu rằng câu này không nhằm chỉ đến các
yếu tố vật chất có
tính cách cứng rắn nói chung, mà chỉ đến tất cả những gì do
địa đại cấu thành trong ta.
Cũng thế, khi nói về khả năng
nhận biết qua
nhãn căn hay là về các
sắc tướng thì không phải tất cả các
sắc tướng [nói chung] đều tan rã trong giai đoạn thứ nhất, mà là
sắc tướng của chính đương sự, tức là của ta, là cái gì ở bên trong dòng
tương tục của
thể chất ta.
Nếu
chúng ta đọc những điều
chỉ dẫn này mà
cảm thấy được sự
liên quan của chúng đến chính mình, và hiểu được rằng chính mình là người đang được nói đến, rằng những câu viết trong sách là những sự việc mà một ngày nào đó mình phải
trải qua, thì những
hiểu biết mà
chúng ta thâu thập được sẽ không chỉ là trên
lãnh vực tri thức khô khan nữa.
Vì
chúng ta sẽ
nói nhiều đến
năm uẩn, nên tuy không
đi vào chi tiết, tôi cũng sẽ đề cập đến đôi nét, tuy phần đông quý vị hẳn đã từng nghe qua nhiều lần [về
thuật ngữ này].
Khi dùng
từ ngữ thông thường,
Phật giáo nói rằng mỗi
cá nhân là kết cấu của một thân và một tâm, nhưng khi
cần dùng thuật ngữ chính xác hơn thì
Phật giáo lại nói rằng mỗi
cá nhân được định nghĩa như một cái gì được
nhận biết, hay được gọi tên, trên
căn bản năm uẩn đã kết cấu thành
cá nhân ấy.
Đầu tiên trong
năm uẩn là
sắc uẩn. Quý vị đừng khựng lại bởi
ngôn từ. Nói về một
hữu tình thì
sắc uẩn nghĩa là “thân”,
thân thể của
chúng ta. Vậy tại sao lại dùng
từ ngữ tối nghĩa như thế? Dùng chữ “sắc” là vì cái mà
chúng ta nhận thức được của một
hiện tượng, là cái
sắc tướng mà
hiện tượng này
hiển bày. Còn chữ “uẩn”,
lợi ích của nó ở chỗ nó
nhấn mạnh rằng khi nói đến “thân” thì ta không nói đến một
cá thể nguyên khối mà phải là một sự
hòa hợp do nhiều
thành phần kết hợp tạo thành. Chữ “uẩn” cho
chúng ta thấy ngay khía cạnh phức hợp, khía cạnh số nhiều của một
hiện tượng, dẫu cho đó là
sắc uẩn hay bốn uẩn còn lại, tức là các uẩn chủ yếu
liên quan đến tâm: thọ, tưởng và
thức uẩn thuộc về
tâm thần, nhưng
hành uẩn thì khác. Nó bao hàm hai loại
hiện tượng, một loại thuộc về
tâm thần và loại kia thì không;
thí dụ:
đời sống của
cá nhân ấy,
bản chất vô thường của họ v.v...
Thứ hai là
thọ uẩn, tức là
cảm thọ của
chúng ta vốn chia làm ba loại: lạc, khổ và
vô ký, hay
dễ chịu, khó chịu và không dễ cũng không khó chịu,
trung dung.
Thứ ba là
tưởng uẩn.
Tác dụng của uẩn này trong tâm ta là giúp ta
nhận định các sự vật, và
phân biệt chúng với vật khác. Khi
chúng ta nhìn một vật gì (
nhãn căn tiếp xúc với nhãn trần) thì cái làm cho ta
phân biệt được vật màu trắng với vật màu xanh chính là cái
tâm sở này.
Tưởng uẩn nhận ra vật này trắng khác với vật kia xanh hay đen v.v...
Thứ tư là
hành uẩn. Dù uẩn này có hai loại, nhưng khía cạnh
chính yếu của nó là nghiệp – tức là
tư tâm sở. Đây cũng là một
tâm sở của
chúng ta, và là một
tâm sở vô cùng quan trọng. Nó có
công năng giúp cho
nhận thức của
chúng ta chuyển động, và giúp cho những
thành phần khác của tâm xoay qua hay hướng đến một đối tượng
nhận thức nào đó.
Cuối cùng,
thức uẩn bao gồm tất cả thức có thể trình hiện trong ta, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và
ý thức.
Nhưng giản dị nhất là thay vì dùng chữ uẩn,
chúng ta vẫn có thể dùng các chữ thân và tâm để nói về
thành phần cấu tạo của một
cá nhân.
Nói đến tiến trình của sự chết, một khi đã
liệt kê các
thành phần cấu tạo thành một
cá nhân, họp lại thành 5 nhóm mà tôi vừa đề cập,
chúng ta sẽ nói đến một nhóm khác, và
liên kết mỗi nhóm với một loại uẩn. Các nhóm này cũng tan rã
đồng thời với uẩn kia.
Bốn nhóm đầu được
cấu tạo bởi 5
thành phần, trong khi
thức uẩn thì sự
cấu kết có phần hơi khác biệt.
Quan sát như thế rồi, có khi
chúng ta nói rằng nếu 20 hay 24
thành phần còn hội tụ
với nhau thì sự sống còn
tồn tại. Con số có thể sai khác
tùy theo góc độ
quan sát, nhưng trong cả hai
trường hợp, nền tảng của sự phân tích là
năm uẩn,
cộng thêm với vài
thành phần khác để tạo thành những hợp thể [của sự sống].
Hãy
ghi nhận rằng,
miễn là các
thành phần còn tập hợp
với nhau để thành một tổng thể thì sự sống được
duy trì. Khi các
thành phần trở nên
kiệt quệ đến mức phải phân tán thì sự chết
xuất hiện.
Tiến trình hiện tượng sinh
Để
hiểu rõ các giai đoạn
lần lượt tiến triển như thế nào và tại sao sự phân tán nói trên
cuối cùng lại xảy ra theo một trình tự và phương thức
nhất định,
tốt hơn hết là
chúng ta nên
quay trở lại giai đoạn khởi thủy và
quan sát tiến trình của sự
xuất hiện ra đời: Vào lúc nào các
thành phần được
cấu tạo để rồi đi đến sự
phối hợp với nhau?
Trên
thực tế, cái tiến trình
tối hậu mà
chúng ta gọi là sự chết chỉ
đơn giản là tiến trình ngược lại của sự hình thành
nguyên thủy mà thôi. Nói cách khác, nếu
chúng ta muốn
hiểu biết rõ ràng và đích xác về tiến trình của sự chết,
phương pháp hay nhất là hãy
quan sát kỹ lưỡng tiến trình của sự sinh ra đời và
cố gắng tìm ra manh mối của
năm uẩn,
bốn đại v.v... Chúng đã
xuất hiện từ bao giờ và bằng cách nào? Vì chính trình tự
xuất hiện của chúng lúc ra đời sẽ
quy định trình tự tan biến của chúng lúc lìa đời. Chúng
xuất hiện theo thứ tự nào thì sẽ tan rã theo trình tự ngược lại với thứ tự ấy.
Nói cho cùng, điều ấy không
hợp lý hay sao? Dầu sao đi nữa, theo nhãn quan
Phật giáo – vì không phải ai cũng tán đồng với cách nhìn ấy – làm sao có thể tưởng tượng có sự chết nếu trước đó không có sự ra đời? Một người, nếu có lúc phải
đối diện với cái chết, thì trước đó lâu hay mau, cũng phải đã có lúc
chào đời. Thậm chí
chúng ta có thể nói, trong sự sinh ra đã bao hàm sự chết.
Không
cần phải nói,
chúng ta sẽ không đi sâu vào tiến trình của sự sinh ra, vì đó không phải là đề tài của
chúng ta, và vì đây cũng là một
chủ đề rất rộng lớn, đáng được
nghiên cứu riêng rẽ và cần nhiều ngày giờ mới nói hết được. Tôi chỉ muốn lôi kéo sự chú ý
của quý vị trên điểm này, vì nếu có ai trong quý vị muốn tiến
xa hơn nữa thì những người này
cần phải hiểu rằng, để tháo dỡ cơ cấu của sự chết, tốt nhất là
quay về phía sau và
quan sát kỹ lưỡng những giai đoạn
đánh dấu sự sinh ra đời. Vả lại,
chúng ta có thể
ngạc nhiên,
nếu không nói là
kinh dị, khi chú ý đến các điểm tương đồng giữa những
nhận xét của
Phật giáo từ bao nhiêu thế kỷ trước và những
chứng minh của khoa học
hiện đại.
Để rút tỉa những nguyên lý
đại cương có thể giúp
chúng ta thiết lập tiến trình ngược của sự chết sau này, thì
tóm lại, sinh ra đời có nghĩa là gì? Là điểm khởi đầu của sự sống. Quý vị sẽ bắt bẻ lại rằng, đó không phải là một
khám phá mới lạ! Nhưng đừng quên là
Phật giáo chấp nhận thuyết
tái sinh. Vì thế,
chúng ta cần phải diễn đạt định nghĩa của mình
tinh vi hơn một chút.
Vậy thì sinh ra tức là bắt đầu sống. Nhưng thời điểm
chính xác của nó là lúc nào? Để
quyết định thời điểm này,
chúng ta cần phải quay ngược lại phía sau thêm một chút nữa.
Thật thế, khi nói “sinh ra” tức là một người được sinh ra, và trong
quan điểm tái sinh luân hồi, thì người này không đột ngột ra đời lần thứ nhất mà đây chỉ là một sự
tiếp diễn, nghĩa là
chúng ta phải
quay về thời điểm trước khi họ
chào đời, khi họ còn ở trong
trạng thái trung ấm, tức là khoảng
thời gian giữa một sự chết và một sự
tái sinh.
Phật giáo vốn tin vào
thuyết luân hồi nên
công nhận rằng người này
hiện hữu và đã
trải qua khá nhiều giai đoạn, từ cái chết
trong đời trước và
thời kỳ trung hữu.
Thời kỳ trung hữu này
chấm dứt lúc
thần thức vi tế của người này (
thần thức y cứ vào khí
vi tế) nhập vào hợp tử, tức là các tế bào
hòa hợp của
cha mẹ, để
đưa tới hiện tượng xuất sinh.
Tôi xin nói vài lời về chữ khí (Phạn: vayu,
Tây Tạng: rlung). Có người còn dịch là “năng lượng”, là “phong” hay “gió”.
Vayu là một
hiện tượng thuộc về
sắc pháp, tức là một
trạng thái vật chất, nhưng là một
trạng thái vật chất vi tế, thậm chí
cực vi tế, chỉ được
nhận biết bằng
ý căn chứ không thể bằng
nhãn căn. Khí
vi tế và khí
cực vi tế có
công năng làm “vật để cưỡi” – chỗ
y cứ, nương dựa – cho
thần thức, và chính
thần thức này cũng
vi tế và
cực vi tế. Nói khác đi, khí này là cái “thân” của
thần thức, và
dĩ nhiên là một thân
vi tế. Chính trong
trạng thái này mà
cá nhân nói trên sẽ
đoạt lấy một chỗ dựa thô hơn nhiều, do
cha mẹ cung cấp, tức là tinh cha và huyết mẹ giao hợp.
Trở lại vấn đề, khi một
cá nhân, dưới dạng
thần thức và khí
vi tế, nhập vào tế bào của
cha mẹ tức là một chỗ
y cứ thô, thì có sự hòa nhập và
đoạt lấy giữa đôi bên:
hiện tượng này gọi là sự sinh ra.
Có nhiều
điều kiện cần thiết cho một sự
xuất sinh. Phần đông, cần có sự có mặt của một người cha và một người mẹ, hai bên phải giao hợp
với nhau, để các tế bào của họ
gặp nhau,
tiếp xúc và hòa nhập vào nhau. Đó là một tiến trình
phức tạp cần phải được khảo luận nhiều, nhưng bây giờ
chúng ta không thể
đi vào chi tiết.
Hiển nhiên, các tế bào của
cha mẹ cần phải lành lặn, nguyên vẹn để dung hợp và nếu
chúng ta đang nói về sự ra đời của mình, thì các tế bào này cũng phải có khả năng
tiếp nhận tâm
tương tục của
chúng ta khi tâm này tiến nhập vào chúng.
Tôi vừa mới dùng chữ “tâm tương tục” mà tôi thích hơn chữ “thần thức”. Quý vị đã
ghi nhận rằng, đối với
Phật giáo thì sự sinh ra
trùng hợp với sự thụ thai, tức là thời điểm
chính xác lúc
tâm thức vi tế của một
hữu tình tiến nhập vào các tế bào dung hợp của
cha mẹ và
đoạt lấy chúng. Mà
tâm thức này không phải là một cái gì
bất động.
Thí dụ, không phải
tâm thức hiện tại chúng ta đang có mà có thể tiến nhập vào tế bào của
cha mẹ lúc
chúng ta sinh ra. Mà cũng không phải là một
tâm thức hoàn toàn khác biệt. Đó chính là tâm
tương tục, tức chính là
tâm thức của
chúng ta nhưng nhìn trong sự diễn biến của
thời gian và
biến đổi từ sát-na này đến sát-na khác.
Thân của
chúng ta, tức là cái
hình hài vật chất mà
cha mẹ chúng ta đã
cung ứng, được
thành lập bởi bốn
yếu tố (Phạn: catvri mah-bhtni, Tạng: ḥbyuṅ-ba chen-po bshi), hay
bốn đại, tức là đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong), đôi khi cũng được xem là năm đại, tức là thêm
hư không (
không đại) nữa.
Phật giáo miêu tả sự
xuất hiện sơ khởi hình hài vật chất của
chúng ta như sau: các nhân mà
cha mẹ đã đem lại là noãn bào của mẹ và tinh trùng của cha. Hai thứ ấy
dĩ nhiên cũng được
thành lập bởi nhiều nhân tố khác biệt và vận tải các tiềm năng của những nhân tố khác nữa. Ngay lúc tinh trùng tiến nhập vào noãn bào để hợp
nhất thành một,
chúng ta có thể cho rằng chỗ dựa
vật chất, tức là thân xác, đã được
cấu tạo không? Theo
Phật giáo thì không. Dù sao chăng nữa, không
nhất thiết là như thế. Điều đó còn
tùy thuộc vào sự có mặt hay
vắng mặt của một nhân tố khác. Nhưng quả nhiên, hai chất trên của cha và mẹ đã mang tất cả các tiềm năng
cần thiết cho một thân xác có thể
xuất hiện và phát triển sau đó. Điều còn thiếu là cái mà
thần thức của
chúng ta mang lại, tức là tâm
tương tục của ta. Tâm này cũng mang tiềm năng hay
chủng tử có
cùng chung tính chất với các tiềm năng
vật chất.
Cần phải có sự liên hợp giữa hai nhóm tiềm năng. Bởi vậy, ngay khi tâm
tương tục của
chúng ta tiến nhập vào các tế bào hợp nhất của
cha mẹ, các tiềm năng bèn
liên kết và
phối hợp với nhau và đem lại kết quả: sự
xuất hiện đồng thời cái
sở y vật chất của
chúng ta.
Phật giáo cho rằng sự sinh ra có
hiệu lực ngay lúc thụ thai, nghĩa là thai bào đã
lập tức trở thành một
hữu tình toàn vẹn, dẫu nó còn phải phát triển
nảy nở sau đó. Những
luận thuyết Phật giáo về phôi học
diễn tả một cách tỉ mỉ những
biến chuyển trong ba mươi tám tuần, chỉ rõ lúc nào những bộ phận và tay chân
xuất hiện, hay các quan năng bắt đầu
hoạt động.
Thí dụ như đầu tiên hết thai bào không có khả năng nhìn thấy, nhưng đã có các tiềm năng
tương ưng cần thiết. Sau ba mươi tám tuần, theo
lý thuyết thì
thai nhi sẽ rời
tử cung của mẹ,
đánh dấu sự sinh ra đời theo
nghĩa thông thường.
Sự việc được
miêu tả một cách giản lược trên đây đã cho
chúng ta thấy cái gì là
nền móng sự phát triển của một
thân thể thô. Đó là một
hiện tượng mà
chúng ta cũng có thể gọi là thân vì nó thuộc về
sắc pháp, hay thuộc về
phạm vi vật chất, nhưng lại cực kỳ
vi tế hơn. Tôi muốn nói đến khí, hay cái
năng lượng mà
chúng ta vừa đề cập trên.
Tuần tự với sự phát triển của thai bào, mỗi
thời kỳ được
đánh dấu bằng sự
hoạt động của một loại khí mới, các khí này
tương đối vi tế, nhưng lại giúp cho
hình sắc thô bên ngoài phát triển: sự
thành lập của bộ phận nào đó, sự
xuất hiện của một
cảm quan nào đó v.v...
Người ta có thể
liệt kê năm loại khí
căn bản (Tạng: rtsa bai rlung) và năm loại khí phụ (Tạng: yan lag gi rlung). Tất cả những điều này được
giảng giải rất nhiều trong kinh sách
Phật giáo,
đặc biệt là
kinh điển Mật giáo hay trong hai cuốn kinh mà
đức Phật thuyết cho
đệ tử của Ngài là
tôn giả A-nan-đà, tựa là “Phật thuyết
Bào thai kinh” và “Xử thai kinh”.
Trên
thực tế, qua bao thế kỷ, có rất nhiều vị
đại sư Phật giáo đã viết về
vấn đề xuất sinh, mà bắt đầu là các
đại học giả Ấn Độ.
Các khí
luân lưu trong
thân thể của
hữu tình có
công năng gì? Xin nhắc lại, đây là những dạng
vi tế làm chỗ
y cứ cho những dạng thô của thân.
Ngoài ra, chúng còn làm chỗ
y cứ cho sự sống của
hữu tình nói trên. Chính những khí này
cho phép các bộ phận làm tròn
chức năng của chúng.
Thí dụ, muốn đi đại tiện phải có sự
can thiệp của một loại khí để tống phân xuống phần dưới
thân thể. Sự
hô hấp hay sự
tiêu hóa cũng cần đến
hoạt động của một số khí khác v.v... Khi các khí trong thân xác thô của
chúng ta không còn lành lặn mà bị hư hỏng, hay
bệnh hoạn chẳng hạn, thì ta sẽ bị đủ loại
vấn đề bất ổn như táo bón, tắt tiếng hay không
tiêu hóa được v.v...
Người ta cho rằng trong nửa
thời gian đầu của
thời kỳ thai nghén năm khí
căn bản bắt đầu
hoạt động, với
tỷ lệ là mỗi tháng có một khí
xuất hiện. Chúng sẽ được
tiếp tục bằng năm loại khí phụ, cũng
tuần tự xuất hiện trong mỗi tháng còn lại. Các khí phụ có
công năng giúp khởi sinh các
cảm quan nhận thức: khí này làm chỗ
y cứ cho
nhãn thức, khí kia cho
nhĩ thức và cứ
thế cho tỷ, thiệt và
thân thức.
Sau 10 tháng (theo
âm lịch) trong
bào thai, hài nhi đã
hoàn toàn thành hình và có thể được sinh ra, nghĩa là ra khỏi bụng mẹ.