PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch
Nhà xuất bản Thời Đại
2. Chu kỳ tan rã thứ hai: nhóm có liên quan với thọ uẩn
Bốn thành phần cùng lúc tan rã với thọ uẩn là bình đẳng tánh trí, thủy đại, thính giác và âm thanh trong dòng tương tục của người lâm chung.
Chúng ta sẽ không nói nhiều trong chu kỳ thứ hai này vì các triệu chứng có thể ghi nhận được bởi người ngoài ít hơn chu kỳ đầu. Những ai muốn biết nhiều hơn có thể tham khảo các tác phẩm chuyên môn về sự chết.
Thọ uẩn:
Chúng ta có thể nói một câu về sự tan rã của
thọ uẩn này. Những
nhận xét trước kia vẫn
áp dụng được ở đây: khí
chống đỡ cho các
cảm quan sinh lý không làm tròn chức vụ được nữa, nên các
cảm quan sinh lý bị
suy yếu và
cùn nhụt đi. Người
lâm chung không còn nhận được các
cảm giác dễ chịu, khó chịu hay
vô ký nữa.
Bình đẳng tánh trí:
Khí
chống đỡ cho các
cảm quan dẫn đến
cảm thọ nội tại bắt đầu tan rã. Người
lâm chung không còn cảm nhận cái gì
dễ chịu, khó chịu hay
vô ký, nhưng
hiện thời ta chỉ nói về các
cảm giác thô.
Thủy đại
Thủy đại tan rã đưa đến sự khô cạn của tất cả các chất lỏng trong thân: nước bọt, máu, nước tiểu v.v... Không còn nước bọt nên người
lâm chung cảm thấy miệng lưỡi càng lúc càng khô, do đó thường than khát nước. Trên răng họ đóng lên một lớp váng đen đen. Môi trên của họ hơi nhếch lên, hai cánh mũi nhíu lại. Khi ta
chứng kiến một người hấp hối, những dấu hiệu này rất
rõ ràng.
Thính giác
Sức nghe không còn, người
lâm chung không
nghe được âm thanh nào, dầu bên ngoài hay bên trong.
Đây là một điểm cần biết và ghi nhớ, vì nếu ta muốn giúp đỡ một người
lâm chung bằng những
lời khuyên giải để họ có thể trụ được trong một
trạng thái tâm thức hiền thiện và
lợi lạc thì phải làm [điều đó] trước giai đoạn thứ hai này. Từ lúc này, người
lâm chung không còn
nghe được gì nữa, không một
âm thanh, nghĩa là không một
lời nói nào còn có thể lọt vào tai họ. Muốn trực tiếp giúp đỡ bằng
âm thanh hay lời nói thì lúc này đã quá muộn.
Âm thanh tronG DÒNG
tương tụcTrong suốt cuộc đời, có một
âm thanh vang hưởng trong tai ta nhưng phần đông ta không nghe thấy. Muốn
ý thức được
âm thanh ấy, hãy
bịt tai lại và sẽ nghe tiếng “u... u...”
liên tục.
Âm thanh ấy
chấm dứt ở giai đoạn này.
Triệu chứng bên trong
Người
lâm chung có
ấn tượng thấy như có một làn khói mỏng. Để có một
ý niệm về
hình ảnh họ thấy, hãy nghĩ đến điều gì xảy ra khi ta nhóm củi trong một căn phòng. Sau một lúc, làn khói mù mịt trong căn phòng sẽ tan dần, vì khi khói tan gần hết, chỉ còn lại trên đầu ta, dưới trần nhà, một làn khói mỏng. Người
lâm chung thấy một ảo tượng
tương tự như thế.
3. Chu kỳ tan rã thứ ba: nhóm có liên quan với tưởng uẩn
Bốn
thành phần đồng thời tan rã với
tưởng uẩn là
diệu quan sát trí,
hỏa đại, tỵ giác và những mùi hương thuộc về dòng
tương tục của người
lâm chung.
Một lần nữa, tôi xác định với quý vị rằng khi ta nói về sự tan rã của
thọ uẩn rồi đến
tưởng uẩn là nói trên bình diện thô. Chỉ có bình diện thô của các uẩn này mới bị
suy suyển đến độ biến mất, nhưng hai
tâm sở này vẫn
tồn tại dưới những dạng
vi tế hơn.
Tưởng uẩn
Khi
tưởng uẩn tan rã, người
lâm chung thường mất ký ức
liên quan đến người thân. Họ không
nhận ra mà cũng không nhớ họ là ai.
Diệu quan sát trí
Diệu quan sát trí bình thường giúp ta nhớ biết,
thí dụ như tên của
cha mẹ, vợ chồng, con cái... Một khi trí này tan rã, người
lâm chung không còn nhớ tên của những người thân này nữa.
Hỏa đại
Hỏa đại tan rã, hơi nóng trong thân giảm xuống, đó là một
triệu chứng dễ dàng
nhận ra được. Ta thường nghe người hấp hối than “Trời lạnh xuống thì phải!”.
Tỵ giác
Tỵ giác
đồng thời tan rã:
Triệu chứng bên ngoài là sự thay đổi trong
hô hấp của người
lâm chung. Họ
thở ra tiếng và thở không đều. Họ hít không khí mỗi lúc một khó khăn nên
hơi thở vào
yếu ớt, ngắn và chậm, trong khi
hơi thở ra lại dài. Chính vào lúc này ta sẽ nghe tiếng khò khè rất đặc trưng của người hấp hối.
Những mùi hương
Những mùi hương thuộc dòng
tương tục của người
lâm chung: Từ lúc này, người
lâm chung không thể ngửi và
phân biệt được các mùi hương, nhưng điều này không
biểu lộ bằng bất cứ dấu hiệu nào
nhận biết được từ bên ngoài.
Một
tác dụng khác khi
hỏa đại tan rã là người
lâm chung mất khả năng
ăn uống và
tiêu hóa bất cứ
thực phẩm nào, dầu lỏng hay đặc. Nếu ta cố đổ một chút nước vào miệng họ, vì họ không nuốt được nữa nên nước sẽ chảy ra ngoài ngay.
Triệu chứng bên trong
Người
lâm chung có
cảm giác thấy những điểm sáng, giống như những đốm lửa hay những con đom đóm trong bóng tối.
4. Chu kỳ tan rã thứ tư: nhóm có liên quan với hành uẩn
Bốn
thành phần đồng thời tan rã với
hành uẩn là
thành sở tác trí,
phong đại,
vị giác và các vị thuộc về dòng
tương tục của người
lâm chung, cùng với
cảm quan sinh lý là sự xúc chạm.
Hành uẩn
Triệu chứng sự tan rã của uẩn này rất dễ
nhận thấy:
Thân hình của người
lâm chung hoàn toàn bất động từ lúc này. Họ không còn làm gì được nữa, không nhúc nhích được nữa.
Thành sở tác trí
Thành sở tác trí giúp ta nhớ những việc gì phải làm trong cuộc sống
hằng ngày. Khi trí này tan rã, người
lâm chung mất đi
trí nhớ mình phải làm gì.
Phong đại
Phong đại cũng tan rã: Điều đang thật sự xảy ra là mười loại khí
tương đối thô bắt đầu phát động
lần lượt, cái này sau cái kia ngay sau lúc phôi thai, rồi
luân lưu trong cả
thân thể để
hoàn thành các
chức năng của mình, nay sẽ
tụ họp hết ở một điểm giữa lồng ngực gọi là tâm điểm. Dấu hiệu bên ngoài rất rõ rệt là
hơi thở bình thường chấm dứt. Nói cách khác, đó là
tình trạng mà người ta gọi là “sự chết”.
Theo
Phật giáo, đây chỉ là cái “chết y học” chứ chưa phải là cái chết thật sự, mà chỉ là giai đoạn thứ tư của một chu kỳ, hãy còn bốn giai đoạn
theo sau nữa. Cho dầu người ta không còn thở, nhưng họ vẫn chưa chết.
Vị giác
Vị giác tan rã được
biểu lộ qua một dấu hiệu dễ
nhận thấy: lưỡi người
lâm chung thụt ngắn và dày ra, đầu lưỡi hơi cong lên và cuống lưỡi xanh sạm.
Các vị giác thuộc dòng tương tục
Ở giai đoạn này, và chỉ ở giai đoạn này, người
lâm chung mất hết khả năng cảm nhận và
phân biệt các vị khác nhau.
Xúc giác
Hành uẩn tan rã cũng bao hàm
xúc giác.
Xúc giác không còn nữa, người
lâm chung không thể
phân biệt được các
cảm giác êm dịu, nhám, sần sùi v.v…
Triệu chứng bên trong
Người
lâm chung có
cảm giác thấy một ánh nến hay
ngọn đèn dầu chao
động trước gió.
Cuối chu kỳ thứ tư, tất cả các
thành phần thuộc dạng thô của người
lâm chung đã tan rã, trên bình diện
sinh lý cũng như
tâm lý. Trên
thực tế, mười khí
năng lực thô đã tan rã nên các
nhận thức,
các loại tâm sở nương tựa vào chúng cũng tự động
chấm dứt. Nhưng đừng quên là theo
quan điểm Phật giáo thì họ vẫn chưa chết. Những gì vẫn còn trong người này là các sắc và
tâm tưởng ở bình diện
vi tế.
Người
lâm chung còn phải
trải qua bốn chu kỳ nữa, trong khi đó
nhận thức của họ sẽ càng lúc càng
vi tế. Những giai đoạn này chỉ được
đánh dấu bằng những
triệu chứng bên trong mà thôi.
5. Chu kỳ tan rã thứ năm: tâm thức màn trắng hiện
Tám mươi
tâm sở tan rã vào một
tâm thức gọi là “màn trắng hiện”. Người
lâm chung thấy hình một
ánh lửa (như lửa của một
ngọn đèn bơ)
bất động, rồi một màn ánh sáng trắng.
6. Chu kỳ tan rã thứ sáu: tâm thức màn đỏ tăng trưởng
Người
lâm chung có
cảm giác thấy một ánh sáng đỏ rất mạnh, giống như bầu trời màu cam lúc bình minh.
7. Chu kỳ tan rã thứ bảy: tâm thức màn đen cận thành tựu
Người
lâm chung có
cảm tưởng bị bóng tối bủa vây, họ như chìm trong
hôn mê và không cảm nhận
gì nữa.
8. Chu kỳ tan rã thứ tám: tâm thức ánh tịnh quang của sự chết
Các dạng
vi tế của tâm và của khí
sở y tan biến, nhường chỗ cho một tâm và khí rất
vi tế.
Người
lâm chung có
cảm giác trông thấy một khoảng
không vô tận,
hoàn toàn thanh tịnh, không có chút màu sắc nào.
Đối với
Phật giáo, chính trong giai đoạn này, giai đoạn của ánh tịnh quang, mà sự chết thực sự phát sinh.
Giản dị nhất là hãy loại trừ dần những gì không có ích cho ta. Rõ ràng là khi chết, phần đông những gì ta ưa thích lúc còn sống không còn giúp ích gì cho ta được nữa, ít ra là không giúp trực tiếp. Thế là của cải, gia tài mà ta đã khó khăn lắm mới gom góp được, nay sẽ hoàn toàn vô dụng. Chức vị, thanh danh, tên tuổi cũng thế... Người thân cũng không còn trực tiếp giúp ta được: cha mẹ, con cái, vợ chồng, y sĩ, bạn bè kể cả sư phụ hay đệ tử, không ai ngăn cản nổi cái chết, ngay cả những người mà ta đặt hết tin tưởng và trông cậy cả một đời.
Hãy suy nghĩ một chút. Hiển nhiên là khi ta nhắm mắt lìa đời, thân và tâm vi tế sẽ rời khỏi cái vỏ vật chất trước để hướng đến một nơi tái sinh khác, thì của cải và tài sản sẽ hoàn toàn vô dụng, trong ý nghĩa là ta không đem theo được gì cả. Đừng nghĩ rằng vì ta đã thành công và sung túc, ngay cả giàu có đi nữa nên ta có thể đầu thai trở lại cùng với tiền bạc của cải vật chất. Điều này không thể được. Hơn nữa, ta cũng không thể đem bất cứ ai đi theo ta, kể cả những người thân yêu nhất. Ngay cả khi ta cảm nhận được một sự ràng buộc rất mật thiết, trên phương diện tâm linh hay gì khác, với một số người nào đó, những sự ràng buộc này cũng không còn “ích lợi” nữa, trong ý nghĩa là họ không có cách nào đi theo ta một quãng đường xa hơn.
Sự thật, chết nghĩa là thân và tâm vi tế phải tiếp tục con đường của mình để hướng đến một cuộc sống mới, nhưng không thể đem theo những gì mà mình đã sở hữu suốt cả cuộc đời vừa mới chấm dứt, cũng không thể dắt theo một người nào, dầu thân thiết đến đâu đi nữa. Vả lại, ngay cả cái thân thể nhờ những nghiệp lực đặc thù nào đó mà ta đã lấy được lúc phôi thai và đã sử dụng từ đầu đến cuối cuộc đời, chính cái thân thể gần gũi và trung thành với ta dường ấy, ta cũng bắt buộc phải bỏ lại sau lưng.
Nói tóm lại, tất cả những gì mà suốt đời chúng ta đã gọi là “của tôi”, đã nói là “thuộc về tôi”, “tôi có”, thì khi chết đi đều không thuộc về ta nữa, mà sẽ lọt vào tay những chủ nhân khác, cũng một cách tạm bợ không kém.
Điều này áp dụng cho tất cả: tiền bạc, quần áo, nhà cửa, và ngay cả thân thể – thi thể – không còn là của ta, mà sẽ thuộc về những người ở lại, những người thừa kế của ta v.v... Và rồi có một ngày, họ cũng sẽ phải trải qua cảnh huống ấy.
Thế thì tất cả những của cải vật chất mà ta sở hữu trong suốt một đời, ta đều phải để lại khi chết đi, và chúng qua tay người khác. Còn đối với người thân, những người gần gũi nhất – cha mẹ, con cái v.v... – thì chết có nghĩa là phân ly với họ, vĩnh viễn. Ta sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ không gặp lại họ trong những kiếp tái sinh, nhưng chắc chắn là sẽ không như trước nữa. Phải, chúng ta có thể gặp lại họ, nhưng trong những bối cảnh hoàn toàn khác biệt, trong ấy mỗi người sẽ có một địa vị không giống chút nào với những quan hệ mà ta đã đan kết trong kiếp sống này, những quan hệ mà ta hằng tha thiết.
Để diễn tả tất cả những cảnh phân ly và nhấn mạnh tính chất vĩnh cửu của chúng, đức Phật đã dùng đến đủ loại thí dụ minh họa, nhất là trong kinh Phổ Diệu, Đức Phật đã gợi đến cảnh lá rụng mùa thu. Khi trời trở lạnh và gió thổi mạnh, những chiếc lá trong tán lá hài hòa của ngọn cây bắt đầu rơi xuống và bay tán loạn theo cơn gió lốc. Sau đó, việc cố nhặt chúng về và gắn trở lại lên những cành cây xưa kia để hồi phục tán lá cũ là một công việc vô ích, không thể làm được.
Những chiếc lá cây một khi phân tán thì vĩnh viễn không tụ họp được với nhau nữa, giống như những cuộc phân ly sau cái chết, không thể vãn hồi được. Đức Phật dạy rằng không ai có thể phục hồi những hoàn cảnh y như trước. Ngài cũng lấy thí dụ của một dòng nước chảy, nó chảy xuống phía dưới và không bao giờ, không bao giờ chảy ngược về nguồn.
Vậy thì điều gì có thể có ích lúc ta chết? Để nhận thấy được, ta phải bắt đầu bằng kiểm nghiệm xem ta có thể mang gì theo khi chết đi. Theo Phật giáo, khi ta lìa một cuộc đời để hướng đến một kiếp tái sinh khác, ta chỉ có thể vỏn vẹn mang theo những gì đã tiêm nhiễm trong tâm, hay chính xác hơn, trong dòng tâm thức. Cái gì đã lắng đọng xuống trong dòng tâm thức? Cũng theo Phật giáo, đó là những “dấu ấn”, hay cũng gọi là những “tiềm năng”. Mỗi khi ta tác động lên một trong 3 bình diện thân, khẩu, ý là ta để lại trong tâm một dấu vết, một năng lượng hay một tiềm năng. Và ta chỉ có thể tác động theo hai phương cách: một là xấu, hai là tốt. Kết quả là những tiềm năng mà chúng ta tích tập theo thời gian có thể hoặc tốt hoặc xấu, tùy theo những hành vi phát khởi ra chúng: nếu mang lại lợi ích thì là thiện, ngược lại nếu tệ hại thì là ác.
Nói thế thì điều gì có lợi cho ta khi ta chết? Chúng ta sẽ mang theo, dầu muốn dầu không, tất cả những tiềm năng mà chúng ta đã tàng trữ. Lẽ dĩ nhiên những tiềm năng xấu không thể giúp ích cho ta. Ngược lại, chúng còn gây hại cho ta. Vậy thì cái gì còn lại để ta có thể nhờ cậy vào? Chỉ có những tiềm năng tốt mà thôi. Nếu trong suốt cuộc đời vừa qua chúng ta đã thường xuyên và mạnh mẽ thực hiện những hành vi tốt, chính đáng và vị tha, thì các tiềm năng phát sinh sẽ đi theo chúng ta và rất có lợi cho chúng ta. Chỉ có những hành vi này mà thôi. Ngoài ra, không có gì khác!
Làm thế nào để giúp một hữu tình sắp chết?
Dĩ nhiên là có rất nhiều đáp án cho một câu hỏi như thế. Đối với
Phật giáo, nếu
chúng ta thành tâm muốn giúp đỡ một người
lâm chung,
tốt hơn hết là tạo
điều kiện tốt nhất để họ có được một
trạng thái tâm thức hiền thiện, và
hết sức tìm cách tránh những gì có nguy cơ gây cho họ một
tâm thức rối loạn hay
bất thiện vào giờ phút sắp chết.
Tại sao
Phật giáo khuyên nên vận dụng đủ mọi cách
thích đáng để khơi dậy những
tâm niệm hiền thiện nơi người lâm chung? Đừng quên là
Phật giáo chấp nhận thuyết luân hồi, điều này hàm ý rằng, lúc lìa khỏi một kiếp sống, người ta lại hướng về một kiếp khác, rồi một kiếp khác nữa,
mãi mãi không ngừng. Điều gì
định đoạt kiếp
tái sinh tới của ta là tốt hay xấu? Ta có quyền chọn lựa hay không? Khi đi từ kiếp này sang một kiếp khác, người ta có
tiến bộ hay không?
Phật giáo cho rằng điều này
tùy thuộc vào
nghiệp lực – hoặc tốt hoặc xấu – mà ta đã tích tập từ truớc
đến nay. Trong
viễn tượng này,
phương cách ta hành xử với người
lâm chung sẽ càng quan trọng hơn và cũng
tế nhị hơn.
Để tóm lược
quan điểm của
Phật giáo trên
vấn đề này, khi một
hữu tình còn ở trong
thế giới Ta-bà, nghĩa là khi họ còn
tiếp tục luân hồi sinh tử trong
phiền não và
nghiệp lực, thì tâm họ sẽ vận tải
một thể lượng khổng lồ của nhiều
nghiệp nhân khác nhau. Nói cách khác, tất cả
hữu tình trong cõi Ta-bà đều
mang theo một khối
nghiệp nhân không thể tưởng tượng, trong đó có rất nhiều
nghiệp nhân tốt, có thể rất tốt, nhưng một số khác lại thua xa. Tại sao? Vì nói đến
luân hồi, ta không thể chỉ kể đến kiếp sống
hiện tại mà thôi. Đã có bao nhiêu
kiếp trước đó mà ta đã không
cư xử như trong kiếp này.
Hãy tưởng tượng trong kiếp này có một người sống rất
tồi tệ, không làm gì ngoài những
hành vi gây hại, đầy
ác ý, do đó đã tạo một số lớn
nghiệp nhân xấu. Trong những
kiếp trước, chắc hẳn là họ đã không
cư xử như vậy. Nếu tâm họ đã bị
thâm nhiễm những
nghiệp nhân xấu trong kiếp này,
chắc chắn là họ hãy còn giữ nhiều
nghiệp nhân tốt của những
kiếp trước. Thật
may mắn cho họ, nhưng
trường hợp trái ngược cũng có thể xảy ra: một người đã tạo những
nghiệp nhân rất tốt nhờ những
hành vi thiện lành, nhưng
kiếp trước họ đã làm những
nghiệp nhân gì? Có thể họ cũng đã tạo những
nghiệp nhân lành, nhưng không thể tránh được
lầm lạc hay
tội lỗi, nên tất nhiên họ cũng vận tải những
nghiệp nhân xấu. Vì thế
Phật giáo cho rằng tất cả những
hữu tình sống trong
thế giới Ta-bà này đều
mang theo một số lớn
nghiệp nhân đủ loại.
Nghiệp báo và
tái sinh có
liên quan gì với nhau? Sơ đồ
căn bản rất giản dị: nghiệp nào
thành thục ngay trước khi kiếp sống X
chấm dứt sẽ
định đoạt kiếp
tái sinh Y ngay sau đó. Thế nhưng, nếu ta phân tích
sâu xa hơn thì sẽ thấy có nhiều
biến thể khác trong sơ đồ đó. Đừng nghĩ rằng kiếp
tái sanh nào cũng do sự
định đoạt của mỗi một
nghiệp nhân duy nhất đã
thành thục. Kinh sách nói rằng, giữa những
hành nghiệp mà
chúng ta gây ra có một số mạnh đến nỗi chỉ cần mỗi một
nghiệp nhân thôi cũng đủ lôi kéo ta
tái sinh vào một
cảnh giới liên tục trong nhiều kiếp.
Thí dụ, một
nghiệp nhân vừa rất mạnh vừa rất tốt có thể đưa ta đi
tái sinh trong
cõi người suốt một ngàn kiếp không
gián đoạn. Đó là nói về
trường hợp tốt.
Tương tự, một
nghiệp nhân xấu rất mạnh cũng có thể khởi động một chuỗi
tái sinh bất lợi. Ngược lại, một vài loại
nghiệp nhân tuy đã
thành thục nhưng không đủ mạnh để tự mình dẫn đến một kiếp
tái sanh. Trong
trường hợp này, nhiều
nghiệp nhân cùng loại sẽ ghép lại
với nhau để dẫn đến cùng một
quả báo: một kiếp
tái sinh tốt hay xấu
tùy theo sắc thái chung của chúng. Tuy nói thế nhưng thông thường, nhất là ngay trước khi chết, trong tâm của đương sự, giữa tất cả các
nghiệp nhân, sẽ trỗi lên một
nghiệp nhân đã đến lúc
thành thục. Nếu
nghiệp nhân này tốt, đương sự sẽ được đẩy tới một kiếp
tái sinh rất
lợi lạc, và nếu nó xấu thì họ sẽ đọa xuống
cảnh giới bất hạnh.
Chúng ta ai cũng
mang theo mình
vô số nghiệp nhân đủ loại, vậy những
nghiệp nhân nào sẽ có khả năng
xuất hiện vào lúc ta trút
hơi thở cuối cùng và từ đó
định đoạt kiếp sống mới của ta? Theo một
đại học giả Ấn Độ là ngài
Thế Thân thì trước hết, những
nghiệp nhân thành thục đúng vào lúc đó là những
nghiệp nhân “gần gũi” với ta nhất, tức là những
nghiệp nhân mà
chúng ta quen tạo nhất.
Vì thế, nếu muốn có một
tái sinh tốt thì ta không được quên rằng để được như thế, vào giây phút cuối của ta,
nghiệp nhân trỗi lên trên hết phải là một
nghiệp nhân phước đức. Và muốn thế, ta phải dùng tất cả các
phương tiện thích hợp nhất để “tưới tẩm” (như người
Tây Tạng thường nói) hay là
tăng cường trong tâm người
lâm chung (dẫu người đó là chính mình hay người khác) một
nghiệp nhân thiện.
Mục đích là đưa một
nghiệp lành nào đó đến mức độ
thành thục, để nó có thể
định đoạt kiếp
tái sinh sau,
thích hợp với người
lâm chung, và do đó
tốt đẹp cho họ.
Trước khi nghĩ đến việc
áp dụng điều này cho chính mình, hãy tự hỏi làm sao và bao giờ mới là lúc phải
áp dụng cho người
lâm chung.
Vấn đề là làm sao giúp người này đúng vào lúc nào thì phải có
tâm thức nào, nghĩa là
tâm thức có lợi cho họ. Nói thế cũng có nghĩa là
trạng thái tâm thức đang được đề cập phải
đi theo một chiều hướng, trong
trường hợp này phải là chiều hướng tốt. Nó không được ở trong một
trạng thái vô ký. Và
điều kiện là tâm họ còn phải
hoạt động ở dạng “thô”,
hay nói cách khác, dạng
bình thường.
Quý vị hẳn cũng nhớ là khi
tâm thức lấy lại dạng
vi tế, chưa nói tới dạng
cực vi tế, thì nó sẽ tự động
trở thành vô ký.
Lúc ấy tâm thức không thể theo chiều hướng tốt hay xấu nữa, nên chỉ có thể ở
trạng thái trung dung.
Lúc ấy thì đã quá muộn. Vì thế, để người hấp hối có được những
ý nghĩ thiện lành thì
tâm thức người này phải còn
hoạt động trong
trạng thái bình thường, trước khi các
thành phần thô nặng của họ bắt đầu tan rã.
Khi
tâm trí người hấp hối còn
hoạt động trong
trạng thái thô, nếu ta dàn xếp thế nào để họ khởi được một
trạng thái tâm thức hiền thiện, hay giản dị hơn, nếu ta khơi dậy trong tâm họ những
tư tưởng tốt lành thì điều này có
tác dụng tăng cường các tiềm năng tốt trong các
nghiệp nhân của họ. Trong một
thời gian ngắn sau đó,
ngay sau khi các
thành phần thô nặng đã tan rã rồi thì trong tâm họ chỉ còn lại các
hoạt động ở bình diện
vi tế và
cực vi tế. Nhưng dẫu cho
tâm thức họ đã
trở thành vô ký, họ vẫn còn ở dưới
ảnh hưởng của
trạng thái tâm thức thô nặng
cuối cùng, nên chính
trạng thái này sẽ “định đoạt” chiều hướng của
thời kỳ sau khi chết, lúc người này vào
trạng thái trung ấm rồi đến lúc họ thực sự đi
tái sinh.
Nói
tóm lại, khi tiến trình của sự chết diễn ra thì các
thành phần thô nặng của một
hữu tình sẽ dần dà
suy suyển cho đến lúc không còn
hoạt động được nữa.
Tâm thức nói riêng
cuối cùng cũng không còn có thể
hoạt động dưới dạng
bình thường, mà ta gọi là dạng “thô”. Từ lúc đó trở đi, trong một khoảng
thời gian,
tâm thức của người này chỉ còn trụ trong những bình diện
vi tế hơn, mà
tính chất là
vô ký. Do đó, cái mà ta phải
cố gắng làm là
can thiệp lúc còn
thời giờ, lúc
tâm thức người hấp hối vẫn còn
hoạt động dưới dạng
bình thường, làm thế nào cho những
tư tưởng cuối cùng dưới dạng thô của họ phải đượm sắc
thái hiền thiện. Ngay sau đó, vì các
thành phần tan rã nên họ chỉ còn có thể có
trạng thái tâm thức vi tế trong suốt một loạt chu kỳ. Nhưng không sao, nếu
trạng thái tâm thức cuối cùng là hiền thiện thì điều này rất có lợi cho họ.
Khoảng
thời gian này thật sự
vô cùng trọng yếu và
tế nhị, vì đôi khi có những sự
chuyển hướng rất lạ lùng. Hãy lấy
thí dụ của một người,
trong suốt kiếp người đã sống một cách
xấu xa nên phần nhiều các nghiệp đã tạo đều là nghiệp xấu. Nhưng [kết quả
cuối cùng] vẫn chưa
ngã ngũ. Chỉ cần vào giây phút cuối, nhờ một số tình huống tốt nào đó
hoà hợp nên họ trụ được vào trong một
trạng thái tâm thức hiền thiện. Đây không phải là một sự
ngẫu nhiên, mà có thể nhờ vào những nghiệp tốt nào đó họ đã
tích tụ được trong các
kiếp trước đã
hiện hành.
Nói gì thì nói,
trước mắt mọi người thì hiện nay đây là một tên cực kỳ
gian ác, nhưng ở giây phút
cuối cùng họ lại ở trong một
trạng thái tâm thức hiền thiện, nhờ
công đức lành
kiếp trước và những
điều kiện thuận lợi nhất thời. Như thế, thay vì đọa xuống
cảnh giới xấu khi
chấm dứt kiếp này, họ lại rất có thể
tái sinh vào một
cảnh giới tốt đẹp.
Trường hợp ngược lại cũng từng xảy ra. Có người suốt cả
một đời đã
nỗ lực hết sức để sống một cuộc sống hiền thiện, tạo rất nhiều nghiệp tốt. Thế nhưng ngay trước khi chết, vì
lý do này hay
lý do khác lại phát sinh những tâm như
bực bội,
chấp thủ hay
ganh tỵ v.v... Không may là những tâm này lại làm cho một hay nhiều nghiệp xấu trong tâm họ
thành thục, và kết quả là thay vì được
tái sinh trong
cảnh giới tốt đẹp họ lại bị đẩy xuống
cảnh giới xấu.
Có người có thể
kinh ngạc hay bất bình, do đó bèn
nghi ngờ luật nhân quả và kêu lên rằng: “Thế thì
luật nhân quả đâu phải lúc nào cũng đúng!
Phải chăng nó cũng có chỗ sơ hở!”
Không, không phải thế.
Luật nhân quả rất
triệt để, không hề có chỗ
sai lầm hay ngoại lệ. Các
trường hợp đề cập trên chỉ minh họa cái
tác dụng xê xích,
dời lại trong
thời gian. Tất cả các nghiệp tích tập –
dĩ nhiên trừ khi đã được tịnh hóa trước đó – đều đưa đến một
quả báo, nhưng không
nhất thiết là phải
ngay lập tức.
Thật sự ra, trong
trường hợp người xấu đã tích tập một số lượng
ác nghiệp khổng lồ trong kiếp này nhưng
cuối cùng trụ được trong một
trạng thái tâm thức tốt ngay trước khi tắt thở, thì
quả báo họ
đạt được không đến từ các
nghiệp lực gần đây – tức là
ác nghiệp, mà từ những
nghiệp lực xa xưa hơn, những
công đức mà họ tích tập được trong những
kiếp trước. Có phải vì thế mà họ
vĩnh viễn tránh được những
quả báo xấu của các nghiệp đã tạo trong kiếp này? Không, không bao giờ. Các quả xấu này chỉ bị
hoãn lại. Trừ khi nào từ nay đến lúc nhận lãnh
quả báo họ biết vận dụng những
phương tiện thích hợp để hóa giải chúng, bằng không thì bất cứ giá nào họ cũng phải
lãnh thọ những
quả báo ấy. Trong một kiếp tương lai, dẫu cho có một hay nhiều kiếp
tái sanh tốt
xen vào trước đó, họ vẫn sẽ phải chịu những
quả báo khổ đau của những
nghiệp ác mà họ đã tạo trong kiếp này. Đó là một
định luật không thể lay chuyển.
Hãy lấy
giả thuyết có một người sống rất tệ hại trong kiếp này, nhưng
kiếp sau lại sinh ra làm người, vì trước khi chết họ đã có những
tư tưởng hướng thiện. Trong
kiếp người mới này, có thể họ
ý thức được và đã
sám hối tội lỗi bằng cách dùng đến bốn lực để tịnh hóa những
ác nghiệp mà họ đã tích tập từ trước. Nếu người này
hành trì miên
mật pháp môn nói trên
cho đến khi
giải thoát ra khỏi
thế giới Ta-bà thì
đồng thời họ cũng sẽ
vĩnh viễn tránh được những
quả báo của các
ác nghiệp xưa kia mà
đáng lẽ họ phải chịu.
Điều này
phải chăng có nghĩa là
luật nhân quả có chỗ sơ hở và không luôn luôn hiệu nghiệm?
Sự thật không phải thế.
Luật nhân quả rất máy móc nên không bao giờ sai lệch. Trong
trường hợp kể trên,
luật nhân quả cũng đã được
áp dụng: Đó là vì người ấy đã ra tay hành động, và đã dùng những kỹ thuật tịnh hóa nên mới
đình chỉ được sự
thành thục của các
ác nghiệp lúc trước. Những nghiệp xấu kia không hề tự biến mất một cách không ai biết tại sao và cách nào. Ngược lại, những cơ cấu đưa đến sự hóa giải của chúng có thể được phân tích một cách dễ dàng.