KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI HAI
PHẨM CHÚC LỤY
THỨ SÁU MƯƠI SÁU
Khi đó
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi nói như vậy, đáp như vậy, có phải là
thuận theo pháp mà chẳng là chánh đáp chăng?”.
Đức Phật phán dạy: “Này Kiều Thi Ca! Lời đáp của ngươi thiệt đều
thuận theo pháp cả”.
- Bạch đức Thế Tôn! Thiệt là hi hữu! Chỗ nói của Ngài
Tu Bồ Đề đều là không, là
vô tướng, là
vô tác, là
tứ niệm xứ nhẫn đến là
Vô Thượng Bồ Đề.
- Này Kiều Thi Ca!
Tỳ Kheo Tu Bồ Đề lúc
hành không,
Đàn ba la mật còn là
bất khả đắc huống là người hành
Đàn ba la mật. Nhẫn đến
Bát nhã ba la mật còn
bất khả đắc, huống là người
hành Bát nhã
ba la mật.
Tứ niệm xứ còn
bất khả đắc, huống là người tu
tứ niệm xứ. Nhẫn đến
bát thánh đạo.Thiền,
giải thoát,
tam muội định còn
bất khả đắc, huống là người phát sanh
tứ vô ngại trí.
Đại từ đại bi còn
bất khả đắc, huống là người hành
đại từ đại bi. Mười
tám pháp bất cộng còn
bất khả đắc, huống là người hay sanh mười
tám pháp bất cộng.
Vô Thượng Bồ Đề còn
khả đắc, huống là người được
Vô Thượng Bồ Đề.
Nhứt thiết trí còn
bất khả đắc, huống là người được
nhứt thiết trí.
Như Lai còn
bất khả đắc, huống là người sẽ làm
Như Lai. Pháp
vô sanh còn
bất khả đắc, huống là người chứng được pháp
vô sanh. Ba mươi hai tướng còn
bất khả đắc, huống là người được ba mươi hai tướng.
Tám mươi tùy hình hảo còn
bất khả đắc, huống là người được
tám mươi tùy hình hảo.
Tại sao vậy? Này Kiều Thi Ca! Vì
Tỳ Kheo Tu Bồ Đề ở nơi tất cả pháp: hành ly, hành
vô sở đắc,
hành không, hành
vô tướng, hành
vô tác.
Này Kiều Thi Ca! Đem chỗ sở hành của
Tỳ Kheo Tu Bồ Đề đây muốn
so sánh với hạnh
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần ngàn muôn ức, nhẫn đến toán số
thí dụ cũng không bằng được.
Tại sao vậy? Vì trừ
công hạnh của Phật, đối với
công hạnh của
Thanh Văn và
Bích Chi Phật, thì
công hạnh Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát là tối tôn,
tối thượng, tối diệu. Thế nên
đại Bồ Tát muốn được
tối thượng ở trong tất cả
chúng sanh thì phải
hành Bát nhã
ba la.
Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát vượt trên bực
Thanh Văn và
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát, hay đầy đủ
Phật pháp, được nhứt thiết
chủng trí, dứt tất cả
tập khí phiền não mà làm Phật”.
Bấy giờ trong
đại hội,
chư Thiên Đao Lợi đem
hoa mạn đà la cõi trời rãi trên
đức Phật và
chư Tăng.
Khi đó, tám trăm vị
Tỳ Kheo đứng dậy rải hoa cúng Phật, trịch y quỳ gối
chắp tay bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi sẽ thật hành
công hạnh vô thượng mà hành
Thanh Văn và
Bích Chi Phật không thể thật hành này”.
Đức Phật biết
tâm niệm của các vị
Tỳ Kheo nên
mỉm cười.
Như pháp của Chư Phật, những ánh sáng nhiều màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía từ miệng
đức Phật phóng ra chiếu khắp cõi
Đại Thiên, nhiễu quanh
đức Phật ba vòng rồi rót vào đảnh
đức Phật.
Ngài
A Nan liền
đứng dậy trịch y quỳ gối
chắp tay bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Duyên cớ gì mà
đức Phật mỉm cười? Chư Phật không bao giờ không
nhơn duyên mà cười”.
Đức Phật phán dạy: “Này A Nan! Tám trăm vị
Tỳ Kheo đây, trong kiếp
Tinh Tú sẽ
thành Phật đồng hiệu là
Tán Hoa,
đại chúng,
quốc độ và
thọ mạng cũng đều đồng. Mỗi vị đều qua tám muôn tuổi đi
xuất gia làm Phật.
Thời kỳ đó, các
quốc độ của chư Phật ấy thường mưa hoa trời năm màu.
Thế nên, này A Nan!
Đại Bồ Tát muốn thật hành
công hạnh tối thượng thì phải
hành Bát nhã
ba la mật.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nào có thể thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa này thì phải biết đó là
Bồ Tát bỏ thân trong
loài người mà sanh đến trong đây, hoặc từ trên
cung trời Đâu Suất chết mà đến sanh nơi đây, đã từ trong
loài người hoặc trên
cung trời Đâu Suất rộng nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa này.
Này A Nan! Ta thấy
chư đại Bồ Tát hay thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa này.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nào nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa này rồi
thọ trì,
đọc tụng, thân cận, chánh
ức niệm, lại đem dạy cho người
hành đạo Bồ Tát, phải biết
thiện nam,
thiện nữ đó
hiện diện từ chư Phật, nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa rồi
thọ trì,
đọc tụng, thân cận, cũng đã trồng căn lành từ chỗ chư Phật.
Thiện nam,
thiện nữ đó nên nghĩ rằng: Tôi trồng căn lành chẳng phải từ chỗ
Thanh Văn, cũng chẳng phải từ chỗ
Thanh Văn nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nào
thọ trì,
đọc tụng, thân cận,
tùy nghĩa,
tùy pháp thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa này, phải biết đó là người
hiện diện thấy Phật.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa này mà
lòng tin thanh tịnh không bị ngăn phá, phải biết đó là người đã từng
cúng dường Phật trồng căn lành, cùng
thiện tri thức tương đắc.
Này A Nan! Người ở chỗ
phước điền chư Phật trồng căn lành dầu rằng chẳng dối hư nhưng cần được
Thanh Văn,
Bích Chi Phật và Phật mà
được giải thoát. Phải rành rẽ thấu đáo thật hành
sáu ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí. Không bao giờ có sự người này được
Vô Thượng Bồ Đề mà trụ bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Này A Nan! Thế nên ta đem
Bát nhã ba la mật chúc lụy cho ngươi.
Này A Nan! Nếu người
thọ trì tất cả pháp, trừ
Bát nhã ba la mật, nếu quên mất thì lỗi còn ít chẳng thành
đại tội. Người
thọ trì Bát nhã ba la mật sâu xa nếu quên mất thì tội rất nhiều. Thế nên ta đem
Bát nhã ba la mật sâu xa này
chúc lụy cho ngươi. Ngươi phải khéo
thọ trì,
đọc tụng thông thuộc.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nào
thọ trì Bát nhã ba la mật, đó là
thọ trì Vô Thượng Bồ Đề của
tam thế chư Phật:
quá khứ,
vị lai và
hiện tại.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nào
hiện tại cúng dường ta với những hoa hương,
chuỗi ngọc,
y phục, phan lọng và khung kính,
tôn trọng,
ca ngợi, thì phải
thọ trì Bát nhã ba la mật và
đọc tụng,
giảng thuyết, thân cận,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi,
cúng dường hoa hương,
chuỗi ngọc, phan lọng.
Này A Nan!
Cúng dường Bát nhã ba la mật là
cúng dường ta, cũng là đã
cúng dường tam thế chư Phật rồi.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ nào nghe nói
Bát nhã ba la mật mà
lòng tin thanh tịnh cung kính mến thích, đó là đã có lòng tinh
thanh tịnh,
cung kính mến thích
tam thế chư Phật.
Này A Nan! Người mến thích chẳng lìa Phật thì phải mến thích chẳng lìa
Bát nhã ba la mật nhẫn đến một câu chớ để quên mất.
Này A Nan! Ta nói
nhơn duyên chúc lụy rất nhiều, nay ta chỉ nói tóm lược:
Như ta là
Thế Tôn thì
Bát nhã ba la mật cũng là
Thế Tôn. Thế nên vì nhiều
nhơn duyên, ta đem
Bát nhã ba la mật chúc lụy cho ngươi.
Này A Nan! Nay ta ở giữa tất cả
thế gian, Trời, Người,
A tu la chúc lụy ngươi: những ai muốn bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, chẳng bỏ
Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại thì
cẩn thận chớ bỏ
Bát nhã ba la mật.
Này A Nan! Đây chánh là pháp mà ta
dạy bảo hàng
đệ tử.
Này A Nan! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật sâu xa,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm, rồi lại vì người khác nói rộng những
ý nghĩa của
Bát nhã ba la mật đó, chỉ dạy tuyên nói rành rẽ làm cho
dễ hiểu. Người này ma được
Vô Thượng Bồ Đề, mau gần nhứt thiết
chủng trí. Vì trong
Bát nhã ba la mật hay sanh
Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật.
Này A Nan!
Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật
quá khứ và
vị lai đều xuất sanh từ
Bát nhã ba la mật.
Vô Thượng Bồ Đề của
mười phương chư Phật hiên nay cũng xuất sanh từ
Bát nhã ba la mật.
Thế nên
đại Bồ Tát muốn được
Vô Thượng Bồ Đề phải nên học
sáu ba la mật. Vì
sáu ba la mật là mẹ của
Bồ Tát, hay sanh ra chư
Bồ Tát.
Này A Nan! Nếu có
đại Bồ Tát học
sáu ba la mật này thì đều sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế ma ta đem
sáu ba la mật chúc lụy cho ngươi lần nữa.
Này A Nan! Sáu
Bát nhã ba la mật đây là tạng pháp
vô tận của chư Phật:
Chư
Phật hiện tại
thuyết pháp ở
mười phương đều ra từ trong tạng pháp
sáu ba la mật.
Chư Phật
quá khứ cũng từ trong
sáu ba la mật mà học được
Vô Thượng Bồ Đề.
Chư
Phật vị lai sẽ từ trong
sáu ba la mật mà học được
Vô Thượng Bồ Đề.
Hàng
đệ tử của
tam thế chư Phật đều từ trong
sáu ba la mật mà học được
diệt độ: hoặc đã
diệt độ, hoặc đương
diệt độ, hoặc sẽ được
diệt độ.
Này A Nan! Người và hàng
Thanh Văn mà
thuyết pháp, làm cho
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên đều chứng được quả
A La Hán, vẫn chưa phải là sự việc của
đệ tử Phật. Nếu người đem một câu đúng với
Bát nhã ba la mật dạy cho
đại Bồ Tát mới phải là sự việc của
đệ tử Phật. Ta cũng rất
vui mừng hơn là người dạy cho
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên đều chứng được quả
A La Hán.
Lại này A Nan!
Chúng sanh trong cõi
Đại Thiên đây, không trước không sau,
đồng thời đều chứng được quả
A La Hán. Chư
A La Hán này thật hành
công đức bố trí,
trì giới,
thiền định.
Công đức đó có nhiều chăng?”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Công đức đó rất nhiều.
- Vẫn chẳng bằng
đệ tử của ta đem pháp đúng với
Bát nhã ba la mật nói cho
đại Bồ Tát nhẫn đến chừng một ngày.
Phước đức người này rất nhiều.
Chẳng những một ngày, chỉ chừng nửa ngày, chỉ chừng khoảng
bữa ăn, hoặc chỉ nói pháp đó trong giây phút,
phước đức cũng rất nhiều. Vì căn lành của
đại Bồ Tát hơn tất cả
Thanh Văn và
Bích Chi Phật.
Đại Bồ Tát tự mình muốn được
Vô Thượng Bồ Đề cũng
dạy bảo người khác cho học được
Vô Thượng Bồ Đề.
Này A Nan!
Bồ Tát như vậy hành
sáu ba la mật, hành
tứ niệm xứ nhẫn đến hành nhứt thiết
chủng trí, thêm lớn căn lành mà chẳng được
Vô Thượng Bồ Đề thì không bao giờ có”.
Lúc nói
Bát nhã ba la mật như vậy,
đức Phật ở giữa
tứ chúng Trời, Người,
Quỷ thần,
Bát bộ mà hiện
thần thông biến hóa. Tất cả
đại chúng đều thấy
đức Phật A Súc đương
thuyết pháp cho chư
Tỳ Kheo Tăng.
Chư Tăng này đông nhiều như nước biển cả, đều là bực
A La Hán sạch hết
phiền não, đều được
tự tại giải thoát:
tâm giải thoát và
huệ giải thoát, tâm đều hòa nhu thuận như đại tượng, chỗ làm đã xong, đã được
tự lợi, hết
kiết sử, được
chánh trí giải thoát, trong tất cả tâm và
tâm sở đều được
tự tại. Cũng thấy
chư đại Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức.
Bấy giờ
đức Phật nhiếp
thần túc,
đại chúng không còn thấy
đức Phật A Súc và
đại hội Thanh Văn Bồ Tát cùng nước Diệu Hỷ đối
trước mắt nữa.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Này A Nan! Tất cả pháp chẳng
đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.
Như cõi nước Phật
A Súc và
Thanh Văn Bồ Tát chẳng
đối lập trước mắt, các pháp cũng chẳng
đối lập trước mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau. Vì các
pháp không thấy, không biết, không tác, không động, chẳng nắm lấy được, chẳng nghĩ bàn được.
Như huyễn nhơn không
lãnh thọ, không
cảm giác, không chơn thiệt.
Đại Bồ Tát hành như vậy là
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp.
Này A Nan!
Đại Bồ Tát học như vậy gọi là học
Bát nhã ba la mật.
Người muốn được các
ba la mật phải học
Bát nhã ba la mật.
Học như vậy gọi là
đệ nhứt học, là
tối thượng học, là
vi diệu học.
Học như vậy là
an lạc lợi ích tất cả
thế gian: kẻ không được
cứu hộ thì làm người
cứu hộ họ.
Học như vậy là chỗ học của chư Phật. Chư Phật an trụ trong sự học đó có thể dùng tay hữu cất cõi
Đại Thiên lên rồi đặt lại chỗ cũ mà
chúng sanh trong đó vẫn không hay biết.
Tại sao vậy? Này A Nan! Chư
Phật học Bát nhã ba la mật này, được
tri kiến vô ngại đối với tất cả pháp
quá khứ,
vị lai và
hiện tại.
Này A Nan! Trong các sự học,
Bát nhã ba la mật là tối tôn
đệ nhứt vi diệu vô thượng.
Này A Nan! Có người nào muốn được ngằn mé của
Bát nhã ba la mật, đó là muốn được bờ mé của
hư không.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật là
vô lượng. Ta chẳng bao giờ nói lượng của
Bát nhã ba la mật. Những danh từ, những câu, những chữ là
hữu lượng.
Bát nhã ba la mật là vô lượng”.
- Bạch đức Thế Tôn! Tại sao
Bát nhã ba la mật là vô lượng?
- Này A Nan! Vì
Bát nhã ba la mật vô tận nên
vô lượng. Vì
Bát nhã ba la mật ly nên
vô lượng.
Này A Nan! Chư Phật
quá khứ học
Bát nhã ba la mật này mà
đắc độ nên là
vô tận. Chư
Phật vị lai học
Bát nhã ba la mật này mà
đắc độ nên là
vô tận. Chư Phật hiên tại
mười phương học
Bát nhã ba la mật này mà
đắc độ nên là
vô tận, đã, đương và sẽ
vô tận.
Người nào muốn
cùng tận Bát nhã ba la mật này, đó là kẻ muốn
cùng tận hư không.
Bát nhã ba la mật chẳng
cùng tận: đã, sẽ và đương chẳng
cùng tận.
Năm
ba la mật: Thiền đến
Thí ba la mật cũng chẳng
cùng tận: đã, sẽ và đương chẳng
cùng tận.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Tại sao vậy? Vì tất cả pháp đó đều
vô sanh. Nếu các pháp đó đã
vô sanh thì làm so có tận”.
Khi đó
đức Phật hiện tướng lưỡi che trùm cả mặt mà bảo Ngài
A Nan rằng: “Từ ngày nay ở giữa
bốn bộ chúng giảng dạy
rộng rãi rành rẽ
Bát nhã ba la mật, phải cho
rõ ràng dễ hiểu.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật sâu xa này nói rộng các
pháp tướng. Trong
đại chúng đây, người cầu
Thanh Văn cầu
Bích Chi Phật, cầu
Phật đạo đều phải học trong này. Học xong thì đều được
thành tựu cả.
Này A Nan!
Bát nhã ba la mật này là tất cả
tự môn. Hành nơi đây có thể vào môn
đà la ni.
Bồ Tát học môn
đà la ni này thì được tất cả
biện tài vô ngại.
Này A Nan!
Bát nhã ba la mật là
diệu pháp của tất cả
tam thế chư Phật.
Vì thế nên ta vì ngươi mà giảng dạy rành rẽ.
Nếu có người nào
thọ trì,
đọc tụng, thân cận
Bát nhã sâu xa thì có thể
thọ trì Vô Thượng Bồ Đề của
tam thế chư Phật.
Này A Nan! Ta nói
Bát nhã ba la mật là đôn chưn của
hành giả. Ngươi
thọ trì Bát nhã ba la mật này thì có thể
thọ trì tất cả pháp, vì ngươi được
đà la ni vậy”.
PHẨM BẤT KHẢ TẬN
THỨ SÁU MƯƠI BẢY
Khi đó Ngài
Tu Bồ Đề nghĩ rằng:
Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật rất
sâu xa, tôi phải hỏi
đức Phật.
Suy nghĩ xong, Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật này bất khả tận. Như
đức Phật dạy vì
hư không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật bất khả tận.
Bạch đức Thế Tôn! Tại so phải
sanh khởi Bát nhã ba la mật?”.
Đức Phật phán dạy: “Này Tu Bồ Đề! Vì sắc bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì thọ, tưởng, hành, thức bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
đàn na ba la mật bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
thi la ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tấn
ba la mật,
Thiền ba la mật,
Bát nhã ba la mật bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh.
Lại này Tu Bồ Đề! Vì
vô minh không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật của
Bồ Tát phải sanh. Vì
hành không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì thức không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
danh sắc không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
lục nhập không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
lục xúc không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì thọ không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì ái không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì thủ không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
hữu không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật phải sanh. Vì
sanh không bất khả tận nên
Bát nhã ba la mật của
Bồ Tát phải sanh.
Như vậy,
Bát nhã ba la mật của
Bồ Tát phải sanh.
Mười hai
nhơn duyên như vậy là pháp riêng của
Bồ Tát, hay trừ được các biên chấp
điên đảo.
Lúc ngồi
đạo tràng nên quán như vậy sẽ được nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Nếu có
đại Bồ Tát nào đem pháp
hư không bất khả tận mà
hành Bát nhã
ba la mật, quán mười hai
nhơn duyên, thì chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, được an trụ
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Người
cầu đạo Bồ Tát mà
thối chuyển, đó là vì xa rời
tâm niệm Bát nhã ba la mật vậy.
Người đó chẳng biết
hành Bát nhã
ba la mật dùng pháp
hư không bất khả tận như thế nào để quán mười hai
nhơn duyên.
Này Tu Bồ Đề! Vì người
cầu đạo Bồ Tát mà chẳng được sức
phương tiện như vậy nên
thối chuyển nới
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát được
không thối chuyển nơi
Vô Thượng Bồ Đề, đều do được sức
phương tiện như vậy cả.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải dùng pháp
hư không bất khả tận để quán
Bát nhã ba la mật. Phải dùng pháp
hư không bất khả tận để
sanh khởi Bát nhã ba la mật.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc quán mười hai
nhơn duyên, chẳng thấy có pháp nào không do
nhơn duyên mà sanh, chẳng thấy có pháp nào thường còn chẳng diệt, chẳng thấy có pháp nào có ngã, có nhơn, có
thọ giả, mạng giả,
chúng sanh nhẫn đến
tri giả,
kiến giả, chẳng thấy có pháp
vô thường, chẳng thấy pháp khổ,
vô ngã, chẳng thấy
pháp tịch diệt và phi
tịch diệt.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật phải quán mười hai
nhơn duyên như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát có thể
hành Bát nhã
ba la mật như vậy, thì lúc đó chẳng thấy sắc là
thường hay vô thường, là khổ hay lạc, là ngã hay
vô ngã, là
tịch diệt hay phi
tịch diệt.
Như với sắc, với thọ,, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Lúc đó
đại Bồ Tát cũng chẳng thấy
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy dùng pháp ấy để thấy
Bát nhã ba la mật. Nhẫn đến chẳng thấy
Vô Thượng Bồ Đề, cũng chẳng thấy dùng pháp ấy dùng pháp ấy để thấy
Vô Thượng Bồ Đề. Vì tất cả pháp đều
bất khả đắc vậy. Đó là đúng với hạnh
Bát nhã ba la mật.
Nếu lúc
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật vô sở đắc, thì
ác ma sầu khổ như bị tên xoi tim, như người có
cha mẹ mới chết mất”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chỉ một
ác ma sầu khổ, hay là
ác ma trong cõi
Đại Thiên cũng đều sầu khổ?”.
- Này Tu Bồ Đề! Các
ác ma trong cõi
Đại Thiên đều
sầu khổ như tên xoi tim, không thể tự an.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có thể
hành Bát nhã
ba la mật như vậy, lúc đó tất cả
thế gian, Trời, Người,
A tu la chẳng thể nào hại được.
Thế nên
đại Bồ Tát muốn được
Vô Thượng Bồ Đề phải
hành Bát nhã
ba la mật này.
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật thì
trọn vẹn tu Thí, Giới, Nhẫn, Tất, Thiền và
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật thì đầy đủ các
ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật, thế nào đầy đủ các
ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có
bố thí bao nhiêu đều
hồi hướng nhứt thiết trí, thế nên lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
Bố thí ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có
trì giới đều
hồi hướng nhứt thiết trí, thế nên lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
trì giới ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có
nhẫn nhục bao nhiêu đều
hồi hướng nhứt thiết trí, thế nên lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
Nhẫn nhục ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có
tinh tấn bao nhiêu đều
hồi hướng nhứt thiết trí, thế nên lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
Tinh tấn ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có
thiền định bao nhiêu đều
hồi hướng nhứt thiết trí, thế nên lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
Thiền ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có
trí huệ bao nhiêu đều
hồi hướng nhứt thiết trí, thế nên lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật thì đầy đủ sáu
ba la mật”.
PHẨM LỤC ĐỘ TƯƠNG NHIẾP
THỨ SÁU MƯƠI TÁM
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Trì giới ba la mật?”.
Đức Phật phán dạy: “Này Tu Bồ Đề! Lúc
bố thí,
đại Bồ Tát đem sự
bố thí đó
hồi hướng nhứt thiết trí, ở trong tất cả
chúng sanh, thân, khẩu, ý an trụ nơi đức từ. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Trì giới ba la mật”.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Nhẫn nhục ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
đại Bồ Tát bố thí, kẻ
lãnh thọ giận mắng
Bồ Tát,
Bồ Tát nhịn nhục chẳng sanh lòng phiền giận. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Nhẫn nhục ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Tinh tấn ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
đại Bồ Tát bố thí, kẻ
lãnh thọ giận mắng,
Bồ Tát bố thí thêm và nghĩ rằng tôi phải
bố thí chẳng nên có lòng
hối tiếc, liền lúc đó phát sanh hai
tinh tấn: thân
tinh tấn và tâm
tinh tấn. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Tinh tấn ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Thiền na ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
bố thí,
Bồ Tát hồi hướng nhứt thiết trí, chẳng mong bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, chỉ
nhứt tâm nghĩ đến
nhứt thiết trí. Đây là
Đại Bồ Tát an trụ
bố thí ba la mật mà nắm lấy
Thiền na ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Bát nhã ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
bố thí,
đại Bồ Tát biết
bố thí là không hư
huyễn ảo, chẳng thấy vì
chúng sanh bố thí có ích hay
vô ích. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật mà nắm lấy
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an
trụ Trì giới ba la mật, thân, khẩu, ý
ba nghiệp phát sanh
phước đức bố thí giúp nên
Vô Thượng Bồ Đề, giữ lấy
công đức này, chẳng lấy bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, an trụ trong
Trì giới ba la mật, chẳng biết đoạt mạng sống kẻ khác, chẳng biết trộm
của cải tài vật kẻ khác, chẳng làm
tà dâm, chẳng
vọng ngôn, chẳng
lưỡng thiệt, chẳng
ác khẩu, chẳng
ỷ ngữ, chẳng
tham lam bỏn sẻn, chẳng giận giữ
ganh ghét, chẳng
tà kiến, thật hành
bố thí: kẻ đói cho ăn, kẻ khát cho uống, cần xe cho xe, cần áo cho áo, cần
chuỗi ngọc cho
chuỗi ngọc, cần
hương hoa cho
hương hoa, cần giường nệm, phòng nhà, đèn đuốc, tất cả đồ tư sanh đều
cung cấp cho cả, đem sự
bố thí đó
cùng chung với
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề,
hồi hướng như
vậy thì chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là
đại Bồ Tát an
trụ Trì giới ba la mật mà nắm lấy
Bố thí ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
Thi ba la mật, nếu có ai đến làm
rã rời thân thể, lúc đó
Bồ Tát chẳng sanh một niệm giận thù mà nghĩ rằng: Tôi được sự
lợi ích rất lớn, họ đến làm
thân thể tôi
rời rã, tôi không có một niệm
hận thù. Đây là
đại Bồ Tát an
trụ Trì giới ba la mật mà nắm lấy
Nhẫn nhục ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thân
tinh tấn và tâm
tinh tấn thường chẳng
lìa bỏ, nghĩ rằng: Tất cả
chúng sanh ở trong biển
sanh tử, tôi phải cứu vớt đặt họ trên bờ
cam lồ. Đây là
đại Bồ Tát an
trụ Trì giới ba la mật mà nắm lấy
Tinh tấn ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nhập
sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền, chẳng tham bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, nghĩ rằng: Tôi phải an trụ trong
Thiền na ba la mật để độ tất cả
chúng sanh trong
sanh tử. Đây là
đại Bồ Tát an
trụ trì giới ba la mật mà nắm lấy
Thiền na ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an
trụ Trì giới ba la mật không có pháp nào thấy được: hoặc pháp tác, pháp
vô tác,
pháp số,
pháp tướng, hoặc hữu hoặc vô, chỉ thấy tất cả đều chẳng ngoài tướng như, do sức
phương tiện Bát nhã ba la mật nên chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là
Đại Bồ Tát an
trụ Trì giới ba la mật mà nắm lấy
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục ba la mật mà nắm lấy năm
ba la mật kia?
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng,
trong khoảng thời gian đó, nếu có
chúng sanh nào đến giận mắng, hoặc chặt đức
thân thể,
Bồ Tát an trụ
nhẫn nhục nghĩ rằng: Tôi phải
bố thí tất cả
chúng sanh, chẳng nên chẳng cho,
chúng sanh cần
ăn uống, cho
ăn uống, nhẫn đến tất cả đồ tư sanh
nếu cần tôi đều cho họ tất cả, đem
công đức đó
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Lúc
Bồ Tát hồi hướng chẳng sanh hai
tâm niệm: ai
hồi hướng và
hồi hướng chỗ nào. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
nhẫn nhục ba la mật mà nắm lấy
Bố thí ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng,
trong khoảng thời gian đó trọn chẳng giết hại, trộm cướp,
tà dâm nhẫn đến chẳng
tà kiến, cũng chẳng tham bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đem
công đức đó
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Lúc
hồi hướng,
Bồ Tát chẳng sanh ba
tâm niệm: ai
hồi hướng, dùng pháp gì để
hồi hướng và
hồi hướng chỗ nào. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục ba la mật mà nắm lấy
trì giới ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục ba la mật, phát sinh
Tinh tấn nghĩ rằng: Tôi sẽ qua một
do tuần, hoặc mười trăm ngàn muôn ức
do tuần, tôi sẽ qua
một thế giới nhẫn đến qua trăm ngàn muôn ức
thế giới hoặc chỉ để khuyên dạy một người trì
ngũ giới thôi, huống là làm cho họ được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán,
Bích Chi Phật hay quả Phật. Đem
công đức đó
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục ba la mật mà nắm lấy
Tinh tấn ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục ba la mật, lìa dục, lìa ác, những pháp
bất thiện, có giác, có quán,
ly sanh hỉ lạp nhập
sơ thiền, nhẫn đến xả niệm
thanh tịnh nhập tứ
tứ thiền, trong các thiền ấy
tâm tâm sở thanh tịnh đều
hồi hướng nhứt thiết trí. Lúc
hồi hướng,
Bồ Tát này ở nơi thiền và
thiền chi đều
bất khả đắc. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
nhẫn nhục ba la mật mà nắm lấy
Thiền na ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
nhẫn nhục ba la mật, quán các pháp hoặc tướng ly, tướng
tịch diệt, tướng
vô tận, chẳng chứng lấy tướng
tịch diệt, nhẫn đến ngồi
đạo tràng được nhứt thiết
chủng trí, rời
đạo tràng để
chuyển pháp luân. Đây là
đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục ba la mật mà nắm lấy
Bát nhã ba la mật, vì là chẳng
lấy bỏ vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật mà nắm lấy
ba la mật kia?
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
tinh tấn ba la mật,
thân tâm tinh tấn chẳng lười chẳng nghỉ, tự nghĩ rằng: Tôi quyết chắc sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải không được.
Vì lợi ích cho
chúng sanh mà
Bồ Tát này đến một
do tuần hoặc đến trăm ngàn muôn ức
do tuần, hoặc qua
một thế giới hoặc qua trăm ngàn muôn ức
thế giới, hoặc chẳng dạy được một người vào trong
Phật đạo,
Thanh Văn đạo, hoặc chỉ dạy được một người hành mười
nghiệp đạo lành,
tinh tấn chẳng biếng trễ, làm
pháp thí và
tài thí cho họ được đầy đủ. Đem
công đức này
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng
hồi hướng bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là
Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật mà nắm lấy
Bố thí ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng, tự mình chẳng
sát sanh, chẳng bảo người
sát sanh,
hoan hỷ khen ngợi người chẳng
sát sanh, nhẫn đến tự mình xa rời
tà kiến, bảo người xa rời
tà kiến,
hoan hỷ khen ngợi người chẳng
tà kiến.
Bồ Tát này an
trụ Trì giới ba la mật, chẳng cầu phước cõi Dục, cõi Sắc, cõi
Vô sắc, chẳng cầu bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đem
công đức này
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề,
Bồ Tát chẳng sanh ba
tâm niệm: chẳng thấy người
hồi hướng, chẳng thấy pháp
hồi hướng và chẳng thấy chỗ
hồi hướng. Đây là
Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật mà nắm lấy
trì giới ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng,
trong khoảng thời gian đó hoặc có Người hay
Phi Nhơn đến chặt đứt
rời rã thân thể,
Bồ Tát suy nghĩ: Ai chém tôi, ai chặt tôi, ai cướp hại tôi.
Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi được
lợi ích lành rất lớn, tôi vì
chúng sanh mà thọ lấy thân này, hôm nay
chúng sanh đến
lấy lại. Khi đó
Bồ Tát chánh
ức niệm thiệt tướng các pháp. Đem
công đức này
cùng chung với
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là
Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật mà nắm lấy
Nhẫn nhục ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật lìa dục ác
bất thiện, có giác, có quán,
ly sanh hỉ lạc nhập
sơ thiền, nhập
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền, nhập từ, bi, hỉ, xả, nhẫn đến nhập
phi tưởng phi phi tưởng xứ định,
thọ trì bốn thiền, bốn
vô lượng tâm và bốn
vô sắc định này, chẳng thọ
quả báo mà thọ sanh nơi
lợi ích chúng sanh để đem
sáu ba la mật thành tựu chúng sanh, đó là
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, từ một
Phật độ này đến một
Phật độ khác,
cúng dường thân cận chư Phật để trồng căn lành. Đây là
Bồ Tát an trụ
tinh tấn ba la mật mà nắm lấy
Thiền na ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Tinh tấn ba la mật, chẳng thấy
pháp Đàn na
ba la mật, nhẫn đến chẳng thấy pháp
Thiền na ba la mật, chẳng thấy tướng
Thiền na ba la mật, chẳng thấy pháp
tứ niệm xứ, chẳng thấy tướng
tứ niệm xứ, nhẫn đến chẳng thấy pháp nhứt thiết
chủng trí, chẳng thấy tướng nhứt thiết
chủng trí. Thấy tất cả pháp:
phi pháp, phi
phi pháp. Đối với tất cả pháp,
Bồ Tát không chấp trước.
Bồ Tát này chỗ làm đúng như chỗ nói. Đây là
Bồ Tát an trụ
tinh tấn ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật mà nắm lấy năm
ba la mật kia?
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật lìa dục, lìa ác
bất thiện, có giác, có quán,
ly sanh hỉ nhập
sơ thiền, nhập
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền, nhập từ, bi, hỉ, xả, nhẫn đến nhập
phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ định, an trụ trong
Thiền na ba la mật, tâm chẳng
loạn động, thật hành tài pháp hai sự
bố thí lợi ích chúng sanh.
Bồ Tát này tự mình hành hai sự
bố thí, dạy người hành
bố thí,
ca ngợi pháp bố thí và
hoan hỉ khen ngợi người hành
bố thí. Đem
công đức này
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là
Bồ Tát an trụ
thiền na ba la mật mà nắm lấy
Đàn na ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật chẳng sanh tâm
dâm dục,
sân khuể,
ngu si, chẳng
não hại người, chỉ
tu hành tâm
tương ưng nhứt thiết trí. Đem
công đức này
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật mà nắm lấy
Trì giới ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật quán sắc như đống bọt, quán thọ như
bong bóng nước,
quán tưởng như
ánh nắng chói,
quán hành như cây chuối, quán thức
như huyễn ảo. Lúc quán như vậy, thấy
năm ấm là
tướng không bền chắc, nghĩ rằng: Chém tôi là ai? Chặt tôi là ai? Ai là thọ, là tưởng, ai là hành, là thức, ai là người mắng, ai là người bị mắng, ai sanh lòng giận. Đây là
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật mà nắm lấy
nhẫn nhục ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật nhập các
thiền định. Các thiền, các định và những tướng
thiền chi đó
sanh khởi những thứ
thần thông: đi trên nước như đất, vào trong đất như nước, có
thiên nhĩ, biết
tâm niệm người khác là loạn hay định, biết những đời trước, có
thiên nhãn. Nương năm
thần thông đó,
Bồ Tát từ một
Phật độ đến một
Phật độ, thân cận
cúng dường chư Phật để trồng căn lành,
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh. Đem
công đức này
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Đây là
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật mà nắm lấy
Tinh tấn ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật chẳng thấy có sắc, chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy có
sáu ba la mật, chẳng thấy có
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng thấy có tánh
hữu vi, tánh
vô vi, vì chẳng thấy có nên chẳng tác, vì chẳng tác nên chẳng sanh, vì chẳng sanh nên chẳng diệt. Tại sao vậy? Vì có Phật hay không Phật vẫn là như:
pháp tướng,
pháp tánh thường trụ, chẳng sanh, chẳng diệt.
Bồ Tát này thường
nhứt tâm đúng nhứt thiết
chủng trí. Đây là
Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật mà nắm lấy năm
ba la mật kia?
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật:
nội không,
nội không bất khả đắc,
ngoại không,
ngoại không bất khả đắc,
nội ngoại không,
nội ngoại không bất khả đắc,
không không,
không không bất khả đắc, nhẫn đến nhứt thiết
pháp không, nhứt thiết
pháp không bất khả đắc.
Bồ Tát an trụ trong mười bốn không đó, chẳng thấy có tướng sắc hoặc không hay chẳng không, chẳng thấy có tướng thọ, tưởng, hành, thức hoặc không hay chẳng không, nhẫn đến chẳng thấy có
Vô Thượng Bồ Đề hoặc không hay chẳng không, chẳng thấy có tánh
hữu vi, tánh
vô vi hoặc không hay chẳng không.
Bồ Tát này an trụ trong
Bát nhã ba la mật như vậy có
bố thí đều quán
bố thí không. Những gì là không? Người thí, kẻ thọ và tài vật đều không, chẳng cho
tâm niệm bỏn sẻn
tham trước sanh khởi. Tại sao vậy?
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng không có
vọng tưởng phân biệt, như chư Phật lúc được
Vô Thượng Bồ Đề không có tâm
tham trước,
đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật cũng không có tâm
tham trước. Chỗ đáng
tôn trọng nhứt của
Bồ Tát này chính là
Bát nhã ba la mật vậy. Đây là
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật mà nắm lấy
Đàn na ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật chẳng sanh tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Với
Bồ Tát này, bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật bất khả đắc, tâm
xu hướng Thanh Văn,
Bích Chi Phật cũng
bất khả đắc.
Bồ Tát này từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng,
trong khoảng thời gian đó tự mình chẳng
sát sanh, chẳng bảo người
sát sanh,
hoan hỉ khen ngợi người chẳng
sát sanh, nhẫn đến tự mình không
tà kiến, chẳng bảo người
tà kiến,
ca ngợi pháp chẳng
tà kiến,
hoan hỉ khen ngợi người chẳng
tà kiến. Do vì
nhơn duyên trì giới này không có pháp nắm lấy được, hoặc bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật huống là những pháp khác. Đây là
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật nắm lấy
Trì giới ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật phát sanh
tùy thuận pháp nhẫn, nghĩ rằng trong pháp này không có pháp gì hoặc sanh hoặc diệt, hoặc sanh hoặc tử, không có pháp gì hoặc chửi hoặc mắng, hoặc chém hoặc chặt, hoặc trói hoặc đánh, hoặc đạp hoặc giết.
Bồ Tát này từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng, nếu hoặc có tất cả
chúng sanh đến
mắng chửi, dùng dao gậy ngói đá chém chặt
tổn hại,
Bồ Tát chẳng động tâm,
Bồ Tát nghĩ rằng: Rất lạ thay, trong pháp này chẳng có ai bị mắng giết
tổn hại cả mà
chúng sanh lại nhận sự
khổ não này. Đây là
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật nắm lấy
Nhẫn nhục ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật vì
chúng sanh mà
thuyết pháp khiến họ hành
sáu ba la mật, dạy họ tu
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, cho họ được quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán, Bích Chí Phật, cho họ được quả
Vô Thượng Bồ Đề, chẳng an trụ trong tánh
hữu vi, chẳng an trụ trong tánh
vô vi. Đây là
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật mà nắm lấy
Tinh tấn ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật nhập tất cả các
tam muội, ngoại trừ
tam muội của chư Phật, hoặc
tam muội của
Thanh Văn, của
Bích Chi Phật, của
Bồ Tát đều hành, đều nhập cả. Nơi các tâm
tam muội đó,
Bồ Tát nghịch thuận xuất nhập tám bội xả: bội xả thứ nhất là trong có
sắc tướng ngoài quán sắc, bội xả thứ hai là trong
không sắc tướng ngoài quán sắc, bội xả thứ ba là tịnh bội
xả thân tác chứng, bội xả thứ tư là
vượt qua tất cả
sắc tướng, dứt
diệt tướng có
đối đãi, vì chẳng nghĩ nhớ các thứ
sắc tướng nên nhập
hư không vô biên xứ, bội xả thứ năm là
vượt qua tất cả
hư không xứ, nhập
thức vô biên xứ, bội xả thứ sáu là
vượt qua tất cả thức xứ, nhập
vô sở hữu xứ, bội xả thứ bảy là
vượt qua tất cả
vô sở hữu xứ, nhập
phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ, bội xả thứ tám là
vượt qua tất cả
phi tưởng phi phi tưởng xứ,
nhập diệt thọ, tưởng, định. Nơi
chánh định tám thứ bội xả,
Bồ Tát này
nghịch thuận xuất nhập chín
thứ đệ định:
bốn thiền, bốn
định vô sắc và
diệt thọ tưởng định.
Bồ Tát này nói tám bội xả và chín
thứ đệ định mà nhập
sư tử phấn tấn tam muội: nhập
sơ thiền, xuất
sơ thiền, nhập
nhị thiền, nhẫn đến xuất phi
phi tưởng xứ định
nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập phi
phi tưởng xứ
định nhẫn đến xuất
nhị thiền, nhập
sơ thiền.
Bồ Tát này y nơi
sư tử phấn tấn tam muội mà nhập
siêu việt tam muội: nhập
sơ thiền, xuất
sơ thiền nhập
nhị thiền, nhẫn đến xuất phi
phi tưởng xứ
nhập diệt thọ tưởng định, xuất
diệt tận định nhập
sơ thiền, xuất
sơ thiền nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập
nhị thiền, xuất
nhị thiền nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập
tam thiền, xuất
tam thiền nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập
hư không xứ, xuất
hư không xứ
nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập thức xứ, xuất thức, xứ
nhập diệt tận định nhập thức xứ, xuất thức, xứ
nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập
vô sở hữu xứ, xuất
vô sở hửu xứ
nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định nhập phi
phi tưởng xứ, xuất phi
phi tưởng xứ
nhập diệt tận định nhập
tán tâm ra
tán tâm nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định lại nhập
tán tâm, ra
tán tâm nhập phi
phi tưởng xứ, xuất phi
phi tưởng xứ lại vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập vô sỡ hữu xứ, xuất
vô sở hữu xứ vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập thức xứ, xuất thức xứ vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập không xứ, xuất
không xứ vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập
tứ thiền, xuất
tứ thiền vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập
tam thiền, xuất
tam thiền vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập
nhị thiền, xuất
nhị thiền vào
tán tâm, ra
tán tâm nhập
sơ thiền, xuất
sơ thiền vào
tán tâm.
Bồ Tát này ở nơi
siêu việt tam muội chứng được tướng
bình đẳng của tất cả pháp. Đây là
Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật mà nắm lấy
Thiền na ba la mật”.