KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI MỘT
PHẨM XÁ LỢI
THỨ BA MƯƠI BẢY
Đức Phật nói với
Thiên Đế Thích: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu đem
Xá lợi của Phật đầy cả
Diêm Phù Đề làm một phần, lại có người chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật làm một phần. Trong hai phần nầy Ngài lấy phần nào?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi dành lấy quyển
kinh Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Đối với
Xá lợi của
đức Phật, chẳng phải tôi chẳng
cung kính tôn trọng, nhưng vì
Xá lợi nầy xuất sanh từ
Bát nhã ba la mật do
Bát nhã ba la mật huân tu, nên
Xá lợi nầy mới được
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng, tán thán”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi
Thiên Đế: “Bát nhã
ba la mật nầy chẳng thể lấy được, nó
không sắc, không hình, không đối, một tướng
duy nhất, tức là
vô tướng, sao Ngài lại muốn lấy?
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật nầy chẳng do lấy mà có, chẳng do bỏ mà có, chẳng do tăng giảm tụ tán tổn ích cấu tịnh mà có.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho
Phật pháp, chẳng bỏ
phàm phu pháp, cũng chẳng cho
Bích Chi Phật pháp,
A La Hán pháp,
hữu học pháp, chẳng bỏ
phàm phu pháp, chẳng cho tánh
vô vi, chẳng bỏ tánh
hữu vi, chẳng cho
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng cho
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí, cũng chẳng bỏ
phàm phu pháp”.
Thiên Đế nói: “Đúng như vậy, thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Nếu có người biết
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho
Phật pháp cũng chẳng bỏ
phàm phu pháp, nhẫn đền chẳng cho nhứt thiết
chủng trí pháp cũng chẳng bỏ
phàm phu pháp.
Đại Bồ Tát nầy có thể thật
hành Bát nhã
ba la mật, có thể tu
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật chẳng
hiện hành hai pháp vậy. Pháp chẳng hai là
Bát nhã ba la mật. Pháp chẳng hai là
Thiền na đến
Đàn na ba la mật”.
Đức Phật khen: “Lành thay,
lành thay! Nầy Kiếu Thi Ca! Đúng như lời Ngài đã nói. Vì
Bát nhã ba la mật chẳng
hiện hành hai pháp. Pháp chẳng hai là
Bát nhã ba la mật, nhẫn đến là
Đàn na ba la mật.
Nầy Kiếu Thi Ca! Nếu có người muốn được
pháp tánh hai tướng, thời là muốn được
Bát nhã ba la mật hai tướng.
Tại sao vậy? Vì
pháp tánh và
Bát nhã ba la mật không hai không khác, nhẫn đến
Đàn na ba la mật cũng vậy.
Nếu có người muốn được thiệt tế bất tư nghì tánh hai tướng, thời là muốn được
Bát nhã ba la mật hai tướng.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật và thiệt tế bất tư nghì
tánh không hai không khác vậy. Nhẫn đến
Đàn na ba la mật cũng như vậy”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả
thế gian,
loài người cùng
chư thiên,
A tu la đều phải kính lạy,
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì từ trong
Bát nhã ba la mật mà
đại Bồ Tát học được
Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi thường ngồi tại
Thiện Pháp Đường.
Những lúc tôi không ngồi tại
Thiện Pháp Đường, các
Thiên Tử đến
cúng dường tôi, hướng vế phía tòa tôi ngồi
kính lễ đi nhiễu rồi
trở về. Các
Thiên Tử nầy nghĩ rằng vì
Thiên Đế thường ngồi tại tòa nầy
thuyết pháp cho
chư Thiên cõi Trời Đao Lợi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Cũng vậy, chỗ nào biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật nầy, chỗ nào
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy, hàng Trời, Rồng,
Bát bộ đều đến
kính lễ Bát nhã ba la mật,
cúng dường xong rồi đi.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh chư Phật, và xuất sanh tất cả những đồ
cần thiết thích ý của tất cả
chúng sanh.
Xá lợi của Phật cũng là chỗ làm
nhơn duyên cho nhứt thiết
chủng trí.
Do cớ trên đây nên, bạch đức Thế Tôn! Trong hai phần, tôi lấy phần
Bát nhã ba la mật.
Lại kính bạch đức Thế Tôn! Lúc
thọ trì,
đọc tụng Bát nhã ba la mật, nếu tâm tôi nhập vào trong pháp, thời
lúc ấy tôi chẳng thấy tướng bố úy.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật nầy
không tướng mạo, không
ngôn thuyết.
Bạch đức Thế Tôn!
Không tướng mạo, không
ngôn thuyết là
Bát nhã ba la mật, nhẫn đến là nhứt thiết
chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Bát nhã ba la mật sẽ là có tướng mà chẳng phải là
vô tướng, thời chư Phật lẽ ra chẳng nên biết tất cả
pháp không tướng mạo, không
ngôn thuyết mà chứng được
Vô thượng Bồ đề, rồi lại vì hàng
đệ tử giảng nói các pháp cũng
không tướng mạo, không
ngôn thuyết.
Bạch đức Thế Tôn! Bởi
Bát nhã ba la mật đích thiệt là khộng
tướng mạo, không
ngôn thuyết mà chứng được
Vô thượng Bồ đề, rồi vì hàng
đệ tử giảng nói các pháp cũng
không tướng mạo, không
ngôn thuyết.
Bạch đức Thế Tôn! Vì thế nên tất cả
thế gian, loài ngưới,
chư Thiên,
A Tu La đều phải
tôn trọng,
tán thán,
cung kính,
cúng dường Bát nhã ba la mật nầy với những
hương hoa,
anh lạc, nhẫn đến các thứ phan lọng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nào
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, và biên chép,
cúng dường với những hoa hương,
anh lạc, phan lọng, thời chẳng bị sa vào các loài
Địa ngục,
Ngạ quỷ,
Súc sanh, cũng như sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, nhẫn đến khi thành
Vô thượng Bồ đề thường thấy chư Phật, từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường chư Phật.
Bạch đức Thế Tôn!
Xá lợi của Phật đầy cả cõi
Đại thiên đem làm một phần, chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật làm một phần. Trong hai phần nầy, tôi vẫn chọn lấy
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy sanh
Xá lợi của chư Phật. Thế nên
Xá lợi được
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
tán thán.
Thiện nam,
thiện nữ do
cung kính,
cúng dường Xá lợi nên được hưởng phước lạc trên
cõi Trời, trong
loài người, thường chẳng sa vào ba
ác đạo, theo
sở nguyện lần lần do pháp
Tam thừa mà
nhập Niết Bàn.
Vì thế nên, bạch đức Thế Tôn! Nếu người được thấy
hiện tại Phật, nếu được thấy quyển
kinh Bát nhã ba la mật, cũng đồng không khác. Vì
Bát nhã ba la mật với Phật với Phật không hai không khác vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như
đức Phật trụ thế có ba sự
thị hiện, nói
mười hai bộ kinh từ
Tu Đa La đến
Ưu Bà Đề Xá.
Có
thiện nam,
thiện nữ thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy cũng đồng như
đức Phật trụ thế không khác.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh ba sự
thị hiện và
mười hai bộ kinh vậy.
Lại có người
thọ trì Bát nhã ba la mật rồi giảng nói cho người khác, cũng đồng như trên không khác.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh chư Phật, cũng xuất sanh
mười hai bộ kinh từ
Tu Đa La đến
Ưu Bà Đề Xá vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người
cúng dường chư Phật trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, cũng
cung kính,
tôn trọng,
tán thán. Lại có người chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường với những hoa hương, phan lọng. Hai người nầy được phước đồng nhau.
Tại sao vậy? Vì
mười phương chư Phật đều xuất sanh từ trong
Bát nhã ba la mật vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy rồi
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm, cũng giảng nói cho người khác, thời chẳng cón sa vào ba
ác đạo, cũng chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Tại sao vậy? Vì phải biết người nầy đã an trụ trong bực
bất thối chuyển vậy.
Bát nhã ba la mật nầy xa rời tất cả
khổ não suy bịnh.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật nầy vẫn
thọ trì,
đọc tụng,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường, thời rời các sự
khủng bố.
Ví như người
mang nợ mà gần bên
Quốc vương để hầu hạ
cung cấp, thời chủ nợ
trở lại cung kính,
cúng dường người nầy. Người nầy không còn bố úy, vì nương oai lực của
Quốc vương vậy.
Cũng vậy, nhờ sự
huân tu Bát nhã ba la mật mà các
Xá lợi của chư Phật được
cúng dường,
cung kính.
Xá lợi ví như người
mang nợ, còn
Bát nhã ba la mật ví như Quốc vương. Nhờ nương gần
quốc vương mà người
mang nợ được
cúng dường.
Cũng vậy,
Xá lợi nương sự
huân tu của
Bát nhã ba la mật mà được
cúng dường.
Nhứt thiết
chủng trí của chư Phật cũng do
Bát nhã ba la mật huân tu mà được
thành tựu.
Vì những lẽ như trên, nên trong hai phần, tôi lấy phần
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh
Xá lợi và ba mươi hai tướng của chư Phật.
Trong
Bát nhã ba la mật cũng xuất sanh
mười trí lực, bốn
vô úy,
bốn vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi của chư Phật.
Trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh năm
ba la mật, cũng làm cho được
danh tự Ba la mật.
Trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh nhứt thiết
chủng trí của chư Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Trong
đại thiên thế giới, nếu có ai
thọ trì,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán Bát nhã ba la mật, chỗ đó tất cả người hoặc
quỷ thần không làm hại được, người nầy lần lần được
nhập Niết Bàn.
Bát nhã ba la mật có
lợi ích lớn như vậy, có thể
làm Phật sự trong
Đại Thiên thế giới.
Bạch đức Thế Tôn! Chỗ nào có
Bát nhã ba la mật thời chỗ đó chính là có Phật.
Ví như chỗ để
vô giá ma ni bửu châu thời hàng
Phi nhơn không xâm hại được. Nếu có người bị bịnh nhiệt, hay bịnh hàn, bịnh phong, hoặc bị bệnh tạp nhiệt phong hàn, đem bửu châu nầy cho người bịnh đeo, thời liền được
lành mạnh.
Bửu châu nầy lại làm cho
chỗ tối thành sáng, lúc
nóng bức thành
mát mẻ, lúc lạnh lẽo thành ấm áp.
Chỗ nào có bửu châu nầy thời chỗ đó chẳng lạnh, chẳng nóng,
thời tiết hòa thích, cũng không có các loài trùng độc.
Có ai bị
rắn độc cắn, đem bửu châu
đến gần thời nọc được liền tiêu.
Có người nào đau mắt
mù lòa, đem bửu châu
đến gần thời mắt liền
sáng tỏ hết bịnh.
Nếu người bị bịnh phung cùi ghẻ độc, cho đeo bửu châu nầy thời được
lành mạnh.
Để bửu châu nầy trong nước, thời nước liền một màu.
Nếu dùng vật màu xanh gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền màu xanh.
Nếu dùng vật màu vàng, đỏ, trắng, hồng hay màu tạp gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền màu ấy.
Nếu đem bửu châu nầy để vào nước đục, thời nước đục liền trong”.
Ngài
A Nan hỏi
Thiên Đế: “Ma ni bửu châu ấy là vật
trên trời hay là vật nhơn gian?”
Thiên Đế nói: “Là bửu châu
trên trời. Người
Diêm Phù Đề cũng có bửu châu như vậy, nhưng
công lực có chỗ chẳng đầy đủ.
Bửu châu ở
cõi trời thanh tịnh nhẹ nhàng,
tốt đẹp, không thể lấy gì để ví dụ được.
Đem bửu châu nầy đựng vào hộp. Khi đã lấy bửu châu, vì
công đức củ bửu châu huân ướp, nên hộp ấy được người
quý trọng.
Cũng vậy, bạch đức Thế Tôn! Chỗ nào có người biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật, thời chỗ ấy không có những sự
não hại.
Sauk hi
đức Phật nhập Niết Bàn,
Xá lợi được
cúng dường, đều là do lực của
Bát nhã ba la mật,
công lực của
thiền na ba mật,
công lực của
Thiền na ba la mật đến
Đàn na ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng,
nhứt thiết trí,
pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị,
pháp tánh, thiệt tế, bất tư nghì tánh đến nhứt thiết
chủng trí.
Thiện nam,
thiện nữ nghĩ rằng:
Xá lợi của Phật đây là chỗ nhứt thiết
chủng trí đại từ đại bi, là chỗ những
công đức dứt diệt hẳn tất cả
kiết sử và
tập khí, do đây nên
Xá lợi được
cung kính,
cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn!
Xá lợi là trụ xứ của những
công đức bửu
ba la mật, là trụ xứ của bất cấu
bất tịnh ba la mật, là trụ xứ của
bất sanh bất diệt ba la mật, là trụ xứ của bất nhập bất xuất
ba la mật, là trụ xứ của
bất tăng bất giảm ba la mật, là trụ xứ của
bất lai bất khứ bất trụ
ba la mật.
Xá lợi của Phật là trụ xứ của các
pháp tướng ba la mật. Do các
pháp tướng ba la mật huân tu nên
Xá lợi được
kính trọng,
cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng luận
Xá lợi đầy cả
Đại Thiên thế giới.
Giả sử Xá lợi của Phật đầy cả
hằng sa thế giới làm một phần. Lại có người chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật làm một phần. Trong hai phần trên đây, tôi lấy phần
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh
Xá lợi của chư Phật. Do
Bát nhã ba la mật nầy
huân tu nên
Xá lợi được
cúng dường vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
thiện nam,
thiện nữ cúng dường,
cung kính, tông trọng,
tán thán Xá lợi, được
công đức báo
vô biên, hưởng thọ phước lạc nhơn gian và trên
cõi Trời, nhẫn đến do
nhơn duyên phước nầy nên sẽ được
tận khổ.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ thọ trì,
đọc tụng,
giải thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, sẽ được đầy đủ
Thiền na ba la mật đến
Đàn na ba la mật, sẽ được đầy đủ
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà an trụ bực
Bồ Tát.
Đã an trụ bực
Bồ Tát thì được
thần thông Bồ Tát, từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc.
Bồ Tát nầy vì
chúng sanh mà thọ thân. Theo chỗ
chúng sanh đáng được
thành tựu mà
Bồ Tát nầy được làm
Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn để cho
chúng sanh được
thành tựu.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải khinh mạn bất kính mà tôi chẳng lấy
Xá lợi. Vì
thiện nam,
thiện nữ cúng dường Bát nhã ba la mật thời chính là
cúng dường Xá lợi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Có người muốn thấy
pháp thân và
sắc thân của chư
Phật hiện tại trong
vô lượng vô số thế giới ở
mười phương, người nầy phải nghe
Bát nhã ba la mật và
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm, vì người khác
diễn thuyết.
Thiện nam,
thiện nữ nầy sẽ được thấy
pháp thân và
sắc thân của chư
Phật hiện tại trong
vô lượng thế giới mười phương.
Thiện nam,
thiện nữ thật
hành Bát nhã
ba la mật cũng phải dùng
pháp tướng để tu
niệm Phật tam muội.
Thiện nam,
thiện nữ muốn thấy
hiện tại chư
Phật thời phải
thọ trì Bát nhã ba la mật nầy nhẫn đến chánh
ức niệm.
Bạch đức Thế Tôn! Có hai loại
pháp tướng: những
pháp tướng hữu vi và những
pháp tướng vô vi. Thế nào gọi là những
pháp tướng hữu vi? Chính là
trí huệ trong
nội không nhẫn đến
trí huệ trong
vô pháp hữu pháp không,
trí huệ trong
tứ niệm xứ nhẫn đến
trí huệ trong mười
tám pháp bất cộng,
trí huệ trong
pháp thiện, trong pháp
bất thiện,
trí huệ trong
pháp hữu lậu, trong pháp
vô lậu,
trí huệ trong pháp
thế gian, trong pháp
xuất thế gian. Trên đây gọi là những
pháp tướng của
pháp hữu vi.
Thế nào gọi là những
pháp tướng vô vi? Chính là
tự tánh của các pháp,
tự tánh nầy không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Thế nào gọi là
tự tánh của các pháp? Tánh
vô sở hữu của các pháp là
tự tánh của các pháp. Đây gọi là những
pháp tướng vô vi”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiếu Thi Ca! Chư Phật
quá khứ do nơi Bát nhã ba la mật mà được
Vô thượng Bồ đề. Hàng
đệ tử của chư Phật
quá khứ cũng
do nơi Bát nhã ba la mật mà đạo
Tu Đà Hoàn đến đạo
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật.
Chư
Phật vị lai và
hiện tại cùng hàng
đệ tử cũng như vậy.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nói rộng nghĩa
Tam thừa. Vì là pháp
vô tướng vậy. Vì là pháp
vô sanh, vô diệt vậy. Vì là pháp
vô cấu, vô tịnh vậy. Vì là pháp
vô tác, vô khởi vậy. Ví là pháp bất nhập, bất xuất, bất tăng, bất tổn, bất thủ, bất xả vậy. Bởi là
thế tục pháp nên chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật nầy chẳng phải thử bỉ, chẳng phải cao, hạ, chẳng phải đẳng, bất đẳng, chẳng phải tướng, phi tướng, chẳng phải
thế gian,
xuất thế gian, chẳng phải
hữu lậu,
vô lậu, chẳng phải
hữu vi,
vô vi, chẳng phải thiện,
bất thiện, chẳng phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Nầy Kiều Thi Ca!
Bát nhã ba la mật chẳng lấy pháp
Thanh văn,
Bích Chi Phật, cũng chẳng bỏ pháp phàm nhơn”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật biết rõ tâm của tất cả
chúng sanh, cũng chẳng được
chúng sanh nhẫn đến chẳng được
tri giả,
kiến giả.
Đại Bồ Tát nầy chẳng được sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng được nhãn đến ý, chẳng được sắc đến pháp, chẳng được nhãn xúc,
nhơn duyên, sanh thọ, chẳng được
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng, chẳng được
Vô thượng Bồ đề, chẳng được
Phật pháp, chẳng được Phật.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật chẳng vì được pháp mà
xuất hiện.
Tại sao vậy?
Vì tánh
Bát nhã ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Chỗ
bất khả đắc của pháp sở dụng cũng bất khả đắc”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Như lời Ngài đã nói,
đại Bồ Tát luôn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Vô thượng Bồ đề còn
bất khả đắc, huống là
Bồ Tát vì
Bồ Tát pháp”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát chỉ thật
hành Bát nhã
ba la mật, mà chẳng thật
ba la mật khác ư!”
Đức Phật nói: Nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát thật hành tất cả
sáu ba la mật, vì
vô sở đắc.
Thật hành
Đàn na ba la mật, chẳng thấy người thí, chẳng thấy kẻ thọ, chẳng thấy tài vật.
Thật hành
Thi la ba la mật, chẳng thấy giới, chẳng thấy người
trì giới, chẳng thấy người
phá giới.
Nhẫn đến thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng thấy
trí huệ, chẳng thấy người
trí huệ, chẳng thấy người không
trí huệ.
Nầy Kiều Thi Ca! Lúc
đại Bồ Tát thật hành
bố thí, chính
Bát nhã ba la mật làm
minh đạo cho
bố thí, nên được đầy đủ
Đàn ba la mật.
Lúc
đại Bồ Tát thật
hành trì giới, chính
Bát nhã ba la mật làm
minh đạo cho
trì giới, nên được đầy đủ
Thi la ba la mật.
Lúc
đại Bồ Tát thật hành
nhẫn nhục, chính
Bát nhã ba la mật làm
minh đạo cho
nhẫn nhục, nên được đầy đủ
Sằn đề ba la mật.
Lúc
đại Bồ Tát thật hành
tinh tấn, chính
Bát nhã ba la mật làm
minh đạo cho
tinh tấn, nên được đầy đủ Tỳ lê gia
ba la mật.
Lúc
đại Bồ Tát thật hành
thiền na, chính
Bát nhã ba la mật làm
minh đạo cho
thiền na, nên được đầy đủ
Thiền na ba la mật.
Lúc
đại Bồ Tát quán các pháp, chính
Bát nhã ba la mật làm
minh đạo cho
quán trí, nên được đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Bởi tất cả pháp từ sắc đến nhứt thiết
chủng trí đều
vô sở đắc vậy.
Nầy Kiều Thi Ca!
Ví như cây
diêm phù đề, những lá, những hoa, những quả, những màu sắc, nhiều thứ sai khác, bóng mát của cây thời không sai khác.
Các
ba la mật vào trong
Bát nhã ba la mật đến
nhứt thiết trí, không sai khác cũng như vậy, vì
vô sở đắc vậy”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật thành tựu đại công đức,
thành tựu tất cả
công đức,
Bát nhã ba la mật thành tựu vô lượng công đức,
thành tựu vô biên công đức,
thành tựu vô đẳng công đức.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật nầy, rồi
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
tán thán, lại chính
ức niệm đúng như lời
kinh Bát nhã ba la mật.
Lại có
thiện nam,
thiện nữ chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật nầy rồi đem cho người khác.
Bạch đức Thế Tôn! Hai người trên đây ai được phước nhiều?”
Đức Phật nói: "Nầy Kiều Thi Ca! Nay Phật hỏi lại Ngài,
tùy ý Ngài đáp.
Nếu có người
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán Xá lợi của chư Phật. Lại có người chia
Xá lợi ra như hột cải để cho người khác
cúng dường. ai được phước nhiều hơn?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như tôi
nghe pháp nghĩa của
đức Phật nói: người tự mình
cúng dường Xá lợi. Nếu lại có người phân
Xá lợi như hột cải để cho người khác
cúng dường, người nầy được phước rất nhiều.
Vì thấy phước nầy
lợi ích chúng sanh, nên
đức Phật nhập
kim cang tam muội, làm nát
thân kim cang thành hột
Xá lợi.
Tại sao vậy? Vì sau khi
đức Phật nhập diệt, người
cúng dường Xá lợi của
đức Phật dầu bằng hột cải, người nầy cũng được phước
vô biên nhẫn đến tận khổ”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật rồi
cúng dường,
cung kính. Nếu lại có người biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác học.
Thiện nam,
thiện nữ nầy được phước rất nhiều.
Nếu có
thiện nam,
thiện nữ đúng với nghĩa trong
Bát nhã ba la mật mà diễn nói cho người khác được
hiểu biết.
Công đức của người nầy hơn người trước.
Những theo nghe
Bát nhã ba la mật phải xem người nầy như Phật. Cũng
xem như người
phạm hạnh cao thắng.
Tại sao vậy? Vì phải biết
Bát nhã ba la mật tức là Phật.
Bát nhã ba la mật chẳng khác Phật. Phật chẳng khác
Bát nhã ba la mật.
Chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại đều từ trong
Bát nhã ba la mật mà học được
Vô thượng Bồ đề.
Hàng
Thanh văn học
Bát nhã ba la mật nầy mà được đạo
A La Hán.
Người cầu
Bích Chi Phật đạo học Bát nhã ba la mật nầy mà được đạo
Bích Chi Phật.
Hàng
Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật mà được nhập
Bồ Tát vị.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên
thiện nam,
thiện nữ muốn
cung kính,
cúng dường chư
Phật hiện tại, thời nên
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Ta thấy sự
lợi ích nầy, nên lúc mới thành
Vô thượng Bồ đề, ta nghĩ rằng có ai là người đáng được
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán, y chỉ?
Nầy Kiều Thi Ca! Trong tất cả
thế gian, trong những hàng
chư Thiên,
Ma Phạm, hoặc
Sa Môn,
Bà La Môn, ta chẳng thấy ai
sánh bằng Phật cả, huống là có người hơn.
Ta lại tự nghĩ rằng pháp của ta được tự làm cho ta
thành Phật. Ta
cúng dường,
cung kính, tánh thán pháp nầy và
y chỉ pháp nầy mà an trụ.
Những gì là pháp nầy?
Chính là
Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Phật còn tự mình
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán và
y chỉ Bát nhã ba la mật. Huống là
thiện nam,
thiện nữ muốn được
Vô thượng Bồ đề mà chẳng
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh
chư đại Bồ Tát.
Trong
chư đại Bồ Tát xuất sanh chư Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên
thiện nam,
thiện nữ hoặc cầu
Phật đạo, hoặc cầu
Bích Chi Phật đạo, hoặc cầu
Thanh văn đạo, thời đều phải
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán Bát nhã ba la mật với những hoa hương,
anh lạc nhẫn đến phan lọng”.
PHẨM PHÁP THÍ
THỨ BA MƯƠI TÁM
(Phần trên)
Đức Phật nói với
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ dạy người một Diên Phù Đề thật hành
thập thiện đạo. Người nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Vẫn không bằng phước của người biên chép,
thọ trì quyển
kinh Bát nhã ba la mật rồi đem cho người khác bảo đọc, tụng
giải thuyết.
Tại sao vậy?
Trong
Bát nhã ba la mật nói rộng các pháp
vô lậu. Các
thiện nam,
thiện nữ từ trong đây
tu học, đã học, sẽ học,
hiện đương học, đã được, sẽ được, hiện được nhập trong
chánh pháp vị, đã được, sẽ được, hiện được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán. Người cầu
Bích Chi Phật đạo cũng vậy.
Chư đại Bồ Tát cầu
Vô thượng Bồ đề đã nhập, sẽ nhập, hiện nhập trong
chánh pháp vị, đã được, sẽ được, hiện được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Những gì là pháp vô lậu?
Chính là
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng.
Thiện nam,
thiện nữ học pháp nầy, đã được, sẽ được, hiện được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ dạy cho một người quả
Tu Đà Hoàn, người nầy được phước nhiều hơn dạy người một
Diêm Phù Đề thật hành
thập thiện đạo.
Tại sao vậy? Vì dạy người một
Diêm Phù Đề thật hành
thập thiện đạo, chẳng xa rời hẳn khổ ba
ác đạo.
Còn dạy một người cho quả
Tu Đà Hoàn thời xa rời hẳn khổ
Địa ngục,
Ngạ quỷ,
Ngạ quỷ,
Súc sanh.
Nhẫn đến quả
A La Hán và đạo
Bích Chi Phật cũng vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam,
thiện nữ dạy người một
Diêm Phù Đề cho được quả
Tu Đà Hoàn,
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật đạo, chẳng bằng dạy một người cho được
Vô thượng Bồ đề được phước rất nhiều.
Tại sao vậy?
Do
nhơn duyên Bồ Tát mà xuất sanh
Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật. Do
nhơn duyên Bồ Tát mà xuất sanh chư Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên biết rằng
thiện nam,
thiện nữ chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác
đọc tụng,
giải thuyết được phước rất nhiều.
Tại sao vậy?
Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy nói rộng các
pháp thiện. Học các
thiện pháp nầy bèn xuất sanh những đại tộc ở nhơn gian và
chư Thiên các
cõi trời nhẫn đến
Phi Phi Tưởng Thiên.
Học các
thiện pháp nầy bèn xuất sanh
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí, bèn có
Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật, bèn có chư Phật.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Không luận dạy người một
Diêm Phù Đề. Nếu có
thiện nam,
thiện nữ dạy cả
chúng sanh trong bốn
thiên hạ thật hành
thập thiện đạo, chẳng bằng người chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác
đọc tụng,
giải thuyết, được phước rất nhiều. Những điều khác như trên đã nói.
Không luận bốn
thiên hạ. Nếu có
thiện nam,
thiện nữ dạy cả
chúng sanh trong
Tiểu thiên thế giới,
Trung thiên thế giới,
Đại thiên thế giới, nhẫn đến dạy cả
chúng sanh trong
hằng sa thế giới thật hành
thập thiện đạo, chẳng bằng người chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác
đọc tụng,
giải thuyết, được phước rất nhiều. Những điều khác như trên đã nói.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Có người dạy cả
chúng sanh trong một
Diêm Phù Đề cho họ đứng vững nơi
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
ngũ thần thông. Người nầy được phước nhiều chăng?
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Vẫn chẳng bằng
thiện nam,
thiện nữ chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác
đọc tụng,
giải thuyết, được phước rất nhiều.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy nói rộng các
thiện pháp. Những điều khác như trên đã nói. Nhẫn đến dạy cả
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở trong
mười phương thật hành
thập thiện đạo,
so sánh phước đức cũng như vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ thọ trì,
đọc tụng, giài thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật.
Người nầy được phước hơn người dạy cả
chúng sanh trong
Diêm Phù Đề thật hành
thập thiện đạo cùng
an lập nơi
tứ thiền đến
ngũ thần thông.
Người chánh
ức niệm,
thọ trì, thân cận nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật chẳng do
nhị pháp cũng chẳng co
bất nhị pháp.
Thọ trì, thân cận nhẫn đến chánh
ức niệm Thiền na ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Sằn đề ba la mật,
thi la ba la mật,
Đàn na ba la mật, chẳng do
nhị pháp.
Vì
Vô thượng Bồ đề nên chánh
ức niệm nội không đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng do
nhị pháp.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ dùng nhiều
nhơn duyên vì người khác mà
diễn thuyết nghĩa
Bát nhã ba la mật,
phân biệt, khai thị cho hạ được
hiểu biết.
Những gì là nghĩa
Bát nhã ba la mật?
Nghĩa
Bát nhã ba la mật là:
Chẳng nên dùng
nhị tướng để quán, chẳng phải tướng có, chẳng phải
tướng không, chẳng nhập, chẳng xuất, chẳng tăng, chẳng tổn, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thủ, chẳng xả, chẳng trụ, chẳng bất trụ, chẳng phải, chẳng thiệt, chẳng phải hư, chẳng phải hiệp, chẳng phải tan, chẳng phải trước, chẳng phải bất trước, chẳng chơn, chẳng phải chẳng chơn, chẳng phải pháp, chẳng phải bất pháp, chẳng phải như, chẳng phải bất như, chẳng phải thiệt tế, chẳng phải chẳng thiệt tế.
Thiện nam,
thiện nữ đem nghĩa
Bát nhã ba la mật nầy dùng nhiều
nhơn duyên diễn thuyết phân biệt, khai thị cho người khác được
hiểu biết. Người nầy được
phước đức rất nhiều, hơn là tự mình
thọ trì,
đọc tụng đến chánh
ức niệm.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
thiện nam,
thiện nữ tự
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật cũng dùnh nhiều
nhơn duyên diễn thuyết,
phân biệt, khai thị cho người khác được
hiểu biết, người nầy được
công đức rất nhiều”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ phải
diễn thuyết, khai thị,
phân biệt nghĩa
Bát nhã ba la mật như vậy làmcho được hiểu biết?”
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ diễn thuyết, khai thị,
phân biệt nghĩa
Bát nhã ba la mật như vậy làm cho người khác được
hiểu biết, được
vô lượng vô biên phước đức.
Nếu có người
cúng dường vô lượng vô số chư Phật mười phương theo chỗ
cần dùng mà
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường hoa hương nhẫn đến phan lọng.
Nếu lại có người dùng nhiều
nhơn duyên giảng rộng nghĩa
Bát nhã ba la mật, khai thị,
phân biệt làm cho người khác được
hiểu biết, được
công đức rất nhiều.
Tại sao vậy?
Vì
quá khứ,
vị lai,
hiện tại chư
Phật học trong
Bát nhã ba la mật nầy mà đã được, sẽ được, hiện được
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam,
thiện nữ trong
vô lượng vô biên vô số kiếp thật hành
Đàn na ba la mật, chẳng bằng
thiện nam,
thiện nữ diễn nói nghĩa
Bát nhã ba la mật, khai thị,
phân biệt cho người khác được hiểu,
phước đức rất nhiều.
Tại sao vậy? Vì
vô sở đắc vậy.
Thế nào gọi là hữu sở đắc?
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu
đại Bồ Tát dùng
hữu sở đắc mà
bố thí. Lúc bố thì,
quan niệm tôi cho, người nhận, của vật để cho. Đây gọi là được
Đàn na mà chẳng được
ba la mật.
Lúc
trì giới,
quan niệm tôi
trì giới, đây là giới. Đó gọi là được
Thi la mà chẳng được
ba la mật.
Lúc
nhẫn nhục,
quan niệm tôi
nhẫn nhục, vì người ấy mà
nhẫn nhục. Đây gọi là được
Sằn đề mà chẳng được
ba la mật.
Lúc
tinh tấn,
quan niệm tôi
tinh tấn, vì sự đó mà siêng năng
tinh tấn. Đây gọi là được Tỳ lê gia mà chẳng được
ba la mật.
Lúc
tu thiền,
quan niệm tôi
tu thiền, chỗ tu là thiền. Đây gọi là
Thiền na mà chẳng được
ba la mật.
Lúc
tu huệ,
quan niệm tôi
tu huệ, chỗ tu là huệ. Đây gọi là được
Bát nhã mà chẳng được
ba la mật.
Thiện nam,
thiện nữ thật hành như vậy thời chẳng được đầy đủ
Đàn na ba la mật, nhẫn đến chẳng được đầy đủ
Bát nhã ba la mật”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát tu thế nào được đầy đủ
Đàn na ba la mật, nhẫn đến đầy đủ
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Lúc
bố thí,
đại Bồ Tát chẳng thấy người cho, chẳng thấy người thọ, chẳng thấy của vật đem cho. Người nầy được đầy đủ
Đàn na ba la mật.
Nhẫn đến lúc
tu huệ,
đại Bồ Tát chẳng thấy huệ, chẳng thấy huệ bị
tu tập. Người nầy được đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Thiện nam,
thiện nữ thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy, nên vì người khác mà
diễn thuyết nghĩa
Bát nhã ba la mật, khai thị,
phân biệt cho họ được
hiểu biết. Năm
ba la mật kia cũng như vậy.
Tại sao vậy?
Vì đời
vị lai có người muốn nói
Bát nhã ba la mật mà nói tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Có
thiện nam,
thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì nghe tương tợ
Bát nhã ba la mật nầy mà thất
chánh đạo.
Thế nên
đại Bồ Tát phải vì người nầy mà diễn nói đủ nghĩa
Bát nhã ba la mật, khai thị,
phân biệt cho họ hiểu biết”.