KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI SÁU
PHẨM LƯỠNG BẤT HÒA HIỆP QUÁ
THỨ BỐN MƯƠI BẢY
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Người thính pháp nơi
Bát nhã ba la mật muốn biên chép,
đọc tụng, vấn nghĩa, chánh
ức niệm mà người
thuyết pháp lười biếng chẳng muốn nói, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Người
thuyết pháp tâm chẳng lười biếng mà người
nghe pháp chẳng chịu nghe lãnh, tâm hai bên chẳng hòa hiệp, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người thính pháp muốn biên chép đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà người
thuyết pháp muốn đi qua phương khác, phải biết đây cũng là
ma sự của
Bồ Tát.
Người
thuyết pháp muốn cho biên chép,
thọ trì mà người thích pháp muốn đi qua phương khác, tâm hai bên chẳng hòa hiệp, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp quý trọng của bố thí, những
y phục,
thực phẩm, phòng nhà, thuốc men, người thính pháp
thiểu dục tri túc, nhiếp niệm
tinh tấn,
thiền định,
trí tuệ, tâm hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Người
thuyết pháp thiểu dục tri túc, nhiếp niệm
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ, người thính pháp
quý trọng của bố thí, những
tứ sự tư sanh, tâm hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mậtt, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp thọ mười hai
hạnh Đầu Đà: một là thường là thường
khất thực, hai là
thứ đệ khất thực, ba là nhứt tọa thực, bốn là tiết lượng thực, năm là sau ngọ trung chẳng ẩm tương, sáu là chỉ chứa ba y, bảy là
nạp y, tám là ở
a lan nhã, chín là ở trong gò mã, mười là ở gốc cây, mười một là ở đất trống, mười hai là ngồi luôn không nằm, người thính pháp chẳng thọ mười hai
hạnh Đầu Đà, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Người thính pháp thọ mười hai
hạnh Đầu Đà, người
thuyết pháp chẳng thọ mười hai
hạnh Đầu Đà, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp có
tín tâm, có
giới hạnh, muốn biên chép,
thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh
ức niệm, người thính
pháp không tín tâm,
không giới hạnh, chẳng muốn biên chép nhẫn đến chẳng muốn chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Người thính pháp có
tín tâm, có
giới hạnh, người
thuyết pháp không
tín tâm,
không giới hạnh, hai bên chẳng hòa hiệp, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người thuyết hay
bố thí tất cả chẳng lẫn tiếc, người thính pháp
bỏn xẻn, chẳng thí xả, hai bên chẳng hòa hiệp, phải biết đây là
ma sự.
Người thính pháp hay
bố thí tất cả chẳng lẫn tiếc, người
thuyết pháp bỏn xẻn, chẳng thí xả, hai bên chẳng hòa hiệp, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người thích pháp muốn
cúng dường cho người
thuyết pháp những đồ vật tư sanh, người
thuyết pháp chẳng chịu nhận, phải biết đây là
ma sự.
Người
thuyết pháp muốn
cung cấp đồ tư sanh cho người thính pháp, người thính pháp chẳng chịu nhận, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp dễ tỏ ngộ, người
thuyết pháp ám độn, phải biết đây là
ma sự.
Người thính pháp mau tỏ ngộ, người thính pháp
ám độn, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được, nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp biết nghĩa thứ lớp của
mười hai bộ kinh là
khế kinh nhẫn đến
luận nghị, người thính pháp chẳng biết. Hoăc người thính pháp biết nghĩa
thứ đệ của
mười hai bộ kinh, người
thuyết pháp chẳng biết, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp thành tựu sáu ba la mật, người thính pháp chẳng
thành tựu. Hoặc người thính pháp có
sáu ba la mật, người
thuyết pháp chẳng có. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp có sức
phương tiện nơi
sáu ba la mật, người thính
pháp không có. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp đắc
đà la ni, người thính
pháp không đắc. Hoặc người thính pháp đắc
đà la ni, người
thuyết pháp không đắc. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp muốn cho biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, người thính pháp chẳng muốn. Hoặc người thính pháp muốn biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm, người
thuyết pháp chẳng muốn biên chép nhẫn đến chẳng muốn cho chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp không
tham dục, giận hờn, ngủ nghỉ, điệu hối,
nghi ngờ, người thính pháp có
tham dục nhẫn đến
nghi ngờ. Hoặc người thính pháp lìa
ngũ cái:
tham dục nhẫn đến
nghi ngờ, người
thuyết pháp có
ngũ cái. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, có người đến nói những sự
thống khổ trong ba
ác đạo rồi bảo rằng sao Ngài chẳng ở tại thân đời nầy dứt khổ
nhập Niết Bàn, lại cầu
Vô thượng Bồ đề làm chi?
Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, có người đến
ca ngợi các
cõi Trời,
ca ngợi Trời
Tứ Thiên Vương đến Trời Phi
Phi Tưởng,
ca ngợi sơ thiền đến phi
phi tưởng định rồi bảo rằng: Thưa Ngài,
ba cõi dầu hưởng thọ phước vui nhưng cũng đều là
vô thường, là
khổ không,
vô ngã, tướng biến tận tán ly. Sao ngài chẳng ở tại thân đời nầy
chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán, quả
Bích Chi Phật, lại ở trong
thế gian sanh tử chịu khổ để cầu
Vô thượng Bồ đề làm chi? Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp một thân không
phiền lụy,
tự tại vơ ngại, người thính pháp dắt theo chúng nhơn đông, hoặc người thính pháp một thân không
phiền lụy,
tự tại vô ngại, người
thuyết pháp, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp bảo người thính pháp rằng nếu ngươi có thể
tùy theo ý ta, thời sẽ cho người biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, bằng không
tùy theo ý ta, thời không cho. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người thính pháp muốn
thuận theo ý người
thuyết pháp mà người
thuyết pháp chẳng cho, hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp vì muốn được
tài lợi mà cho biên chép nhẫn đến cho chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, người thính pháp vì cớ nầy nên chẳng chịu theo nghe. Hoặc người thính pháp vì
tài lợi mà muốn biên chép nhẫn đến muốn chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, vì cớ nầy nên người
thuyết pháp chẳng muốn cho. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp muốn đến xứ nguy nạn, người thính pháp chẳng muốn
đi theo. Hoặc người thính pháp muốn đến xứ nguy nạn, người
thuyết pháp chẳng muốn đến. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp muốn đến xứ lúc mắc
nghèo đói, người thính
pháp không muốn
đi theo. Hoặc người thính pháp muốn đến xứ
đói khát, người
thuyết pháp chẳng muốn đến. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đều là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp muốn đến xứ giàu vui, người thính pháp muốn
đi theo. Người
thuyết pháp bảo rằng ngươi vì
tài lợi mà
đi theo ta, ngươi nên
suy nghĩ kỹ, hoặc được
tài lợi hoặc chẳng được, chớ để ngày sau
ăn năn, người thính pháp nghe nói cho rằng không muốn mình
đi theo nên sanh lòng chán mà không đi. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp muốn đến xứ
hoang vắng có nạn giặc ướp,
ác thú,
độc trùng, người thính pháp muốn
đi theo. Người
thuyết pháp bảo rằng ngươi đến xứ
hoang vắng hiểm nạn làm chi. Người thính pháp nghe nói cho rằng không muốn cho mình biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, sanh lòng chán chẳng
đi theo. Hai bên chẳng hòa hiệp, đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Người
thuyết pháp có nhiều
thí chủ, thường đến nhà họ viếng thăm, bảo người thính pháp rằng ta có
việc phải đến nhà họ. Người thính pháp biết ý bèn chẳng cùng đi. Hai bên chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma làm
Tỳ Kheo đến chỗ
thiện nam,
thiện nữ dùng
phương tiện phá hoại chẳng cho biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Ác ma làm
Tỳ Kheo dùng cách nào để phá hoại?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Ác ma làm
Tỳ Kheo đến chỗ
thiện nam,
thiện nữ mà bảo rằng kinh của ta nói mới là
Bát nhã ba la mật, còn kinh đó không phải. Lúc
ác ma dùng lời
phá hoại tín tâm như vậy, có
thiện nam,
thiện nữ chưa được tho ký bèn sanh lòng nghi, vì nghi nên chẳng biên chép nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật. Chẳng hòa hiệp, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma làm
Tỳ Kheo đến bảo rằng
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, chứng thiệt tế được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
Bích Chi Phật. Do đó mà chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Nầy Tu Bồ Đề! Lúc nói
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, có nhiều
ma sự khởi lên làm trở ngại.
Đại Bồ Tát phải sớm biết để xa lìa”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những
ma sự gì làm trở ngại
Bát nhã ba la mật mà
Bồ Tát phải sớm biết để xa lìa?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Tương tợ
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
Đàn na ba la mật là
ma sự phát khởi.
Bồ Tát phải sớm biết để
xa lìa.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Những kinh sở hành của hàng
Thanh văn,
Bích Chi Phật là
ma sự của
Bồ Tát, phải sớm hay biết
xa lìa.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma làm
Tỳ Kheo tìm
phương tiện trao cho
Bồ Tát những kinh dạy về
nội không,
ngoại không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, dạy về
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát chánh đạo,
ba môn giải thoát, không,
vô tướng,
vô tác để được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
Bích Chi Phật. Do đó chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma do hóa
làm Phật thân vàng
trượng lục chói sáng đến chỗ
Bồ Tát. Vì
ham thích thân Phật nầy mà
Bồ Tát hao tổn chánh trí huệ. Do đó chẳng hòa hiệp, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma hóa
làm Phật và chúng
Tỳ Kheo đến chỗ
Bồ Tát. Các
Tỳ Kheo nầy nói pháp cho
Bồ Tát.
Bồ Tát ham thích tự nghĩ rằng
đời sau tôi cũng sẽ được như vậy. Vì
ham thích thân ma mà
hao tổn chánh trí huệ, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma hóa làm
vô số Bồ Tát thật hành
sáu ba la mật, chỉ dạy cho
thiện nam,
thiện nữ. Vì
ham thích mà
thiện nam,
thiện nữ hao tổn chánh trí huệ, chẳng biên chép được nhẫn đến chẳng chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật, phải biết đây là
ma sự.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy không có sắc thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì không có sắc nhẫn đến không có nhứt thiết
chủng trí, nên trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy không có Phật, không có
Bồ Tát,
Thanh văn ,
Bích Chi Phật. Tại sao vậy? Vì tất cả
pháp tự tánh không vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Như
vàng bạc châu ngọc ở
Diêm Phù Đề có nhiều nạn, nhiều cướp. Cũng vậy, lúc
thiện nam,
thiện nữ biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật phát khởi nhiều nạn, nhiều oán”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng như vậy.
Vàng bạc châu ngọc trong
Diêm Phù Đề có nhiều nạn, nhiều cướp. Lúc
thiện nam,
thiện nữ biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật phát khởi nhiều nạn, nhiều oán, nhiều
ma sự.
Tại sao vậy? Hạng người
ngu si bị ma sai sử mà
phá hoại,
xa lìa công việc biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa.
Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ ngu si ít trí ít huệ nầy lúc biên chép nhẫn đến lúc chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa lại
phá hoại,
xa lìa.
Bạch đức Thế Tôn! Hạng người
ngu si nầy lòng họ chẳng thích pháp
Đại thừa nên họ chẳng biên chép,
đọc tụng,
thọ trì, chánh
ức niệm, chẳng
tu hành đúng như lời, họ lại
phá hoại người khác chẳng cho biên chép nhẫn đến chánh ức niệm”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Hàng
thiện nam,
thiện nữ mới
phát tâm Đại thừa vì bị ma sai sử, chẳng gieo căn lành, chẳng
cúng dường chư Phật, chẳng theo
thiện tri thức nên chẳng biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà lại làm sự lưu nạn.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ hay biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa nầy thì
ma sự chẳng
phát khởi. Người nầy đầy đủ
Thiền na ba la mật nhẫn đến
Đàn na ba la mật, đầy đủ được
tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đó là do
Phật lực nên
thiện nam,
thiện nữ ấy có thể biên chép được nhẫn đến chánh
ức niệm được
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, cũng đầy đủ được
Thiền na ba la mật nhẫn đến
Đàn na ba la mật, đầu đủ được
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, đầy đủ được
tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề!
Hiện tại mười phương vô lượng vô biên vô số chư Phật,
chư đại Bồ Tát bất thối chuyển cũng trợ giúp
ủng hộ cho
thiện nam,
thiện nữ nầy biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa”.
PHẨM PHẬT MẪU
THỨ BỐN MƯƠI TÁM
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Ví như bà mẹ có con trai, hoặc năm hoặc mười hoặc trăm ngàn người con trai. Bà mẹ phải bịnh, các con đều lo buồn
cần cầu cứu chữa, vì nhớ ơn mẹ sanh dục và dạy dỗ mình.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề! Phật và chư
Phật hiện tại
mười phương đều
thường dùng Phật nhãn nhìn
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy.
Tại sao vậy? vì
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy hay
hiển thị tướng
thế gian, hay xuất sanh chư Phật, hay cho nhứt thiết
chủng trí, cũng hay sanh
Thiền ba la mật nhẫn đến
Đàn na ba la mật, hay sanh
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, hay sanh
tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, hay sanh
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật, hay sanh chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Chư Phật đã được
Vô thượng Bồ đề, chư
Phật hiện nay được cùng chư Phật sẽ được đều do
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà được.
Nầy Tu Bồ Đề!
Thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo nên biên chép nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa nầy. Chư Phật
thường dùng Phật nhãn nhìn người nầy,
gia hộ cho họ được chẳng
thối chuyển Vô thượng Chánh giác”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Như lời
đức Phật dạy,
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật? Hay
hiển thị tướng thế gian? Thế nào là chư Phật từ
Bát nhã ba la mật sanh? Chư Phật nói tướng
thế gian như thế nào?
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy xuất sanh
mười trí lực nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí. Vì được các pháp trên đây mà gọi là Phật, nên
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! “Chư Phật nói
ngũ ấm là tướng thế gian”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! thế nào là trong
Bát nhã ba la mật nói ngũ ấm? thế nào là trong
Bát nhã ba la mật hiển thị tướng ngũ ấm?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Bát nhã
ba la mật chẳng
hiển thị ngũ ấm phá, chẳng
hiển thị ngũ ấm hoại, chẳng
hiển thị sanh, diệt, cấu, tịnh, tăng, giảm, chẳng hiện thị xuất, nhập, chẳng hiện thị
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Tại sao vậy?
Vì
tướng không chẳng phá chẳng hoại. Vì tướng
vô tướng chẳng phá chẳng hoại. Vì tướng
vô tác chẳng phá chẳng hoại. Vì pháp bất khởi, pháp
bất sanh, pháp
vô sở hữu,
pháp tánh chẳng phá chẳng hoại. Vì tướng
hiển thị như vậy nên Phật nói
Bát nhã ba la mật sâu xa hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà chư Phật biết rõ
tâm niệm của
vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy không
chúng sanh, không danh từ
chúng sanh,
không sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không danh từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến không nhứt thiết
chủng trí, không danh từ nhứt thiết
chủng trí. Thế nên
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy hay
hiển thị tướng
thế gian.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy chẳng
hiển thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng
hiển thị nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy còn không
Bát nhã ba la mật huống là sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Có bao nhiêu danh số
chúng sanh hoặc loài có sắc hay
không sắc, có tưởng hay
không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải
không tưởng, ở
quốc độ nầy nhẫn đến khắp
quốc độ mười phương. Những
chúng sanh ấy hoặc
nhiếp tâm,
đức Phật đều biết thiệt rõ tất cả
tâm niệm của họ.
Do đâu mà
đức Phật biết thiệt rõ tướng dạng
tâm niệm của chúng sanh?
Vì
đức Phật dùng
pháp tướng nên biết rõ.
Dùng
pháp tướng gì để biết?
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
pháp tướng nầy còn không có tướng
pháp tướng huống là
nhiếp tâm với
loạn tâm. Vì dùng
pháp tướng nầy mà
đức Phật biết rõ
nhiếp tâm,
loạn tâm của tất cả
chúng sanh.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
đức Phật biết thiệt rõ
nhiếp tâm,
loạn tâm của
chúng sanh.
Do đâu mà biết?
Vì do tận tướng nên biết, do
vô nhiễm tướng nên biết, do
diệt tướng nên biết, do đoạn tướng nên biết, do tịch tướng nên biết, do
ly tướng nên biết.
Đức Phật do nơi Bát nhã ba la mật mà biết rõ
nhiếp tâm,
loạn tâm của tất cả
chúng sanh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ
nhiễm tâm của
chúng sanh, biết thiệt rõ
sân tâm,
si tâm của
chúng sanh, nếu
chúng sanh có
nhiễm tâm,
sân tâm,
si tâm.
Tại sao
đức Phật biết thiệt rõ như vậy? Nầy Tu Bồ Đề! Vì
thiệt tướng của
nhiễm tâm không có tướng nhiễm, vì
thiệt tướng của
sân tâm,
si tâm không có tướng sân, không có tướng si.
Tại sao vậy? Vì trong
thiệt tướng không có
tâm vương,
tâm sở, huống là có được
nhiễm tâm,
sân tâm,
si tâm, huống là có được tâm chẳng nhiễm, chẳng sân, chẳng si.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thật rõ tâm nhiễm, tâm sân, tâm si của tất cả
chúng sanh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ
tâm không nhiễm, không sân, không si của tất cả
chúng sanh nếu
chúng sanh không tâm nhiễm sân, sân, si.
Tại sao vậy? Vì trong
tâm không nhiễm, không sân, không si nầy chẳng có tướng nhiễm, sân, si. Vì hai tâm chẳng
cùng chung vậy. Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết rõ
tâm không nhiễm, sân, si của
chúng sanh nếu có
chúng sanh không có tâm nhiễm sân, si.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật, nếu
chúng sanh cò
quảng tâm,
đức Phật biết thiệt rõ
quảng tâm của
chúng sanh.
Tại sao vậy? Vì
đức Phật biết
tâm tướng của
chúng sanh chẳng rộng, chẳng hẹp, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đến, chẳng đi, vì
tâm tướng rời rời lìa, vì
tâm tánh vốn không nên không có gì làm rộng, làm hẹp, làm tăng, làm giảm, chẳng đến, chẳng đi.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ
đại tâm của
chúng sanh. Tại sao vậy? Vì
đức Phật chẳng thấy tâm
chúng sanh có tướng lai, tướng khứ, tướng sanh, trụ, dị, diệt. Tại sao vậy? vì
tâm tánh vốn không nên không có ai đến, đi, không có sanh, trụ, dị, diệt.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh có
đại tâm, do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ
đại tâm của
chúng sanh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh có tâm
vô lượng, do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ tâm
vô lượng của
chúng sanh. Tại sao vậy? Vì do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết rõ tâm ấy của
chúng sanh; chẳng thấy an trụ, chẳng thấy chẳng an trụ. Vì tướng của tâm
vô lượng không chỗ
y chỉ, nào có chỗ trụ, chẳng trụ.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
Chúng sanh có tâm
vô lượng, do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ tâm
vô lượng ấy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Tâm chẳng thể thấy được của
chúng sanh, do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ tâm chẳng thể thấy được ấy. Tại sao vậy? Vì tâm
chúng sanh là
vô tướng, vì
tự tướng vốn không,
đức Phật biết thiệt rõ
vô tướng. Tâm của
chúng sanh cả
ngũ nhãn đều không thấy được.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Tâm chẳng thể thấy được của
chúng sanh, do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ tâm chẳng thể thấy được ấy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật, những
tâm số xuất một co giãn của
chúng sanh,
đức Phật biết thực rõ. Tại sao vậy? Vì tất cả
tâm số xuất một co giản của
chúng sanh đều
y cứ nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà
sanh khởi. Ở trong ấy,
đức Phật biết rõ
tâm số xuất một co giãn của
chúng sanh. Đó là thần và
thế gian thường, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc thần và
thế gian vô thường, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc thần và
thế gian cũng thường cũng
vô thường, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc thần và
thế gian chẳng thường chẳng
vô thường, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc thần và
thế gian thường, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Như
kiến thức nầy
y cứ nơi sắc, kiến nầy
y cứ nơi thọ,
y cứ nơi tưởng,
y cứ nơi hành,
y cứ nơi thức cũng như vậy.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc và
thế gian hữu biên, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc và
thế gian vô biên, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy cứ nơi sắc và
thế gian cũng
hữu biên cũng
vô biên, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc và
thế gian chẳng hữu biến chẳng
vô biên, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nòi sai.
Như
y cứ nơi sắc,
kiến thức nầy
y cứ nơi thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Thần chính là thân.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc thần khác thân khác,
y cứ nơi thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Sau khi chết có như đi, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc,
sau khi chết có như đi hoặc không có như đi, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Kiến thức nầy
y cứ nơi sắc,
sau khi chết chẳng phải có như đi, chẳng phải không có như đi, đây là sự thiệt,
ngoài ra là nói sai.
Như
y cứ nơi sắc,
y cứ nơi thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Thế nên, Nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết thiệt rõ những
tâm số xuất một co giãn của
chúng sanh.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
đức Phật biết rõ
sắc tướng. Biết rõ
sắc tướng thế nào? Như là như tướng: chẳng hoại, không
phân biệt,
không tướng, không nhớ ghi, không
hí luận, không được,
sắc tướng sắc tướng cũng như vậy, cũng chẳng hoại nhẫn đến cũng không được.
Nầy Tu Bồ Đề!
đức Phật biết rõ thọ tướng nhẫn đến biết rõ thức tướng là chẳng hoại nhẫn đến không được như là như tướng.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
đức Phật biết rõ
chúng sanh như tướng và
chúng sanh tâm số xuất một co giãn như tướng,
ngũ ấm như tướng,
chư hành như tướng, cũng chính là tất cả
pháp như tướng, đó là
sáu ba la mật như tướng, đó là
ba mươi bảy phẩm trợ đạo như tướng, đó là
thập bát không như tướng, đó là
bát bội xả như tướng, đó là chín
thứ đệ định như tướng, đó là
mười trí lực như tướng, đó là
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
đại từ đại bi, mười
tám pháp bất cộng như tướng, đó là nhứt thiết
chủng trí như tướng, đó là
pháp thiện, pháp
bất thiện, pháp
thế gian, pháp
xuất thế gian,
pháp hữu lậu, pháp
vô lậu, pháp
quá khứ,
vị lai,
hiện tại,
pháp hữu vi,
pháp vô vi như tướng, đó là quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, quả
Bích Chi Phật, quả
Vô thượng Bồ đề và chư như tướng. Chư Phật như tướng đều là tướng nhứt như, chẳng hai chẳng khác, chẳng tận. Đây gọi là tất cả
pháp như tướng.
Đức Phật do
Bát nhã ba la mật mà được như tướng vậy.
Vì thế nên
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian. thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật biết rõ tất cả
pháp như tướng, chẳng biệt dị, chẳng phải chẳng như. Vì được như tướng như vậy nên
đức Phật được gọi là Như Lai”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Các
pháp như tướng chẳng biệt dị, chẳng phải chẳng như ấy là rất
sâu xa.
Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật dùng pháp ấy mà vì người nói
Vô thượng Bồ đề. Ai là người tin hiểu được? Chỉ có bức
bất thối Bồ Tát, người đầy đủ
chánh kiến, bực
vô lậu A La Hán. Vì pháp nầy rất sâu xa”,
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Vì pháp nầy tướng
vô tận nên rất là sâu xa”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Pháp nào tướng
vô tận nên là rất sâu xa?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Vì tất cả pháp
vô tận nên là rất
sâu xa.
Như vậy, nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật được tất cả
pháp như ấy rồi vì
chúng sanh mà thuyết pháp”.
PHẨM VẤN TƯỚNG
THỨ BỐN MƯƠI CHÍN
Lúc bấy giờ trong cõi
Đại Thiên có
chư Thiên cõi Dục, Sắc vói
rải hoa hương rồi bay đến chỗ
đức Phật,
đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua một phía mà thưa rắng: “Bạch đức Thế Tôn! Đã nói
ba la mật rất sâu. Những gì là tướng
Bát nhã ba la mật rất sâu?”
Đức Phật bảo
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc: “Nầy
chư Thiên Tử!
Tướng không, tướng
vô tướng, tướng
vô tác là tướng
Bát nhã ba la mật rất sâu, tướng vô khởi,
vô sanh, vô diệt,
vô cấu, vô tịnh,
vô sở hữu,
vô tướng,
vô sở y, tướng
hư không là tướng
Bát nhã ba la mật.
Nầy
chư Thiên Tử! Những tướng như là tướng
Bát nhã ba la mật rất sâu.
Đức Phật dùng pháp
thế gian để giảng nói cho
chúng sanh, chớ chẳng phải là
đệ nhứt nghĩa.
Nầy
chư Thiên Tử! Các tướng ấy, tất cả Thiên, Nhơn,
A Tu La trong đời không
phá hoại được. Tại sao vậy? Vì Thiên, Nhơn,
A Tu La trong đời cũng là tướng.
Nầy
chư Thiên Tử!
Tướng không thể
phá hoại tướng,
tướng không thể biết tướng,
tướng không thể biết
vô tướng,
vô tướng không thể biết tướng, tướng và
vô tướng chỗ biết cho rằng biết đó là vì pháp biết đều chẳng thể được. Tại sao vậy? Nầy
chư Thiên Tử! Các tướng chẳng phải sắc làm ra, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức làm ra, chẳng phải
sáu ba la mật làm ra, nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết
chủng trí làm ra.
Nầy
chư Thiên Tử! các tướng ấy chẳng phải
sở hữu của người, của trời, chẳng phải
thế gian,
xuất thế gian, chẳng phải
hữu lậu,
vô lậu, chẳng phải
hữu vi,
vô vi.
Nầy
chư Thiên Tử! Như có người hỏi rằng những gì là tướng của hư không? Lời hỏi nầy có đúng không?
Chư Thiên thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Lời hỏi ấy không đúng. Vì
hư không chẳng có tướng nói được, vì
hư không chẳng
sanh khởi, chẳng bị làm ra”.
Đức Phật bảo
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc: “Có Phật hay không có Phật,
tánh tướng vẫn
thường trụ. Vì được
tánh tướng đúng như thiệt mà
đức Phật được gọi là Như Lai”.
Chư Thiên thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật được các
pháp tánh tướng rất sâu. Được
tánh tướng ấy rồi được
vô ngại trí. An trụ trong tướng nầy dùng
Bát nhã ba la mật họp
tự tướng của các pháp.
Bát nhã ba la mật nầy là chỗ
thường hành đạo của chư Phật. Do
hành đạo nầy nên được
Vô thượng Chánh giác. Do được
Vô thượng Bồ đề mà
thông đạt tất cả
pháp tướng, hoặc
sắc tướng nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tướng”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Nầy
chư Thiên Tử! Tướng não hoại là tướng của sắc,
cảm giác là tướng của thọ, duyên lấy tướng của tưởng,
sanh khởi tạo tác là tướng của hành,
liễu biệt là tướng của thức.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Hay
xả thí là tướng
Đàn na ba la mật, không
nhiệt não là tướng của
Thi la ba la mật, chẳng đổi khác là tướng của
Nhẫn ba la mật, chẳng thối lui là tướng của Tấn
ba la mật,
nhiếp tâm là tướng của
Thiền ba la mật, bỏ lìa là tướng
Bát nhã ba la mật. Đức được không có các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Lòng không nhiễu hại
não loạn là tướng của
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử!
Xuất thế gian là tướng của
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, rời lìa là tướng của
không giải thoát,
tịch diệt là tướng của
vô tướng giải thoát, khổ là tướng của
vô tác giải thoát.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Siêu thắng là tướng của
mười trí lực, chẳng kinh sợ là tướng của bốn
vô úy, biết khắp hết là tướng của bốn trí
vô ngại, người khác không được là tướng của mười
tám pháp bất cộng.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử!
Thương xót chúng sanh là tướng của
đại từ đại bi, chơn thiệt là tướng của không
sai lầm,
vô sở thủ là tướng của thường xả,
hiện tại biết rõ là tướng của nhứt thiết
chủng trí.
Đức Phật được không các tướng ấy.
Nầy
chư Thiên Tử! Vì được tất cả
pháp không tướng nên
đức Phật được gọi là bực trí vô ngại”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Bát nhã
ba la mật là mẹ chư Phật.
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị tướng
thế gian. Thế nên Phật
y chỉ pháp để an trụ,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi pháp ấy. Pháp ấy là gì? Chính là
Bát nhã ba la mật.
Đức Phật y chỉ nơi
Bát nhã ba la mật để an trụ,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi Bát nhã ba la mật. Vì
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
đức Phật là người biết
tác động. Nếu có người hỏi đúng. Là người biết
tác động đáp đúng, không ai hơn
đức Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
đức Phật là người biết
tác động nên pháp của
đức Phật đi và đạo của
đức Phật đến chừng được
Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật trở lại cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi pháp ấy, đạo ấy và
thọ trì thủ hộ pháp ấy, đạo ấy.
Nầy Tu Bồ Đề! Đó gọi là
đức Phật là người biết
tác động.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật biết tất cả
pháp không có tướng tạo tác vì không có tướng
tác giả. Tất cả
pháp không có tướng
sanh khởi vì không có
hình sự.
Nầy Tu Bồ Đề! Do
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật biết các
pháp không có tướng tạo tác, không có tướng
sanh khởi. Cũng vì cớ nầy mà
đức Phật là người biết
tác động.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật do
Bát nhã ba la mật mà được tất cả pháp chẳng sanh, vì là
vô sở đắc vậy. Thế nân
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng thế gian”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là không biết, là không thấy, sao
Bát nhã ba la mật lại hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng thế gian?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Tất cả
pháp không biết, không thấy. Thế nào là không biết, là không thấy? Vì tất cả pháp vốn không, là
hư giả chẳng
kiên cố, nên tất cả
pháp không biết, không thấy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Tất cả
pháp không y chỉ, không chỗ
hệ phược, thế nên tất cả
pháp không biết không thấy.
Do đó mà
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Vì chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết
chủng trí nên
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị tướng
thế gian, hay sanh chư Phật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Tại sao chẳng thấy sắc nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết
chủng trí nên
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị tướng thế gian?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu chẳng duyên nơi sắc để sanh
phân biệt, chẳng duyên nơi thọ, tưởng, hành, thức để sanh
phân biệt, nhẫn đến chẳng duyên nơi nhứt thiết
chủng trí để sanh phân biêt, đó chẳng gọi là chẳng thấy tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng gọi là chẳng thấy tướng của nhứt thiết
chủng trí, nên
hiển thị tướng
thế gian. Do đây mà
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng thế gian?
Nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị thế gian không.
Hiển thị thế gian không như thế nào?
Hiển thị ngũ ấm thế gian không,
hiển thị thập nhị nhập thế gian không,
hiển thị thập bát giới thế gian không,
hiển thị thập nhị nhơn duyên thế gian không,
hiển thị ngã kiến cùng sáu mươi hai
kiến thức thế gian không,
hiển thị mười
thiện đạo thế gian không,
hiển thị tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ định thế gian không,
hiển thị ba mươi bảy phẩm trợ đạo thế gian không,
hiển thị sáu ba la mật thế gian không,
hiển thị nội không,
ngoại không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không thế gian không,
hiển thị hữu vi tánh,
vô vi tánh
thế gian không,
hiển thị mười trí lực nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thế gian không. Đó là
hiển thị thế gian không.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật do
Bát nhã ba la mật hiển thị thế thế gian không nên biết
thế gian không, hay
thế gian không,
tư duy thế gian không,
phân biệt thế gian không. Thế nên
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị phất
thế gian không.
Hiển thị Phật thế gian không thế nào?
Hiển thị ngũ ấm thế gian không, nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian không.
Thế nên
Bát nhã ba la mật hay sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
bất khả tư nghì:
Hiển thị ngũ ấm thế gian bất khả tư nghì nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian bất khả tư nghì.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian ly:
Hiển thị ngũ ấm thế gian ly nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian ly.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
tịch diệt:
Hiển thị ngũ ấm thế gian tịch diệt nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian tịch diệt.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
rốt ráo không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian rốt ráo không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian rốt ráo không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
tánh không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian tánh không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian tánh không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
vô pháp không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian vô pháp không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian vô pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
hữu pháp không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian hữu pháp không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian hữu pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
hữu pháp không,
hiển thị ngũ ấm thế gian hữu pháp không, nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian hữu pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
vô pháp hữu pháp không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian vô pháp hữu pháp không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian vô pháp hữu pháp không.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hiển thị Phật thế gian
độc không:
Hiển thị ngũ ấm thế gian độc không nhẫn đến
hiển thị nhứt thiết
chủng trí thế gian độc không.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật hay xuất sanh chư Phật, hay
hiển thị tướng
Phật thế gian.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy
hiển thị tướng
thế gian, đó là tướng chẳng sanh đời nầy,
đời sau. Tại sao vậy? Vì các
pháp không có tướng dùng sanh đời nầy,
đời sau được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy vì sự lớn mà
phát khởi, vì sự
bất khả tư nghì mà
phát khởi, vì sự
bất khả xưng mà
phát khởi, vì sự
vô lượng mà
phát khởi, vì sự
vô đẳng mà phát khởi”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Nầy
Tu Bồ Đề,
Bát nhã ba la mật nầy vì
đại sự, vì
bất khả tư nghì sự, vì
bất khả xưng sự, vì
vô đẳng đẳng sự, vì
vô đẳng sự mà
phát khởi.
Thế nào
Bát nhã ba la mật vì
đại sự nên phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại sự của chư Phật là: cứu tất cả
chúng sanh, chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh.
Thế nào
Bát nhã ba la mật vì
bất khả tư nghì sự nên phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề!
bất khả tư nghì sự là
Phật pháp, là pháp của
Như Lai, là pháp của đấng
tự nhiên, là pháp của bực
nhứt thiết trí.
Thế nào là
Bát nhã ba la mật vì
bất khả xưng mà phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề! Sự
bất khả xưng là vì trong tất cả
chúng sanh không ai có thể
tư duy xưng lược được pháp của Phật, pháp của
Như Lai, pháp của đấng
tự nhiên, pháp của bực
nhứt thiết trí.
Thế nào là
Bát nhã ba la mật vì sự
vô lượng mà phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề! Trong tất cả
chúng sanh không có ai thể lường được pháp của Phật, pháp của đấng
Như Lai, pháp của đấng
tự nhiên, pháp của bực
nhứt thiết trí, thế nên
Bát nhã ba la mật vì sự bất khả lượng mà
phát khởi.
Thế nào là
Bát nhã ba la mật vì
vô đẳng đẳng sự mà phát khởi?
Nầy Tu Bồ Đề! Trong tất cả
chúng sanh không ai có thể ngang bằng
đức Phật huống là hơn, thế nên
Bát nhã ba la mật vì sự
vô đẳng đẳng mà phát khởi”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật chỉ vì pháp của Phật, pháp của
Như Lai, pháp của đấng
tự nhiên, pháp của bực
nhứt thiết trí, là sự
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng mà
phát khởi ư?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Pháp của Phật, của
Như Lai, của đấng
tự nhiên, của bực
nhứt thiết trí là sự
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng. sắc thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí,
pháp tánh,
pháp tướng đều cũng
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng. Trong đây, tâm và tâm đều
bất khả đắc.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc
bất khả đắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc nên sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí đều bất khả nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Do đâu mà vì sắc
bất khả đắc nên sắc
bất khả tư nghì, đến
vô đẳng đẳng? Nhẫn đến do đâu mà vì nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc nên nhứt thiết
chủng trí bất khả tư nghì đến
vô đẳng đẳng?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Vì không ai có thể lường được sắc nhẫn đến không ai có thể lường được nhứt thiết
chủng trí nên sắc
bất khả đắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc.
Tại sao vậy? Nầy Tu Bồ Đề! Vì
sắc tướng bất khả tư nghì nên không ai lường được nhẫn đến vì
sắc tướng vô đẳng đẳng nên không ai lường được. Vì nhứt thiết
chủng trí bất khả tư nghì nên không ai lường được nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí vô đẳng đẳng nên không ai lường được.
Nầy Tu Bồ Đề! Ý của ông thế nào? Trong
bất khả tư nghì đến trong
vô đẳng đẳng chừng có thể được chăng? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đến nhứt thiết
chủng trí chừng có thể được chăng?”
Bạch đức Thế Tôn! Không thể được!
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! tất cả pháp đều
bất khả tư nghì nhẫn đến cũng đều
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Phật pháp đây
bất khả tư nghì,
bất khả xưng, bất khả lượng,
vô đẳng đẳng. Đây gọi là
Phật pháp bất khả tư nghì nhẫn đến gọi là
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Phật pháp bất khả tư nghì vì quá tư nghì vậy.
Phật pháp bất xưng vì quá xưng vậy.
Phật pháp bất khả lượng vì quá lượng vậy.
Phật pháp vô đẳng đẳng vì quá đẳng đẳng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Do đây nên tất cả pháp
bất khả tư nghì đến
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bất khả tư nghì là gọi nghĩa ấy
bất khả tư nghì,
bất khả xưng là gọi nghĩa ấy
bất khả xưng, bất khả lượng là gọi nghĩa ấy bất khả lượng,
vô đẳng đẳng là gọi nghĩa ấy
vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp của chư Phật đây
bất khả tư nghì đến
vô đẳng đẳng.
Bất khả tư nghì như
hư không bất khả tư nghì,
bất khả xưng như
hư không bất khả xưng, bất khả lượng như
hư không bất khả lượng,
vô đẳng đẳng như
hư không vô đẳng đẳng.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây gọi là
Phật pháp bất khả tư nghì nhẫn đến
vô đẳng đẳng.
Phật pháp vô lượng như vậy. Tất cả Trời, Người,
A Tu La không ai có
thể tính lường nghĩ bàn được”.
Lúc
đức Phật nói phẩm
Phật pháp bất khả tư nghì,
bất khả xưng,
vô lượng ,
vô đẳng đẳng nầy, có năm trăm
Tỳ Kheo và hai mươi
Tỳ Kheo Ni vì chẳng thọ tất cả pháp nên
phiền não hết, tâm
được giải thoát, chứng
A La Hán, sáu muôn
Ưu Bà Tắc và ba muôn
Ưu Bà Di xa lìa trần cấu, được
pháp nhãn thanh tịnh, hai mươi
đại Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn, sẽ được
thọ ký trong
Hiền Kiếp nầy.