KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI TÁM
PHẨM ĐẠI NHƯ
THỨ NĂM MƯƠI BỐN
Lúc bấy giờ
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đem hương bột
chiên đàn cõi Trời và những
hoa sen xanh, đỏ, hồng, trắng
cõi Trời vói rải
cúng dường đức Phật, rồi đến chỗ
đức Phật đảnh lễ chưn Phật đứng qua một phía mà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Vô thượng Bồ đề của chư Phật thật là rất sâu, khó thấy, khó hiểu, chẳng thể
suy gẫm mà biết được, là
vi diệu tịch diệt, chỉ có bức trí mới biết được,
ngoài ra tất cả
thế gian chẳng thể tin được. Tại sao vậy? vì trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nói thế nầy: Săc tức là
Bát nhã ba la mật,
Bát nhã ba la mật tức là sắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tức là
Bát nhã ba la mật,
Bát nhã ba la mật tức là nhứt thiết
chủng trí.
sắc tướng như,
Bát nhã ba la mật tướng như là một như, không hai, không khác. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tướng như,
Bát nhã ba la mật tướng như là một không hai, không khác”.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy
chư Thiên Tử! Sắc tức là
Bát nhã ba la mật,
Bát nhã ba la mật tức là sắc. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí là
Bát nhã ba la mật,
Bát nhã ba la mật là nhứt thiết
chủng trí.
Sắc tướng như, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tướng như là một như, không hai, không khác.
Thế nên, nầy
chư Thiên Tử! Lúc mới
thành đạo, lòng
đức Phật muốn yên lặng chẳng muốn
thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp
Vô thượng Bồ đề của
đức Phật chứng được rất sâu, khó thấy, khó hiểu, chẳng thể suy gẩm được, là
vi diệu tịch diệt, chỉ bức trí biết được, còn tất cả
thế gian chẳng thể tin được.
Tại sao vậy? Vì
Vô thượng Bồ đề không người được, không chỗ được, không
thời gian được, đây là tướng rất sâu của các pháp, chính là không có hai pháp.
Nầy
chư Thiên Tử!
Ví như vì
hư không rất sâu nên pháp nầy rất sâu, vì như rất sâu nên pháp nầy rất sâu, vì
pháp tánh, thiệt tế,
bất khả tư nghì,
vô biên rất sâu nên pháp nầy rất sâu , vì vô lai, vô khứ rất sâu nên pháp nầy rất sâu, vì
bất sanh,
bất diệt,
vô cấu, vô tịnh,
vô trí, vô đắc rất sâu nên pháp nầy rất sâu.
Nầy
chư Thiên Tử! Vì ngã rất sâu nhẫn đến
tri giả,
kiến giả rất sâu nên pháp nầy rất sâu.
Nầy
chư Thiên Tử! Vì sắc rất sâu, thọ, tưởng, hành, thức rất sâu nên pháp nầy rất sâu. Vì
sáu ba la mật nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không rất sâu nên pháp nầy rất sâu. Vì
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí rất sâu nên pháp nầy rất sâu”.
Chư thiên cõi Dục, cõi Sắc thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp vừa
đức Phật dạy, tất cả
thế gian chẳng thể tin được.
Bạch đức Thế Tôn! Pháp
sâu xa nầy chẳng vì lấy hay bỏ sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà nói, nhẫn đến chẳng vì bỏ hay lấy nhứt thiết
chủng trí mà nói.
Các
thế gian đều thọ lấy mà thật hành nào sắc là ngã, là
ngã sở, nào thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là
ngã sở, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí là ngã, là ngã sở”.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy
chư Thiên Tử! Pháp rất
sâu xa nầy chẳng phải vì lấy hay bỏ sắc mà nói, nhẫn đến chẳng phải vì lấy hay bỏ nhứt thiết
chủng trí mà nói.
Nầy
chư Thiên Tử! Nếu có
Bồ Tát vì thọ lấy sắc nhẫn đến vì thọ lấy nhứt thiết
chủng trí mà
tu hành,
Bồ Tát nầy chẳng
tu hành được
Bát nhã ba la mật, chẳng
tu hành được
Thiền na ba la mật nhẫn đến chẳng
tu hành được nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Pháp rất
sâu xa nầy
tùy thuận tất cả pháp:
Tùy thuận Đàn ba la mật nhẫn đến
tùy thuận nhứt thiết
chủng trí.
Pháp nầy
vô ngại: Chẳng ngại sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng ngại nhứt thiết
chủng trí.
Nầy
chư Thiên Tử! Pháp nầy tên là
vô ngại tướng, vì đồng như
hư không, vì đồng
như pháp tánh,
pháp trụ, thiệt tế,
bất khả tư nghì tánh, vì đồng như
hư không,
vô tướng,
vô tác.
Pháp nầy sanh tướng: Sắc chẳng
sanh nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh, vì
bất khả đắc vậy.
Pháp nầy
không xứ sở, vì xứ sở của sắc nhẫn đến xứ sở của nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc vậy”.
Bấy giờ
chư Thiên cõi Dục cõi Sắc thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài
Tu Bồ Đề là
Phật tử, tùy Phật sanh. Tại sao vậy? Vì chỗ nói của Ngài
Tu Bồ Đề đều hiệp với không”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy
chư Thiên Tử! Các Ngài bảo
Tu Bồ Đề là
Phật tử, tùy Phật sanh?
Thế nào là tùy Phật sanh?
Vì tướng như nên
Tu Bồ Đề tùy Phật sanh. Tại sao vậy? Vì
đức Như Lai tướng như chẳng lai, chẳng khứ,
Tu Bồ Đề tướng như cũng chẳng lai, chẳng khứ, thế nên
Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.
Lại
Tu Bồ Đề từ nào đến giờ vẫn tùy Phật sanh. Tại sao vậy? Vì
đức Như Lai tướng như tức là tất cả
pháp tướng như, tất cả
pháp tướng như tức là
đức Như Lai tướng như. Trong tướng như nầy cũng không có tướng như. Thế nên
Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.
Lại
đức Như Lai nhưlà tướng
thường trụ,
Tu Bồ Đề như cũng là tướng
thường trụ.
Đức Như Lai như tướng cũng không dị biệt. Thế nản
Tu Bồ Đề là
tùy thuận Phật sanh.
Đức Như Lai tướng không có chỗ ngại, tất cả
pháp như tướng cũng không có chỗ ngại, đây là
Như Lai như tướng cùng nhứt thiết
pháp như tướng là một như, không hai, không khác. Như tướng nầy
vô tác trọn không chẳng như, nên như tướng nầy là như
duy nhứt, không hai, không khác. Thế nên
Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.
Đức Như Lai như tướng tất cả chỗ
vô niệm, vô biệt,
Tu Bồ Đề như tướng cũng tất cả chỗ
vô niệm, vô biệt.
Đức Như Lai như tướng chẳng dị biệt, chẳng thể được,
Tu Bồ Đề cũng vậy. Thế nên
Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.
Đức Như Lai như tướng chẳng xa rời các
pháp như tướng, như: nầy trọn không chẳng như, vì như chẳng khác nên
Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh, mà cũng không chỗ tùy.
Lại
đức Như Lai như tướng chẳng
quá khứ, chẳng
vị lai, chẳng
hiện tại, các
pháp như tướng cũng chẳng
quá khứ, chẳng
vị lai, chẳng
hiện tại, thế nên
Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.
Lại
đức Như Lai như chẳng ở trong như
quá khứ, chẳng ở trong như
vị lai, chẳng ở trong như
hiện tại.
Quá khứ như,
vị lai như,
hiện tại như cũng chẳng ở trong
Như Lai như, là một như, không hai, không khác.
Sắc như,
Như Lai như, thọ, tưởng, hành, thức như,
Như Lai như, là một như, không hai, không khác.
Ngã như nhẫn đến
tri giả như,
Như Lai như, là một như, không hai, không khác.
Đàn ba la mật như nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí như,
Như Lai như, là một như, không hai, không khác.
Đại Bồ Tát do được như vậy nên gọi là Như Lai”.
Lúc Ngài
Tu Bồ Đề nói phẩm Như tướng trên đây, cõi
Đại thiên thế giới nầy
chấn động sáu cách.
Chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đem bột
chiên đàn hương Trời rải trên
đức Phật, cũng rải trên Ngài
Tu Bồ Đề mà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Phật là chưa từng có. Ngài
Tu Bồ Đề do
đức Như Lai như mà tùy Phật sanh”.
Ngài
Tu Bồ Đề lại nói với
chư thiên: “Nầy các Ngài!
Tu Bồ Đề chẳng từ trong sắc mà Phật sanh, cũng chẳng từ trong sắc như mà tùy Phật sanh.
Tu Bồ Đề chẳng rời sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng rời sắc như mà tùy Phật sanh. Nhẫn đến
Tu Bồ Đề chẳng từ trong nhứt thiết
chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng trong nhứt thiết
chủng trí mà tùy Phật sanh, chẳng rời nhứt thiết
chủng trí như mà tùy Phật sanh.
Tu Bồ Đề chẳng từ trong
vô vi mà tùy Phật sanh, chẳng từ
vô vi như mà tùy Phật sanh, chẳng rời
vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng rời
vô vi như mà tùy Phật sanh.
Tại sao vậy? Vì tất cả pháp ấy đều là
vô sở hữu, đều là
bất khả đắc, không người tùy sanh, cũng
không pháp tùy sanh”.
Lúc bấy giờ Ngài
Xá Lợi Phất bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Như ấy chơn thiệt chẳng hư.
Pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị rất sâu. Trong đây,
sắc không thể được, sắc
như không thể được. Tại sao vậy? Vì sắc còn không thể được, huống gì sắc như mà lại có thể được.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng thể được, nhứt thiết
chủng trí như chẳng thể được. Tại sao vậy? Vì nhứt thiết
chủng trí còn chẳng thể được, huống gì nhứt thiết
chủng trí như mà lại có thể được”.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất! Như ấy chơn thiệt chẳng như.
Pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị rất sâu. Trong đây, sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí đều chẳng thể được, sắc như nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí như đều chẳng thể được. Tại sao vậy? Vì sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí còn chẳng thể được, huống gì sắc như nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí như mà lại có thể được”.
Lúc Ngài
Xá Lợi Phất nói như tướng trên đây, trong
pháp hội có hai trăm vị
Tỳ Kheo vì chẳng thọ tất cả pháp nên được hết
phiền não, thành
A La Hán, năm trăm
Tỳ Kheo Ni xa trần lìa cấu, được
pháp nhãn thanh tịnh. Năm ngàn
đại Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn. Sáu ngàn
Bồ Tát vì chẳng thọ tất cả pháp nên hết
phiền não, tâm
được giải thoát, thành
A La Hán.
Đức Phật phán dạy: “Nầy
Xá Lợi Phất! Sáu ngàn
Bồ Tát thành
A La Hán trên đây, đời trước họ gặp năm trăm
đức Phật,
cúng dường, gần gũi. Họ thật hành
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định. Vì không có sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật nên họ thật hành biệt dị. Họ nghĩ rằng đây là
bố thí, đây là
trì giới, đây là
nhẫn nhục, đây là
tinh tấn, đây là
thiền định. Vì không có
Bát nhã ba la mật nên không có sức
phương tiện. Vì không có sức
phương tiện nên thật hành biệt dị. Vì biệt dị nên không được
tướng không biệt dị. Vì không được
tướng không biệt dị nên chẳng được vào bực
Bồ Tát. Vì chẳng được vào bực
Bồ Tát nên được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát dẫu thật hành
Bồ Tát đạo mà xa rời
Bát nhã ba la mật thì không có sức
phương tiện, nên ở nơi thiệt tế chứng lấy mà
thành quả vi
Thanh văn thừa”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! do
nhơn duyên gì cũng đồng
tu hành pháp không,
vô tướng,
vô tác, mà người không sức
phương tiện thì chứng lấy thiệt tế, thành
Thanh văn thừa, người có sức
phương tiện lại được
Vô thượng Bồ đề?”
Đừc Phật phán dạy: “Nầy
Xá Lợi Phất! Có
Bồ Tát vì rời tâm
Bát nhã ba la mật mà
tu pháp không,
vô tướng,
vô tác nên không có sức
phương tiện, do đây mà thành
Thanh văn thừa.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lại có
Bồ Tát chẳng rời tâm
Bát nhã ba la mật mà
tu pháp không,
vô tướng,
vô tác nên có sức
phương tiện, do đây mà vào bực
Bồ Tát, được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như thân chim dài lớn đến trăm
do tuần hoặc hai trăm, ba trăm
do tuần mà không có cánh, từ
Trời Đao Lợi rơi xuống
Diêm Phù Đề. Ý ngươi nghĩ sao, nấy
Xá Lợi Phất! Giữa đường đang rơi, chim không cánh ấy muốn
trở về cung Trời có được chăng?”
- Bạch đức Thế Tôn! Không thể được.
- Nầy
Xá Lợi Phất! Chim ấy mong rằng sau khi rơi xuống
Diêm Phù Đề, thân chim sẽ nguyên vẹn không
đau đớn có được chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không thể được. Lúc đã rơi xuống đất, chim ấy tất phải
đau đớn hoặc chết. Vì chi ấy
thân thể đã lớn lại không cánh.
- Cũng vậy, nầy
Xá Lợi Phất!
Bồ Tát dầu có
thời gian kiếp số bằng cát
sông Hằng, tu hạnh
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định, sanh
đại tâm, làm
đại sự vì được
Vô thượng Bồ đề mà thọ
vô lượng nguyện, nếu xa rời sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật tất phải sa vào
Thanh Văn thừa hoặc
Bích Chi Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu
Bồ Tát dầu tưởng
niệm trì giới,
thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến của chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại nhưng lại tướng
thọ trì,
Bồ Tát nầy chẳng biết, chẳng hiểu chư Phật, giới, định, huệ, giải thióat,
giải thoát tri kiến, chỉ nghe tiếng nói về
danh tự, không,
vô tướng,
vô tác, rồi nắm lấy tiếng
danh tự ấy để
hồi hướng Vô thượng Bồ đề,
Bồ Tát nầy trụ trong bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, không thể qua khỏi được. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát nầy xa rời sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật mà
thọ trì các
thiện căn để
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
Bồ Tát từ khi mới
phát tâm đến nay không xa rời tâm
Bát nhã ba la mật, tu hạnh
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định, ví có sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật nên không nắm lấy tướng, ở nơi giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến của chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại, chẳng nắm lấy
tướng không,
vô tướng,
vô tác,
giải thoát môn. Phải biết
Bồ Tát nầy chẳng sa vào
Thanh Văn,
Duyên Giác mà thẳng đến
Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát nầy từ nào vẫn không nắm lấy tướng trong khi tu các
thiện căn: không nắm lấy tướng
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định, không nắm lấy tướng giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Nầy
Xá Lợi Phất! đây gọi là
Bồ Tát có sức
phương tiện dùng tâm
ly tướng mà
tu hành bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định, nhẫn đến dùng tâm
ly tướng tu hành nhứt thiết chủng tr”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như tôi nhận hiểu nghĩa của
đức Phật nói, nếu
đại Bồ Tát chẳng rời lìa sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật, phải biết
Bồ Tát nầy gần
Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì từ khi mới pháp tâm
đến nay,
Bồ Tát nầy
không pháp biết được: hoặc là sắc hoặc là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! có
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo mà xa rời
Bát nhã ba la mật và sức
phương tiện, phải biết người ấy nơi
Vô thượng Bồ đề hoặc được hoặc chẳng được. Tại sao vậy? Vì
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo ấy có
bố thí đều nắm lấy tướng, có
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định đều nắm lấy tướng, thế nên chẳng nhứt định được
Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Vì cớ trên đây nên
đại Bồ Tát muốn được
Vô thượng Bồ đề chẳng nên xa rời sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật.
đại Bồ Tát nầy trụ trong sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật, dùng
tâm vô tướng, vô đắc xứng đáng tu hạnh
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định. Nhẫn đến dùng
tâm vô tướng, vô đắc cứng đáng tu nhứt thiết chủng trí”.
Lúc bấy giờ
chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục
bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Vô thượng Bồ đề thiệt là khó được. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát phải biết tất cả các pháp rồi mới được
Vô thượng Bồ đề, pháp ấy cũng chẳng thể được”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy
chư Thiên Tử!
Vô thượng Bồ đề rất khó được.
Đức Phật cũng đã được tất cả pháp nhứt thiết
chủng trí rồi được
Vô thượng Bồ đề, cũng không chỗ được, không hay biết, không bị biết, không người biết. Tại sao vậy? Vì các pháp
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Như lời dạy của Phật,
Vô thượng Bồ đề rất khó được. Theo tôi hiểu nghĩa của Phật dạy thì
Vô thượng Bồ đề nầy rất dễ được. Tại sao vậy? Vì không có người được
Vô thượng Bồ đề, cũng không có
pháp bị được, tất cả pháp, tất cả
pháp tướng không:
không pháp bị được, không người hay được, vì tất cả
pháp không vậy. Cũng
không pháp tăng được,
không pháp giảm được. Từ
bố thí nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, các pháp nầy đều không có cái bị được, không có ai hay được. Do đây nên theo ý tôi thì
Vô thượng Bồ đề dễ được. Tại sao vậy? Vì sắc
sắc tướng không nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí nhứt thiết
chủng trí tướng không”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói với Nầy
Tu Bồ Đề: “Thưa Ngài! Nếu tất cả
pháp không như
hư không,
hư không kia chẳng nghĩ rằng tôi sẽ được
Vô thượng Bồ đề.
Nếu
đại Bồ Tát tin hiểu tất cả
pháp không như
hư không mà
Vô thượng Bồ đề nầy dễ được, tại sao hiện nay có
hằng hà sa Bồ Tát cầu
Vô thượng Bồ đề lại thối chuyển? Thế nên biết rằng
Vô thượng Bồ đề chẳng phải dễ được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Nơi
Vô thượng Bồ đề, sắc, thọ, tưởng, hành, thức có
thối chuyển chăng? Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí có
thối chuyển chăng?”
- Không có
thối chuyển.
- Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Nơi
Vô thượng Bồ đề, rời sắc, thọ, tưởng, hành, thức có pháp gì
thối chuyển chăng? Nhẫn đến rời nhứt thiết
chủng trí có pháp
thối chuyển già chăng?
- Không có thối chuyển!
- Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Ý Ngài nghĩ thế nào? Sắc như tướng, thọ như tướng nhẫn đến rời nhứt thiết
chủng trí như tướng, nơi
Vô thượng Bồ đề có
thối chuyển chăng?
- Không có gì thối chuyển!
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Rời sắc như tướng nhẫn đến rời nhứt thiết
chủng trí như tướng, có pháp gì
thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề chăng?
- Không có pháp
thối chuyển.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Nơi
Vô thượng Bồ đề như có
thối chuyển chăng? Nhẫn đến
pháp tánh,
pháp trụ,
pháp vị, thiệt tế, bất tư nghì tánh, nơi
Vô thượng Bồ đề có
thối chuyển chăng?
- Không có
thối chuyển.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Rời như, rời
pháp tánh,
pháp trụ,
pháp vị, thiệt tế, bất tư nghì tánh, nơi
Vô thượng Bồ đề có pháp gì
thối chuyển chăng?
- Không có pháp gì
thối chuyển.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Nếu các pháp
rốt ráo chẳng thể được thì pháp gì
thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề?
- Như lời Ngài
Tu Bồ Đề nói, trong
pháp nhẫn ấy không có
Bồ Tát thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề.
Nếu không thối chuyển,
cứ theo đức Phật dạy, người
cầu đạo có ba hạng:
A La Hán đạo,
Bích Chi Phật đạo và
Phật đạo, ba hạng nầy là không sai khác. Như lời
Tu Bồ Đề nói thời chỉ có một hạng
đại Bồ Tát cầu
Phật đạo thôi”.
Bây giờ Ngài
Mãn Từ Tử bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Ngài nên hỏi
Tu Bồ Đề là có một
Bồ Tát thừa chăng?”
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Phải chăng Ngài muốn nói có một
Bồ Tát thừa?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Ở trong
chư pháp như, Ngài muốn có
ba thừa:
Thanh Văn,
Bích Chi Phật và
Phật thừa chăng?”
- Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Không.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Trong
ba thừa sai biệt ấy có như để được chăng?
- Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Không.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Như ấy có một tướng, hai tướng,
ba tướng chăng?
- Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Không.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Trong như ấy, Ngài muốn có nhiều
Bồ Tát nhẫn đến có một
Bồ Tát được chăng?
- Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Không.
- Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Trong bốn thứ ấy đều không thể có được người
ba thừa, sao
Xá Lợi Phất lại nghĩ rằng người cầu
Thanh Văn thừa, người cầu
Bích Chi Phật thừa, người cầu Phật thừa?
Thưa ngài
Xá Lợi Phất!
đại Bồ Tát nghe
chư pháp như tướng nầy mà lòng chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng
ăn năn, chẳng nghi thì gọi là
đại Bồ Tát hay
thành tựu Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật khen Ngài
Tu Bồ Đề: “Lành thay!
Lành thay! Nầy Tu Bồ Đề! Lời của ngươi nói đó đều là
Phật lực.
Nếu
đại Bồ Tát nghe nói như ấy không có các pháp biệt dị mà chẳng kinh sợ,
nghi ngờ, phải biết
Bồ Tát nầy hay
thành tựu Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thành tựu Bồ Đề nào?”
Đức Phật dạy: “Thành tựu Phật
Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải
tu hành thế nào?”
Đức Phật dạy: “Phải
sanh khởi tâm bình đẳng với tất cả
chúng sanh, cũng dùng
tâm bình đẳng khi nói với họ, không có thiên lệnh.
Với tất cả
chúng sanh phát khởi tâm
đại từ, cũng dùng tâm
đại từ khi nói với họ.
Với tất cả
chúng sanh phải có tâm khiêm hạ, cũng dùng tâm khiêm hạ khi nói với họ.
Với tất cả
chúng sanh phải có tâm làm
an ổn, cũng dùng tâm làm
an ổn khi nói với họ.
Với tất cả
chúng sanh phải có tâm
vô ngại, cũng dùng tâm
vô ngại khi nói với họ.
Với tất cả
chúng sanh phải có
tâm không não hại, cũng dùng
tâm không não hại nói với họ.
Với tất cả
chúng sanh phải có tâm ái kính, cũng dùng tâm ái kính khi nói với họ. Ái kính họ như
cha mẹ, như
anh chị em, như con cháu, như
bà con, như bạn bè.
đại Bồ Tát nầy phải tự mình chẳng
sát sanh,cũng chẳng dạy người khác chẳng
sát sanh, khen ngợi pháp chẳng
sát sanh,
vui mừng khen ngợi các người chẳng
sát sanh. Nhẫn đến tự mình phải không
tà kiến, cũng dạy người khác không
tà kiến, khen ngợi
pháp không tà kiến,
vui mừng khen ngợi những người không
tà kiến.
Muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải
tu hành như vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải
tu hành sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền, phải tự
tu hành từ tâm,
bi tâm, hỉ tâm,
xả tâm, phải tự
tu hành không xứ định, thức xức định,
vô sở hữu xứ định, phi
phi tưởng xứ định, khen ngợi pháp
sơ thiền đến pháp phi
phi tưởng xứ định,
vui mừng khen ngợi những người
tu hành sơ thiền đến
tu hành phi
phi tưởng xứ định.
Phải tự mình đầy đủ
Đàn ba la mật,
Thi ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tấn
ba la mật,
Thiền ba la mật,
Bát nhã ba la mật, cũng dạy người khác đầy đủ
sáu ba la mật, khen ngợi sáu
pháp ba la mật,
vui mừng khen ngợi những người đầy đủ
sáu ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải tự mình tu
nội không nhẫn đến
bát thánh đạo, tự tu không,
vô tướng,
vô tác,
tam muội, tự tu
bát bội xả, tự tu
cửu thứ đệ định, cũng dạy người khác tu
nội không nhẫn đến
cửu thứ đệ định, khen ngợi các pháp
nội không nhẫn đến
cửu thứ đệ định,
vui mừng ngợi khen những gnười tu
nội không nhẫn đến
cửu thứ đệ định.
Đại Bồ Tát phải tự đầy đủ
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, cũng dạy người khác đầy đủ
mười trí lực nhẫn đến
đại từ đại bi, khen ngợi các pháp ấy,
vui mừng khen ngợi những người đấy đủ
mười trí lực nhẫn đến
đại từ đại bi.
Đại Bồ Tát phải tự mình
thuận quán,
nghịch quán mười hai
nhơn duyên, cũng dạy người khác
thuận quán,
nghịch quán mười hai
nhơn duyên, khen ngợi pháp quán ấy và
vui mừng khen ngợi người thật hành.
Muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải
tu hành như vậy.
Đại Bồ Tát lại phải tự mình biết khổ dứt
tập chứng diệt
tu đạo, cũng dạy người biết khổ dứt chứng diệt
tu đạo, khen ngợi pháp biết dứt chứng tu ấy và
vui mừng khen ngợi người biết khổ dứt
tập chứng diệt
tu đạo.
Đại Bồ Tát tự mình phát sanh
chứng trí quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến tự phát sanh
chứng trí quả
Bích Chi Phật mà chẳng
tự chứng lấy quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chẳng
tự chứng lấy quả
Bích Chi Phật, cũng dạy người khác
chứng quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến dạy người khác
chứng quả Bích Chi Phật, khen ngợi pháp
Tu Đà Hoàn quả nhẫn đến khen ngợi
pháp Bích Chi Phật đạo,
vui mừng khen ngợi người
chứng nhập qủ
Tu Đà Hoàn nhẫn đến người
chứng nhập Bích Chi Phật đạo.
Đại Bồ Tát tự mình nhập
Bồ Tát vị,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, cũng dạy người khác nhập
Bồ Tát vị,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, khen ngợi
pháp nhập Bồ Tát vị,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh,
vui mừng khen ngợi người nhập
Bồ Tát vị,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh.
Đại Bồ Tát tự ình
phát khởi Bồ Tát thần thông, tự sanh nhứt thiết
chủng trí, cũng dạy người khác
phát khởi Bồ Tát thần thông, sanh nhứt thiết
chủng trí, khen ngợi pháp
phát khởi Bồ Tát thần thông, pháp sanh nhứt thiết
chủng trí,
vui mừng khen ngợi người
phát khởi Bồ Tát thần thông, sanh nhứt thiết
chủng trí.
Đại Bồ Tát phải tự dứt
tập khí tất cả
kiết sử, cũng dạy người dứt
tập khí tất cả
kiết sử, khen ngợi pháp dứt
tập khí,
vui mừng khen ngợi người dứt
tập khí tất cả
kiết sử.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải tự nắm lấy
thọ mạng thành tựu, cũng dạy người nắm lấy
thọ mạng thành tựu, khen ngợi pháp nắm lấy
thọ mạng thành tựu,
vui mừng khen ngợi người nắm lấy
thọ mạng thành tựu.
Đại Bồ Tát thành tựu pháp trụ, cũng dạy người
thành tựu pháp trụ, khen ngợi
pháp thành tựu pháp trụ,
vui mừng khen ngợi người
thành tựu pháp trụ.
Nầy Tu Bồ Đề! Muốn
thành tựu Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải
tu hành như vậy. Cũng phải học sức
phương tiện của
Bát nhã ba la mật như vậy.
Lúc học như vậy,
Bồ Tát nầy sẽ được sắc
vô ngại, sẽ được thọ, tưởng, hành, thức
vô ngại, nhẫn đến sẽ được
pháp trụ vô ngại.
Tại sao vậy?
Vì
đại Bồ Tát nầy từ trước nhẫn lại chẳng thọ lấy sắc, chẳng thọ lấy thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng thọ lấy nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy?
Vì sắc mà chẳng người thọ là chẳng phải sắc. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí mà chẳng người thọ là chẳng phải nhứt thiết chủng trí”.
Lúc nói
Bồ Tát hạnh nầy, có hai ngàn
Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn.
PHẨM BẤT THỐI CHUYỂN
THỨ NĂM MƯƠI LĂM
Lúc bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Do hạnh gì, loại gì,
tướng mạo gì mà biết là bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển?”
Đức Phật dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát biết được bậc
phàm phu, bậc
Thanh Văn, bậc
Bích Chi Phật và bậc Phật. Trong tướng như của các bậc ấy không hai, không khác, cũng chẳng nghĩ, chẳng
phân biệt. Vào trong như ấy, nghe sự ấy suốt thẳng qua không nghi. Tại sao vậy? Vì trong như ấy không một tướng, không hai tướng.
Đại Bồ Tát nầy cũng chẳng nói lời
vô ích, chỉ nói toàn lời
lợi ích, chẳng nhìn đến chỗ hay dỡ của người khác.
Nầy Tu Bồ Đề! Do những hạnh, loại,
tướng mạo như
vậy mà biết được bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển”.
- Bạch đức Thế Tôn! Lại còn do hạnh, loại,
tướng mạo nào mà biết là bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển?
- Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có thể xem thấy được tất cả
pháp không hạnh, không loại,
không tướng mạo, phải biết đây là bậc
bất thối chuyển.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp không hạnh, không hoại,
không tướng mạo,
đại Bồ Tát chuyển những pháp gì mà gọi là bậc
bất thối chuyển?
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát ở trong sắc mà chuyển nhẫn đến ở trong
Vô thượng Bồ đề mà chuyển thì gọi là
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Tại sao vậy? Vì sắc
tánh không nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề tánh không thì
Bồ Tát nầy sẽ trụ chỗ nào.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát chẳng nhìn xem diện mạo,
ngôn ngữ của
ngoại đạo, của
Sa Môn, của
Bà La Môn.
Bồ Tát chẳng bao giờ có sự nghĩ rằng các nhà
ngoại đạo,
Sa Môn,
Bà La Môn nầy thiệt biết, thiệt thấy hoặc nói
chánh kiến.
Bồ Tát chẳng có tâm
nghi ngờ, chẳng mắc
giới thủ, chẳng sa
tà kiến, cũng chẳng cầu việc tốt
thế tục để làm
thanh tịnh, chẳng
lễ lạy cúng dường,
chư Thiên.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà biết là bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề!
đại Bồ Tát chẳng sanh nơi
nhà hạ tiện, nhẫn đến chẳng sanh chỗ
bát nạn, thường chẳng thọ thân người nữ. Do những hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà biết là bực
bất thối chuyển đại Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thường thật hành mười
nghiệp đạo lành: tự mình chẳng
sát sanh nhẫn đến chẳng
tà kiến, cũng dạy người chẳng
sát sanh nhẫn đến chẳng
tà kiến,
vui mừng khen ngợi người chẳng
sát sanh nhẫn đến chẳng
tà kiến.
Bồ Tát nầy dầu trong giấc
chiêm bao cũng chẳng phạm mười
nghiệp đạo ác. Do những hạnh, loại,
tướng mạo trên đây mà biết là bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Vì lợi ích cho
chúng sanh mà
đại Bồ Tát thật hành
Đàn ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật. Đây gọi là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Tất cả
mười hai bộ kinh, từ
khế kinh đến
luận nghị,
đại Bồ Tát thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm. Lúc ban
pháp thí,
đại Bồ Tát nghĩ rằng do
pháp thí nầy mà
tâm nguyện của tất cả
chúng sanh hoàn mãn, đem
công đức pháp thí nầy cho tất cả
chúng sanh cùng
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Trong pháp rất sâu,
đại Bồ Tát chẳng
nghi ngờ.
Tại sao vậy? Vì bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển nầy đều chẳng thấy có pháp nào sanh được chỗ
nghi ngờ. Từ sắc đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng thấy pháp nào sanh được chỗ
nghi ngờ. Do những hạnh, loại,
tướng mạo đây mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Thân, khẩu, ý,
ba nghiệp của
đại Bồ Tát đều
dịu dàng. Do đức từ mà thân, khẩu,
ý thành tựu. Do đây mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát chẳng chung cùng với
ngũ cái:
dâm dục,
sân khuể, thùy miên, điệu hối và nghi. Do hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Với tất cả chỗ,
đại Bồ Tát đều không
ái trước. Do đây mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc ra vào đi lại ngồi, nằm, đi, đứng, cất chưn, hạ chưn,
đại Bồ Tát luôn
an ổn, thường tự
chánh niệm,
nhứt tâm nhìn đất mà bước. Do những hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Y phục, mền nệm của
đại Bồ Tát mặc dùng không ai gớm nhơ,
Bồ Tát nầy
ưa thích sạch sẽ, ít mang bịnh tật. Do đây mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Thân thể người
thường có tám vạn hộ trùng
xâm phạm cắn ăn.
Thân thể của bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển không có hộ trùng ấy. Vì
công đức của
Bồ Tát nầy vượt ngoài
thế gian.
Tùy theo công đức xuất thế nầy
tăng ích mà
Bồ Tát được
thân thanh tịnh, được
tâm thanh tịnh. Do những hạnh, loại,
tướng mạo đây mà biết là bực
bất thối chuyển đại Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát được
thân thanh tịnh, được
tâm thanh tịnh thế nào?”
Đức Phật phán dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Tùy
thiện căn tăng ích đã được mà
diệt trừ tâm vạy vò, tâm tà vọng, đây gọi là
thân thanh tịnh và
tâm thanh tịnh. Do
thân thanh tịnh và
tâm thanh tịnh nầy mà
đại Bồ Tát vượt hơn bưc
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật để vào trong
Bồ Tát vị. Đây gọi là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát chẳng quý
lợi dưỡng. Dầu thật hành mười hai
Hạnh Đầu đà mà chẳng quý pháp
Đầu Đà. Do đây mà gọi là bậc
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thường chẳng phát sanh tâm
xan tham, tâm tật đố, tâm
ngu si, thường chẳng phát sanh tâm
phá giới, tâm sân động, tâm
giải đãi,
tâm tán loạn. Do những hạnh, loại,
tướng mạo đây mà biết là bậc
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tâm an trụ chẳng lay động,
thâm nhập trí huệ,
nhứt tâm nghe nhận những pháp theo nghe và sự việc
thế gian đều hiệp với
Bát nhã ba la mật. Đây là
tướng mạo bất thối chuyển của bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Ở trước
đại Bồ Tát, nếu
ác ma hóa làm tám
đại Địa ngục, trong đó có ngàng ức vạn
Bồ Tát đang bị đốt nấu
thống khổ.
Ác ma bảo
đại Bồ Tát nầy rằng: Những người trong
Địa ngục đây toàn là bực
bất thối chuyển đại Bồ Tát được
đức Phật thọ ký mà đọa vào đây, nếu Ngài được
đức Phật thọ ký bực
bất thối chuyển cũng sẽ đọa vào
đại Địa ngục nầy. Chi bằng Ngài xả bỏ tâm
Bồ Tát thì chẳng bị đọa
Địa ngục mà sẽ được sanh lên
cõi Trời.
Dầu thấy sự trên, dầu
nghe lời nói trên,
Bồ Tát nầy vẫn chẳng động tâm, chẳng nghi, chẳng sợ mà tự nghĩ rằng không bao giờ có sự ấy.
Do hạnh, loại,
tướng mạo trên đây mà biết là bực
bất thối chuyển đại Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma lại hóa làm
Tỳ Kheo đắp y đến bảo
Bồ Tát rằng: Trước kia Ngài nghe bảo phải tu
sáu ba la mật nhẫn đến bảo phải tịnh tu được
Vô thượng Bồ đề đó, Ngài nên mau bỏ đi, từ lúc mới
phát tâm đến nay có bao nhiêu
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề, Ngài cũng nên mau bỏ đi. Nếu Ngài bằng lòng bỏ, tôi sẽ dạy Ngài
Phật pháp chơn thiệt. Chỗ nghe học trước kia của Ngài đều chẳng phải
Phật pháp, chẳng phải của Phật dạy, đó là đều văn sức nhóm hiệp làm ra thôi. Chỗ nói của tôi mới thiệt là
Phật pháp.
Nếu
Bồ Tát nghe nói như vậy rồi sanh
tâm kinh sợ,
nghi ngờ, phải biết đây là chưa được
đức Phật thọ ký, chưa vào trong tánh
bất thối. Nếu là bực
bất thối dầu nghe nói như
vậy mà tâm chẳng lay động, chẳng sợ, chẳng nghi, luôn
tùy thuận y chỉ nơi pháp
vô tác,
vô sanh, chẳng tin làm theo lời người khác. Lúc thật hành
sáu ba la mật chẳng theo lời người khác, nhẫn đến lúc thật hành
Vô thượng Bồ đề cũng chẳng theo lờingười khác, hiện thấy
thiệt tướng của các pháp, chẳng tin làm theo lời người khác,
ví như bực
lậu tận A La Hán,
ác ma chẳng lay chuyển được.
Nầy Tu Bồ Đề! Với
đại Bồ Tát bất thối chuyển, những hàng cầu
Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng thể
phá hoại được, chẳng thể chiết phục được tâm của
Bồ Tát nầy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nầy
quyết định an trụ trong bực
bất thối chuyển chẳng theo lời người khác, dầu là lời của Phật dạy cũng chẳng liền tin lấy ngay, huống là
lời nói của những người cầu
Thanh Văn, cầu
Bích Chi Phật và của
ác ma,
ngoại đạo,
phạm chí mà lại
tin theo, không bao giờ có việc ấy.
Tại sao vậy?
Đại Bồ Tát nầy chẳng thấy có pháp gì có thể
tin theo: chẳng thấy có sắc hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc sắc như nhẫn đến thức như, nhẫn đến chẳng thấy
Vô thượng Bồ đề, hoặc
Vô thượng Bồ đề như.
Do hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà biết là bực
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma hóa thân Tỳ Kheo đến bảo
Bồ Tát rằng: Chỗ
tu hành của Ngài là pháp
sanh tử, chẳng phải đạo
nhứt thiết trí, Ngài nên tại thân đời nay
chứng quả khổ tận. Khi đó
ác ma dùng hạnh
thế gian nói pháp tợ đạo, pháp tợ đạo nầy là sự
hệ phược tam giới, như là tướng xương trắng, hoặc nói về
sơ thiền nhẫn đến nói về phi
phi tưởng xứ. Ngài dùng đạo nầy, hạnh nầy sẽ được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến sẽ được quả
A La Hán. Ngài dùng đạo nầy, đời nay sẽ dứt hết khổ sanh, sao Ngài lại mãi chịu lấy những
khổ não trong
sanh tử làm gì. Còn chẳng cần thọ lấy
thân tứ đại đời nay huống là sẽ lại thọ lấy thân
đời sau.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nầy khi
nghe lời nói ấy lòng chẳng kinh sợ,
nghi ngờ, tự nghĩ rằng vị
Tỳ Kheo nầy làm
lợi ích cho tôi chẳng ít, vì tôi mà nói pháp tợ đạo, thật
hành pháp tợ đạo nầy còn chẳng chứng được quả
Tu Đà Hoàn, huống là chứng được quả
Vô thượng Bồ đề.
Đại Bồ Tát nầy càng thêm
vui mừng mà nghĩ rằng: Vị
Tỳ Kheo nầy làm
lợi ích cho tôi không ít, vì tôi mà nói pháp chướng đạo, chướng
học đạo Tam thừa.
Khi đó
ác ma biết
Bồ Tát vui mừng nên bảo rằng: Ngài muốn thầy hàng
đại Bồ Tát cúng dường hằng sa chư Phật, cùng ở chỗ
hằng sa chư Phật
tu hành sáu ba la mật, cũng hầu cận
hằng sa chư Phật thưa hỏi
Bồ Tát đạo: thế nào an trụ
Bồ Tát thừa? Thế nào thật hành
sáu ba la mật,
tứ niệm xứ nhẫn đến
đại từ đại bi? Hàng
đại Bồ Tát ấy theo đúng như lời chư Phật dạy mà an trụ, mà thật hành, mà
tu tập. Hàng
đại Bồ Tát tu học như
vậy mà còn chẳng được
Vô thượng Bồ đề, chẳng được nhứt thiết
chủng trí huống là Ngài mà lại sẽ được
Vô thượng Bồ đề!
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nầy khi nghe nói như
vậy mà lòng chẳng kinh lạ, càng thêm
vui mừng mà tự nghĩ rằng:
Tỳ Kheo nầy làm lợi cho tôi chẳng ít, vì tôi mà nói pháp chướng đạo.
Bấy giờ
ác ma biết tâm
Bồ Tát nầy chẳng
kinh nghi nên liền hóa làm đông nhiều
Tỳ Kheo mà bảo
Bồ Tát nầy rằng: Những vị nầy đều là
Bồ Tát phát tâm cầu
Phật đạo, hiện nay đều an trụ bực
bất thối chuyển cả. Những vị nầy còn chẳng thể được
Vô thượng Bồ đề, huống là Ngài có thể được!
Nghe và thấy sự việc trên đây,
đại Bồ Tát nầy liền nghĩ rằng đây là
ác ma nói pháp tương tợ đạo,
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật chẳng nên
thối chuyển tâm
Vô thượng Bồ đề, cũng chẳng được sa vào đạo
Thanh Văn, đạo
Bích Chi Phật. lại nghĩ rằng: Thật hành
Đàn ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí mà chẳng được
Vô thượng Bồ đề, không bao giờ có sự ấy.
Nầy Tu Bồ Đề! Do những hạnh, loại,
tướng mạo trên đây mà biết là bực
bất thối chuyển đại Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tự nghĩ rằng: Nếu
Bồ Tát có thể theo đúng
lời Phật dạy, chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí,
Bồ Tát nầy trọn chẳng
thối chuyển Vô thượng Bồ đề, nếu
Bồ Tát hay biết
ma sự cũng chẳng mất
Vô thượng Bồ đề.
Do hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà biết là
tướng đại Bồ Tát bất thối chuyển“.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Chuyển nơi pháp gì gọi là
bất thối chuyển?”
Đức Phật dạy: “Chuyển nơi
sắc tướng, chuyển nơi thọ, tưởng, hành, thức tướng, nhẫn đến chuyển nơi Phật tướng, do đây mà gọi là
tướng đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy dùng
pháp tự tướng không để nhập
Bồ Tát vị, được
vô sanh pháp nhẫn.
Cớ sao gọi là
vô sanh pháp nhẫn? Vì trong đây không có chút pháp nào có thể được, vì chẳng thể được nên chẳng làm, vì chẳng làm nên chẳng sanh, đây gọi là
vô sanh pháp nhẫn.
Do hạnh, loại,
tướng mạo nầy nên gọi là bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển”.