KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ CHÍN
PHẨM ẢO NHƠN THÍNH PHÁP
THỨ HAI MƯƠI TÁM
Bấy giờ
chư Thiên Tử nghĩ rằng nên dùng những người nào để nghe
Đại Đức Tu Bồ Đề thuyết pháp?
Biết
tâm niệm của
chư Thiên Tử, Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy các Ngài! Như người
ảo hóa nghe pháp, tôi phải dùng người như vậy. Vì người như vậy không có nghe, không có biết, không có chứng”.
Chư Thiên Tử hỏi: “Bạch Đại Đức!
Chúng sanh như ảo, người
nghe pháp cũng
như ảo chăng?
Chúng sanh như hóa, người
nghe pháp cũng
như hóa chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Nầy các Ngài!
Chúng sanh như ảo, người
nghe pháp cũng
như ảo,
chúng sanh như hóa, người
nghe pháp cũng
như hóa.
Nầy các Ngài! Ngã
như ảo, như mộng,
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả cũng
như ảo, như mộng.
Sắc đến thức, nhãn đến ý, sắc đến pháp,
nhãn thức đến
ý thức, nhãn xúc đến ý xúc, nhãn xúc
nhơn duyên, sanh thọ đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ cũng
như ảo, như mộng.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp cũng đều
như ảo, như mộng.
Tu Đà Hoàn quả đến
Phật đạo cũng
như ảo, như mộng”.
Chư Thiên Tử hỏi: “Đại Đức nói
Phật đạo như ảo, như mộng.
Niết Bàn,
Đại Đức cũng nói
như ảo, như mộng chăng?
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Tôi nói
Phật đạo như ảo, như mộng. Tôi nói
Niết Bàn cũng
như ảo, như mộng. Nếu còn có pháp nào hơn
Niết Bàn tôi nói cũng
như ảo, như mộng. Tại sao vậy? Vì
ảo mộng và
Niết Bàn không hai, không khác”.
Bấy giờ các Ngài
Xá Lợi Phất,
Đại Mục Kiền Liên,
Ma Ha Câu Si La,
Ma Ha Ca Chiên Diên,
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử,
Ma Ha Ca Diếp và
vô số Bồ Tát hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Bát nhã
ba la mật như vậy rất là
sâu xa, khó thấy, khó hiểu, khó biết,
tịch diệt vi diệu. Ai sẽ là người
lãnh thọ được?.
Ngài
A Nan nói với
chư đại đệ tử và chư
Bồ Tát: “Chư
đại Bồ Tát bất thối chuyển có thể
lãnh thọ Bát nhã ba la mật rất sâu, khó thấy, khó hiểu, khó biết,
tịch diệt vi diệu nầy.
Những người
thành tựu chánh kiến, những bậc
lậu tận A La Hán,
sở nguyện đã mãn cũng có
thể tín thọ.
Lại những
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn đã thấy nhiều Phật, ở chỗ chư Phật đã nhiều
cúng dường trồng căn lành, thường gần
thiện tri thức, có
căn tánh lanh lợi, những người nầy có thể
lãnh thọ, chẳng nói là phải hay chẳng phải”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Chẳng dùng không để
phân biệt sắc, chẳng dùng sắc để
phân biệt không, chẳng dùng
vô tướng,
vô tác để
phân biệt sắc, chẳng dùng sắc để
phân biệt vô tướng,
vô tác, chẳng dùng
vô sanh, vô diệt,
tịch diệt và ly để
phân biệt sắc, chẳng dùng sắc để
phân biệt vô sanh, vô diệt,
tịch diệt và ly. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, nhãn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ cũng vậy,
Đàn na ba la mật đến nhứt thiết
chủng trí cũng vậy. Chẳng dùng không đến ly để
phân biệt nhứt thiết
chủng trí, chẳng dùng nhứt thiết
chủng trí để
phân biệt không”.
Ngài
Tu Bồ Đề lại nói vơi
chư Thiên Tử: “Bát nhã
ba la mật rất sâu nầy ai có thể
lãnh thọ ư?
Nầy các Ngài! Trong
Bát nhã ba la mật nầy không có
pháp chỉ bày được, không có pháp nói luận được.
Nếu đã không có
pháp chỉ được, không có pháp nói được, thời người
lãnh thọ cũng bất khả đắc”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói với Ngài
Tu Bồ Đề: “Trong
Bát nhã ba la mật nói rộng
giáo pháp tam thừa và
giáo pháp nhiếp thủ Bồ Tát, từ bực sơ
phát ý đến bực
thập địa, từ
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, từ
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy, thường
hóa sanh chẳng mất
thần thông, đầy đủ
thiện căn đi đến các
cõi Phật, muốn có phẩm vật để
cúng dường thời liền được như nguyện. Ở chỗ chư Phật nghe
lãnh giáo pháp mãi đến
nhứt thiết trí không
đoạn tuyệt, chưa từng rời
chánh định, sẽ được
biện tài mau chóng,
biện tài lanh lẹ,
biệt tài bất tận,
biện tài bất đoạn,
biện tài đúng cơ,
biện tài đúng nghĩa,
biện tài hơn tất cả thế gian”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Như lời
Xá Lợi Phất nói,
Bát nhã ba la mật nói rộng
giáo pháp Tam thừa và
giáo pháp hộ trì Bồ Tát, nhẫn đến
đại Bồ Tát được
tối thượng biện tài của tất cả
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật bất khả đắc.
Tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Nhơn duyên gì mà trong
Bát nhã ba la mật nói rộng về
giáo pháp Tam thừa vì bất khả đắc?
Nhơn duyên gì mà trong
Bát nhã ba la mật hộ trì Bồ Tát vì bất khả đắc?
Nhơn duyên gì
đại Bồ Tát được
biện tài mau lẹ đến
tối thượng biện tài trong tất cả
thế gian vì bất khả đắc?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì
nội không nên
Bát nhã ba la mật nói rộng
giáo pháp Tam thừa bất khả đắc. Vì
ngoại không đến
vô pháp hữu pháp không nên nói rộng
giáo pháp Tam thừa bất khả đắc vậy.
Vì
nội không nên
hộ trì Bồ Tát đến
tối thượng biện tài trong tất cả
thế gian bất khả đắc. Vì ngoài không đến
vô pháp hữu pháp không nên
Bát nhã ba la mật hộ trì Bồ Tát đến được
tối thượng biện tài trong tất cả
thế gian bất khả đắc vậy”.
PHẨM TÁN HOA
THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Bấy giờ
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn và
chư Thiên Vương trong
Đại Thiên thế giới nghĩ rằng
Đại Đức Tu Bồ Đề vì
chúng ta mà ban
pháp vũ.
Chúng ta nên
hóa hiện hoa đẹp để rải trên
đức Phật,
chư đại Bồ Tát, chư
Tỳ Kheo Tăng,
Đại Đức Tu Bồ Đề và
Bát nhã ba la mật.
Liền đó
chư Thiên Vương
hóa hiện hoa đựp rải trên
đức Phật,
chư đại Bồ Tát, chư
Tỳ Kheo Tăng và
Đại Đức Tu Bồ Đề và cũng
cúng dường Bát nhã ba la mật. Khắp
Đại Thiên thế giới lúc bấy giờ đầy những hoa trong
không gian. Những hoa nầy
hóa thành những
hoa đài đoan nghiêm vi diệu.
Ngài
Tu Bồ Đề nghĩ rằng những hoa trên
hư không do
chư Thiên Tử rải, từ nào chưa từng thấy. Đây là hóa hoa, chẳng phải hoa từ cây sanh ra. Đây là hoa
từ tâm thọ sanh, chẳng phải từ cây sanh.
Biết
tâm niệm của Ngài
Tu Bồ Đề,
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn nói: “Bạch Đại Đức! Hoa nầy chẳng phải sanh, hoa cũng chẳng
từ tâm thọ sanh”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Ngài nói hoa nầy chẳng phải sanh, hoa cũng phải
từ tâm thọ sanh. Hoa nầy nếu chẳng phải là
sanh pháp thời chẳng gọi là hoa”.
Thiên Đế Thích Đê Hoàn Nhơn nói: “Bạch Đại Đức! Chỉ có hoa nầy là chẳng sanh, hay là sắc và thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng sanh?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng phải chỉ có hoa nầy là chẳng sanh, mà sắc cũng chẳng sanh. Nếu đã chẳng sanh thời chẳng gọi là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng sanh. Nếu chẳng sanh thời chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức.
Như
ngũ ấm,
lục nhập,
lục thức,
lục xúc và
lục xúc,
nhơn duyên, sanh thọ cũng vậy.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật chẳng sanh, nếu chẳng sanh thời chẳng gọi là
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không cũng như vậy.
Tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp chẳng sanh, nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng sanh. Nếu chẳng sanh thời chẳng gọi là
tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí”.
Thiên Đế nghĩ rằng
Đại Đức Tu Bồ Đề có
trí huệ rất sâu, chẳng hoại
giả danh mà nói các
pháp tướng.
Đức Phật biết
tâm niệm của
Thiên Đế nên nói rằng: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca!
Tu Bồ Đề có
trí huệ rất sâu, chẳng hoại
giả danh mà nói các pháp tướng”.
Thiên Đế thưa: “Bạch Thế Tôn!
Đại Đức Tu Bồ Đề chẳng hoại
giả danh mà nói các
pháp tướng như thế nào?”
Đức Phật nói: “Sắc chỉ là
giả danh,
Tu Bồ Đề chẳng hoại
giả danh mà nói các
pháp tướng. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là
giả danh,
Tu Bồ Đề cũng chẳng hoại
giả danh mà nói các
pháp tướng.
Tại sao vậy? Vì các
pháp tướng không có hoại, chỗ nói của
Tu Bồ Đề cũng không có hoại và chẳng hoại vậy.
Như
ngũ ấm,
lục nhập đến
lục xúc,
nhơn duyên, thọ sanh,
Đàn na ba la mật đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp,
Tu Đà Hoàn quả đến
Phật đạo,
nhứt thiết trí đến nhứt thiết
chủng trí,
Tu Đà Hoàn đến Phật, tất cả chỉ là
giả danh,
Tu Bồ Đề cũng chẳng hoại
giả danh mà nói các
pháp tướng.
Tại sao vậy? Vì các
pháp tướng không có hoại và chẳng hoại, chỗ nói của
Tu Bồ Đề cũng không có hoại và chẳng hoại vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! đúng như vạy,
Tu Bồ Đề chẳng hoại
giả danh mà nói các pháp tướng”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói với
Thiên Đế: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Như lời
đức Phật nói, các
pháp chỉ là
giả danh.
Đại Bồ Tát phải biết các
pháp chỉ là
giả danh như vậy. Phải học
Bát nhã ba la mật như vậy.
Đại Bồ Tát học như vậy là chẳng học sắc, chẳng học thọ, tưởng, hành, thức.
Tại sao vậy? Vì chẳng thấy có sắc để học, cũng chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức để học.
Đại Bồ Tát học như vậy là chẳng học
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì chẳng thấy có
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật để học.
Đại Bồ Tát học như vậy là chẳng học
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, là chẳng học
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng.
Tại sao vậy? Vì chẳng thấy có
nội không đến pháp
bất cộng để học.
Đại Bồ Tát học như vậy là chẳng học
Tu Đà Hoàn quả đến nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Vì chẳng thấy có quả
Tu Đà Hoàn đến nhứt thiết
chủng trí để học”.
Thiên Đế hỏi: “Bạch Đại Đức! Do
nhơn duyên gì mà chẳng thấy sắc đến chẳng thấy thấy nhứt thiết chủng trí?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc
sắc không nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí không.
Nầy Kiều Thi Ca!
Sắc không chẳng học
sắc không nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí không chẳng học nhứt thiết
chủng trí không.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu chẳng học không như vậy thời gọi là học không, vì chẳng hai vậy.
Đại Bồ Tát nầy học
sắc không nhẫn đến học nhứt thiết
chủng trí không, vì chẳng hai vậy.
Nếu học
sắc không vì chẳng hai, nhẫn đến học nhứt thiết
chủng trí không vì chẳng hai,
đại Bồ Tát nầy có thế học
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật vì chẳng hai vậy. Có thế học
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng vì chẳng hai vậy. Có thế học quả
Tu Đà Hoàn đến nhứt thiết
chủng trí vì chẳng hai vậy.
Đại Bồ Tát nầy có thể học
vô lượng vô biên a tăng kỳ pháp.
Nếu có thể học
vô lượng vô biên vô số pháp,
thời đại Bồ Tát nầy chẳng vì sắc tăng mà học, chẳng vì sắc giảm mà học. Nhẫn đến chẳng vì nhứt thiết
chủng trí tăng mà học, cũng chẳng vì nhứt thiết
chủng trí giảm mà học.
Nếu chẳng vì sắc tăng giảm mà học, nhẫn đến nếu chẳng vì nhứt thiết
chủng trí tăng giảm mà học,
thời đại Bồ Tát nầy chẳng vì sắc thọ mà học, cũng chẳng vì sắc diệt mà học. Nhẫn đến chẳng vì nhứt thiết
chủng trí thọ và diệt mà học”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Học như vậy,
đại Bồ Tát nầy chẳng vì thọ sắc mà học, chẳng vì diệt sắc mà học. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng vì thọ và diệt mà học?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đại
Bồ Tát nếu học như vậy thời chẳng vì thọ sắc mà học, chẳng vì diệt sắc mà học, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng vì thọ diệt mà học”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
nhơn duyên gì mà
đại Bồ Tát chẳng vì thọ sắc mà học, chẳng vì diệt sắc mà học, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng vì thọ diệt mà học?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc nầy chẳng thọ được cũng không có ai thọ sắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng thọ được cũng không ai thọ, vì
nội ngoại rỗng không vậy.
Vì chẳng thọ tất cả pháp nên
đại Bồ Tát có thể đến nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Đại
Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật như vậy có thể đến nhứt thiết
chủng trí chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đại
Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật như vậy có thể đến nhứt thiết
chủng trí, vì chẳng
thọ pháp vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Nếu
đại Bồ Tát đối với tất cả pháp chẳng thọ, chẳng diệt mà học, thời làm sao đến được nhứt thiết chủng trí?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đại
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy sắc thọ, chẳng thấy sắc chẳng thọ, chẳng thấy sắc cấu, chẳng thấy sắc tịnh, chẳng thấy sắc tăng, chẳng thấy sắc giảm. Tại sao vậy? Vì sắc sắc tánh rỗng không vậy.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, chẳng thấy thọ, chẳng thấy chẳng thọ, chẳng thấy cấu, chẳng thấy tịnh, chẳng thấy tăng, chẳng thấy giảm. Tại sao vậy? Vì nhứt thiết
chủng trí tánh rỗng không vậy.
Đại Bồ Tát vì tất cả pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thọ, chẳng xả, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng hiệp, chẳng tan, chẳng tăng, chẳng giảm, nên học
Bát nhã ba la mật có thể đến nhứt thiết
chủng trí. Vì không chỗ học, không chỗ đến được vậy”.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi Ngài
Xá Lợi Phất: “Đại
Bồ Tát Bát nhã ba la mật nên cầu chỗ nào?”
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Đại
Bồ Tát Bát nhã ba la mật nên cầu ở trong phẩm Tu Bồ Đề”.
Thiên Đế hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Có phải
thần lực của
Đại Đức khiến
Xá Lợi Phất nói
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật nên cầu ở trong phẩm
Tu Bồ Đề chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “ Chẳng phải
thần lực của tôi”.
Thiên Đế hỏi: “Thần lực của ai vậy?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đó là
thần lực của Phật”.
Thiên đế nói: “Tất cả pháp đều không thọ xứ. Tại sao vậy? Nói là
thần lực của Phật, rời
tướng không thọ xứ thời Như Lại
bất khả đắc, rời
pháp như thời
Như Lai cũng bất khả đắc”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Rời
tướng không thọ xứ thời
Như Lai bất khả đắc, rời
pháp như thời
Như Lai cũng
bất khả đắc. Trong
tướng không thọ xứ,
Như Lai bất khả đắc. Trong
pháp như,
Như Lai bất khả đắc.
Trong sắc như,
Như Lai như
bất khả đắc. Trong
Như Lai như, sắc như
bất khả đắc.
Trong
sắc pháp tướng,
Như Lai pháp tướng bất khả đắc. Trong
Như Lai pháp tướng,
sắc pháp tướng
bất khả đắc. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Nầy Kiều Thi Ca!
Như Lai trong sắc như chẳng hiệp, chẳng tan,
Như Lai trong thọ, tưởng, hành, thức như chẳng hiệp, chẳng tan.
Như Lai rời sắc như chẳng hiệp, chẳng an,
Như Lai rời thọ, tưởng, hành, thức như chẳng hiệp, chẳng tan.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Như Lai trong
sắc pháp tướng chẳng hiệp, chẳng tan,
Như Lai trong thọ, tưởng, hành, thức
pháp tướng chẳng hiệp, chẳng tan.
Như Lai rời
sắc pháp tướng chẳng hiệp, chẳng tan,
Như Lai rời thọ, tưởng, hành, thức
pháp tướng chẳng hiệp, chẳng tan.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Trong tất cả pháp chẳng hiệp, chẳng tan là
thần lực của
Như Lai, vì dùng pháp
vô sở thọ vậy.
Như lời
Kiều Thi Ca nói,
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật nên cầu ở chỗ nào?
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng nên ở trong sắc hay rời ngoài sắc mà cầu
Bát nhã ba la mật. Chẳng nên ở trong thọ, tưởng, hành, thức hay rời ngoài thọ, tưởng, hành, thức mà cầu
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật nầy và sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tất cả pháp đây đều chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối, một tướng
duy nhứt đó là
vô tướng.
Nhẫn đến chẳng nên ở trong nhứt thiết
chủng trí mà cầu
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng nên rời ngoài nhứt thiết
chủng trí mà cầu
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật đây và nhứt thiết
chủng trí, tất cả pháp nầy đều chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối, một tướng
duy nhứt là
vô tướng.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng phải rời ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết
chủng trí, cũng chẳng phải rời ngoài nhứt thiết
chủng trí.
Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc như, cũng chẳng phải rời ngoài sắc như. Nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết
chủng trí như, cũng chẳng phải rời ngoài nhứt thiết
chủng trí như.
Bát nhã ba la mật chẳng phải
sắc pháp, cũng chẳng phải rời ngoài
sắc pháp. Nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết
chủng trí pháp, cũng chẳng phải rời ngoài nhứt thiết
chủng trí pháp.
Tại sao vậy? Nầy Kiều Thi Ca! Tất cả pháp nầy đều
vô sở hữu bất khả đắc.
Vì
vô sở hữu bất khả đắc, nên
Bát nhã ba la mật chẳng phải sắc cũng chẳng phải rời sắc, nhẫn đến cũng chẳng phải nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng phải rời nhứt thiết
chủng trí. Chẳng phải sắc như cũng chẳng phải rời sắc như, nhẫn đến cũng chẳng phải nhứt thiết
chủng trí như cũng chẳng phải rời nhứt thiết
chủng trí như. Chẳng phải
sắc pháp cũng chẳng phải rời
sắc pháp, nhẫn đến cũng chẳng phải nhứt thiết
chủng trí pháp cũng chẳng phải rời nhứt thiết
chủng trí pháp”.
Thiên Đế nói: “Ma ha
ba la mật nầy là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Vô lượng ba la mật,
vô biên ba la mật là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Chư
Tu Đà Hoàn và quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chư
A La Hán và quả
A La Hán, chư
Bích Chi Phật và đạo
Bích Chi Phật,
chư đại Bồ Tát đều từ trong
Bát nhã ba la mật nầy mà học thành.
Có thể
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh phật độ, chứng
Vô thượng Bồ đề đều từ trong
Bát nhã ba la mật nầy mà học thành”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca!
Ma ha ba la mật nầy là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Vô lượng ba la mật,
vô biên ba la mật là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Cũng từ trong
Bát nhã ba la mật nầy mà học
thành quả Tư Đà Hoàn đến thành
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì sắc rộng lớn nên
Bát nhã ba la mật cũng rộng lớn.
Tại sao vậy?
Sắc
tiền tế,
hậu tế và
trung tế đều
bất khả đắc.
Thọ, tưởng, hành, thức rộng lớn nên
Bát nhã ba la mật cũng rộng lớn, vì thọ, tưởng, hành, thức,
tiền tế,
hậu tế và
trung tế đều
bất khả đắc.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Do
nhơn duyên nầy nên
Ma ha ba la mật nầy là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì sắc
vô lượng nên
Bát nhã ba la mật vô lượng, vì
sắc lượng bất khả đắc vậy.
Như
hư không lượng
bất khả đắc, cũng vậy
sắc lượng bất khả đắc.
Hư không vô lượng nên sắc
vô lượng. Vì sắc
vô lượng nên
Bát nhã ba la mật vô lượng.
Nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí vô lượng nên
Bát nhã ba la mật vô lượng.
Tại sao vậy? Vì nhứt thiết
chủng trí vô lượng bất khả đắc.
Như
hư không lượng
bất khả đắc, cũng vậy nhứt thiết
chủng trí lượng
bất khả đắc.
Hư không vô lượng nên nhứt thiết
chủng trí cũng
vô lượng.
Nhứt thiết
chủng trí vô lượng nên
Bát nhã ba la mật cũng
vô lượng.
Do
nhơn duyên nầy nên
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật vô lượng.
Nầy Kiều Thi Ca! Sắc
vô biên nên
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật vô biên.
Tại sao vậy? Sắc,
tiền tế,
hậu tế,
trung tế đều
bất khả đắc.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên. Vì nhứt thiết
chủng trí,
tiền tế,
hậu tế,
trung tế đều
bất khả đắc vậy.
Do
nhơn duyên nầy nên
Bát nhã ba la mật vô biên.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì duyên nơi
vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào là duyên nơi
vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì duyên tất cả pháp
vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào duyên tất cả pháp
vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì duyên
vô biên pháp tánh nên
Bát nhã ba la mật vô biên.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì duyên
vô biên pháp như nên
Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào duyên
vô biên pháp như nên
Bát nhã ba la mật vô biên?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì
pháp như vô biên nên duyên cũng
vô biên. Vì duyên
vô biên nên
pháp như cũng vô biên”.
Do
nhơn duyên nầy nên
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật cũng
vô biên.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì
chúng sanh vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên”.
Thiên Đế hỏi: “Thế nào
chúng sanh vô biên nên
Bát nhã ba la mật vô biên?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Theo ý Ngài thời những pháp gì gọi là chúng sanh?”
Thiên Đế nói: “Không có pháp gì gọi là
chúng sanh. Vì
giả danh nên gọi là
chúng sanh.
Danh tự ấy vốn không có pháp cũng không có chỗ đến. Chỉ gượng đặt tên thôi”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Ý Ngài nghĩ thế nào. Trong
Bát nhã ba la mật nầy nói
chúng sanh có thiệt chăng?”
Thiên Đế nói: “Không có thiệt”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu trong
Bát nhã ba la mật chẳng nói thiệt có,
thời chúng sanh
vô biên cũng
bất khả đắc.
Nầy Kiều Thi Ca! Ý Ngài nghĩ thế nào? Chư Phật trong
hằng sa kiếp nói
chúng sanh và
danh tự chúng sanh. Vả có
pháp chúng sanh có sanh, có diệt chăng?”
Thiên Đế nói: “Không có. Vì bổn lai
chúng sanh thường
thanh tịnh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Do
nhơn duyên nầy, vì
chúng sanh vô biên nên biết
Bát nhã ba la mật cũng vô biên”.
PHẨM TAM THÂN
THỨ BA MƯƠI
Bấy giờ
chư Thiên Vương và
chư Thiên, chư
Phạm Vương và chư
Phạm Thiên, chư
Thần Tiên và
chư Thiên Nữ
đồng thời ba phen
ca ngợi rằng: Hay thay! Hay thay! Pháp của
Đại Đức Tu Bồ Đề tuyên thuyết đều do ân lực
nhơn duyên của
đức Phật xuất thế gian ban
bố giáo pháp nầy.
Nếu có
đại Bồ Tát nào thật
hành Bát nhã
ba la mật nầy chẳng xa rời,
thời chúng tôi xem vị đó như
đức Phật.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy dầu không có pháp nào được có, từ sắc đến nhứt thiết
chủng trí, nhưng có
giáo pháp Tam thừa, tức là
Thanh Văn thừa,
Bích Chi Phật thừa và Phật thừa”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy
chư Thiên Tử! Như lời các Ngài nói: Trong
Bát nhã ba la mật nầy dầu không có pháp nào được có, từ sắc đến nhứt thiết
chủng trí, nhưng có
giáo pháp Tam thừa:
Thanh Văn thừa và
Phật thừa.
Nầy
chư Thiên Tử! Nếu có
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật nầy mà chẳng xa rời thời nên
xem như đức Phật, vì
vô sở đắc vậy.
Tại sao vậy?
Trong
Bát nhã ba la mật nói rộng về
giáo pháp Tam thừa:
Thanh Văn thừa,
Bích Chi Phật thừa và
Phật thừa. Trong
Đàn na bă la mật, Phật
bất khả đắc. Rời
Đàn na ba la mật, Phật cũng
bất khả đắc.
Nhẫn đến trong nhứt thiết
chủng trí, Phật
bất khả đắc. Rời nhứt thiết
chủng trí, Phật cũng
bất khả đắc.
Nầy
chư Thiên Tử!
Đại Bồ Tát nếu có thể học tất cả pháp nầy, từ
Đàn na ba la mật đến nhứt thiết
chủng trí, vì
cớ sự trên đây nên xem vị ấy như
đức Phật.
Nầy
chư Thiên Tử! Thuở xưa,
thời kỳ Phật Nhiên Đăng, nơi đầu ngã tư đường trong thành
Hoa Nghiêm, ta được thấy Phật và
nghe pháp, liền chẳng rời
công hạnh Đàn na ba la mật nhẫn đến chẳng rời
công hạnh Bát nhã ba la mật; chẳng rời
nội không đến
vô pháp hữu pháp không; chẳng rời
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần; chẳng rời
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm, tứ vố sắc định; chẳng rời tất cả
tam muội môn; tất cả
đà la ni môn; chẳng rời
tứ vô sở úy,
thập lực,
tứ vô ngại trí,
thập bát cộng pháp; chẳng rời
đại từ đại bi và
vô lượng Phật pháp khác, vì
vô sở đắc vậy.
Bấy giờ
đức Phật Nhiên Đăng
thọ ký cho ta, qua khỏi một
a tăng kỳ kiếp vị lai, sẽ
thành Phật hiệu là
Thích Ca Mâu Ni Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Đẳng Chánh Giác,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”.
Chư Thiên Tử thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất là
hi hữu,
Bát nhã ba la mật nầy có thể làm cho
chư đại Bồ Tát được
nhứt thiết trí, vì nơi sắc đến nhứt thiết
chủng trí chẳng thủ, chẳng xả vậy”.
Bấy giờ
đức Phật nhìn khắp
hội chúng: Chư
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di,
chư đại Bồ Tát,
chư Thiên Vương, chư
Phạm Vương và
chư Thiên Tử,
Thiên Nữ.
Nhìn khắp
hội chúng xong,
đức Phật nói với
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Nầy Kiều Thi Ca! Hoặc
đại Bồ Tát, hoặc hàng
tứ chúng, hoặc
chư Thiên Tử,
Thiên Nữ, nếu ai nghe,
thọ trì,
đọc tụng, thân cận,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, chẳng rời
nhứt thiết trí, thời các loài ma chẳng
phá hoại được.
Tại sao vậy? Vì
thiện nam,
thiện nữ nầy biết rõ chắc
sắc không nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí không, không chẳng thể
phá hoại không,
vô tướng chẳng thể
phá hoại vô tướng,
vô tác chẳng thể
phá hoại vô tác.
Tại sao vậy? Vì các pháp nầy
tự tánh,
tự tướng bất khả đắc nên không có sự gì
phá hoại được thời đâu có ai chịu lấy não hại!
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam và
thiện nữ nầy, hàng Nhơn
Phi Nhơn không thể
não hại được.
Tại sao vậy? Vì
thiện nam và
thiện nữ nầy, ở trong tất cả
chúng sanh khéo
tu tâm từ bi hỉ xã, vì
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam và
thiện nữ nầy trọn không bị hoạch tử.
Tại sao vậy? Vì
thiện nam và
thiện nữ nầy thật hành
Đàn na ba la mật, với tất cả
chúng sanh đều dùng
tâm bình đẳng mà
cung cấp vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Trong
Đại Thiên thế giới,
chư Thiên Vương, chư
Phạm Vương và
chư Thiên Tử,
chư Thiên Nữ, có ai
phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa nghe
Bát nhã ba la mật nầy và chưa
thọ trì, thân cận, thời vị Trời ấy nay đây phải nghe
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
nhứt thiết trí.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Các
thiện nam và
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy rồi
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
nhứt thiết trí, thời hoặc ở nhà vắng, hoặc ở
núi rừng, hoặc ở chỗ đông người trọn không có sự kinh sợ.
Tại sao vậy? Vì các
thiện nam và
thiện nữ nầy biết rõ
nội không, biết rõ
ngoại không, nhẫn đến biết rõ
vô pháp hữu pháp không, vì
vô sở đắc vậy”.
Chư Thiên Tử thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Các
thiện nam và
thiện nữ có thể
thọ trì Bát nhã ba la mật và thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
nhứt thiết trí, thời
chư Thiên chúng tôi phải thường
thủ hộ người đó.
Tại sao vậy? Bạch đức Thế Tôn! Vì do
đại Bồ Tát nhơn duyên nơi dứt được ba
ác đạo, dứt được sự nghèo cùng của Trời, Người, dứt được những
tai hoạn, tật bịnh,
đói khát.
Vì do
đại Bồ Tát nhơn duyên nên có mười
nghiệp đạo lành
xuất hiện thế gian, và cũng
xuất hiện tứ thiền đến nhứt thiết
chủng trí.
Vì do
đại Bồ Tát nhơn duyên nên
thế gian bèn có những nhà đại tộc, những dòng tôn quý và
Chuyển Luân Thánh Vương cùng
chư Thiên và
Tứ Vương Thiên đến
Sắc Cứu Cánh Thiên.
Vì do
đại Bồ Tát nhơn duyên nên có quả
xuất thế Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật đạo.
Vì do
đại Bồ Tát nhơn duyên nên có
thành tựu chúng sanh,
tịnh Phật quốc độ mà có chư Phật
xuất hiện thế gian, mà có
chuyển pháp luân, mà biết có Phật bửu và
Tỳ Kheo Tăng bửu.
Bạch đức Thế Tôn! Do
nhơn duyên trên đây nên tất cả
thế gian,
chư Thiên và
mọi người cùng
A tu la phải
thủ hộ đại Bồ Tát nầy”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Nầy
chư Thiên Tử! Do
đại Bồ Tát nhơn duyên mà dứt ba
ác đạo nhẫn đến có Tam Bửu
xuất hiện thế gian. Vì thế nên
chư Thiên và
mọi người cùng
A tu la phải thường
thủ hộ,
cúng dường cung kính,
tôn trọng tán thán đại Bồ Tát nầy.
Nầy
chư Thiên Tử!
Cúng dường kính trọng đại Bồ Tát nầy thời là
cúng dường đức Phật.
Nầy
chư Thiên Tử!
Ví như trong cõi
Đại Thiên, hàng
Thanh Văn và
Bích Chi Phật đông nhiều như rừng rậm, lúa mè, tre lau, có
thiện nam,
thiện nữ cúng dường kính trọng khắp tất cả cũng không bằng
phước đức cúng dường kính trọng bực
đại Bồ Tát sơ phát tâm chẳng rời
sáu ba la mật.
Tại sao vậy? Vì chẳng
do nơi Thanh Văn và
Bích Chi Phật nhơn duyên nên có
đại Bồ Tát và chư Phật
xuất thế. Mà do
đại Bồ Tát nhơn duyên nên có
Thanh Văn và
Bích Chi Phật cùng chư Phật
xuất hiện thế gian.
Vì thế nên, nầy Kiều Thi Ca! Tất cả
thế gian,
chư Thiên và
mọi người cùng
A tu la phải thường
thủ hộ,
cúng dường cung kính,
tôn trọng tán thán đại Bồ Tát nầy”.
PHẨM DIỆT TRÁNH
THỨ BA MƯƠI MỐT
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “ Bạch đức Thế Tôn! Rất lạ lùng
hi hữu,
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật! Nếu ai được nghe,
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm được
công đức trong hiện đời như vậy, cũng
thành tựu chúng sanh, tranh nghiêm thành tịnh
cõi Phật, từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc cúng dường chư Phật, muốn có đồ
cúng dường liền
tùy ý liền được
Vô thượng Bồ đề trọn không giữa chừng quên sót.
Đại Bồ Tát nầy cũng được gia
thành tựu, mẫu
thành tựu, sanh
thành tựu,
quyến thuộc thành tựu, tướng
thành tựu,
quang minh thành tựu, nhãn
thành tựu, nhĩ
thành tựu,
tam muội thành tựu,
đà la ni thành tựu.
Đại Bồ Tát nầy dùng
phương tiện lực biến thân chư Phật, đến các
quốc độ không Phật để
tán dương lục ba la mật,
tứ niệm xứ đến
thập bát bất cộng pháp,
dùng sức phương tiện mà
thuyết pháp, dùng pháp
Tam thừa để
độ thoát chúng sanh, chính là
Thanh Văn thừa,
Bích Chi Phật thừa và
Phật thừa.
Bạch đức Thế Tôn! Rất hi hữu!
Thọ trì Bát nhã ba la mật là đã tổng nhiếp năm
ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng, cũng là tổng nhiếp pháp
Tu Đà Hoàn đến
Phật đạo và nhứt thiết chủng trí”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca!
Thọ trì Bát nhã ba la mật là đã tổng nhiếp năm
ba la mật đến nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy hiện đời được
công đức, nên
nhứt tâm nghe kỹ”.
Thiên Đế thưa: “ Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi kính xin thọ giáo”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có các
ngoại đạo phạm chí, hoặc
ma vương ma dân, hoặc kẻ
tăng thượng mạn muốn chống trái,
phá hoại tâm
Bát nhã ba la mật của
Bồ Tát, những kẻ ấy vừa sanh lòng ác thời liền diệt mất, trọn chẳng được theo
ý muốn.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát thường thật hành
sáu ba la mật.
Do các
chúng sanh mãi mãi tham tránh nên
đại Bồ Tát xã tất cả nhữnh nội vật,
ngoại vật để
an lập chúng sanh trong
Đàn na ba la mật.
Do các
chúng sanh mãi mãi đấu tranh nên
đại Bồ Tát xã tất cả
nội pháp,
ngoại pháp để
an lập chúng sanh nơi
Nhẫn nhục ba la mật.
Do các
chúng sanh mãi mãi giải đãi nên
đại Bồ Tát xã tất cả
nội pháp,
ngoại pháp để
an lập chúng sanh nơi
Tinh tấn ba la mật.
Do các
chúng sanh mãi mãi loại tâm nên
đại Bồ Tát xả tất cả
nội pháp,
ngoại pháp để an lạp
chúng sanh nơi
Thiền na ba la mật.
Do các
chúng sanh mãi mãi ngu si nên
đại Bồ Tát xả tất cả
nội pháp,
ngoại pháp để
an lập chúng sanh nơi
Bát nhã ba la mật.
Do
chúng sanh mãi mãi vì ái kiết mà
luân chuyển sanh tử, nên
đại Bồ Tát dùng sức phương tiện dứt ái kiết của
chúng sanh, để
an lập chúng sanh nơi
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ đến
Phật đạo.
Trên đây là
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật được
công đức trong đời hiện tại.
Công đức đời sau được
Vô thượng Bồ đề,
chuyển pháp luân, đầy đủ
hạnh nguyện, nhập
vô dư Niết Bàn.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn nghe,
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, thời chỗ của người nầy ở, các hành
ngoại đạo,
ma vương,
ma dân, kẻ
tăng thượng mạn muốn kinh hủy,
vấn nạn,
phá hoại Bát nhã ba la mật trọn chẳng thành được.
Ác tâm của người nầy lần giảm diệt mà
công đức lần thêm lớn. Nhờ nghe
Bát nhã ba la mật nầy nên lần lần do đạo
Tam thừa đặng hết những sự khổ.
Nầy Kiều Thi Ca!
Ví như có vị thuốc tên ma kỳ. Có rắn đói đi kiếm ăn thấy mồi muốn mổ ăn, con mồi chạy, đến chỗ vị thuốc ma kỳ. Do sức của hơi thuốc nên rắn không giám tiến lại mà phải trở lui. Vì sức thuốc có thể thắng sức độc vậy.
Nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ nầy nghe,
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, nếu có những sự đấu tranh muốn đến
phá hoại, do oai lực của
Bát nhã ba la mật, ác sự liền tiêu mau diệt, người nầy liền sanh
thiện tâm, thêm nhiều
công đức.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật nầy có
thể diệt những sự đấu tranh.
Những gì là sự đấu tranh? Chính là tham, sân, si,
vô minh nhẫn đến những cái, kiết, sử, triền, nhóm khổ lớn,
ngã kiến, nhơn kiến,
chúng sanh kiến,
đoạn kiến,
thường kiến, cấu kiến, tịnh kiến,
hữu kiến,
vô kiến,
xan tham,
phạm giới,
sân khuể,
giải đãi, loạn ý,
vô trí, thường tưởng,
lạc tưởng, tịnh tưởng,
ngã tưởng, chấp sắc,
chấp thọ, tưởng, hành, thức, chấp
Đàn na ba la mật nhẫn đến
chấp nhứt thiết
chủng trí, chấp
Niết Bàn, những sự đấu tranh nầy đều có thể
tiêu diệt không cho
tăng trưởng.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Trong
Đại Thiên thế giới,
chư Thiên Vương đến
Sắc Cứu Cánh Thiên thường
thủ hộ thiện nam,
thiện nữ nào có thể nghe,
thọ trì,
Bát nhã ba la mật,
cúng dường người
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật.
Hiện tại chư Phật mười phương cũng đồng
ủng hộ thiện nam,
thiện nữ nầy.
Các
thiện nam tử,
thiện nữ nầy dứt pháp ác, thêm lớn pháp lành, như là
Đàn na ba la mật cùng tăng đến nhứt thiết
chủng trí, càng tăng vì
vô sở đắc vậy. Các
thiện nam,
thiện nữ nầy có
lời nói ra đều được lời
tín thọ, hàng
thân hữu bền chặt.
Thiện nam,
thiện nữ nầy không nói lời
vô ích, chẳng bị
sân khuể che đậy, chẳng bị
kiêu mạn,
xan tham, tật đố
che đậy. Người nầy tự mình chẳng
sát sanh,
tán thán pháp chẳng
sát sanh, cũng
hoan hỷ tán thán người chẳng
sát sanh. Người nầy tự mình
xa lìa trộm cắp, dạy người chẳng
trộm cắp,
tán thán pháp chẳng
trộm cắp, cũng
hoan hỷ tán thán người chẳng
trộm cắp. Người nầy tự mình chẳng
tà dâm, dạy người chẳng
tà dâm,
tán thán pháp chẳng
tà dâm, cũng
hoan hỷ tán thán người chẳng
tà dâm. Người nầy tự mình chẳng
vọng ngữ, dạy người chẳng
vọng ngữ,
tán thán pháp chẳng
vọng ngữ, cũng
hoan hỷ tán thán người chẳng
vọng ngữ. Nơi chẳng
lưỡng thiệt, chẳng
ác khẩu và chẳng
vô ích ngữ cũng như vậy.
Người nầy tự mình chẳng tham, dạy người chẳng tham,
tán thán pháp chẳng tham, cũng
hoan hỷ tán thán người chẳng tham. Nơi chẳng sân não và chẳng
tà kiến cũng như vậy.
Người nầy tự thật hành
Đàn na ba la mật, dạy người thật hành
Đàn na ba la mật, dạy người thật hành
Đàn na ba la mật,
tán thán pháp Đàn na
ba la mật, cũng
hoan hỷ tán thán người thật hành
Đàn na ba la mật. Nhẫn đến tự được nhứt thiết
chủng trí, dạy người được nhứt thiết
chủng trí,
tán thán pháp nhứt thiết
chủng trí, cũng
hoan hỷ tán thán người được nhứt thiết
chủng trí.
Đại Bồ Tát nầy lúc thật hành
sáu ba la mật, có
bố thí bao nhiêu đều cùng
chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì
vô sở đắc vậy.
Lúc thật hành
lục ba la mật như vậy,
thiện nam,
thiện nữ nầy nghĩ rằng
nếu không bố thí, tôi sẽ sanh nhà bần cùng, chẳng có thể
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, cũng chẳng có thể được nhứt thiết
chủng trí.
Nếu không giữ giới, tôi sẽ sanh trong ba
ác đạo, còn chẳng được nhơn thân huống là có thể
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, được
Vô thượng Bồ đề.
Nếu không tu nhẫn nhục, thân tôi sữ hủy hoại các căn, sắc lực sẽ không đầy đủ, chẳng thể được
sắc thân toàn vẹn của
Bồ Tát mà
chúng sanh ngó thấy ắt thêm lớn căn lành mãi đến
Vô thượng Bồ đề, cũng không thể
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, được nhứt thiết
chủng trí.
Nếu
giải đãi, tôi chẳng thể được
Bồ Tát đạo thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, được nhứt thiết
chủng trí.
Nếu
loạn tâm, tôi sẽ chẳng sanh được các
thiền định, cũng chẳng thể
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, được nhứt thiết
chủng trí.
Nếu tôi
vô trí, không được
phương tiện trí thời không thể vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật để
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, được nhứt thiết
chủng trí.
Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ rằng tôi chẳng nên vì tùy
xan tham và chẳng đầy đủ
Đàn na ba la mật, chẳng nên vì tùy
phạm giới mà chẳng đầy đủ Thi na
ba la mật, chẳng nên vì tùy
sân khuể mà chẳng đầy đủ
Nhẫn nhục ba la mật, chẳng nên vì tùy
giải đãi mà chẳng đầy đủ
Tinh tấn ba la mật, chẳng nên vì tùy loạn ý mà chẳng đầy đủ
Thiền na ba la mật, chẳng nên vì tùy
si tâm mà chẳng đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Nếu chẳng đầy đủ
sáu ba la mật, thời tôi trọn chẳng thể
thành tựu nhứt thiết
chủng trí.
Thiện nam,
thiện nữ nầy
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật như vậy cũng chẳng rời tâm nhứt thiết
chủng trí, được những
công đức đời nầy và đời sau”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Hi hữu thay,
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật, vì
hồi hướng tâm nhứt thiết
chủng trí, cũng vì chẳng cao tâm”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Thế nào là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật vì
hồi hướng tâm
nhứt thiết trí, cũng vì chẳng cao tâm?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát nếu thật hành
thế gian Đàn na
ba la mật bố thí cho chư Phật,
Bích Chi Phật,
Thanh Văn và người nghèo cùng khốn khổ, vì không
phương tiện lực nên sanh cao tâm.
Nếu thật hành
thế gian Thi na
ba la mật, nghĩ rằng tôi thật
hành trì giới, tôi có thể đầy đủ
Giới ba la mật, vì không
phương tiện nên sanh cao tâm.
Nhẫn đến thật hành
thế gian Bát nhã ba la mật, nghĩ rằng tôi thật
hành Bát nhã
ba la mật, tôi tu
Bát nhã ba la mật, vì không
phương tiện nên sanh cao tâm.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát lúc tu
thế gian tứ niệm xứ, tự nghĩ rằng tôi tu
tứ niệm xứ, tôi đầy đủ
tứ niệm xứ, vì không
phương tiện nên sanh cao tâm.
Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng đến nhứt thiết
chủng trí, nghĩ rằng tôi
tu pháp bất cộng, tôi sẽ
thành tựu chúng sanh, tôi sẽ
thanh tịnh Phật độ, tôi sẽ được nhứt thiết
chủng trí. Vì còn có ngô
ngã không phương tiện nên sanh cao tâm.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát thật hành
thế gian thiện pháp như vậy, vì thấy có ngô ngã nên sanh cao tâm.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát thật hành
xuất thế gian Đàn na
ba la mật chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có kẻ nhận, chẳng thấy có vật
bố thí. Thật hành
xuất thế gian Đàn na
ba la mật như
vậy thì hồi hướng nhứt thiết
chủng trí cũng chẳng sanh cao tâm.
Thật hành Thi na
ba la mật, Thi na
ba la mật bất khả đắc.
Thật hành
Tinh tấn ba la mật,
Tinh tấn ba la mật bất khả đắc.
Thật hành
Thiền na ba la mật,
Thiền na ba la mật bất khả đắc.
Thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bát nhã ba la mật bất khả đắc.
Tu
tứ niệm xứ,
tứ niệm xứ bất khả đắc.
Nhẫn đến tu nhứt thiết
chủng trí, nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật như vậy, vì
hồi hướng nhứt thiết
chủng trí, vì chẳng sanh cao tâm”.