KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI LĂM
PHẨM KINH NHĨ VĂN TRÌ
THỨ BỐN MƯƠI LĂM
Lúc đó
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn nghĩ rằng: “Nếu
thiện nam,
thiện nữ nơi tai được nghe
Bát nhã ba la mật, thời người nầy đã ở chỗ Phật đời trước tu tạo các
công đức, đã gần gũi
thiện tri thức. Huống là người
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm, đúng như lời mà
tu hành Bát nhã ba la mật nầy.
Phải biết
thiện nam,
thiện nữ đây đã thân cận nhiều
đức Phật.
Người có thể được nghe thọ, đọc tung, chánh
ức niệm,
tu hành như lời và có thể hỏi, có thể đáp
Bát nhã ba la mật nầy. Phải biết người đây đời trước đã nhiều lần
cúng dường thân cận chư Phật.
Người nghe
Bát nhã ba la mật nầy mà chẳng kinh sợ. Phải biết người đây đã
từ vô lượng ức kiếp thật hành
Đàn ba la mật,
Thi ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tấn
ba la mật,
Thiền ba la mật,
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Có
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật thậm thâm nầy mà chẳng kinh sợ. Nghe rồi
thọ trì, thân cận, đúng như lời mà
tu tập. Phải biết người đây như bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Vì
Bát nhã ba la mật nầy rất sâu.
Nếu là người đời trước thật hành
sáu ba la mật chưa được lâu, thời không thể tin được.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nào khinh chê
thâm Bát nhã ba la mật. Phải biết người đây đời trước cũng đã từng khinh chê
thâm Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Lúc nghe nói
thâm Bát nhã ba la mật, người đây không tin ưa, lòng không
thanh tịnh. Người đây đời trước chẳng thưa hỏi chư Phật và
đệ tử Phật phải thật hành
sáu ba la mật thế nào, phải
tu tập nội không đến
vô pháp hữu pháp không thế nào, phải tu
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo thế nào, phải tu
thập lực đến mười
tám pháp bất cộng thế nào”.
Thiên Đế nói với Ngài
Xá Lợi Phất: “Nếu có
thiện nam,
thiện nữ đời trước chẳng lâu ngày
tu tập sáu ba la mật nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng. Những người nầy nghe nói
Bát nhã ba la mật đây không có
lòng tin hiểu, thời có gì đáng lấy làm lạ.
Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Tôi
kính lễ Bát nhã ba la mật.
Kính lễ Bát nhã ba la mật tức là
kính lễ nhứt thiết trí”.
Đức Phật nói: "Đúng như vậy.
Kính lễ Bát nhã ba la mật tức là
kính lễ nhứt thiết trí.
Tại sao vậy?
Vì
nhứt thiết trí của chư Phật đều phát sanh từ
Bát nhã ba la mật.
Nhứt thiết trí tức là
Bát nhã ba la mật.
Thế nên, nầy
Kiều Thi Ca,
thiện nam,
thiện nữ muốn trụ
nhứt thiết trí, thời phải trụ
Bát nhã ba la mật. Muốn sanh
đạo chủng trí thời phải tập
hành Bát nhã
ba la mật. Muốn dứt tất cả
kiết sử và
tập khí thời phải tập
hành Bát nhã
ba la mật. Muốn
chuyển pháp luân thời phải tập
hành Bát nhã
ba la mật.
Thiện nam,
thiện nữ muốn được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, quả
Bích Chi Phật, thời phải tập
hành Bát nhã
ba la mật.
Thiện nam,
thiện nữ muốn giáo
chúng sanh cho được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
Bích Chi Phật thời phải tập
hành Bát nhã
ba la mật.
Thiện nam,
thiện nữ muốn
giáo hóa chúng sanh cho được
Vô thượng Bồ đề, muốn tổng nhiếp
Tỳ Kheo Tăng, thời phải tập
hành Bát nhã
ba la mật”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát thế nào gọi là trụ
Bát nhã ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Tinh tấn ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Bố thí ba la mật? Thế nào trụ nơi
nội không đến
vô pháp hữu pháp không? Thế nào trụ
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, ngũ thần thông? Thế nào trụ
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo? Thế nào trụ
thập lực đến pháp bất cộng?
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát thế nào tập
hành Bát nhã
ba la mật đến
Đàn na ba la mật, thế nào tập hành
nội không đến mười
tám pháp bất cộng?”
Đức Phật nói: "Lành thay,
lành thay, nầy Kiều Thi Ca! Ông có thể hỏi được những điều như vậy. Đó là do
thần lực của Phật cả.
Nầy Kiều Thi Ca! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nếu không an trụ trong sắc, trong an tru trong thọ, tưởng, hành, thức, không an trụ trong nhãn, nhĩ, nhẫn đến không an trụ trong
ý thức giới, thời là tập
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát nếu không an trụ trong
Bát nhã ba la mật thời là tập
hành Bát nhã
ba la mật. Không an trụ trong
Thiền na ba la mật thời là tập hành
Thiền na ba la mật. Không an trụ trong Tỳ lê gia
ba la mật thời tập hành Tỳ lê gia
ba la mật. Không an trụ trong
Sằn đề ba la mật thời là tập hành
Sằn đề ba la mật. Chẳng an trụ trong
Thi la ba la mật thời là tập hành
Thi la ba la mật. Không an trụ trong
Địa ngục ba la mật thời là tập hành
Địa ngục ba la mật.
Đây gọi là
đại Bồ Tát không an trụ trong
Bát nhã ba la mật thời là tập
hành Bát nhã
ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng an trụ trong
nội không thời là tập hành
nội không. Nhẫn đến không an trụ trong
vô pháp hữu pháp không thời là tập hành
vô pháp hữu pháp không.
Chẳng an trụ trong
tứ thiền thời là tập hành
tứ thiền.
Chẳng an trụ trong
tứ vô lượng tâm thời là tập
tứ vô lượng tâm.
Chẳng an trụ
tứ vô sắc định thời là tập hành
tứ vô sắc định.
Chẳng an trụ trong
ngũ thần thông thời là tập hành
ngũ thần thông.
Chẳng an trụ trong
tứ niệm xứ thời là tập hành
tứ niệm xứ. Nhẫn đến chẳng an trụ trong
bát thánh đạo thời là tập
hành bát thánh đạo.
Chẳng an trụ trong
thập lực thời là tập hành
thập lực. Nhẫn đến chẳng an trụ trong mười
tám pháp bất cộng thời là tập hành mười
tám pháp bất cộng.
Tại sao vậy?
Nầy Kiều Thi Ca!
đại Bồ Tát nầy, nơi sắc, chẳng được chỗ an trụ được, chẳng được chỗ tập hành được. Nhẫn đến nơi mười
tám pháp bất cộng, chẳng được chỗ trụ được, chẳng được chỗ tập được.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát chẳng tập hành sắc nhẫn đến tập
hành pháp bất cộng, đây gọi là tập hành sắc nhẫn đến gọi là tập hành mười
tám pháp bất cộng.
Tại sao vậy?
Đại Bồ Tát nầy, nơi sắc,
tiền tế bất khả đắc,
trung tế bất khả đắc,
hậu tế bất khả đắc. Nhẫn đến pháp
bất cộng cũng như vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy rất sâu!”
”Đức Phật nói: "Vì sắc như rất sâu, nhẫn đến vì
bất cộng pháp như rất sâu nên
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bát nhã
ba la mật nầy khó đo lường được!”
Đức Phật nói: "Vì sắc khó đo lường được, nhẫn đến pháp
bất cộng khó đo lường được nên
Bát nhã ba la mật khó đo lường được”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bát nhã
ba la mật nầy vô lượng”.
Đức Phật nói: "Vì sắc
vô lượng, nhẫn đến pháp
bất cộng vô lượng nên
Bát nhã ba la mật vô lượng.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
đại Bồ Tát chẳng thật hành sắc
thậm thâm thời là
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng hành sắc khó đo lường thời là
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng hành sắc
vô lượng thời là
hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì tướng
thậm thâm của sắc là chẳng phải sắc, nhẫn đến tướng
thậm thâm của pháp
bất cộng là chẳng phải pháp
bất cộng.
Vì tướng khó đo lường của sắc là chẳng phải sắc, nhẫn đến tướng khó đo lường của pháp
bất cộng là chẳng phải pháp
bất cộng.
Vì tướng
vô lượng của sắc là chẳng phải sắc, nhẫn đến
vô lượng của pháp
bất cộng là chẳng phải pháp
bất cộng.
Chẳng hành như vậy là
hành Bát nhã
ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy rất sâu. Tướng rất sâu, khó thấy, khó hiểu, chẳng nghĩ lường được. Chẳng nên đem nói với hàng
Bồ Tát mới
phát tâm.
Tại sao vậy?
Hàng
Bồ Tát mới
phát tâm nghe
Bát nhã ba la mật rất sâu, hoặc sẽ kinh sợ rồi sinh lòng
nghi hối mà chẳng tin, chẳng
tu hành.
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy nên nói với bực
Bồ Tát bất thối chuyển. Nghe
Bát nhã ba la mật rất sâu, bực
đại Bồ Tát nầy chẳng kinh sợ, chẳng sanh lòng
nghi hối, tất có thể tin và hành”.
Thiên Đế hỏi Ngài
Xá Lợi Phất: “Nếu đối với hàng
Bồ Tát mới
phát tâm mà nói
Bát nhã ba la mật rất sâu, thời sẽ có lỗi thế nào?”
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nghe
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy, hàng
Bồ Tát mới
phát tâm hoặc có thể sẽ kinh sợ hũy báng chẳng tin; hủy báng chẳng tin
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy thời là gieo nghiệp nhơn ba
ác đạo. Do nghiệp nhơn nầy nên khó được
Vô thượng Bồ đề”.
Thiên Đế hỏi: “Có
Bồ Tát chưa được
thọ ký nào nghe
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy mà chẳng kinh sợ chăng?”
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Thật vậy, nầy
Kiều Thi Ca, nếu có
Bồ Tát nào nghe
Bát nhã ba la mật rất sâu đây mà chẳng kinh sợ, thời nên biết đó là bực
Bồ Tát chẳng bao lâu sẽ được
thọ ký Vô thượng Bồ đề, chẳng quá một hai đức Phật”.
Đức Phật nói: "Đúng như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất! Bực
Bồ Tát đó từ lâu đã
phát tâm thật hành
sáu ba la mật, đã
cúng dường nhiều
đức Phật, nghe
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy, chẳng kinh sợ, nghe rồi
thọ trì,
tu hành đúng như
lời nói trong
Bát nhã ba la mật”,
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi muốn nói tỉ dụ.
Như
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo, trong chiên bao thấy mình
tu hành Bát nhã ba la mật, nhập
thiền định, siêng
tinh tấn, đầy đủ
nhẫn nhục,
giữ gìn cấm giới, thật hành
bố thí,
tu tập nội không,
ngoại không nhẫn đến ngồi
đạo tràng. Phải biết
thiện nam,
thiện nữ nầy gần đạo
Vô thượng Bồ đề, lúc thức, chơn thiệt
tu hành Bát nhã ba la mật, nhập
thiền định, siêng
tinh tấn, đầy đủ
nhẫn nhục,
giữ gìn cấm giới, thật hành
bố thí mà lại chẳng mau thành
Vô thượng Bồ đề ngồi
đạo tràng.
Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ thành tựu thiện căn nên được nghe
Bát nhã ba la mật liền
thọ trì và
tu hành đúng như lời.
Phải biết người nầy là bực
đại Bồ Tát, đã
phát tâm từ lâu, gieo trồng căn lành, đã
cúng dường nhiều
đức Phật, gần gũi
thiện tri thức.
Người nầy có thể
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật. Phải biết đó là bực gần được
thọ ký đạo
Vô thượng Bồ đề. Phải biết người nầy như bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Người nầy chẳng
thối chuyển đạo
Vô thượng Bồ đề, có thể được
Bát nhã ba la mật rất sâu. Được rồi có thể
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến chánh
ức niệm.
Bạch đức Thế Tôn!
Ví như có người đi qua trăm
do tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm
do tuần đường
hiểm trở hoang vắng. Người nầy
trước tiên thấy người chăn
súc vật, hoặc thấy
ranh giới, hoặc thấy vườn tược, thời đã biết là đã gần thành ấp, xóm làng. Lòng người nầy
an ổn, chẳng còn sợ
ác thú,
độc trùng, giặc cướp,
đói khát.
Bạch đức Thế Tôn! Cũng vậy,
đại Bồ Tát nếu được
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến chánh
ức niệm, thì biết là gần được
thọ ký Vô thượng Chánh giác, thì biết
đại bồ tát nầy chẳng còn sợ sa vào bực
Thanh văn hay
Bích Chi Phật. vì đã phát hiện những tướng tiên khởi, đó là được nghe thấy, được
thọ trì nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa nầy vậy”.
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Đúng như vậy. Nếu người thích nói
thí dụ nữa thì nên nói”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Như người mưốn lấy biển cả mà đi về hướng biển cả. Đến lúc chẳng còn thấy cây, chẳng còn thấy núi thì biết là đã gần đến biển cả
mặc dầu chưa thấy biển cả, vì mặt biển cả bằng phẳng, không cây, không núi.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát được nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy rồi
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến chánh
ức niệm, thì biết là gần được
thọ ký Vô thượng Chánh giác.
Như đầu xuân, trên các cây lá cũ đã rụng hết thì biết những cây ấy sẽ nẩy lộc, trổ lá, đơm bông, kết trái.
Mọi người thấy tướng lá cũ rụng hết đều sanh lòng
vui mừng.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát được nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy rồi
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến chánh
ức niệm và
thực hành đúng như lời. Phải biết
đại Bồ Tát nầy đã
thành tựu thiện căn,
cúng dường nhiều
đức Phật.
Đại Bồ Tát nầy nên nghĩ rằng mình nhờ
thiện căn hướng về
Vô thượng Chánh giác đời trước
theo dõi nên nay được nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy rồi
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến chánh
ức niệm, thật hành đúng như lời.
Chư Thiên Tử đã từng thấy chư Phật đều
vui mừng mà nghĩ rằng các vị
Bồ Tát trước cũng có tướng tiên khởi được
thọ ký như vậy. Hiện nay
đại Bồ Tát nầy chắc sẽ gần được
thọ ký Vô thượng Chánh giác.
Bạch đức Thế Tôn! Như người mẹ mang thai,
thân thể nặng nhọc, đi đứng bất tiện, ngồi nằm chẳng an, ăn ngủ càng kém, chẳng ưa nói cười, chán việc quen trước. Có những người mẹ khác thấy biết bà nầy sắp sanh sản.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát gieo
thiện căn cúng dường chư Phật nhiều, thật hành
lục độ, gần gũi
thiện tri thức, nay
thiện căn thành tựu, được nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa,
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến chánh
ức niệm, thật hành đúng như lời.
Mọi người cũng biết
đại Bồ Tát nầy sắp được
thọ ký Vô thượng Chánh giác”.
Đức Phật phán: "Lành thay,
lành thay! Lời của
Xá Lợi Phất vừa nói đều là
Phật lực cả”.
Bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Đức
hi hữu Thế Tôn Vô thượng Ứng cúng đẳng Chánh giác rất khéo phó thác sự việc của chư đại Bồ Tát!”
Đức Phật phán: “Nầy Tu Bồ Đề!
Chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Chánh giác,
an ổn đa số chúng sanh, làm cho
vô lượng chúng sanh được
lợi lạc vì
đại Bồ Tát thương xót hàng Trời, Người vậy.
Lúc thật hành
Bồ Tát đạo, chư
Bồ Tát nầy dùng bốn
sự kiện để nhiếp độ
vô lượng chúng sanh. Đó là
bố thí,
ái ngữ,
lợi ích và
đồng sự.
Chư
Bồ Tát nầy cũng đem pháp
thập thiện để
thành tựu chúng sanh. Tự mình tu
sơ thiền nhẫn đến phi
phi tưởng định. Cũng dạy
mọi người tu
sơ thiền nhẫn đến phi
phi tưởng định. Tự mình thật hành
Bố thí ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật, cũng dạy
mọi người thật hành
Bố thí ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật.
Chư
Bồ Tát nầy được
Bát nhã ba la mật,
dùng sức phương tiện dạy cho
chúng sanh được quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán mà tự mình chẳng chứng lấy quả ấy. Cũng dạy cho
chúng sanh được quả
Bích Chi Phật mà tự mình chẳng chứng lấy quả ấy.
Chư
Bồ Tát nầy tự tu
sáu ba la mật, cũng dạy
Vô lượng Bồ Tát khác tu
sáu ba la mật, tự trụ bực
bất thối, cũng dạy người khác trụ bức
bất thối, tự
tịnh Phật độ, cũng dạy người khác
tịnh Phật độ, tự
thành tựu chúng sanh, cũng dạy người khác
thành tựu chúng sanh, tự được
thần thông, tự được môn
đà la ni, cũng dạy người khác được đà là ni, tự đầy đủ
biện tài vô ngại, cũng dạy người khác đủ
biện tài vô ngại, tự thọ
sắc thân trọn vẹn ba mươi hai tướng, cũng dạy người khác
thành tựu sắc thân ba mươi hai tướng, tự
thành tựu bực đồng chơn, cũng dạy người khác
thành tựu bực đồng chơn. Tự
thành tựu thập trí lực, cũng dạy người khác
thành tựu thập trí lực, tự
thành tựu tứ vô úy, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, cũng dạy người khác thật hành
tứ vô úy, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, tự được nhứt thiết
chủng trí, cũng dạy người khác được nhứt thiết
chủng trí, tự rời lìa tất cả
kiết sử và
tập khí, cũng dạy người khác rời lìa tất cả
kiết sử và
tập khí, tự
chuyển pháp luân, cũng dạy người khác chuyển pháp luân”.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Đức
Thế Tôn hi hữu!
Chư đại Bồ Tát thành tựu đại công đức, vì tất cả
chúng sanh mà thật
hành Bát nhã
ba la mật để được
Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
chư đại Bồ Tát tu hành Bát nhã ba la mật đầy đủ?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu lúc
tu hành Bát nhã ba la mật,
Bồ Tát chẳng thấy tướng tăng cũng chẳng thấy tướng giảm của sắc, của thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến của nhứt thiết
chủng trí, đó là lúc
Bồ Tát đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Lại Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát chẳng thấy là pháp, là
phi pháp, cũng chẳng thấy pháp
quá khứ,
pháp vị lai, pháp
hiện tại,
pháp thiện, pháp ác, pháp
vô ký,
pháp hữu vi,
pháp vô vi, cũng chẳng thấy cõi Dục, cõi Sắc, cõi
Vô sắc, cùng chẳng thấy
Bố thí ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Tinh tấn ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Bát nhã ba la mật, nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết
chủng trí. Đó là
Bồ Tát tu hành đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì các pháp đều không có tướng, các pháp là không, là
hư giả, là chẳng bền chắc, không có giác tri, không có
thọ mạng.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Lời phán dạy của
đức Thế Tôn quả thật chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Vì sắc chẳng thể nghĩ bàn nên lời Phật nói chẳng thể nghĩ bàn. Vì thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng thể nghĩ bàn nên lời Phật nói chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
đại Bồ Tát biết sắc là chẳng thể nghĩ bàn, biết thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí là chẳng thể nghĩ bàn thì
Bồ Tát nầy chẳng đầy đủ được
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy ai là người sẽ tìm hiểu?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu có
đại Bồ Tát nào từ lâu đã thật hành
sáu ba la mật, gieo căn lành,
cúng dường chư Phật nhiều, gần gũi
thiện tri thức luôn,
Bồ Tát nầy tin hiểu được
Bát nhã ba la mật sâu xa”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát tu hành sáu ba la mật lâu, gieo căn lành,
cúng dường chư Phật nhiều, gần gũi
thiện tri thức luôn?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu
đại Bồ Tát chẳng
phân biệt sắc, chẳng
phân biệt sắc tướng, chẳng
phân biệt sắc tánh, nhẫn đến chẳng
phân biệt nhứt thiết
chủng trí, chẳng
phân biệt nhứt chủng tướng, chẳng
phân biệt nhứt thiết
chủng tánh.
Tại sao vậy? Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc chẳng thể nghĩ bàn nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí chẳng thể nghĩ bàn.
Thế nên
đại Bồ Tát trên đây được gọi là
tu hành lục ba la mật lâu, gieo căn lành,
cúng dường chư Phật nhiều, gần gũi
thiện tri thức luôn”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Vì sắc rất sâu nên
Bát nhã ba la mật rất sâu. Vì thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí rất sâu nên
Bát nhã ba la mật rất sâu.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy là kho
trân bảo, vì nơi đó báu
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
Bích Chi Phật,
Vô Thượng Chánh Giác. Vì nơi đó có báu
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
ngũ thần thông,
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát chánh đạo,
thập trí lực, tứ
vô ý,
tứ vô ngại trí,
đại từ đại bi,
thập bát bất cộng và nhứt thiết
chủng trí vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy là kho
thanh tịnh. Vì
sắc thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật là kho
thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật là kho
thanh tịnh.
Bạch đức Thế Tôn! Rất
quái lạ, lúc nói
Bát nhã ba la mật nầy lại có nhiều sự lưu nạn”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy có nhiềusự lưu nạn.
Vì lẽ ấy nên lúc
thiện nam,
thiện nữ nào muốn biên chép
Bát nhã ba la mật nầy thì nên biên chép mau đi. Lúc muốn
đọc tụng,
tư duy, giảng nói, chánh
ức niệm,
tu hành thì nên
tu hành mau đi.
Tại sao vậy? Vì lúc biên chép,
đọc tụng nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật rất sâu nầy chẳng muốn có các lưu nạn
phát khởi vậy.
Thiện nam,
thiện nữ nào
nếu có thể một tháng, hai tháng, ba tháng hoặc nhẫn đến một năm biên chép xong thì nên
siêng cần chép cho xong. Nếu
đọc tụng nhẫn đến
tu hành trong một tháng hoặc một năm được
thành tựu thì nên siên cần cho
thành tựu. Vì kho
trân bảo nầy có nhiều lưu nạn
phát khởi vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Trong
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy
ác ma ưa làm lưu nạn, chẳng cho biên chép,
đọc tụng,
tư duy, giảng nói, chánh
ức niệm, tu hành”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Dầu
ác ma muốn làm lưu nạn
Bát nhã ba la mật rất sâu nầy, chẳng cho biên chép nhẫn đến
tu hành, nhưng
ác ma cũng chẳng
phá hoại được sự biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật của
chư đại Bồ Tát nầy”.
Bấy giờ Ngài
Xá Lợi Phất thưa: Bạch đức Thế Tôn! Do
sức lực nào làm cho
ác ma chẳng lưu nạn được
chư đại Bồ Tát biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật rất sâu nầy?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Đó là do
Phật lực làm cho
ác ma chẳng lưu nạn được
chư đại Bồ Tát biên chéo nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật rất sâu nầy”.
Nầy
Xá Lợi Phất! Cũng do
thần lực của chư Phật hiện tại ở
mười phương quốc độ hộ niệm cho
đại Bồ Tát nầy nên
ác ma chẳng lưu nạn được.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Thiện nam,
thiện nữ phải nghĩ rằng tôi biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy đều là do
thần lực của
mười phương chư Phật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy đều do
thần lực của chư Phật nên biết rằng những người nầy được chư
Phật hộ niệm”.
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Đúng như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất! Vì biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy đều do
Phật lực nên biết rằng cũng được hư
Phật hộ niệm”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Hiện tại mười phương vô lượng vô biên vô số chư Phật đều biết, đều thấy lúc
thiện nam,
thiện nữ nầy biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Đúng như vậy. Nầy
Xá Lợi Phất!
HIện tại mười phương vô lượng vô biên vô số chư Phật đều biết, đều thấy lúc
thiện nam,
thiện nữ nầy biên chép nhẫn đến lúc
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy”.
Nầy
Xá Lợi Phất! Trong
thiện nam,
thiện nữ cầu đạo Bồ Tát mà biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, nên biết rằng những người ấy đã
đến gần Vô thượng Chánh giác.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Thiện nam,
thiện nữ biên chép nhẫn đển chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, những người đây đối với
Bát nhã ba la mật sâu xa có nhiều tin hiểu, lại cũng
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng, khen ngợi. Chư Phật đều biết đều thấy
thiện nam,
thiện nữ nầy.
Do
công đức cúng dường mà
thiện nam,
thiện nữ nầy sẽ được
lợi ích lớn, sẽ được
quả báo lớn.
Nầy
Xá Lợi Phất! Do
công đức cúng dường nầy mà
thiện nam,
thiện nữ ấy chẳng sa vào
ác đạo, không bao giờ xa rời chư Phật
cho đến chứng được
bất thối địa.
Nầy
Xá Lợi Phất! Do
nhơn duyên căn lành mà
thiện nam,
thiện nữ ấy mãi đến khi được
Vô thượng Bồ đề vĩnh viễn chẳng xa rời
sáu ba la mật, chẳng xa rời
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng xa rời
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát thánh đạo, chẳng xa rời
mười trí lực nhẫn đến
Vô thượng Chánh giác.
Nầy
Xá Lợi Phất! Sau khi Phật
nhập diệt,
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy sẽ đến cõi nước phương Nam. Nơi đó, các
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di sẽ biên chép, sẽ
thọ trì,
đọc tụng,
tư duy, giảng nói, chánh
ức niệm,
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy.
Do
nhơn duyên căn lành đây mà
tứ chúng ấy chẳng còn sa vào
ác đạo, được hưởng phước vui
cõi Trời,
cõi Người, thêm lớn
sáu ba la mật,
cúng dường,
cung kính ngợi khen chư Phật, lần lần
đắc quả Thanh văn,
Bích Chi Phật và
Phật thừa.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy sẽ từ phương Nam truyền đến phương Tây, từ phương Tây sẽ truyền đến phương Bắc, hàng
tứ chúng ở các cõi nước ấy sẽ biên chép,
thọ trì,
đọc tụng,
tư duy, giảng nói, chánh
ức niệm,
tu hành,
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy. Do
nhơn duyên căn lành ấy mà họ chẳng còn sa vào
ác đạo, hưởng phước vui
cõi Trời,
cõi Người, thêm lớn
sáu ba la mật,
cúng dường,
cung kính,
ngợi khen chư Phật, lần lần
đắc quả Thanh văn,
Bích Chi Phật và
Phật thừa.
Nầy
Xá Lợi Phất! Bấy giờ ở phương Bắc,
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy sẽ
làm Phật sự tại đó.
Bởi vì sao? Nầy
Xá Lợi Phất!
Thời kỳ pháp của ta thạnh
hành không có tướng diệt hoại.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ta đã nhớ đến các
thiện nam,
thiện nữ thọ trì nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy. Các
thiện nam,
thiện nữ ấy có thể biên chép và
cung kính,
cúng dường,
ca ngợi Bát nhã ba la mật sâu xa nầy.
Các
thiện nam,
thiện nữ ấy do
nhơn duyên căn lành trên mà chẳng sa vào
ác đạo, được hưởng phước vui
cõi Trời,
cõi Người, thêm lớn
sáu ba la mật,
cúng dường,
cung kính,
ngợi khen chư Phật, lần lần
đắc quả Thanh văn,
Bích Chi Phật và
Phật thừa.
Nầy
Xá Lợi Phất! ta dùng
Phật nhãn thấy các người ấy, ta cũng
ngợi khen các người ấy.
Vô lượng vô biên vô số chư Phật ở
mười phương cũng thấy, cũng
ngợi khen các người ấy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy về sau sẽ thạnh hành ở phương Bắc ư?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Đúng như vậy.
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy về sau sẽ thạnh hành ở phương Bắc.
Nầy
Xá Lợi Phất! Sau nầy ở phương Bắc, nếu
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà biên chép,
thọ trì,
đọc tụng,
tư duy, giảng nói, chánh
ức niệm,
tu hành như lời, phải biết các người ấy từ lâu đã
phát tâm Đại thừa, đã
cúng dường nhiều chư Phật, gieo căn lành, luôn gần gũi
thiện tri thức”.
Ngài
Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Sau nầy ở phương Bắc có bao nhiêu
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo mà biên chép nhẫn đến
tu hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Sau nầy ở Bắc phương dầu có nhiều
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo nhưng ít có người nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà
không kinh sợ.
Tại sao vậy? Vì các người nầy gần gũi
cúng dường nhiều chư Phật, nhiều
học hỏi nơi chư Phật. các người nầy có thể đủ
sáu ba la mật, đầy đủ
tứ niệm xứ nhẫn đến đầy đủ mười
tám pháp bất cộng.
Nầy
Xá Lợi Phất! Các người nầy nhờ căn lành
thuần thục vì
Vô thượng Bồ đề, mà có thể đem
lợi ích nhiều cho
chúng sanh.
Nay ta cũng như chư Phật
quá khứ vì
thiện nam,
thiện nữ nầy mà nói pháp nhứt thiết
chủng trí. Do
nhơn duyên đây nên
đời sau các người ấy
tiếp nối được
Vô thượng Chánh giác rồi cũng vì người khác mà nói pháp
Vô thượng Chánh giác.
Các
thiện nam,
thiện nữ ấy đều
nhứt tâm hòa hiệp. Ma và dân ma còn không
phá hoại được tâm
Vô thượng Bồ đề của họ, huống là những người ác chê bai người thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa nầy mà
phá hoại được tâm
Vô thượng Bồ đề của họ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Các
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo, nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy được
pháp hỉ lớn, được
pháp lạc lớn, cũng gầy dựng nhiều người ở nơi căn lành để được
Vô thượng Bồ đề.
Các
thiện nam,
thiện nữ nầy ở trước Phật
tuyên thệ rằng lúc tôi thật hành
Bồ Tát đạo sẽ độ
vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh giác,
dạy bảo cho họ được
lợi ích vui mừng nhẫn đến
thọ ký bực
bất thối. Phật biết rõ
tâm nguyện của họ và Phật cũng
tùy hỉ.
Các
thiện nam,
thiện nữ nầy ở trước chư Phật
quá khứ đã từng
tuyên thệ như trên và cũng được chư Phật
quá khứ biết rõ
tâm nguyện của họ mà
tùy hỉ cho họ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì các
thiện nam,
thiện nữ ấy
tâm nguyện của họ lớn nên sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp của họ hưởng thọ cũng lớn, họ cũng có thể
bố thí lớn, gieo căn lành lớn. Họ gieo căn lành lớn xong được
quả báo lớn. Vì để nhiếp
chúng sanh nên họ lấy
quả báo lớn. Ở giữa
chúng sanh họ có thể
xả thí những vật
sở hữu trong ngoài thân. Do
nhơn duyên căn lành nầy họ
phát nguyện muốn sanh về
quốc độ phương khác, nơi mà chư
Phật hiện đương nói
Bát nhã ba la mật sâu xa. Ở trước chư Phật nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa rồi, họ cũng dạy
lợi ích vui mừng cho trăm ngàn muôn ức
chúng sanh nơi đó, đều khiến
phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật đối với những pháp
quá khứ,
vị lai,
hiện tại không gì chẳng biết,
không pháp như nào mà Phật chẳng biết, tất cả hạnh nghiệp của
chúng sanh không sự nào mà chẳng biết. Nay
đức Phật biết rõ chư Phật và
Bồ Tát,
Thanh văn quá khứ.
Đức Phật cũng biết rõ chư Phật và
Bồ Tát,
Thanh văn hiện tại, biết rõ chư Phật và
Bồ Tát,
Thanh văn vị lai.
Bạch đức Thế Tôn! Đời
vị lai những
thiện nam,
thiện nữ cần cầu sáu ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng nhẫn đến
tu hành có được hay chẳng được?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Nếu
thiện nam,
thiện nữ nhứt tâm tinh tấn cần cầu sẽ được các kinh đúng
sáu ba la mật sâu xa”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Các
thiện nam,
thiện nữ cần hành như vậy sẽ được kinh đúng
sáu ba la mật sâu xa ư?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Các
thiện nam,
thiện nữ ấy được kinh đúng
sáu ba la mật sâu xa nầy. Tại sao vậy? Các
thiện nam,
thiện nữ ấy vì
Vô thượng Chánh giác mà
thuyết pháp lợi ích vui mừng cho
chúng sanh an trụ
sáu ba la mật. Do đây nên các
thiện nam,
thiện nữ ấy
chuyển sanh đời sau để được kinh đúng
sáu ba la mật sâu xa. Khi được rồi họ
tu hành đúng như
sáu ba la mật đã được nói. Họ
tinh tấn chẳng nghĩ nhẫn đến
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, chứng
Vô thượng Chánh giác”.
PHẨM MA SỰ
THỨ BỐN MƯƠI SÁU
Lúc bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật đã
ngợi khen, đã nói
công đức của các
thiện nam,
thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề thật hành
sáu ba la mật,
thành tựu chúng sanh,
tịnh Phật quốc độ.
Bạch đức Thế Tôn! Các
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo sanh ra những lưu nạn như thế nào?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Lạc thuyết
biện tài chẳng liền phát sanh, phải biết đây là
ma sự của
Bồ Tát.
Tại sao vậy? Vì có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật khó đầy đủ
sáu ba la mật. Thế nên
Lạc thuyết biện tài chẳng liền phát sanh là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Lạc thuyết biện tài vụt khỏi cũng là
ma sự của
Bồ Tát.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát thật hành
sáu ba la mật ham thích thuyết pháp. Thế nên
Lạc thuyết biện tài vụt khỏi cùng
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chép
kinh Bát nhã ba la mật mà khinh lờn ngạo mạn, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chéo kinh nầy mà cười cười đùa
loạn tâm, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chép kinh nầy mà khinh cười, chẳng
cung kính, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chép kinh nầy nếu tâm loạn
bất định, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc biên chép kinh nầy nếu các người chẳng hòa hiệp, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Thiện nam,
thiện nữ nào nghĩ rằng tôi không được tự vị trong kinh rồi bèn bỏ đi, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
thọ trì,
đọc tụng, giảng nói, chánh
ức niệm khinh lờn ngạo mạn, đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
thọ trì kinh nầy, lúc gần gũi, chánh
ức niệm nếu cùng nhau ra dấu cười cợt, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
thọ trì nhẫn đến
tu hành kinh nầy nếu khinh miệt lẫn nhau, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
thọ trì nhẫn đến chánh
ức niệm kinh nầy nếu
tâm tán loạn, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
thọ trì nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà tâm chẳng hòa hiệp, phải biết đó là
ma sự của Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như
đức Phật phán dạy rằng
thiện nam,
thiện nữ tự nghĩ tôi không được tư vị trong kinh rồi bèn bỏ đi.
Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì
Bồ Tát chẳng được tư vị trong kinh nói rồi bèn bỏ đi?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Bồ Tát nầy đời trước chẳng
dày công thật hành
sáu ba la mật, nên nghe nói
Bát nhã ba la mật nầy liền nghĩ rằng tôi chẳng
ghi nhận Bát nhã ba la mật, tôi chẳng
thanh tịnh, bèn đứng dạy bỏ đi”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao chẳng
thọ ký cho người nghe
Bát nhã ba la mật đứng dậy bỏ đi?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu
Bồ Tát chưa vào trong
pháp vị thì chư Phật chẳng
thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu lúc nghe nói
Bát nhã ba la mật mà nghĩ rằng trong đây không có nói đến
danh tự của tôi, do đó mà tâm chẳng
thanh tịnh, phải biết đó là
ma sự của Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “cớ sao trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy chẳng nói
danh tự của
Bồ Tát ấy?”
Đức Phật nói: “Chư Phật chẳng nói
danh tự của
Bồ Tát chưa được
thọ ký.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc nghe
Bát nhã ba la mật mà nghĩ rằng trong đây không nói đến tên xứ sở của tôi sanh, người nầy không muốn nghe bèn
đứng dậy rời
pháp hội bỏ đi. Lúc người nầy
đứng dậy, cứ mỗi niệm phải một kiếp
tinh tấn cầu
Vô thượng Bồ đề trở lại.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Bỏ
Bát nhã ba la mật mà học các kinh khác,
Bồ Tát nầy trọn không thể đến nhứt thiết
chủng trí, đây là bỏ gốc mà níu nhánh lá, phải biết đó là sự của Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những kinh gì mà
thiện nam,
thiện nữ học theo trọn chẳng đến được nhứt thiết chủng trí?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đó là những kinh hàng
Thanh văn thật hành. Như là
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác chi,
bát thánh đạo, không,
vô tướng,
vô tác,
giải thoát môn. Các
thiện nam,
thiện nữ an trụ trong pháp trên đây được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đây là chỗ của hàng
Thanh văn đi, không thể đến được nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh chư Phật
Bồ Tát thành tựu pháp
thế gian và pháp
xuất thế gian. Lúc học
Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát cũng học pháp
thế gian và pháp
xuất thế gian.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như con chó chẳng theo chủ nhà để đòi ăn mà theo gã cần vụ. Cũng vậy,
đời sau có
thiện nam,
thiện nữ bỏ
Bát nhã ba la mật sâu xa cội gốc,
trở lại nắm lấy
kinh pháp sở hành của
Thanh văn,
Bích Chi Phật nhánh lá, hải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Như có người muốn thấy voi, được thấy voi rồi
trở lại nhìn
dấu chân voi. Theo ý người, kẻ đó có không chăng?”
Bạch đức Thế Tôn! Người ấy chẳng khôn.
Cũng vậy, Nầy Tu Bồ Đề!
Thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo được
Bát nhã ba la mật sâu xa lại bỏ đi cầu lấy
kinh pháp sở hành của
Thanh văn,
Bích Chi Phật, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề! Như có người muốn thấy biển lớn
trở lại tìm nước đọng ở
dấu chân trâu mà nghĩ rằng nước biển lớn có bằng nước
dấu chân trâu chăng? Ý ngươi thế nào, người ấy có khôn chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Người ấy chẳng khôn.
Cũng cậy, nầy Tu Bồ Đề! đời sâu có
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo được
Bát nhã ba la mật sâu xa lại bỏ đi cầu lấy
kinh pháp sở hành của
Thanh văn,
Bích Chi Phật, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề! Như thợ vẽ nghĩ muốn vẽ thắng điện của
Thiên Đế mà
trở lại vẽ cung điện nhựt nguyệt. Ý ngươi thế nào, thợ vẽ nầy có khôn chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Thợ vẽ nầy chẳng khôn.
Nầy Tu Bồ Đề! Cũng vậy,
đời sau có
thiện nam,
thiện nữ phước đức mỏng cầu
Phật đạo được
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy lại bỏ đi cầu các kinh hàng
Thanh văn,
Bích Chi Phật, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Như có người muốn lấy
Chuyển Luân Thánh Vương, được gặp mà chẳng biết, về sau thấy các Tiểu
Quốc Vương cho rằng không khác
Chuyển Luân Thánh Vương. Ý ngươi thế nào, người nầy có khôn chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Người nầy chẳng khôn.
Nầy Tu Bồ Đề! Cũng vậy,
đời sau có
thiện nam,
thiện nữ phước đức mỏng cầu
Phật đạo được
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy lại bỏ đi cầu các kinh sở hành của hàng
Thanh văn,
Bích Chi Phật, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Như có người đang đói, bỏ cơm sốt ngon đi ăn cơm thiu lâu ngày. Ý ngươi thế nào, người đó nầy có khôn chăng?
Bạch đức Thế Tôn! người đó nầy chẳng khôn.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề!
Đời sau có
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo được nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy lại bỏ đi lấy các kinh sở hành của
Thanh văn,
Bích Chi Phật để cầu được nhứt thiết
chủng trí, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Như có người được
châu ma ni vô giá lại đem sánh với châu
thủy tinh. Ý ngươi thế nào, người nầy có khôn chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Người nầy chẳng khôn.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề!
Đời sau có
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo được nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy lại bỏ đi lấy các kinh sở hành của
Thanh văn,
Bích Chi Phật, phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Các
thiện nam,
thiện nữ ấy lúc biên chép
Bát nhã ba la mật nầy ưa nói những sự chẳng đúng pháp, biên chép
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy chẳng thành. Những gì là ưa nói những sự chẳng đúng pháp? Đó là ưa sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ưa nói
trì giới, các thiền, các định. Ưa nói
sáu ba la mật. Ưa nói tứ
tứ niệm xứ nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
Bát nhã ba la mật nầy không có tướng ưa nói.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật là tướng
bất khả tư nghì, là tướng
bất sanh,
bất diệt, bất cấu,
bất tịnh bất loạn, bất tán.
Bát nhã ba la mật là
tướng không nói, không dạy, không lời, không nghĩa.
Bát nhã ba la mật là tướng
vô sở đắc.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật không tất cả các pháp ấy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu có
Thiện nam cầu
Phật đạo, lúc biên chép
kinh Bát nhã ba la mật nầy mà
tâm tán loạn duyên theo các pháp ấy, phải biết đó là
ma sự của Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy biên chép được chăng?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Biên chép không được. Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật tự tánh không. Vì
Thiền na ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tự tánh không.
Tự tánh đã không thì chẳng gọi là pháp.
Không pháp chẳng thể biên chép được
không pháp.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo nghĩ rằng
không pháp là
Bát nhã ba la mật sâu xa, phải biết đó là
ma sự của Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ cầu đạo Bồ Đề, dùng
văn tự để biên chép
Bát nhã ba la mật, tự nghĩ rằng mình biên chép
Bát nhã ba la mật, dùng chữ đặt
Bát nhã ba la mật, phải biết đó cũng là
ma sự của
Bồ Tát.
Tại sao vậy? Bạch đức Thế Tôn! Vì
Bát nhã ba la mật không có văn
Thiền na ba la mật nhẫn đến
Thiền na ba la mật không có
văn tự, sắc thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí không có
văn tự.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
chấp không văn tự là
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
chấp không văn tự là nhứt thiết
chủng trí, cũng là
ma sự của
Bồ Tát.
Như biên chép,
đọc tụng, giảng nói, chánh
ức niệm,
tu hành đúng như lời đúng như vậy”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo, lúc biên chép
Bát nhã ba la mật mà tưởng nhớ
quốc độ, thành ấp,
phương hướng, nghe hủy báng thầy mình mà nghĩ đến hoặc nghĩ đến
cha mẹ; anh em, chị em,
bà con, nghĩ đến kẻ giặc cướp,
nam nữ, nghĩ đến những sự khác như vậy sẽ bị
ác ma xúi nghĩ nhớ thêm,
phá hư công việc biên chép
Bát nhã ba la mật,
phá hư công việc
đọc tụng, giảng nói, chánh
ức niệm,
tu hành Bát nhã ba la mật. Phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo, lúc biên chép nhẫn đến lúc
tu hành Bát nhã ba la mật,
ác ma tìm
phương tiện đem những kinh
sâu xa khác đến tặng cho. Người có sức
phương tiện chẳng nên
ham muốn những kinh
sâu xa khác của
ác ma đem đến vì những kinh ấy không đưa người đến nhứt thiết
chủng trí.
Kẻ không
đủ sức phương tiện, nghe nói những kinh
sâu xa khác bèn bỏ
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy. Trong
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy,
đức Phật đã giảng dạy nhiều
phương tiện của đạo
Bồ Tát.
Chư đại Bồ Tát nên tìm ở trong đây. Nếu
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo mà bỏ
Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, đi cầu
phương tiện nơi những kinh
sâu xa của
Thanh văn,
Bích Chi Phật, phải biết cũng là
ma sự của Bồ Tát”.