KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỚI BỐN
PHẨM THÁN TỊNH
THỨ BỐN MƯƠI HAI
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy rất sâu!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Những pháp nào
thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy rất sâu?”
Đức Phật nói: “Vì
sắc thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy rất sâu. Vì thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh, vì
tứ niệm xứ thanh tịnh, nhẫn đến vì mười
tám pháp bất cộng thanh tịnh, vì
Bồ Tát thanh tịnh, vì Phật
thanh tịnh, vì
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy rất sâu”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy rất sáng!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Những pháp nào
thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy rất sáng?”
Đức Phật nói: “Vì
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
Đàn na ba la mật thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy rất sáng. Vì
tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy rất sáng”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy chẳng tương tục!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “những pháp nào chẳng
tương tục nên
thanh tịnh nầy chẳng tương tục?”
Đức Phật nói: “Vì sắc chẳng đi, chẳng
tương tục nên
thanh tịnh nầy chẳng tương tụ. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng đi, chẳng
tương tục nên
thanh tịnh nầy chẳng tương tục”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy vô cấu!”
Đức Phật nói: Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Những pháp nào
vô cấu nên
thanh tịnh nầy vô cấu?”
Đức Phật nói: “Vì sắc tánh thường
thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy
vô cấu. Nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí tánh thường
thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy vô cấu”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh vô đắc, vô trước!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Những pháp nào vô đắc,
vô trước nên
thanh tịnh nầy vô đắc, vô trước?”
Đức Phật nói: “Vì sắc
vô cấu,
vô trước nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí vô đắc,
vô trước nên
thanh tịnh nầy vô đắc, vô trước”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy vô sanh!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những pháp nào
vô sanh nên
thanh tịnh nầy vô sanh?”
Đức Phật nói: “Vì sắc
vô sanh, nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí vô sanh nên
thanh tịnh nầy vô sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Dục giới!”
Đức Phật nói: “vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao
thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Dục giới?”
Đức Phật nói: “Dục giới tánh
bất khả đắc nên
thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Dục giới!”
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Sắc giới!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao
thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Sắc giới?”
Đức Phật nói: “Sắc giới tánh
bất khả đắc nên
thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Sắc giới”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy chẳng sanh trong
Vô sắc giới?”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao
thanh tịnh nầy chẳng sanh trong
Vô sắc giới?”
Đức Phật nói: “Vô
sắc giới tánh
bất khả đắc nên
thanh tịnh nầy chẳng sanh trong
Vô sắc giới“.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thanh tịnh nầy vô tri!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao
thanh tịnh nầy vô tri?”
Đức Phật nói: “Vì các pháp độn nên
thanh tịnh nầy vô tri”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Sắc
vô tri nên
thanh tịnh nầy thanh tịnh!”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao sắc
vô tri nên
thanh tịnh nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì sắc
tự tánh rỗng không nên sắc
vô tri mà
thanh tịnh nầy thanh tịnh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thọ, tưởng, hành, thức
vô tri nên
thanh tịnh nầy thanh tịnh!”
Đức Phật nói: “Vì rốt
thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao thọ, tưởng, hành, thức,
vô tri nên
thanh tịnh nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì thọ, tưởng, hành, thức
tự tánh rỗng không nên thọ, tưởng, hành, thức
vô tri mà
thanh tịnh nầy thanh tịnh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả
pháp thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao tất cả
pháp thanh tịnh nên
thanh tịnh nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất khả đắc nên tất cả
pháp thanh tịnh mà
thanh tịnh nầy thanh tịnh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy đối với
nhứt thiết trí không làm thêm, không làm bớt!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! tại sao đối với
nhứt thiết trí,
Bát nhã ba la mật nầy không làm thêm, không làm bớt?”
Đức Phật nói: “Vì
pháp thường trụ, nên đối với
nhứt thiết trí,
Bát nhã ba la mật nầy không làm thêm, không làm bớt.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật thanh tịnh nầy đối với các
pháp không chỗ thọ nhận!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao
Bát nhã ba la mật thanh tịnh đối với các
pháp không chỗ thọ nhận?”
Đức Phật nói: “Vì
pháp tánh bất động nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh nầy không chỗ thọ nhận đối với các pháp”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã
thanh tịnh nên
sắc thanh tịnh mà
rốt ráo thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì ngã
vô sở hữu nên sắc
vô sở hữu mà
rốt ráo thanh tịnh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã
thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Do cớ gì nã
thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh mà
rốt ráo thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì ngã
vô sở hữu nên thọ, tưởng, hành, thức
vô sở hữu mà
rốt ráo thanh tịnh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã
thanh tịnh nên
sáu ba la mật,
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì ngã
vô sở hữu nên
sáu ba la mật nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng vô sở hữu mà
rốt ráo thanh tịnh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã
thanh tịnh nên quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Phật đạo thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì
tự tướng không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã
thanh tịnh nên
nhứt thiết trí thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì
vô tướng vô niệm vậy?”
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do hai
thanh tịnh nên vô đắc,
vô trước là thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì
vô cấu, vô tịnh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã
vô biên nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì
rốt ráo không và vô thỉ không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát có thể biết như vậy thời gọi là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật!”
Đức Phật nói: "Vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì biết đạo chủng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, do sức
phương tiện nên nghĩ rằng sắc chẳng biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng biết thọ, tưởng, hành, thức, pháp
quá khứ chẳng biết pháp
quá khứ,
pháp vị lai chẳng biết
pháp vị lai, pháp
hiện tại chẳng biết pháp hiện tại”.
Đức Phật nói: “Đại
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, do sức
phương tiện nên chẳng nghĩ tôi
bố thí cho người, cũng chẳng nghĩ rằng tôi
trì giới,
trì giới như vậy, tôi
nhẫn nhục,
tu nhẫn nhục như vậy, tôi
tinh tấn,
tinh tấn như vậy, tôi nhập thiền, nhập thiền như vậy, tôi tu
trí huệ, tu
trí huệ như vậy, tôi được
phước đức, được
phước đức như vậy.
Đại Bồ Tát nầy cũng chẳng nghĩ rằng tôi sẽ vào trong bực
Bồ Tát, tôi sẽ
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh, tôi sẽ được nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nầy thật
hành Bát nhã
ba la mật, do
phương tiện lực nên không có những nhớ tưởng
phân biệt, vì là
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
không không,
đại không,
đệ nhứt nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không,
tánh không,
chư pháp không,
tự tướng không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây gọi là
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, do
phương tiện lực nên được vô ngại”.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Thế nào là
thiện nam tử cầu
Bồ Tát đạo có pháp chướng ngại?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Có những
thiện nam,
thiện nữ cầu
Bồ Tát đạo mà nắm lấy
tâm tướng. Những là nắm lấy tướng
Đàn na ba la mật, nắm lấy tướng
Thi la ba la mật nhẫn đến tướng
Bát nhã ba la mật, nắm lấy tướng
nội không nhẫn đến tướng
vô pháp hữu pháp không, nắm lấy tướng
tứ niệm xứ nhẫn đến tướng
bát thánh đạo, nắm lấy tướng
thập lực nhẫn đến tướng mười
tám pháp bất cộng, nắm lấy tướng chư Phật, nắm lấy tướng
thiện căn của chư Phật gieo trồng. Đem tướng nắm lấy tất cả
phước đức hòa hiệp đó
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây là pháp
chướng ngại của
thiện nam,
thiện nữ cầu đạo Bồ Tát.
Dụng pháp trên đây thời chẳng thể
vô ngại thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể
hồi hướng, nhẫn đến tướng nhứt thiết
chủng trí chẳng
hồi hướng.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu
giáo hóa cho người đến
Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải
giáo hóa thiệt tướng của tất cả pháp.
Thiện nam,
thiện nữ nếu
cầu đạo Bồ Tát, lúc thật hành
Đàn na ba la mật, chẳng nên
phân biệt rằng tôi thí cho, tôi
trì giới, tôi
nhẫn nhục, tôi
tinh tấn, tôi nhập thiền, tôi
trí huệ, chẳng nên
phân biệt rằng tôi tu
nội không đến tôi tu
vô pháp hữu pháp không, tôi tu
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề.
Nếu
giáo hóa Vô thượng Bồ đề như vậy, thời tự mình không
sai lầm cũng như chỗ
thuyết pháp của
đức Phật, làm cho
thiện nam,
thiện nữ xa lìa tất cả pháp chướng ngại”.
Đức Phật khen Ngài
Tu Bồ Đề: “Lành thay,
lành thay! Đúng như lời của ông nói về những pháp
chướng ngại cho chư
Bồ Tát.
Nay ông lại lắng nghe tướng
chướng ngại vi tế.
Có
thiện nam,
thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề nắm lấy tướng để tưởng chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Những tướng có thể có, thời đều là tướng
chướng ngại.
Lại đối với chư Phật, từ lúc
phát tâm đến lúc
pháp trụ, có bao nhiêu
thiện căn, các
thiện nam,
thiện nữ nầy nắm lấy tướng mà tưởng nhớ, rồi
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Những tướng có được thời đều là tướng
chướng ngại.
Lại đối với những
thiện căn của chư Phật, của
đại đệ tử, của những
chúng sanh khác, mà nắm lấy tướng
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Những tướng có được thời đều là tướng
chướng ngại.
Tại sao vậy?
Chẳng nên nắm lấy tướng để tưởng niệm chư Phật. Cũng chẳng nên nắm lấy tướng để tưởng niệm
thiện căn của chư Phật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy rất sâu!”
Đức Phật nói: “Vì tất cả
pháp thường ly vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi phải
kính lễ Bát nhã ba la mật”.
Đức Phật nói: “Vì
Bát nhã ba la mật nầy không khởi, không tác nên không ai có thể được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp cũng chẳng thể biết, chẳng thể được”.
Đức Phật nói: “Tất cả pháp một tánh
duy nhứt, chẳng phải hai tánh.
Pháp tánh duy nhứt nầy cũng là
vô tánh.
Vô tánh nầy chính là tánh. Tánh nầy chẳng khởi, chẳng tác.
Đúng vậy, nếu
đại Bồ Tát biết các pháp một tánh
duy nhứt là
vô tánh không khởi, không tác, thời
xa lìa tất cả tướng chướng ngại”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy khó biết, khó hiểu”.
Đức Phật nói: “Đ0úng như lời ông nói.
Bát nhã ba la mật nầy không người thấy, không người nghe, không người hay, không người biết, không người được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật nói: “Đúng như lời ông nói.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng
từ tâm sanh, chẳng từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh, nhẫn đến chẳng từ mười
tám pháp bất cộng sanh”.
PHẨM VÔ TÁC
THỨ BỐN MƯƠI BA
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy không sở tác!”
Đức Phật nói: “Vì
tác giả bất khả đắc. Vì sắc
bất khả đắc nhẫn đến tất cả pháp bất khả đắc”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Nếu
đại Bồ Tát muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật thời phải thật hành thế nào?”
Đức Phật nói: “Muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thật hành nơi sắc, chẳng hành nơi thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết
chủng trí, thời đó là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng hành
thường hay vô thường, thời là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng hành hoặc khổ hoặc vui, thời thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng hành là ngã hay chẳng phải ngã, thời thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng hành tịnh hay
bất tịnh, thời là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí đây vốn không có tánh, thời thế nào lại có thường, có
vô thường, có khổ, có vui, có ngã, có chẳng ngã, có tịnh, có
bất tịnh được.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng hành sắc chẳng đầy đủ, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết
chủng trí chẳng đầy đủ, thời là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao vậy? Vì sắc chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là sắc, như đây cũng chẳng hành thời là thật
hành Bát nhã
ba la mật. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là nhứt thiết
chủng trí, như đây cũng chẳng hành thời là thật
hành Bát nhã
ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thật chưa từng có!
Đức Thế Tôn khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại của những
thiện nam,
thiện nữ cầu đạo Bồ Tát”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Phật khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại của những
thiện nam,
thiện nữ cầu đạo Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
đại Bồ Tát chẳng hành sắc, chẳng
chướng ngại, thời
hành Bát nhã
ba la mật. Nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết
chủng trí, chẳng
chướng ngại, thời là
hành Bát nhã
ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy,
đại Bồ Tát biết sắc là chẳng
chướng ngại, biết thọ, tưởng, hành, thức là chẳng
chướng ngại, nhẫn đến biết nhứt thiết
chủng trí là chẳng
chướng ngại. Biết quả
Tu Đà Hoàn là chẳng
chướng ngại, nhẫn đến biết đạo
Vô thượng Bồ đề là chẳng chướng ngại”,
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Chưa từng có vậy, Bạch đức Thế Tôn!
Pháp
thậm thâm nầy, hoặc
giảng thuyết, hoặc chẳng
giảng thuyết cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Pháp
thậm thâm nầy, hoặc nói hoặc chẳng nói cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm.
Nầy Tu Bồ Đề!
Như ảo nhơn, lúc khen hay lúc chê cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm. Lúc khen chẳng mừng, lúc che chẳng lo.
Nầy Tu Bồ Đề!
Pháp tướng của các pháp cũng như vậy, lúc nói cũng như bổn không khác, lúc chẳng nói cũng như bổn không khác”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ làm của
chư đại Bồ Tát rất khó. Lúc
tu hành Bát nhã ba la mật nầy, các Ngài chẳng mừng chẳng lo, mà có thể
thực tập Bát nhã ba la mật. Cũng chẳng
thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn!
Tu hành Bát nhã ba la mật như
tu hành hư không.
Như trong
hư không, không có
Bát nhã ba la mật nhẫn đến không có
Đàn na ba la mật. Như trong
hư không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có mười
tám pháp bất cộng. Như trong
hư không, không có quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến đạo
Vô thượng Bồ đề. Tu
Bát nhã ba la mật cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Tất cả đều nên
kính lễ chư đại Bồ Tát có
thể đại thệ
trang nghiêm nầy.
Bạch đức Thế Tôn!
Chư đại Bồ Tát nầy vì
chúng sanh mà
đại thệ trang nghiêm chuyên cần tinh tấn, như
hư không đại thệ trang nghiêm chuyên cần tinh tấn.
Bạch đức Thế Tôn!
Chư đại Bồ Tát nầy muốn độ
chúng sanh như muốn độ
hư không.
Bạch đức Thế Tôn!
Chư đại Bồ Tát nầy
đại thệ trang nghiêm, như là
hư không khắp cả
chúng sanh đại thệ trang nghiêm.
Bạch đức Thế Tôn!
Chư đại Bồ Tát nầy
đại thệ trang nghiêm muốn độ
chúng sanh như là cất
hư không lên.
Bạch đức Thế Tôn!
Chư đại Bồ Tát nầy được sức đại
tinh tấn, vì muốn độ
chúng sanh mà
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn!
Chư đại Bồ Tát nầy rất
dũng mãnh, vì độ
chúng sanh đồng như
hư không mà
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu chư Phật đầy cả trong cõi
Đại Thiên như là tre, lau, mía, lúa, mè, lùm rừng, thường
thuyết pháp luôn cả một kiếp hoặc gần một kiếp. Mỗi
đức Phật độ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh làm cho họ
nhập Niết Bàn.
Tánh
chúng sanh nầy cũng vẫn tăng, chẳng giảm.
Tại sao vậy?
Vì
chúng sanh vốn
vô sở hữu vậy, là ly vậy.
NHẫn đến chư Phật trong
quốc độ mười phương độ
chúng sanh, tánh
chúng sanh vẫn không tăng, không giảm cũng như vậy.
Do
nhơn duyên ấy, bạch đức Thế Tôn! Tôi nói rằng
chư đại Bồ Tát nầy vì muốn độ
chúng sanh mà
phát tâm Vô thượng Bồ đề, là muốn độ
hư không.
Bấy giờ có một
Tỳ Kheo nói rằng: Tôi phải
đảnh lễ Bát nhã ba la mật.
Trong
Bát nhã ba la mật dầu
không pháp sanh,
không pháp diệt, mà có chúng
chánh giới, có chúng
chánh định, có chúng chánh huệ, có chúng
giải thoát, có chúng
giải thoát trí kiế. Mà có các bực
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật, chư Phật. Mà có Phật Bửu, Pháp Bửu,
Tỳ Kheo Tăng Bửu. Mà có chuyển pháp luân”.
Lúc đó
Thiên Đế hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu
đại Bồ Tát tu tập Bát nhã ba la mật là
tu tập pháp gì?”
Ngài
Tu Bồ Đề bảo
Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca!
đại Bồ Tát nầy
tu tập Bát nhã ba la mật là
tu tập không”.
Thiên Đế bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nầy và thân cận,
đọc tụng,
giải thuyết, chánh
ức niệm, thời tôi phải
thủ hộ những gì?”
Ngài
Tu Bồ Đề hỏi
Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Ngài có pháp gì có thể thủ được chăng?”
Thiên Đế nói: “Không! Bạch Đại Đức! Tôi chẳng thấy pháp gì có thể
thủ hộ được”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu
thiện nam,
thiện nữ tu hành đúng như
lời Phật dạy trong
Bát nhã ba la mật, thời chính là
thủ hộ. Nghĩa là thường
tu hành đúng như
lời Phật dạy trong
Bát nhã ba la mật mà chẳng xa rời, thời hoặc người hay
phi nhơn không làm hại được
thiện nam,
thiện nữ nầy.
Phải biết rằng
thiện nam,
thiện nữ nầy chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu ai muốn
thủ hộ hàng
Bồ Tát tu hành Bát nhã ba la mật, thời là muốn
thủ hộ hư không.
Nầy Kiều Thi Ca! Ý Ngài nghĩ sao? Ngài có thể
thủ hộ mộng, diệm, ảnh, hưởng, ảo, hóa được chăng?”
Thiên Đế nói: “Không thể
thủ hộ được”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu ai muốn
thủ hộ chư
Bồ Tát tu hành Bát nhã ba la mật thời cũng như vậy. Chỉ luống nhọc nhằn thôi.
Nầy Kiều Thi Ca! Ngài có thể
thủ hộ chỗ
biến hóa của chư Phật chăng?”
Thiên Đế nói: “Tôi chẳng
thủ hộ được”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu ai muốn
thủ hộ chư
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật thời cũng như vậy.”
Nầy Kiều Thi Ca! Có thể
thủ hộ pháp tánh, thiệt tế,
pháp như, bất tư nghì tánh chăng?”
Thiên Đế nói: “Không thể
thủ hộ được”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu có ai muốn
thủ hộ chư
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật thời cũng như vậy”.
Thiên Đế hỏi: “Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Thế nào
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật thấy biết các
pháp như mộng, như diệm, như ảnh,
như ảo, như hóa? Thế nào
chư đại Bồ Tát như chỗ mình thấy biết nên chẳng
quan niệm mộng, chẳng
quan niệm là mộng, chẳng
quan niệm dùng mộng, chẳng
quan niệm tôi mộng?
Như mộng với diệm, ảnh, hưởng, ảo và hóa cũng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng
quan niệm sắc, chẳng
quan niệm là sắc, chẳng
quan niệm dùng sắc, chẳng
quan niệm sắc với tôi,
thời đại Bồ Tát nầy cũng có thê chẳng
quan niệm mộng, chẳng
quan niệm là mộng, chẳng
quan niệm dùng mộng, chẳng
quan niệm tôi mộng, nhẫn đến ảo và hóa cũng vậy.
Nếu
đại Bồ Tát nhẫn đến
nhứt thiết trí, chẳng
quan niệm nhứt thiết trí, chẳng
quan niệm là
nhứt thiết trí, chẳng
quan niệm dùng
nhứt thiết trí, chẳng
quan niệm nhứt thiết trí của tôi,
thời đại Bồ Tát cũng có thể nhẫn đến chẳng
quan niệm hóa, chẳng
quan niệm là hóa, chẳng
quan niệm dùng hóa, chẳng
quan niệm hóa của tôi.
Nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát như vậy biết các
pháp như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng,
như ảo, như hóa”.
Bấy giờ do
thần lực của Phật, nên trong
Đại thiên thế giới, các hàng Trời
Tứ Thiên Vương,
Trời Đao Lợi, Trời
Dạ Ma,
Trời đâu Suất,
Trời Hóa lạc,
Trời Tha Hóa Tự Tại,
Trời Phạm Thiên,
Trời Phạm Phụ,
Trời Phạm Chúng,
Trời Đại Phạm,
Trời Thiểu Quang, nhẫn đến
Trời Tịnh Cư, tất cả những hàng Trời nầy đem hương
chiên đàn cõi Trời vói rải trên
đức Phật, cùng nhau đến chỗ Phật, đầu mặt lạy
chơn Phật, rồi đứng qua một phía.
Do
thần lực của Phật, nên những hàng Trời nầy đều thấy ngàn
đức Phật phương Đông
thuyết pháp, cùng tướng dạng như vậy,
danh hiệu như vậy, giảng nói phẩm
Bát nhã ba la mật nầy, chư
Tỳ Kheo đều tên
Tu Bồ Đề, người gạn hỏi phẩm
Bát nhã ba la mật đều tên
Thích đề Hoàn Nhơn.
Như phương Đông, chín phương kia cũng đều hiện ngàn
đức Phật như vậy.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Thời kỳ
Di Lặc Đại Bồ Tát chứng
Vô thượng Bồ đề chánh đẳng Chánh giác, cũng sẽ nói
Bát nhã ba la mật tại chỗ nầy.
Chư đại Bồ Tát trong
Hiền kiếp, lúc chứng
Vô thượng Bồ đề cũng ở tại chỗ nầy mà nói
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc Ngài
Di Lặc Bồ Tát thành Phật, dùng tướng gì, nhơn gì, nghĩa gì mà nói nghĩa
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Lúc
Di Lặc Bồ Tát chứng
Vô thượng Bồ đề sẽ
thuyết pháp như vầy:
Sắc chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường.
Sắc chẳng phải khổ, chẳng phải lạc.
Sắc chẳng phải ngã, chẳng phải
vô ngã.
Sắc chẳng phải phải tịnh, chẳng phải
bất tịnh.
Sắc chẳng phải
hệ phược, chẳng phải
giải thoát.
Sắc chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai, chẳng phải
hiện tại.
Sắc
rốt ráo thanh tịnh.
Thọ, tưởng, hành và thức nhẫn đến
nhứt thiết trí cũng như vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Vì
sắc thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Nếu sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời gọi là
sắc thanh tịnh. Nếu thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời gọi là thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì
hư không thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào vì
hư không thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Vì
hư không chẳng sanh, chẳng diệt nên
thanh tịnh.
Bát nhã ba la mật cũng vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc chẳng
nhiễm ô nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng
nhiễm ô nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề! Như
hư không chẳng thể nắm lấy được nên
hư không thanh tịnh. Vì
hư không thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì
hư không có thể
thuyết minh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Nhơn trong
hư không hai
âm thanh xuất phát.
Như
hư không, vì
Bát nhã ba la mật có thể
thuyết minh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
hư không chẳng thể
thuyết minh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Như
hư không vì không chỗ
thuyết minh được nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại như
hư không vì chẳng thể được nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Như
hư không vì không chỗ được nên
hư không thanh tịnh,
Bát nhã ba la mật cũng không chỗ được nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Vì tất cả pháp
rốt ráo thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nầy và gần gũi, chánh
ức niệm, thời trọn chẳng mắc bịnh, nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân cũng trọn chẳng bịnh, thân không tàn tật cũng chẳng suy già, chẳng
hoạnh tử,
vô số hàng
chư Thiên, từ Trời
Tứ Thiên Vương đến
Trời Tịnh Cư thảy đều
đi theo nghe học. Mỗi tháng đến sáu ngày trai: mùng tám, mưới bốn, mười lăm, hai mươi ba, hai mươi chín và ngày ba mươi, tại chỗ
thiện nam,
thiện nữ nầy làm
pháp sư,
giảng thuyết Bát nhã ba la mật,
chư Thiên chúng hội đều
vân tập đến. Ở giữa
đại chúng,
thiện nam,
thiện nữ giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy được
vô lượng vô biên vô số bất khả tư nghì,
bất khả xưng lượng phước đức”.
Đức Phật nói: “Đúng như lời
Tu Bồ Đề nói. Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật là đại trân bửu.
Những gì là đại trân bửu?
Bát nhã ba la mật nầy có thể nhổ được sự bần cùng của
Địa ngục,
Súc sanh,
Ngạ quỷ và trong
loài người.
Bát nhã ba la mật nầycó thể
ban cho hào tộc đại tánh Sát Lợi,
Bà La Môn,
Cư Sĩ,
ban cho cõi Trời Tứ Vương đến Phi
Phi Tưởng,
ban cho quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật,
Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Vì trong
Bát nhã ba la mật nói rộng về
thập thiện,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Bát nhã ba la mật,
thập bát không,
thập lực,
tứ vô úy,
thập bát bất cộng, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Học theo đây thời xuất sanh đại tánh Sát Lợi, đại tánh
Bà La Môn, đại tánh
Cư Sĩ, Trời Tứ Vương,
Trời Đao Lợi, Trời
Dạ Ma,
Trời Đâu Suất Đà,
Trời Hóa Lạc,
Trời Tha Hóa Tự Tại,
Trời Phạm Chúng,
Trời Phạm Phụ, Trời
Phạm Vương,
Trời Thiểu Quang,
Trời Vô Lượng Quang,
Trời Quang Âm,
Trời Thiểu Tịnh,
Trời Vô Lượng Tịnh,
Trời Biến Tịnh, Trời Vô Vân,
Trời Phước Sanh, Trời Quảng Quả, Trời
Vô Tưởng, Trời
Vô Phiền,
Trời Vô Nhiệt,
Trời Thiện Kiến, Trời
Thiện Hiện,
Trời Sắc Cứu Cánh, Trời
Không Vô Biên Xứ, Trời
Thức Vô Biên Xứ, Trời
Vô Sở Hữu Xứ, Trời
Phi Hữu Tưởng Phi
Vô Tưởng Xứ.
Học trong pháp nầy thời được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm,
A La Hán đạo Bích Chi Phật, đạo
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì thế nên
Bát nhã ba la mật gọi là đại trân bửu.
Trong trân bửu
ba la mật,
không pháp gì có thể được là hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc cấu, hoặc tịnh, hoặc lấy, hoặc bỏ.
Trong trân bửu
ba la mật cũng không có pháp hoặc thiện, hoặc
bất thiện, hoặc
thế gian, hoặc
xuất thế gian, hoặc
hữu lậu, hoặc
vô lậu, hoặc
hữu vi, hoặc
vô vi.
Vì thế nên gọi là
vô sở đắc trân bửu
ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Trân bửu
ba la mật nầy không có pháp gì làm
ô nhiễm được
Tại sao vậy?
Vì chỗ dùng
nhiễm pháp là
bất khả đắc.
Vì thế nên gọi là vô niễm trân bửu
ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, cũng chẳng biết như vậy, chẳng
phân biệt như vậy, cũng
bất khả đắc như vậy, chẳng
hí luận như vậy. Đây là có thể
tu hành Bát nhã ba la mật, cũng có thể
kính lễ chư Phật, từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật để
cúng dường,
cung kính tán thán chư Phật, đi đến các
cõi Phật để
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ.
Nầy Tu Bồ Đề! Đối với các pháp,
Bát nhã ba la mật nầy không có
năng lực, không chẳng phải
năng lực, cũng không
lãnh thọ, không
ban cho, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng thêm, chẳng bớt.
Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai, chẳng phải
hiện tại, chẳng bỏ cõi Dục, Cõi Sắc, cõi
Vô sắc, cũng chẳng trụ cõi Dục, cõi Sắc, cõi
Vô sắc.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng
ban cho Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật và
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng bỏ
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật và
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho
nội không đến
vô pháp hữu pháp không cũng chẳng bỏ, chẳng cho
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo cũng chẳng bỏ, chẳng cho
thập lực đến
thập bát bất cộng pháp cũng chẳng bỏ, chẳng cho quả
Tu Đà Hoàn đến
nhứt thiết trí cũng chẳng bỏ.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho pháp
A La Hán, chẳng bỏ pháp
phàm phu, chẳng cho
pháp Bích Chi Phật, chẳng bỏ pháp
A La Hán, chẳng cho
Phật pháp, chẳng bỏ
Bích Chi Phật.
Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng cho
pháp vô vi, chẳng bỏ
pháp hữu vi.
Tại sao vậy?
Vì hoặc có Phật, những
pháp tướng nầy luôn
thường trụ không khác, vì
pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị thường trụ chẳng sai, chẳng mất vậy”.
Bấy giờ
chư Thiên đứng trong
hư không vui mừng hớn hở
phát âm thanh lớn, đem hoa
âu bát la, hoa
ba đầu ma, hoa
câu vật đầu, hoa phân đà lợi rải lên trên
đức Phật mà nói rằng ở
Diêm Phù Đề chúng tôi thấy
pháp luân chuyển lần thứ hai.
Trong đây có
vô lượng trăm ngàn
Thiên Tử được
vô sanh pháp nhẫn.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Pháp luân nầy chuyển, chẳng phải chuyển lần thứ nhứt, chẳng phải chuyển lần thứ hai.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng do chuyển, chẳng do hườn mà
xuất hiện, vì
vô pháp hữu pháp rỗng không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! thế nào vì
vô hữu pháp rỗng không nên
Bát nhã ba la mật chẳng do chuyển, chẳng do hườn mà xuất hiện?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật Bát nhã ba la mật tướng rỗng
không nhẫn đến
Đàn na ba la mật Đàn na ba la mật tướng rỗng không,
nội không nội không tướng rỗng
không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu pháp không tướng rỗng không,
tứ niệm xứ tứ niệm xứ tướng rỗng
không nhẫn đến
bát thánh đạo bát thánh đạo tướng rỗng không, Phật
thập lực thập lực tướng rỗng
không nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng pháp bất cộng tướng rỗng không, quả
Tu Đà Hoàn quả Tư Đà Hàm tướng rỗng
không nhẫn đến
nhứt thiết trí nhứt thiết trí tướng rỗng không”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật của
chư đại Bồ Tát là
Ma ha Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Dầu tất cả pháp,
tự tánh rỗng không, nhưng
chư đại Bồ Tát nhơn nơi
Bát nhã ba la mật mà được
Vô thượng Bồ đề, cũng không có pháp được huyển
pháp luân, cũng không có pháp chuyển được, cũng không có pháp hườn được.
Trong
Ma ha Bát nhã ba la mật nầy cũng không có pháp thấy được.
Tại sao vậy?
Pháp nầy không có được hoặc huyển hoặc hườn, vì tất cả pháp
rốt ráo chẳng sanh vậy.
Tại sao vậy?
Vì
tướng không nầy, tướng
vô tướng nầy, tướng
vô tác nầy chẳng chuyển được, chẳng hườn được.
Nếu
giải thuyết Bát nhã ba la mật được như vậy, có thể giảng dạy, khai thị,
phân biệt rành rẽ,
giải thích cặn kẽ, thời gọi là
thanh tịnh giải thuyết Bát nhã ba la mật. Cũng không người nói, cũng không người nghe, cũng không người chứng.
Nếu không nói, không nghe, không chứng, thời cũng không diệt mất.
Trong
thuyết pháp nầy, cũng không
phước điền quy định”.
PHẨM KHẮP CA NGỢI TRĂM BA LA MẬT
THỨ BỐN MƯƠI BỐN
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Vô biên ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì như
hư không vô biên vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bình đẳng
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì các
pháp bình đẳng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ly
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì
rốt ráo rỗng không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất hoại
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không
bỉ ngạn ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì không danh, không thân vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không
đại chủng ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì
thở ra,
thở vào bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất khả thuyết
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì
giác quán bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô danh
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì thọ, tưởng, hành, thức
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất khứ
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất lai vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không
di chuyển ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả
pháp không thể nép phục vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tận
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
rốt ráo tận vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất sanh
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất diệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất diệt
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất sanh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tác
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì
tác giả bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tri
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì
tri giả bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất đáo
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì
sanh tử bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất thất
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng mất vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Mộng
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì nhẫn đến những sự thấy trong mộng đều
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Hưởng
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì người nghe tiếng
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ảnh
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì bóng mặt trong gương
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Dương diệm
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì dòng nước
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ảo
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì sự
ảo thuật bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất cấu
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì các
phiền não bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô
tịnh ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì các
phiền não hư dối vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất
ô ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì xứ sở
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất
hí luận ba la mật là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả
hí luận phá hoại vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất niệm
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả niệm
phá hoại vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất động
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
pháp tánh thường trụ vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô nhiễm
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì biết tất cả pháp vọng giải vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất khởi
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
vô phân biệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tịch diệt
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả
pháp tướng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô dục
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì dục
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô sân
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
sân khuể bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô si
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
vô minh hắc ám dứt diệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô
phiền não ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
phân biệt ức tưởng
hư vọng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô
chúng sanh ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
chúng sanh vô sở hữu vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô đoạn
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp chẳng
sanh khởi vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô
nhị biên ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì không
nhị biên vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất phá
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng rời lìa nhau vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất
thủ ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì vượt hơn bực
Thanh văn,
Bích Chi Phật vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất
phân biệt ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các
vọng tưởng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô lượng
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp hạn lượng
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Hư không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cà pháp
vô sở hữu vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô
thường ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tướng
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng sanh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Nội không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
nội pháp bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ngoại không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
ngoại pháp bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Nội
ngoại không ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
nội ngoại pháp bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
pháp không không
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đại không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đệ nhứt
nghĩa không ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
Niết Bàn bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Hữu vi không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
pháp hữu vi bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô vi không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “vì
pháp vô vi bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tất cánh không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp
rốt ráo bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô thỉ không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp vô thỉ
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tánh không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tán pháp
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tánh không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì
hữu vi vô vi tánh
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Chư
pháp không ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả pháp
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô sở đắc không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
vô sở hữu vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tự
tướng không ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
vô pháp bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “hữu
pháp không ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
hữu pháp bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô
pháp hữu pháp không ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
vô pháp và
hữu pháp đều
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Niệm xứ
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì thân, thọ, tâm và pháp
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Chánh cần
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
pháp thiện và pháp
bất thiện bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Như ý túc
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
bốn như ý túc bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Căn
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
ngũ căn bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Lực
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
ngũ lực bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Giác
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
thất giác phần bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đạo
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
bát thánh đạo phần bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tác
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
vô tác bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
không tướng bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tướng
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tướng
tịch diệt bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bội xả
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì bất bội xả
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Định
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
cửu thứ đệ định bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đàn na
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
xan tham bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thi la
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
phá giới bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Sằn đề
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì nhẫn và chẳng nhẫn đều
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tỳ lê gia
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
giải đãi và
tinh tấn đều
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thiền na
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì định và loạn đều
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bát nhã
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
ngu si và
trí huệ đều
bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thập
lực ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả pháp chẳng thể khuất phục vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tứ
vô sở úy
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
đạo chủng trí chẳng mất vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô ngại
trí ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả
pháp không chướng, không ngại vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Phật
pháp ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì vượt hơn tất cả pháp vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Như thiệt thuyết
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả
lời nói đều như thiệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tự nhiên
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì
tự tại trong tất cả pháp vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Phật
ba la mật là
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì biến nhứt thiết
chủng trí vậy”.