QUYỂN TÁM
PHẨM TÁNH NHƯ LAI
Phẩm thứ tư – Phần năm
Thiện nam tử!
Kinh Phương đẳng như chất
cam lộ, mà cũng như thuốc độc.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Vì sao
Như Lai nói rằng
kinh Phương đẳng ví như cam lộ mà cũng như thuốc độc?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông có muốn biết
nghĩa chân thật của tạng
Như Lai sâu kín hay chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Nay con
quả thật muốn biết
nghĩa chân thật của tạng
Như Lai sâu kín.”
Lúc ấy,
đức Phật liền thuyết kệ rằng:
Có kẻ uống
cam lộ,
Hại mạng mà
chết yểu,
Có kẻ uống
cam lộ,
Đời sống được
lâu dài.
Kẻ uống thuốc độc, sống,
Người uống thuốc độc, chết.
Vô ngại trí cam lộ,
Ấy là
kinh Đại thừa.
Kinh Đại thừa như vậy,
Cũng gọi là
độc dược.
Như bơ sữa, đề-hồ,
Cùng các món đường phèn.
Tiêu hóa được là thuốc,
Không
tiêu hóa thành độc.
Kinh Phương đẳng cũng thế:
Cam lộ với người trí,
Kẻ ngu mê tánh Phật,
Nếu dùng
hóa thành độc.
Với
Thanh văn,
Duyên giác,
Đại thừa là
cam lộ.
Như trong các món ăn,
Sữa là ngon hơn hết.
Cũng vậy người
tinh tấn,
Nhờ nương theo
Đại thừa,
Đạt
cảnh giới Niết-bàn,
Thành bậc thánh
kiệt xuất.
Chúng sanh rõ tánh Phật,
Đều như Ca-diếp đây,
Uống
cam lộ vô thượng:
Không sanh cũng không chết.
Ca-diếp! Các ông nên,
Khéo
phân biệt Tam quy.
Tánh của
Tam quy đó,
Thật là tánh của ngã.
Nếu biết
quán sát kỹ:
Tánh ngã có tánh Phật.
Nên biết người như vậy,
Được vào tạng sâu kín,
Biết
ngã và ngã sở,[161]
Người ấy đã
xuất thế.
Tánh
Tam bảo,
Phật phápĐáng
tôn kính hơn hết.
Như ta vừa thuyết kệ,
Tánh ấy nghĩa như vậy.
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp liền đọc kệ rằng:
Con
quả thật không biết,
Chỗ
quy y Tam bảo.
Làm cách nào
quy ngưỡng,
Bậc cao nhất chẳng sợ?[162]
Chẳng biết chỗ
Tam bảo,
Làm sao tu vô ngã?
Nương Phật như thế nào,
Cho được sự an ổn?
Nương theo pháp thế nào?
Xin vì con giảng rõ.
Làm sao được tự tại?
Làm sao không tự tại?
Quy y Tăng thế nào,
Được
lợi ích cao nhất?
Thuyết
chân thật thế nào,
Đời sau thành Phật đạo?
Nếu
đời sau chẳng thành,
Làm sao nương Tam bảo?
Con nay chưa dự biết,
Thứ tự việc
quy y.
Vì sao chưa mang thai,
Đã khởi ý có con?
Nếu
đang khi có thai,
Gọi đó là có con.
Như con ở trong thai,
Ngày sanh còn không lâu,
Đó là nghĩa có con.
Nghiệp
chúng sanh cũng thế.
Theo như lời
Phật thuyết,
Kẻ ngu không hiểu nổi.
Do chỗ không hiểu đó,
Chịu
sanh tử luân hồi.
Giả danh ưu-bà-tắc,
Chẳng biết
nghĩa chân thật.
Xin Phật rộng
phân biệt,
Trừ dứt sạch lòng nghi.
Như Lai đại trí huệ,
Xin
xót thương phân biệt.
Thuyết dạy tạng
Như Lai,
Quý báu và sâu kín.
Đức Phật liền nói kệ đáp rằng:
Ca-diếp! Ông nên biết:
Nay vì ông khai mở,
Tạng
vi diệu sâu kín,
Khiến ông dứt lòng nghi.
Hãy
hết lòng lắng nghe.
Ông và chư
Bồ Tát,
Cùng
đức Phật thứ bảy,
Là đồng một
danh hiệu.
Người
quy y nơi Phật,
Ưu-bà-tắc chân chánh,
Suốt đời chẳng
quy y,
Với các vị
thiên thần.
Người
quy y nơi Pháp,
Liền bỏ việc giết hại.
Người
quy y Thánh tăng,
Chẳng cầu nơi
ngoại đạo.
Nương
Tam bảo như vậy,
Được chỗ không sợ sệt.
Bồ Tát Ca-diếp liền đọc kệ
bạch Phật rằng:
Con nương theo
Tam bảo,
Gọi đó là đường chánh.
Cảnh giới của chư Phật,
Tam bảo đều như nhau.
Thường có tánh
đại trí.
Tánh ngã cùng tánh Phật,
Vốn không hai, không khác.
Đạo này, Phật khen ngợi,
Chỗ chánh tấn ở yên,
Cũng gọi Chánh biến kiến,
Nên được Phật
ngợi khen.
Con theo đường
Vô thượng,
Bậc
Thiện thệ ngợi khen,
Là
cam lộ bậc nhất,
Vạn hữu thật không có!
Khi ấy, Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên
phân biệt Tam bảo [theo cách] như hàng
Thanh văn và
phàm phu. Trong pháp
Đại thừa không có tướng
phân biệt Ba pháp
quy y. Vì sao vậy? Ở trong tánh Phật vốn đã có Pháp, có Tăng. Vì muốn
hóa độ hàng
Thanh văn,
phàm phu nên mới
phân biệt nói các tướng khác nhau giữa
Ba quy y.
“Thiện nam tử! Nếu muốn
tùy thuận pháp
thế gian thì phải
phân biệt có Ba pháp
quy y.
Thiện nam tử!
Bồ Tát nên
suy xét như thế này: ‘Nay ta đem thân này
quy y với Phật.
Ví như với thân này ta được
thành Phật đạo, khi
thành Phật rồi ta chẳng nên
cung kính lễ bái,
cúng dường chư
Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì chư Phật đều
bình đẳng như nhau, đều là chỗ
quy y của
chúng sanh.
“Nếu muốn
tôn trọng pháp thân xá-lợi,[163] thì nên
cung kính các
tháp miếu Phật. Vì sao vậy? Vì muốn
hóa độ chúng sanh, ta cũng khiến cho
chúng sanh đối với thân ta tưởng là
tháp miếu mà
lễ bái cúng dường. Những
chúng sanh như vậy lấy
pháp thân ta làm chỗ
quy y. Tất cả
chúng sanh đều
quy y pháp tà ngụy chẳng chân, ta sẽ
lần lượt thuyết cho họ nghe những
pháp chân thật. Lại có những kẻ
quy y tăng không
chân thật, ta sẽ làm vị tăng chân chánh cho họ
quy y.
“Như có những ai
phân biệt Ba chỗ
quy y, ta sẽ là chỗ
quy y duy nhất cho họ, không có ba chỗ khác nhau.
“Đối với kẻ mù từ thuở mới sanh, ta sẽ là mắt của họ.
“Đối với hàng
Thanh văn,
Duyên giác, ta cũng sẽ là chỗ
quy y chân thật của họ.’
“Thiện nam tử! Vị
Bồ Tát như vậy, vì muốn
cứu độ vô lượng chúng sanh tà ác cũng như hàng
trí giả cho nên làm mọi
Phật sự.
“Thiện nam tử!
Ví như có người khi vào trận chiến đấu khởi lên
ý nghĩ rằng: ‘Ở đây ta là người tài giỏi nhất, tất cả quân lính đều nương cậy nơi ta.’
“Lại như có vị vương tử
suy nghĩ rằng: ‘Ta sẽ khuất phục tất cả các vương tử khác, ta sẽ
nối nghiệp bá vương của
Đại vương mà được
tùy ý hành xử, làm cho các vị vương tử đều phải nương tựa theo ta. Bởi vậy không nên sanh tâm
thấp hèn yếu kém.’ Như các vị vua, vương tử, đại thần cũng đều như thế.[164]
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như thế, khởi
ý nghĩ này: ‘Làm sao đem cả ba việc đồng vào
một thể với ta?’
Thiện nam tử! Ta chỉ bày ba việc, tức là Niết-bàn.
Như Lai đó, gọi là bậc
Vô thượng sĩ.
Ví như thân người ta, cái đầu là cao nhất, chẳng phải các
chi tiết khác như tay, chân... Phật cũng như thế, là bậc cao trổi hơn hết, chẳng phải là Pháp, là Tăng. Vì muốn
hóa độ hết thảy
chúng sanh trong
thế gian nên
thị hiện các tướng trạng khác nhau,
ví như các nấc trong một cái thang vậy. Vì thế nay ông chớ nên
thọ trì [theo cách] như kẻ
phàm phu ngu si,
hiểu biết [
phân biệt các] tướng khác nhau của
Tam quy. Ở trong
Đại thừa, ông hãy quyết đoán một cách mạnh mẽ, nhanh lẹ, như con dao cứng rắn sắc bén vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con vốn đã biết mà thưa hỏi chứ chẳng phải không biết. Đó là con vì hàng
Bồ Tát rất
dũng mãnh mà thưa hỏi về chỗ hạnh
thanh tịnh không uế nhiễm, muốn được
Như Lai vì chư
Bồ Tát mà
phân biệt rộng thuyết sự việc lạ lùng
đặc biệt, xưng dương
kinh điển Phương đẳng Đại thừa. Nay
Như Lai đem lòng
đại bi khéo thuyết diễn, con cũng được trụ yên như vậy trong đó. Chỗ hạnh
thanh tịnh của
Bồ Tát mà
Như Lai thuyết giảng, tức là
tuyên thuyết kinh Đại Niết-bàn này vậy.
“Bạch Thế Tôn! Nay con cũng sẽ vì
chúng sanh mà
hiển dương tạng
Như Lai sâu kín ấy, con cũng sẽ rõ biết Ba chỗ
quy y chân thật. Nếu
chúng sanh nào có thể tin nhận kinh Đại Niết-bàn này, liền
tự nhiên thấu rõ được Ba chỗ
quy y. Vì sao vậy? Vì tạng
Như Lai sâu kín vốn có tánh Phật. Những ai
tuyên thuyết kinh điển này, thảy đều nói rằng: ‘Trong thân
chúng ta đây đều có tánh Phật.’ Những người như vậy, ắt chẳng tìm cầu ba chỗ
quy y ở đâu xa. Vì sao vậy? Trong tương lai, tự thân mình sẽ
thành tựu Tam bảo. Vì thế mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác và những
chúng sanh khác thảy đều nương theo mình,
cung kính lễ bái.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chính vì nghĩa ấy nên phải khéo
học hỏi tu tập kinh điển Đại thừa.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch rằng: “Tánh Phật như vậy không thể nghĩ bàn!
Ba mươi hai tướng tốt với tám mươi vẻ đẹp cũng không thể nghĩ bàn!”
Lúc ấy, Phật
ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Ông đã
thành tựu trí huệ sâu xa sáng suốt. Nay ta lại sẽ vì ông giảng rõ
sự thể nhập vào tạng
Như Lai.
“Nếu ngã là
tồn tại, vậy là
pháp thường còn chẳng lìa sự khổ.
Nếu không có ngã thì việc
tu hành thanh tịnh thật chẳng có
ích lợi gì.
“Nếu nói các pháp thảy đều không có ngã tức là
đoạn kiến. Nếu nói rằng có cái ngã
tồn tại, tức là
thường kiến.
“Nếu nói rằng hết thảy các hành đều không thường còn tức là
đoạn kiến. Nếu nói rằng các hành đều thường còn, lại cũng là
thường kiến.
“Nếu nói [tất cả các pháp đều là] khổ tức là
đoạn kiến, nếu nói [tất cả các pháp đều là] vui, lại cũng là
thường kiến.[165]
“Tu tập [theo
tư tưởng] tất cả các pháp đều thường tồn sẽ
rơi vào đoạn kiến.
Tu tập [theo
tư tưởng] tất cả các pháp đều
đoạn diệt sẽ rơi vào
thường kiến.
Ví như con sâu đo, phần thân sau phải
di chuyển nương theo phần thân trước. Người
tu tập [theo các
tư tưởng]
thường hay đoạn cũng giống như vậy, phải
phụ thuộc vào nhân đoạn hay nhân thường.
“Vì nghĩa ấy,
tu tập các pháp [môn] khác, khổ gọi là
bất thiện;[166]
tu tập các pháp [môn] khác, lạc gọi là thiện;
tu tập các pháp [môn] khác,
vô ngã là
phiền não;
tu tập các pháp [môn] khác, thường gọi là tạng sâu kín của
Như Lai, đó là nói Niết-bàn không có nơi
nương náu trú ngụ;
tu tập các pháp
vô thường khác tức là
tiền của;
tu tập các
pháp thường khác là nói Phật, Pháp, Tăng và
giải thoát chân chánh.
“Nên rõ biết chỗ
trung đạo của
Phật pháp là như vậy, lìa xa cả hai bên [chấp thường và chấp đoạn] để
thuyết pháp chân thật.[167] Những kẻ
phàm phu ngu si, nếu đối với pháp này không
sanh nghi ngại thì như người bệnh
gầy yếu được ăn váng sữa, khí lực liền trở nên nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.
“Các
pháp hữu,
vô thể tánh không nhất định,
ví như bốn đại, tánh chẳng giống nhau, thường trái ngược nhau. Người thầy thuốc khéo biết được
yếu tố nào
thái quá thì làm cho nó
suy yếu đi.[168]
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, đối với
chúng sanh cũng như người thầy thuốc, biết được
thể tướng khác nhau của các
phiền não, bèn vì
chúng sanh mà dứt trừ, khai mở chỉ bày tạng
Như Lai sâu kín, tánh Phật
thanh tịnh thường còn không
biến đổi.
“Nếu nói [tánh Phật] là có,
trí huệ lẽ ra không thể
nhiễm ô. Nếu nói [tánh Phật] là không tức là
nói dối.
“Nếu nói [tánh Phật] là có, lẽ ra chẳng nên lặng thinh, cũng chẳng cần
tranh luận cãi cọ, chỉ cần hiểu thấu được tánh
chân thật của các pháp.
“Người
phàm phu thường
tranh luận cãi cọ nên không hiểu được tạng
Như Lai vi diệu sâu kín. Nếu nói lẽ khổ, người ngu liền cho rằng thân này là
vô thường, rằng hết thảy đều là khổ, nhưng không biết rằng trong thân
vẫn có tánh lạc.
“Nếu nói lẽ
vô thường, người
phàm phu lại cho rằng hết thảy các thân đều là
vô thường,
ví như ngói gạch, đồ gốm chưa nung. Người có trí nên
phân biệt, chẳng nên
cố chấp rằng hết thảy là
vô thường. Vì sao vậy? Vì trong thân ta vốn có
hạt giống tánh Phật.
“Nếu nói lẽ
vô ngã, kẻ
phàm phu sẽ cho rằng hết thảy pháp Phật đều không có ngã. Người có trí nên
phân biệt, nói
vô ngã đó chỉ là tên gọi
không thật. Biết như vậy rồi, chẳng nên sanh lòng
nghi ngại.
“Nếu nói rằng tạng
Như Lai sâu kín là rỗng không,
vắng lặng, người
phàm phu nghe vậy bèn nảy sanh
quan niệm đoạn diệt. Người có trí nên
phân biệt, [rõ biết]
Như Lai là thường tồn, chẳng hề
biến đổi.
“Nếu nói rằng
giải thoát ví như ảo hóa, kẻ
phàm phu sẽ cho rằng
đạt được giải thoát chân thật là
dần dần diệt mất. Người có trí nên
phân biệt, bậc
Sư tử trong
loài người[169] tuy có đến có đi nhưng vẫn
thường trụ chẳng
biến đổi.
“Nếu nói rằng
vô minh là
nhân duyên của các hành, kẻ
phàm phu nghe rồi liền
phân biệt, nảy sanh
ý tưởng [
phân biệt] hai
pháp minh và
vô minh. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng các hành là
nhân duyên của thức, kẻ
phàm phu liền cho rằng đó là hai pháp: hành và thức.[170] Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói các pháp
thập thiện,
thập ác, nên làm, chẳng nên làm, nẻo lành, nẻo dữ,
thiện pháp,
ác pháp, kẻ
phàm phu sẽ cho rằng đó đều là những pháp
đối đãi. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng nên tu hết thảy các pháp khổ, kẻ
phàm phu sẽ cho rằng có hai pháp
phân biệt. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng hết thảy các hành đều là
vô thường, tạng
Như Lai sâu kín cũng là
vô thường, kẻ
phàm phu sẽ cho đó là hai pháp
đối đãi. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Nếu nói rằng hết thảy các pháp đều không có ngã, tạng
Như Lai sâu kín cũng không có ngã, kẻ
phàm phu sẽ cho đó là hai pháp
đối đãi. Người có trí hiểu thấu được tánh ấy chẳng phải hai. Tánh chẳng phân hai đó tức là tánh thật.
“Ngã và
vô ngã, tánh chẳng phải hai.
Ý nghĩa của tạng
Như Lai sâu kín cũng là như vậy, không thể suy lường,
vô lượng vô biên, chư Phật thường khen ngợi. Nay trong kinh này ta đã thuyết dạy hết thảy mọi
công đức thành tựu.
“Thiện nam tử! Ngã và
vô ngã,
thể tánh với tướng trạng chẳng phân hai pháp, ông nên
cung kính thọ trì như vậy.
“Thiện nam tử! Ông cũng nên bền chí
thọ trì, niệm tưởng những
kinh điển như thế này. Như trước đây trong kinh Đại Bát-nhã Ba-la mật ta cũng đã có thuyết dạy rằng ngã và
vô ngã không có hai tướng trạng.
“Thiện nam tử! Cũng như
do nơi sữa mà sanh ra kem sữa,
do nơi kem sữa mà có bơ sống,
do nơi bơ sống mà có bơ chín,
do nơi bơ chín mà có được đề-hồ. Như vậy, kem sữa là
do nơi sữa mà sanh ra, hay là tự nó sanh ra, hay là
do nơi món khác mà sanh ra?
Cho đến đề-hồ, cũng lại như vậy. Nếu
do nơi món khác mà sanh ra, tức là do món ấy làm ra, chẳng phải
do nơi sữa mà sanh ra. Nếu chẳng phải
do nơi sữa mà sanh ra, thì sữa chẳng có
tác dụng gì. Nếu
như tự nó sanh ra được, lẽ ra không có việc
tuần tự nối tiếp nhau từng món sanh ra! Nếu nối tiếp nhau mà sanh ra, ắt là chẳng sanh ra cùng nhau. Nếu chẳng sanh ra cùng nhau thì năm món ấy ắt chẳng sanh ra
cùng lúc. Dù chẳng sanh ra
cùng lúc, nhưng
nhất định là không phải từ
nơi khác mà đến.
“Nên biết rằng trong sữa trước đã có sẵn tướng bơ, nhưng vì chất ngọt ở trong đó nhiều nên tướng ấy tự nó chẳng
hiện ra được.
Cho đến món đề-hồ cũng lại như vậy. Con bò cái kia nhờ
ăn uống, nhờ
nhân duyên là nước và cỏ,
huyết mạch trong thân
chuyển biến mà thành sữa. Nếu nó ăn cỏ ngọt, sữa liền trở nên ngọt. Như nó ăn nhằm cỏ đắng, sữa của nó ắt phải đắng. Ở
Tuyết Sơn có một thứ cỏ tên là phì-nhị, nếu con bò cái ăn thứ cỏ đó thì sữa liền hóa toàn đề-hồ, chẳng có những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Do
nhân duyên là lúa và cỏ, nên màu sắc và
mùi vị của sữa có khác.
“Các
chúng sanh ở đây, vì
nghiệp nhân duyên là
sáng suốt và
vô minh nên mới phát sanh hai tướng. Nếu
vô minh được
chuyển hóa thì
biến thành sáng suốt. Tất cả các
pháp thiện và
bất thiện cũng đều như vậy, [thật] không có hai tướng [
phân biệt].”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói: ‘Trong sữa có kem sữa.’ Nghĩa ấy là thế nào?
Thế Tôn nếu nói rằng trong sữa
nhất định có tướng kem, nhưng vì tướng ấy
tinh tế nên không thể thấy, vì sao lại nói do
nhân duyên là sữa mà sanh ra kem sữa?
Như pháp vốn không có, mới gọi là sanh; nếu đã sẵn có, sao gọi là sanh? Nếu nói rằng trong sữa
nhất định có tướng kem, thì ở trong hết thảy
các loại cỏ, lẽ ra cũng sẵn có chất sữa. Cũng vậy, trong sữa lẽ ra cũng sẵn có cỏ. Như nói rằng trong sữa
nhất định không có kem sữa, vì sao nhờ nơi sữa lại sanh ra kem? Nếu [kem sữa] là pháp vốn không có, sau đó mới sanh ra, vậy sao trong sữa lại chẳng sanh ra cỏ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Không thể nói
nhất định rằng trong sữa có kem hay trong sữa không có kem. Cũng không thể nói rằng do thứ khác mà sanh ra. Nếu nói rằng trong sữa
nhất định có kem, tại sao hai món ấy hình thể và
mùi vị khác nhau? Vậy nên không thể nói chắc rằng trong sữa đã có sẵn tánh chất kem. Nếu nói rằng trong sữa
nhất định không có kem, tại sao từ nơi sữa chẳng sanh ra [những thứ khác như] sừng thỏ? Khi người ta bỏ chất độc vào sữa thì món kem có thể làm chết người. Vậy nên không thể nói rằng trong sữa
nhất định không có tánh chất kem. Nếu nói rằng kem do thứ khác mà sanh ra, tại sao nước lã chẳng sanh ra kem? Vậy nên không thể nói rằng kem do thứ khác sanh ra.
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên là cỏ mà con bò cái đã ăn vào, máu của nó
chuyển hóa ra màu trắng; khi cỏ và máu đã không còn nữa, nhờ
phước lực của
chúng sanh mà [chúng]
chuyển hóa thành sữa. Sữa ấy
do nơi cỏ và máu [bò] mà ra, nhưng không thể nói là hai [thứ khác biệt], chỉ có thể nói là do
nhân duyên mà sanh ra thôi. Từ món kem cho tới món đề-hồ cũng đều như vậy. Vì nghĩa ấy cho nên gọi là món ăn do loài bò
cung cấp. Món sữa ấy không còn nữa khi có đủ
nhân duyên chuyển thành món kem.
Nhân duyên là những gì? Như men, như hơi ấm... Vậy nên gọi là do
nhân duyên mà có.
Cho đến món đề-hồ cũng là như vậy. Cho nên không thể nói
nhất định rằng trong sữa không có tướng kem. Nếu nói ngoài món sữa mà có thể
do nơi món khác sanh ra từ món kem
cho đến món đề-hồ thì thật là vô lý!
“Thiện nam tử! Sự
sáng suốt với
vô minh cũng vậy. Nếu
kết hợp với các mối
phiền não trói buộc, đó gọi là
vô minh. Nếu
kết hợp với tất cả pháp lành, đó gọi là
sáng suốt. Cho nên ta nói rằng không có hai tướng. Bởi
nhân duyên ấy, trước đây ta có nói rằng:
Tuyết sơn có thứ cỏ tên là phì-nhị, nếu bò cái ăn thứ cỏ ấy thì sữa của nó
biến thành đề-hồ. Tánh Phật cũng là như thế.
“Thiện nam tử! Vì
chúng sanh bạc phước nên chẳng thấy loài cỏ ấy. Tánh Phật cũng vậy, do
phiền não che lấp nên
chúng sanh chẳng thấy được.
Ví như biển cả, tuy cùng một vị mặn, nhưng trong đó lại có một thứ nước ngon quý có vị như sữa.
Ví như Tuyết sơn, tuy
thành tựu đủ các
công đức, sanh ra nhiều loại thuốc, nhưng cũng có loài cỏ độc. Thân
chúng sanh cũng vậy, tuy có
bốn đại như loài
rắn độc, nhưng trong thân ấy cũng có loài thuốc cực kỳ hay quý: đó là tánh Phật, chẳng phải là pháp do người làm ra, chỉ vì
phiền não từ bên ngoài
che lấp mất mà thôi. Nếu người dù thuộc hàng sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá hay thủ-đà, có thể dứt trừ những
phiền não ấy thì đều thấy được tánh Phật,
thành đạo Vô thượng.
“Giống như khi trời có
sấm sét chuyển mưa thì trên tất cả ngà voi đều sanh ra những vân hoa.[171] Nếu chẳng có
sấm sét, vân hoa ấy tất không sanh ra, cũng chẳng có tên gọi. Tánh Phật của
chúng sanh cũng vậy, thường bị hết thảy
phiền não che lấp, không thể thấy được. Cho nên ta nói rằng
chúng sanh không có “ngã”.
“Nếu được nghe
kinh điển vi diệu Đại Bát Niết-bàn này, ắt sẽ thấy được tánh Phật, như vân hoa trên ngà voi. Tuy được nghe hết thảy Tam-muội của
khế kinh[172] nhưng chẳng
nghe được kinh này thì chẳng biết được tướng
vi diệu Như Lai, cũng
như không có
sấm sét thì chẳng thấy được vân hoa trên ngà voi.
“Nếu
nghe được kinh này tức là biết được tánh Phật trong tạng sâu kín mà hết thảy các vị
Như Lai đều thuyết dạy, cũng như khi trời có
sấm sét liền thấy vân hoa trên ngà voi.
“Nếu
nghe được kinh này liền rõ biết hết thảy
vô lượng chúng sanh đều có tánh Phật. Vì nghĩa ấy nên nói rằng Đại Niết-bàn gọi là tạng sâu kín của
Như Lai, làm cho
pháp thân tăng trưởng, cũng như khi có
sấm sét thì những vân hoa trên ngà voi có thể phát triển.
“Vì nghĩa lớn lao ấy nên gọi là Kinh Đại Bát Niết-bàn. Như có kẻ nam người nữ nào có thể
học hỏi làm theo
kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này, nên biết rằng những người ấy có thể
báo đáp ơn Phật, thật là
đệ tử Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Kỳ lạ thay, Thế Tôn! Tánh Phật mà
Phật thuyết dạy đó rất
thâm sâu, khó thấy, khó
thể nhập, như sức của hàng
Thanh văn,
Duyên giác thật chẳng thấu nổi.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đúng vậy, đúng vậy! Như chỗ
xưng tán của ông đó không trái lời dạy của ta.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Tánh Phật ấy thế nào là rất
thâm sâu, khó thấy, khó thể nhập?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như có trăm người mù, vì trị bệnh mắt nên tìm đến
lương y.
Lúc ấy, vị
lương y dùng cái lược vàng mà cào lấy màng mắt họ ra, rồi đưa lên một ngón tay, hỏi rằng: ‘Thấy không?’ Người mù nói: ‘Tôi còn chưa thấy.’ Lại đưa lên hai ngón, ba ngón, người mù mới nói rằng đã thấy chút ít.
“Thiện nam tử!
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng như vậy đó, khi
Như Lai chưa thuyết dạy,
vô lượng Bồ Tát tuy đã
thực hành đủ các hạnh ba-la-mật, [173]
cho đến hàng
Thập trụ[174] vẫn còn chưa thấy được tánh Phật sẵn có. Đến khi
Như Lai thuyết dạy rồi, họ liền thấy được đôi chút. Các vị
Đại Bồ Tát ấy được thấy [tánh Phật] rồi, thảy đều nói rằng: ‘Lạ thay, Thế Tôn! Chúng con
lưu chuyển biết bao lần trong
sanh tử, thường bị lẽ
vô ngã làm cho
lầm lạc, mê loạn.’
“Thiện nam tử! Các vị
Bồ Tát như vậy,
chứng đắc Thập địa còn chưa thấy rõ được tánh Phật, huống chi hàng
Thanh văn,
Duyên giác lại có thể thấy được hay sao?
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người nhìn lên con ngỗng trời, con nhạn đang bay trên không. Đó là
hư không chăng? Là ngỗng trời, là nhạn chăng? Nhìn kỹ hồi lâu mới thấy
phảng phất hình con ngỗng trời, con nhạn. Hàng
Bồ Tát Thập trụ lại cũng như thế, đối với tánh
Như Lai, chỉ thấy biết đôi chút mà thôi, huống chi người trong hàng
Thanh văn,
Duyên giác lại thấy biết được sao?
“Thiện nam tử!
Ví như người say rượu kia, chân muốn đi xa, nhưng mắt chỉ thấy
mập mờ đường đi. Hàng
Bồ Tát Thập trụ cũng vậy, đối với tánh
Như Lai chỉ thấy biết đôi chút mà thôi.
“Thiện nam tử!
Ví như người khát nước đi giữa đồng hoang. Người ấy khổ bức vì khát, đi khắp nơi tìm nước, thấy một đám cây, trên có những con hạc trắng. Người ấy đang mê muộn, chẳng
phân biệt được ấy là cây hay là nước. Nhìn kỹ hồi lâu mới biết là hạc trắng với đám cây.
Thiện nam tử! Hàng
Bồ Tát Thập trụ cũng vậy, đối với tánh
Như Lai chỉ thấy biết một phần rất nhỏ mà thôi.
“Thiện nam tử!
Ví như có người ở giữa biển cả, rộng đến
vô lượng trăm ngàn do-tuần. Người ấy từ xa trông thấy một chiếc thuyền lớn, có đủ lầu gác và những mái chèo, liền nghĩ rằng: ‘Đó là lầu gác, mái chèo hay là hư không?’ Nhìn hồi lâu mới chắc quyết trong lòng, biết đó là lầu gác và những mái chèo. Hàng
Bồ Tát Thập trụ, tự trong thân mình thấy được tánh
Như Lai cũng giống như vậy.
“Thiện nam tử!
Ví như có vị vương tử
thân thể rất
yếu đuối, suốt đêm đi chơi bời, thức
cho đến sáng trắng. Bấy giờ, mắt nhìn tất cả chẳng thấy gì
tỏ rõ. Hàng
Bồ Tát Thập trụ, tuy nơi thân mình thấy được tánh
Như Lai nhưng cũng như vậy, không được
tỏ rõ.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như một người thư lại[175] của vua, vì bận việc giúp vua đến giữa đêm mới
trở về nhà. Nhân khi trời chớp lóe, nhìn thấy một bầy bò, liền nghĩ rằng: ‘Đó là bò chăng? Hay là
đám mây, nhà cửa?’ Nhìn một hồi lâu, rồi tuy cũng cho đó là bò nhưng vẫn còn chưa chắc quyết. Hàng
Bồ Tát Thập trụ tuy nơi thân mình thấy được tánh
Như Lai, nhưng cũng như vậy, vẫn còn chưa chắc quyết.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như vị tỳ-kheo
trì giới, nhìn vào bát nước không có trùng nhưng lại thấy tướng trùng. Bèn nghĩ rằng: ‘Trong này có vật lay động, đó là trùng chăng? Hay là bụi đất?’ Nhìn một hồi lâu, tuy biết đó là bụi nhưng cũng không biết một cách thật
tỏ rõ. Hàng
Bồ Tát Thập trụ tuy nơi thân mình thấy được tánh
Như Lai, nhưng cũng giống như vậy, chẳng thấy thật
tỏ rõ.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như một người ở trong bóng tối,
thoáng thấy đứa trẻ liền nghĩ rằng: ‘Đó là con bò, chim thứu, hay là người ta?’ Nhìn một hồi lâu, mặc dù thấy là đứa trẻ nhưng cũng không thấy được một cách
tỏ rõ. Hàng
Bồ Tát Thập trụ tuy ở nơi thân mình thấy được tánh
Như Lai, nhưng cũng như thế, không thấy được một cách
tỏ rõ.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có người ở trong đêm tối, thấy bức tượng vẽ
Bồ Tát liền nghĩ rằng: ‘Đó là tượng
Bồ Tát, tượng
Tự Tại Thiên hay là tượng
Đại Phạm Thiên mặc áo nhuộm vậy?’ Nhìn một hồi lâu, tuy trong ý biết là tượng
Bồ Tát, nhưng cũng không
quyết định một cách
tỏ rõ. Hàng
Bồ Tát Thập trụ tuy ở nơi thân mình thấy được tánh
Như Lai, nhưng cũng như thế, không thấy được một cách
tỏ rõ.
“Thiện nam tử! Tánh Phật sẵn có như vậy rất
thâm sâu, khó thấy biết được, chỉ có Phật thấy biết rõ được, còn hàng
Thanh văn, hàng
Duyên giác không
thể đạt tới.
Thiện nam tử! Người có trí nên biết
phân biệt hiểu tánh
Như Lai như thế.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Tánh Phật như vậy thật
vi tế, khó thấy. Làm sao mắt phàm có thể thấy được?”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Như
cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng kia, người trong
Hai thừa cũng không biết nổi, nhưng nhờ có
lòng tin theo [những điều thuyết dạy trong]
Khế kinh mà có thể biết được.
“Thiện nam tử! Hàng
Thanh văn,
Duyên giác nhờ
tin theo kinh Đại Niết-bàn này mà tự biết trong thân mình có tánh
Như Lai, việc này cũng vậy.
Thiện nam tử! Vậy nên phải
tinh cần tu tập kinh Đại Niết-bàn.
Thiện nam tử! Tánh Phật như vậy chỉ có Phật mới biết được, chẳng phải hàng
Thanh văn,
Duyên giác có
thể đạt tới.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Hàng
phàm phu có tánh
chúng sanh chưa chứng thánh thảy đều nói là có ngã. [Nghĩa ấy là thế nào?]”
Phật dạy: “Ví như có hai người
bạn thân, một người là con vua, người kia con nhà nghèo hèn. Hai người ấy cùng qua lại chơi thân
với nhau. Bấy giờ, người nghèo thấy vị vương tử có một con dao rất tốt,
xinh đẹp vô cùng, trong lòng lấy làm
ham thích. Về sau, vương tử mang dao ấy trốn sang nước khác. Người nghèo lại đến nhà khác ngủ nhờ một đêm, khi
nằm mộng nói mê rằng: ‘Dao! Dao!’ Người gần bên nghe vậy, liền bắt
mang đến chỗ vua.
Lúc ấy, vua hỏi người ấy rằng: ‘Nhà ngươi nói dao, vậy dao đó ngươi được ở đâu?’ Người ấy đem việc trước thuật lại đầy đủ, tâu rằng: ‘Như nay bệ hạ có cắt xẻo
thân thể tôi, phân rã tay chân tôi để tìm dao ấy, thật cũng chẳng có. Vị vương tử kia với tôi vốn là
bạn thân, trước cùng nhau chung sống. Tuy mắt tôi thường trông thấy dao, nhưng chẳng dám sờ đến, huống chi là giữ lấy?’ Vua lại hỏi: ‘Trong lúc ngươi nhìn thấy dao, hình dạng nó giống như cái gì?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Thần trông thấy giống như cái sừng dê đen.’ Vua nghe vậy rồi, vui cười nói rằng: ‘Nay ngươi có thể
tùy ý ra đi, đừng lo sợ chi cả. Trong kho tàng của ta còn không có con dao như vậy, huống chi ngươi lại thấy nó khi ở bên vương tử?’
“Lúc ấy, vua liền hỏi quần thần rằng: ‘Các khanh có từng thấy con dao như thế không?” Vua vừa hỏi xong thì băng hà. Triều đình lập một vị vương tử khác lên nối ngôi vua. Vua mới lại hỏi các quan triều thần rằng: ‘Các khanh có từng thấy con dao như thế trong kho chăng?’ Các quan đáp: ‘Chúng tôi đã từng thấy.’ Vua lại hỏi: ‘Hình dạng nó giống như cái gì?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Nó giống như cái sừng dê đen.’ Vua nói: ‘Trong kho tàng của ta, chỗ nào lại có con dao hình dạng như thế?’
Lần lượt bốn vị vua nối tiếp nhau đều tra tìm nhưng không biết được gì.
“Sau đó một
thời gian, vị vương tử đã trốn đi ngày trước lại từ nước ngoài
trở về, được lập làm vua. Khi đã
lên ngôi vua rồi lại hỏi các quan rằng: ‘Các khanh có thấy con dao ấy chăng?’ Đáp rằng: ‘Đại vương!
Chúng tôi đều có thấy.’ Vua lại hỏi: ‘Nó giống như vật chi?’ Đáp rằng: ‘Đại vương! Màu sắc nó
trong sạch như hoa ưu-bát-la.” Lại có người nói: ‘Nó như cái sừng dê.’ Lại có người khác nói: ‘Màu sắc nó đỏ
hồng như lửa.’ Lại có kẻ nói: ‘Nó giống như con rắn đen.’
Lúc ấy vua bật cười lớn, nói rằng: ‘Các khanh thảy đều chẳng thấy được hình dạng thật con dao của ta.’
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như vậy,
xuất hiện ở đời thuyết dạy tướng thật của cái ngã. Thuyết xong liền rời đi, cũng
ví như vị vương tử cầm con dao quý đẹp mà trốn sang nước khác. Kẻ
phàm phu ngu si nói rằng: ‘Tất cả đều có ngã, có ngã’, cũng
ví như người nghèo ngủ ở nhà người khác nói mê rằng: ‘Dao! Dao!’ Hàng
Thanh văn,
Duyên giác hỏi
chúng sanh rằng: ‘Tướng của cái ngã như thế nào?’ Đáp rằng: ‘Tôi thấy tướng cái ngã lớn bằng ngón tay cái.’ Có kẻ lại nói: ‘Nó như hạt gạo, hoặc như hạt lúa lép.’ Cũng có kẻ nói: ‘Cái ngã ở trong tim, chiếu sáng như
mặt trời.’ Những
chúng sanh ấy chẳng biết tướng của cái ngã, cũng như các
vị quan kia chẳng biết hình dạng của con dao.
Bồ Tát thuyết dạy tướng ngã như vậy, kẻ
phàm phu chẳng
hiểu biết,
phân biệt ra nhiều cách, tự tạo ra tướng ngã, cũng như hỏi về hình dạng con dao mà đáp rằng giống như sừng dê! Những kẻ
phàm phu ấy nối tiếp nhau mà khởi lên các
tà kiến. Vì muốn dứt trừ các
tà kiến ấy, nên
Như Lai mới
thị hiện thuyết dạy lẽ
vô ngã, cũng như vua kia nói với các quan rằng: ‘Trong kho tàng của ta chẳng hề có con dao như vậy.’
“Thiện nam tử! Cái ngã
chân thật mà hôm nay
Như Lai thuyết dạy gọi là tánh Phật. Tánh Phật như vậy trong
Phật pháp ví như con dao quý đẹp.
Thiện nam tử! Như có kẻ
phàm phu có thể khéo giảng nói tánh Phật, tức là
tùy thuận pháp Phật
vô thượng. Nếu có kẻ khéo
phân biệt,
tùy thuận tuyên thuyết giảng tánh Phật, nên biết rằng đó chính là
Bồ Tát hiện tướng.”
[176][
Phật bảo Bồ Tát Ca-diếp]: “Thiện nam tử! Hết thảy các môn luận khác, cùng những
chú thuật,
ngôn ngữ,
văn tự, đều là thuyết của Phật, chẳng phải của
ngoại đạo.”[177]
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là
Như Lai thuyết dạy
căn bản của chữ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Ban sơ ta thuyết dạy nửa chữ, lấy đó làm
căn bản.
Thọ trì các sách luận,
chú thuật,
văn chương, pháp thật của các ấm. Kẻ
phàm phu học
căn bản của chữ như vậy, rồi sau mới có thể
phân biệt được là đúng pháp hay không đúng pháp.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Chữ mà Phật dạy đó
ý nghĩa như thế nào?”
“Thiện nam tử! Có mười bốn âm, gọi là nghĩa của chữ. Chữ được nói ở đây gọi là Niết-bàn,
thường trụ nên không
lưu chuyển.
Nếu không lưu chuyển ắt là không dứt mất. Nếu là không dứt mất tức là
thân kim cang của
Như Lai. Mười bốn âm này gọi là
căn bản của chữ.[178]
“Âm ác[179] nghĩa là không bị
phá hoại. Không bị
phá hoại gọi là
Tam bảo,
ví như chất
kim cang. Lại nữa, ác nghĩa là không
lưu chuyển, rỉ chảy. Không
lưu chuyển, rỉ chảy, tức là
Như Lai.
Chín lỗ[180] của
Như Lai không có những chất rỉ chảy, cho nên gọi là không rỉ chảy. Lại nữa, không có
chín lỗ nên không
lưu chuyển. Không
lưu chuyển tức là thường. Thường tức là
Như Lai.
Như Lai không tạo tác cho nên không
lưu chuyển. Lại nữa, ác nghĩa là
công đức.
Công đức tức là
Tam bảo. Vì thế nên gọi là ác.
“Âm a tức là A-xà-lê. A-xà-lê nghĩa là gì? Nghĩa là ở trong
thế gian được xưng là thánh. Sao gọi là thánh? Thánh, gọi là không dính mắc, ít
ham muốn, biết đủ, cũng gọi là
trong sạch, có thể
cứu độ chúng sanh vượt ra ngoài
Ba cõi, [181] vượt khỏi biển lớn
sanh tử. Đó gọi là thánh.
“Lại nữa, a[182] nghĩa là
tiết chế điều độ,
tu trì giới hạnh trong sạch,
thuận theo oai nghi. Lại nữa, a nghĩa là nương theo bậc thánh, nên học mọi
oai nghi trong việc
tới lui,
cử động,
cúng dường,
cung kính lễ bái Tam Tôn, [183]
hiếu dưỡng cha mẹ,
tu học Đại thừa. Những kẻ nam người nữ lòng lành giữ đủ các
giới cấm cùng các vị
đại Bồ Tát đều gọi là bậc thánh. Lại nữa, a gọi là răn dạy, như nói rằng: ‘Các ông nên làm việc như thế này, đừng làm việc như này.’ Như ai có thể ngăn chặn những pháp trái
oai nghi, gọi là bậc thánh. Vì thế nên gọi là a.
“Âm ức[184] tức là tánh Phật,[185] là hạnh
trong sạch rộng lớn không nhơ bợn, dường như vầng trăng tròn. [Đó là nghĩa
phân biệt] các ông nên làm như thế này, không nên làm như thế này, thế này là đúng nghĩa, thế này là trái nghĩa, thế này là
Phật thuyết, thế này là ma thuyết. Vì thế nên gọi là ức.
“Âm y[186] tức là pháp Phật
vi diệu,
thâm sâu khó được.
Như pháp của các vị vua trời
Tự Tại, vua
trời Đại Phạm thì gọi là
tự tại. Như có thể
gìn giữ pháp tất được xưng là
hộ pháp. Lại nữa,
tự tại cũng gọi là bốn vị hộ thế.
Bốn vị tự tại[187] như vậy ắt có thể
gìn giữ bảo vệ kinh Đại Niết-bàn, lại cũng có thể
tuyên thuyết giảng rộng một cách
tự tại.
“Lại nữa, y nghĩa là có thể vì
chúng sanh thuyết pháp một cách
tự tại. Lại nữa, y nghĩa là
tự tại mà thuyết những gì? Đó là thuyết việc
tu tập kinh điển Phương đẳng. Lại nữa, y nghĩa là dứt trừ tật đố, cũng như người ta nhổ bỏ cỏ xấu, khiến cho tất cả đều trở nên
tốt lành. Vì thế nên gọi là y.
“Âm úc[188] nghĩa là cao quý nhất, vượt hơn tất cả, phát triển cao nhất trong hết thảy các kinh là Đại Niết-bàn. Lại nữa, úc nghĩa là tánh
Như Lai, hàng
Thanh văn,
Duyên giác chưa từng được nghe.
Ví như trong khắp thảy các chốn, cõi Uất-đan-việt về phương bắc là
vượt trội hơn hết; nếu
Bồ Tát được nghe và
thọ trì kinh này thì
vượt trội hơn hết trong tất cả chúng. Vì nghĩa ấy, kinh này được gọi là cao quý nhất,
vượt trội hơn hết. Vì thế nên gọi là úc.
“Âm ưu,[189]
ví như vị của sữa bò là hơn hết trong các vị. Tánh
Như Lai lại cũng như thế, là cao quý nhất, hơn hết trong tất cả các kinh, nếu có ai
phỉ báng thì nên biết rằng người ấy chẳng khác chi loài bò. Lại nữa, ưu nghĩa là người như thế không có
trí huệ,
chánh niệm,
phỉ báng tạng
vi diệu sâu kín của
Như Lai. Nên biết rằng người này rất đáng
thương xót, lìa xa tạng sâu kín của
Như Lai mà nói
pháp vô ngã. Vì thế nên gọi là ưu.
“Âm yên[190] tức là Niết-bàn, tánh pháp của chư Phật. Vì thế nên gọi là yên.
“Âm huề là nghĩa
Như Lai. Lại nữa, huề tức là trong
mọi việc tới lui dừng nghỉ, co lại duỗi ra, mọi
cử động của
Như Lai không gì là không
lợi ích cho hết thảy
chúng sanh. Vì thế nên gọi là huề.
“Âm ô gọi là nghĩa
phiền não.
Phiền não gọi là các lậu.
Như Lai đã
vĩnh viễn đoạn trừ hết thảy
phiền não. Vì thế nên gọi là ô.
“Âm bào là nghĩa
Đại thừa, là nghĩa
rốt ráo trong mười bốn âm.
Kinh điển Đại thừa lại cũng như vậy, là
rốt ráo trong các kinh luật. Vì thế nên gọi là bào.
“Âm am là có thể ngăn che hết thảy những vật
bất tịnh, ở trong
Phật pháp có thể xả bỏ hết thảy
vàng bạc,
vật báu. Vì thế nên gọi là am.
“Âm a là nghĩa thừa
vượt trội hơn hết. Vì sao vậy?
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này là
vượt trội hơn hết trong các kinh. Vì thế nên gọi là a.
“Âm ca là khởi lòng
đại từ bi đối với
chúng sanh,
xem như con ruột của mình, như Phật đối với La-hầu-la, tạo nên
ý nghĩa mầu nhiệm hiền thiện. Vì thế nên gọi là ca.
“Âm khư gọi là chẳng phải bạn hiền. Chẳng phải bạn hiền gọi là dơ xấu, tạp nhạp, chẳng tin vào tạng sâu kín của
Như Lai. Vì thế nên gọi là khư.
“Âm già gọi là kho chứa. Kho chứa đó là tạng
Như Lai sâu kín: Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Vì thế nên gọi là già.
“Âm kính là
âm thanh thường còn của
Như Lai. Cái gì gọi là
âm thanh thường còn của Như Lai? Đó là
Như Lai thường trụ chẳng
biến đổi. Vì thế nên gọi là kính.
“Âm nga là tướng hư hoại của tất cả các hành. Vì thế nên gọi là nga.
“Âm già tức là nghĩa tu sửa.
Điều phục hết thảy
chúng sanh nên gọi là nghĩa tu sửa. Vì thế nên gọi là già.
“Âm xa là
Như Lai che mát hết thảy
chúng sanh,
ví như cái lọng lớn. Vì thế nên gọi là xa.
“Âm xà là
giải thoát chân chánh, không có tướng già yếu. Vì thế nên gọi là xà.
“Âm thiện là
phiền não bao che rậm rạp,
ví như rừng rậm. Vì thế nên gọi là thiện.
“Âm nhã là
nghĩa trí huệ, biết tánh
pháp chân thật. Vì thế nên gọi là nhã.
“Âm trá là trong cõi Diêm-phù-đề
thị hiện một nửa thân mà
diễn thuyết pháp,
ví như một nửa
mặt trăng. Vì thế nên gọi là trá.
“Âm thoa là
pháp thân đầy đủ,
ví như trăng tròn. Vì thế nên gọi là thoa.
“Âm trà, ấy là hạng tăng
ngu si, chẳng biết những
lẽ thường,
vô thường,
ví như trẻ con. Vì thế nên gọi là trà.
“Âm tổ là chẳng
biết ơn thầy,
ví như con dê đực. Vì thế nên gọi là tổ.
“Âm noa là chẳng phải nghĩa thánh,
ví như ngoại đạo. Vì thế nên gọi là noa.
“Âm đa là nghĩa
Như Lai ở nơi đó bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Nên lìa sự kinh sợ, ta sẽ vì các ông mà
thuyết pháp vi diệu.’ Vì thế nên gọi là đa.
“Âm tha gọi là nghĩa
ngu si.
Chúng sanh lưu chuyển sanh tử, quay lộn như con tằm, con bọ hung.[191] Vì thế nên gọi là tha.
“Âm đà gọi là
bố thí lớn, là nói
Đại thừa. Vì thế nên gọi là đà.
“Âm đàn là
xưng tán công đức, đó là nói
Tam bảo, như núi Tu-di cao ngất, rộng lớn, không thể nghiêng ngã. Vì thế nên gọi là đàn.
“Âm na là
Tam bảo trụ yên, không nghiêng ngã lay động,
ví như cái then cửa. Vì thế nên gọi là na.
“Âm ba gọi là nghĩa
điên đảo. Như nói rằng: ‘Tam bảo thảy đều diệt hết’, nên biết rằng người này tự
sanh nghi hoặc. Vì thế nên gọi là ba.
“Âm pha là
tai ương của
thế gian. Như nói rằng: ‘Lúc
thế gian khởi
tai ương,
Tam bảo cũng diệt mất.’ Nên biết rằng người này
ngu si không
trí huệ, trái
nghịch ý thánh. Vì thế nên gọi là pha.
“Âm bà gọi là Mười sức[192] của Phật. Vì thế gọi là bà.
“Âm phạm gọi là
gánh vác việc nặng nề, có thể nhận lãnh
gánh vác Chánh pháp vô thượng. Nên biết người này là
Đại Bồ Tát. Vì thế nên gọi là phạm.
“Âm ma là sự
tiết chế,
điều độ nghiêm ngặt và cao cả của các vị
Bồ Tát, đó là nói
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn. Vì thế nên gọi là ma.
“Âm da là nghĩa các vị
Bồ Tát bất kỳ ở đâu cũng vì
chúng sanh giảng nói pháp
Đại thừa. Vì thế nên gọi là da.
“Âm ra là nghĩa có thể phá trừ
tham dục,
sân khuể,
ngu si, giảng nói
pháp chân thật. Vì thế nên gọi là ra.
“Âm la gọi là thừa
Thanh văn chuyển động chẳng dừng, còn
Đại thừa trụ yên nên không nghiêng ngã lay động.
Lìa bỏ thừa
Thanh văn,
tinh cần tu tập Đại thừa vô thượng. Vì thế nên gọi là la.
“Âm hòa là nghĩa
Như Lai Thế Tôn vì
chúng sanh tuôn mưa pháp lớn, đó là nói
các loại chú thuật, kinh sách của
thế gian. Vì thế nên gọi là hòa.
“Âm xa là nghĩa lìa xa ba mũi tên.[193] Vì thế nên gọi là xa.
“Âm sa gọi là nghĩa đầy đủ. Như ai
nghe được kinh Đại Niết-bàn này, hẳn là đã được nghe và
thọ trì hết thảy
kinh điển Đại thừa. Vì thế nên gọi là sa.
“Âm ta là nghĩa vì
chúng sanh diễn thuyết Chánh pháp, khiến cho trong lòng
vui vẻ. Vì thế nên gọi là ta.
“Âm ha gọi là nghĩa trong lòng
vui vẻ. Lạ thay,
đức Thế Tôn lìa tất cả các hành. Lạ thay!
Như Lai nhập đại Niết-bàn! Vì thế nên gọi là ha.
“Âm trà gọi là nghĩa của ma.
Vô số các ma không thể hủy hoại tạng
Như Lai sâu kín. Vì thế nên gọi là trà. Lại nữa, trà là nghĩa
cho đến việc
tùy thuận thế gian,
thị hiện có
cha mẹ,
vợ con. Vì thế nên gọi là trà.
“Âm chữ lỗ, lưu, lư, lâu có bốn nghĩa: Phật, Pháp, Tăng và pháp
đối đãi. Nói pháp
đối đãi tức là
tùy thuận thế gian.
Ví như Điều-bà-đạt[194]
thị hiện phá hoại chúng tăng, hóa ra mọi thứ
hình mạo sắc tượng vì người muốn chế định
giới luật. Người có
trí huệ thông suốt chẳng nên sanh lòng sợ sệt đối với việc ấy. Đó gọi là hạnh
tùy thuận thế gian. Vì thế nên gọi là lỗ, lưu, lư, lâu.
“Không khí đưa vào nơi lưỡi lại
tùy theo mũi tạo thành
âm thanh, tiếng phát ra có dài, có ngắn,
tùy theo đó mà hiểu nghĩa. Đều là do ở lưỡi và răng mà có sự khác biệt nhau. Nghĩa của chữ như thế có thể làm cho
khẩu nghiệp của
chúng sanh trở nên
trong sạch. Tánh Phật của
chúng sanh chẳng phải như vậy, chẳng phải nhờ ở
văn tự rồi sau mới trở nên
trong sạch. Vì sao vậy? Vì tánh vốn là
trong sạch. Tuy ở trong các ấm, nhập, giới,[195] nhưng chẳng đồng với ấm, nhập, giới. Vì thế mà
chúng sanh đều nên
quy y nơi
tự tánh.
“Các vị
Bồ Tát do nơi tánh Phật nên nhìn tất cả
chúng sanh không có sự khác biệt nhau. Do đó mà nửa chữ là
căn bản của kinh thơ, ký luận,
văn chương. Lại nữa, nghĩa của nửa chữ tức là
căn bản của những lời thuyết dạy về
phiền não. Vì thế nên gọi là nửa chữ. Còn trọn chữ mới là
căn bản của tất cả những lời thuyết dạy về
thiện pháp.
“Ví như ở
thế gian, kẻ làm điều ác thì gọi là ‘chẳng nên người’, kẻ tu điều thiện được gọi là ‘nên người’. Hết thảy kinh thơ, ký luận như vậy đều là
do nơi nửa chữ là
căn bản. Nếu nói rằng
Như Lai và
giải thoát chân chánh đều ở trong nửa chữ thì thật
vô lý. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi
văn tự. Cho nên
Như Lai đối với hết thảy các pháp đều không ngăn ngại, không
vướng mắc, thật
được giải thoát.
“Sao gọi là
hiểu rõ nghĩa của chữ? Có người biết rằng
Như Lai xuất hiện ở
thế gian có thể trừ bỏ nửa chữ, nên gọi là
hiểu rõ nghĩa chữ. Như có người
chấp chặt nơi nghĩa của nửa chữ, người này chẳng hiểu được tánh
Như Lai.
“Sao gọi là
nghĩa không có chữ? Người thân cận,
tu tập các pháp chẳng lành, đó gọi là không có chữ. Lại nữa, người không có chữ tuy thân cận và
tu tập các pháp lành nhưng không biết được
Như Lai là thường còn hay không thường còn,
lâu dài hay chẳng
lâu dài, cùng hai ngôi báu là Pháp và Tăng, đúng luật hay không đúng luật, là kinh hay chẳng phải kinh, là ma thuyết,
Phật thuyết.
Nếu không thể
phân biệt như
vậy thì gọi là
chạy theo nghĩa không có chữ. Nay ta đã thuyết xong việc
chạy theo nghĩa không có chữ.
“Thiện nam tử! Vậy nay các ông nên lìa khỏi nửa chữ, khéo hiểu được trọn chữ.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con thật nên học rành số chữ. Nay chúng con đã được gặp bậc thầy
vô thượng, được
đức Như Lai ân cần khuyên dạy.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Kẻ
hâm mộ Chánh pháp nên
học hỏi như vậy.”
[196]Bấy giờ,
Phật bảo Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Có hai loài chim, một loài tên ca-lân-đề,[197] một loài tên uyên ương, dù khi bay đi hay ngừng đậu đều theo cùng
với nhau, chẳng lìa được nhau. Những pháp: khổ,
vô thường,
vô ngã lại cũng như vậy, chẳng lìa được nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Vì sao những pháp khổ,
vô thường,
vô ngã này lại giống như chim uyên ương và chim ca-lân-đề kia?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có những pháp khổ, vui khác nhau; có những pháp là thường,
vô thường khác nhau; có những pháp khác là ngã,
vô ngã khác nhau.
“Cũng
ví như hạt nếp khác với hạt mè, hạt mè lại khác với hạt đậu, hạt lúa và cây mía...
Các loại ấy, từ phôi mầm
cho đến lá hoa đều là
vô thường. Đến khi hạt trái khô chín, dùng được mới gọi là thường. Vì sao sậy? Vì là tánh thật.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu những vật ấy là thường thì đồng với
Như Lai hay sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nói ra lời ấy. Vì sao vậy? Như nói [ví dụ rằng]
đức Như Lai như núi Tu-di, đến lúc kiếp hoại núi Tu-di sụp đổ,
lúc ấy lẽ nào
Như Lai cũng hư hoại như vậy hay sao?
“Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nhận giữ
ý nghĩa như vậy.
Thiện nam tử! Trong tất cả các pháp, chỉ trừ tánh Phật và Niết-bàn,
ngoài ra không một pháp nào là thường cả. Chỉ vì
thuận theo lẽ
thế gian nên mới nói hạt trái là thường.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Lành thay,
lành thay! Đúng như
lời Phật dạy.”
Phật bảo Ca-diếp: “Đúng vậy, đúng vậy!
Thiện nam tử! Tuy là
tu tập hết thảy các phép định trong
Khế kinh mà chưa
nghe được kinh Đại Bát Niết-bàn, đều nói rằng hết thảy là
vô thường. Nghe kinh này rồi thì dù có
phiền não cũng
như không phiền não, liền có thể làm
lợi ích cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ
biết thân mình vốn có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như cây am-la, khi vừa trổ hoa gọi là tướng
vô thường. Đến khi có hạt trái, được nhiều
lợi ích, mới gọi là thường. Như vậy đó,
thiện nam tử! Tuy là
tu tập hết thảy các phép định trong
Khế kinh nhưng lúc chưa nghe kinh Đại Bát Niết-bàn đều nói rằng hết thảy là
vô thường. Nghe kinh này rồi thì dù có
phiền não cũng
như không phiền não, liền có thể làm
lợi ích cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết tự thân vốn có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như chất khoáng vàng, khi nung chảy ra gọi là tướng
vô thường. Nung chảy xong đã [
tinh luyện] thành
vàng ròng, được nhiều
lợi ích, mới gọi là thường. Như vậy đó,
thiện nam tử! Tuy là
tu tập hết thảy các phép định trong
Khế kinh, nhưng lúc chưa nghe kinh Đại Bát Niết-bàn đều nói rằng hết thảy là
vô thường. Nghe kinh này rồi thì dù có
phiền não cũng
như không phiền não, liền có thể làm
lợi ích cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết tự thân vốn có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như những hạt mè khi chưa
mang đi ép gọi là
vô thường. Khi ép xong thành dù mè, được nhiều
lợi ích, mới gọi là thường. Như vậy đó,
thiện nam tử! Tuy là
tu tập hết thảy các phép định trong
Khế kinh, nhưng lúc chưa nghe kinh Đại Bát Niết-bàn đều nói rằng hết thảy là
vô thường. Nghe kinh này rồi thì dù có
phiền não cũng
như không phiền não, liền có thể làm
lợi ích cho hết thảy trời, người. Vì sao vậy? Rõ biết tự thân vốn có tánh Phật. Đây mới gọi là thường.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như các dòng sông đều chảy về nơi biển. Hết thảy các phép định Tam-muội trong
Khế kinh đều quy về
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì
rốt ráo khéo dạy rằng có tánh Phật.
“Thiện nam tử!
Vì vậy nên ta nói rằng: Có những pháp là thường,
vô thường khác nhau,
cho đến [ngã],
vô ngã cũng là như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai đã lìa xa mũi tên độc là sự
lo nghĩ thương tưởng.
“Lo nghĩ thương tưởng gọi là
chư thiên;
Như Lai chẳng phải hàng
chư thiên. Có
lo nghĩ thương tưởng gọi là người;
Như Lai chẳng phải là người.
Lo nghĩ thương tưởng gọi là
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
Như Lai chẳng phải [thuộc về]
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
Vì vậy Như Lai không có
lo nghĩ thương tưởng. Vì sao [con từng nghe Phật] nói rằng
Như Lai có
lo nghĩ thương tưởng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! [
Ví như]
cõi trời Vô tưởng gọi là không có sự
nghĩ tưởng.[198]
Nếu không có sự
nghĩ tưởng, ắt là không có
thọ mạng.
Nếu không có
thọ mạng, làm sao có ấm, giới, nhập? Vì nghĩa ấy nên mạng sống ở
cõi trời Vô tưởng không thể nói là có chỗ xác định.
“Thiện nam tử!
Ví như vị thần cây, nương theo cây mà ở. Người ta không thể nói
nhất định rằng vị ấy nương theo cành cây, lóng cây, thân cây hoặc lá cây. Tuy không có chỗ xác định, nhưng không thể nói là không có. Mạng sống ở
cõi trời Vô tưởng cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Pháp Phật cũng như thế, rất
sâu xa khó hiểu.
Như Lai thật không có sự lo buồn,
khổ não, nhưng đối với
chúng sanh khởi lòng
đại từ bi,
thị hiện có
lo nghĩ thương tưởng, xem tất cả
chúng sanh như La-hầu-la, [như đứa con
duy nhất của ngài.]
“Lại nữa,
thiện nam tử! Mạng sống ở
cõi trời Vô tưởng chỉ riêng Phật mới có thể biết rõ mà thôi,
ngoài ra không ai biết được.
Cho đến ở cõi
Phi tưởng phi phi tưởng[199] cũng vậy.
“Ca-diếp! Tánh
Như Lai là
thanh tịnh, không
nhiễm ô, như thân
biến hóa, sao lại có sự lo buồn,
khổ não ở nơi nào? Nhưng nếu nói rằng
Như Lai không có sự
lo nghĩ thương tưởng, làm sao Ngài có thể làm
lợi ích hết thảy
chúng sanh, rộng
truyền pháp Phật? Nếu nói là không có [sự
lo nghĩ thương tưởng], sao có thể nói rằng
Như Lai xem tất cả
chúng sanh đồng như La-hầu-la? Nếu [nói
Như Lai] không xem
chúng sanh đồng như La-hầu-la thì đó ắt là
lời nói dối trá.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên Phật không thể nghĩ bàn, Pháp cũng không thể nghĩ bàn; tánh Phật của
chúng sanh không thể nghĩ bàn, mạng sống ở
cõi trời Vô tưởng cũng không thể nghĩ bàn.
Như Lai có
lo nghĩ hay không
lo nghĩ, đó là
cảnh giới của Phật, không phải chỗ hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.
“Thiện nam tử!
Ví như ở giữa không trung thì nhà cửa, bụi đất không thể đứng vững, nhưng nếu nói rằng nhà
cửa không nương nơi
hư không mà trụ thì thật
vô lý. Vì nghĩa ấy, không thể nói rằng nhà cửa trụ nơi
hư không hoặc chẳng trụ nơi
hư không. Những kẻ
phàm phu tuy nói rằng nhà cửa trụ nơi
hư không, nhưng
hư không ấy
thật không có chỗ trụ. Vì sao vậy? Vì tánh [thật vốn] là không trụ.
“Thiện nam tử! Cái tâm
cũng thế, không thể nói rằng có trụ nơi ấm, giới, nhập hoặc là không trụ. Mạng sống ở
cõi trời Vô tưởng cũng là như vậy, sự
lo nghĩ thương tưởng của
Như Lai cũng là như vậy.
Nếu không có
lo nghĩ thương tưởng, sao lại nói rằng xem tất cả
chúng sanh đồng như La-hầu-la? Còn nếu nói rằng có, sao có thể nói rằng tánh [
Như Lai] đồng với hư không?
“Thiện nam tử!
Ví như một
ảo thuật gia, dùng phép hóa ra mọi thứ cung điện, các việc như giết hại,
nuôi dưỡng,
trói buộc, buông thả, cùng là hóa ra vàng, bạc,
lưu ly,
vật báu, rừng rậm, cây cối... thảy đều không có tánh thật.
Như Lai cũng thế,
tùy thuận thế gian mà
thị hiện sự
lo nghĩ thương tưởng, nhưng [đều là]
không thật có.
“Thiện nam tử!
Như Lai đã vào Đại Niết-bàn, làm sao lại có sự lo buồn, khổ não? Nếu [ai] cho rằng
Như Lai vào Niết-bàn là
vô thường, nên biết rằng người ấy ắt có sự lo buồn. Nếu [ai] nói rằng
Như Lai chẳng vào Niết-bàn,
thường trụ không
biến đổi, nên biết rằng người ấy không có sự lo buồn.
Như Lai có lo buồn hay không,
thật không ai có thể biết được.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người
hạ lưu chỉ có thể biết việc
hạ lưu, không biết được việc của hàng
trung lưu,
thượng lưu. Người
trung lưu biết việc
trung lưu, chẳng biết được việc của hàng
thượng lưu. Còn người
thượng lưu chẳng những biết việc
thượng lưu, lại còn biết luôn các việc của hàng
trung lưu và
hạ lưu.
“Những người trong hàng
Thanh văn,
Duyên giác cũng vậy, đều chỉ
hiểu biết trong
phạm vi của mình mà thôi.
Như Lai không phải thế, ngài biết được cả
phạm vi của mình và
phạm vi của
mọi người khác. Cho nên
Như Lai gọi là
trí huệ không ngăn ngại,
tùy thuận thế gian mà
thị hiện mọi sự
ảo hóa.
Phàm phu mắt thịt cho [sự
ảo hóa] đó là
chân thật nhưng lại muốn biết được hết trí
vô ngại vô thượng của
Như Lai, việc ấy thật
vô lý. Có lo buồn hay không, chỉ riêng Phật có thể biết mà thôi. Bởi
nhân duyên này, [ta nói] có những
pháp hữu ngã,
vô ngã khác nhau. Vì thế nói là như tánh của chim uyên ương và chim ca-lân-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Phật pháp ví như [đôi] chim uyên ương cùng đi
với nhau. Chim ca-lân-đề và chim uyên ương, vào giữa
mùa hạ, lúc nước dâng lên thì chọn vùng đất cao mà đặt chim con để tiện việc
nuôi dưỡng. Sau đó mới
trở lại chốn cũ mà
yên ổn dạo chơi.
Như Lai xuất hiện ở đời cũng vậy,
giáo hóa vô lượng chúng sanh, làm cho trụ nơi
Chánh pháp. Cũng như chim uyên ương và ca-lân-đề kia chọn vùng đất cao mà đặt chim con,
Như Lai cũng vậy, khiến cho
chúng sanh làm xong công việc của họ rồi, ngài mới nhập Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Đây gọi là có những pháp khổ, vui khác nhau. Các hành đều là khổ, Niết-bàn là vui, nhiệm mầu bậc nhất vì đã phá trừ hết thảy các hành.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Vì sao
chúng sanh được Niết-bàn gọi là vui nhất?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như ta có dạy, các hành
hòa hợp gọi là già chết.[200]
Cẩn thận không
phóng dật,
Chính là
thuốc trường sanh.
Phóng dật, không
cẩn thận,
Là
đi vào cõi chết.
Nếu ai không
phóng dật,
Sẽ đạt sự
bất tử,
Những ai thường
phóng dật,
Luôn
đi theo đường chết.
“Nếu người
phóng dật thì gọi là
pháp hữu vi;
pháp hữu vi đó là khổ bậc nhất. Nếu người không
phóng dật thì gọi là Niết-bàn, Niết-bàn ấy gọi là
cam lộ, an vui bậc nhất. Nếu
chạy theo các hành thì gọi là chỗ chết, chịu khổ bậc nhất. Nếu đạt tới Niết-bàn thì gọi là
bất tử,
thọ hưởng sự an vui
mầu nhiệm bậc nhất.
Nếu không phóng dật, tuy có gồm tụ các hành cũng gọi là thường, vui,
bất tử, thân không bị
phá hoại. Thế nào là phóng dật? Thế nào là không phóng dật? Những kẻ
phàm phu chưa chứng thánh gọi là
phóng dật, là pháp thương [chịu sự già] chết.
Thánh nhân xuất thế là không
phóng dật, không có sự già chết. Vì sao vậy? Vì vào cảnh Niết-bàn thường tồn, an vui bậc nhất. Vì nghĩa ấy nên có những pháp khổ, vui khác nhau; có những
pháp ngã,
vô ngã khác nhau.
“Ví như người đứng ở mặt đất ngước nhìn trên không, chẳng thấy
dấu chân chim.
Thiện nam tử!
Chúng sanh cũng thế, [vì] không có
thiên nhãn [nên] ở trong
phiền não không tự thấy có tánh
Như Lai. Cho nên ta mới chỉ dạy lẽ
vô ngã sâu kín. Vì sao vậy? Những kẻ không có
thiên nhãn chẳng biết được cái ngã
chân thật, nên
cố chấp sai lầm là có ngã.
Do nơi các
phiền não tạo ra những việc
hữu vi, tức là
vô thường. Cho nên ta nói rằng có những
pháp thường,
vô thường khác nhau.
Bậc
tinh cần dũng mãnh,
Khi ở tại đỉnh núi,
Đất bằng hay đồng hoang,
Thường thấy hàng
phàm phu.
Lên điện
trí huệ lớn,
Đài
vô thượng vi diệu,
Tự dứt trừ buồn khổ,
Còn thấy
chúng sanh khổ.
“Như Lai đã dứt hết
vô lượng phiền não,
vững vàng trên núi
trí huệ, nhìn thấy
chúng sanh thường ở trong
vô lượng phiền não.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Như
bài kệ Phật vừa thuyết dạy ấy,
nghĩa lý không hợp. Vì sao vậy? Vào Niết-bàn rồi thì không có lo buồn, không có
vui vẻ. Làm sao lại lên điện đài trí huệ? Làm sao lại
vững vàng trên đỉnh núi mà nhìn thấy chúng sanh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Điện
trí huệ đó tức là Niết-bàn. Người không lo buồn ấy là
Như Lai. Người có lo buồn gọi là
phàm phu. Vì
phàm phu có lo buồn nên
Như Lai không lo buồn. Đỉnh núi Tu-di là nói
giải thoát chân chánh. Người
chuyên cần tinh tấn ví như núi Tu-di không hề
động chuyển. Mặt đất là hạnh
hữu vi. Những người
phàm phu ở yên trên đất ấy mà tạo tác các hành. Người
trí huệ gọi là
Chánh giác, lìa khỏi
chấp hữu,[201]
thường trụ nên gọi là
Như Lai.
Như Lai thương xót vô lượng chúng sanh thường bị trúng tên độc
chấp hữu, cho nên nói là
Như Lai có sự
lo nghĩ thương tưởng.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu nói
Như Lai có sự
lo nghĩ thương tưởng thì không thể xưng là bậc Chánh giác!”
Phật dạy: “Ca-diếp! Đó đều là có
nhân duyên, tùy nơi nào
chúng sanh muốn được
giáo hóa,
Như Lai thị hiện thọ sanh nơi đó. Tuy
thị hiện thọ sanh, nhưng
thật không có sanh.
Vì vậy Như Lai gọi là
pháp thường trụ, như các loài chim ca-lân-đề, uyên ương.[202]
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN TÁM
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN CHÍN
PHẨM TÁNH NHƯ LAI
Phẩm thứ tư – Phần sáu[203]
Phật dạy: “Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có những người thấy
mặt trăng không
hiện ra đều nói rằng trăng lặn, liền sanh
ý tưởng rằng trăng đã lặn mất. Nhưng tánh của
mặt trăng ấy
thật không có lặn mất. Khi chuyển
hiện ra ở
nơi khác,
chúng sanh nơi đó lại bảo rằng trăng mọc. Nhưng tánh của
mặt trăng ấy
thật không có mọc lên. Vì sao vậy? Vì núi Tu-di
che khuất, nên chẳng
hiện ra.
Mặt trăng ấy
thường có, tánh nó không có mọc lên hay lặn mất.
“Đức
Như Lai, Ứng,
Chánh biến tri cũng vậy,
xuất hiện trong cõi
Tam thiên Đại thiên thế giới này; hoặc ở Diêm-phù-đề
thị hiện có
cha mẹ,
chúng sanh đều bảo rằng
Như Lai sanh trong cõi Diêm-phù-đề. Hoặc ở Diêm-phù-đề
thị hiện Niết-bàn, tánh
Như Lai ấy
thật không có Niết-bàn, Nhưng
chúng sanh đều nói rằng
Như Lai thật có vào Đại Niết-bàn,
ví như mặt trăng lặn mất.
“Thiện nam tử! Tánh
Như Lai thật không có
sanh diệt. Vì
giáo hóa chúng sanh nên
thị hiện sanh diệt.
“Thiện nam tử!
Ví như mặt trăng tròn ở đây,
nơi khác thấy là khuyết;
mặt trăng khuyết ở đây,
nơi khác thấy là tròn.[204] Người ở Diêm-phù-đề khi thấy trăng non đều nói là ngày mồng một, liền sanh
ý tưởng rằng trăng non. Khi thấy trăng tròn đều nói là ngày rằm, liền sanh
ý tưởng rằng trăng tròn đầy. Nhưng tánh của trăng ấy
thật không có tròn khuyết. Do núi Tu-di nên có sự tròn, khuyết.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, ở Diêm-phù-đề
thị hiện vừa sanh ra, hoặc
thị hiện Niết-bàn. Lúc
thị hiện mới sanh,
ví như trăng non,
ai nấy đều bảo đó là
đồng tử mới sanh. Ngài đi bảy bước,
ví như mặt trăng đêm mồng hai. Rồi lại
thị hiện vào thư đường học tập,
ví như mặt trăng đêm mồng ba.
Thị hiện xuất gia,
ví như mặt trăng đêm mồng tám. Ngài phóng ánh sáng
vi diệu của
đại trí huệ, có thể phá dẹp
vô lượng chúng ma,
ví như mặt trăng tròn đầy đêm rằm. Hoặc
thị hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp
trang nghiêm thân mình, rồi
thị hiện Niết-bàn,
ví như nguyệt thực.
“Như vậy, chỗ thấy của
chúng sanh chẳng đồng. Khi thấy trăng khuyết, khi thấy trăng tròn, hoặc có khi thấy nguyệt thực. Nhưng tánh của
mặt trăng ấy
thật không có tăng, giảm, không bị
che khuất, vẫn luôn tròn đầy. Thân
Như Lai cũng vậy, cho nên gọi là
thường trụ, không
biến đổi.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như trăng tròn,
hiện ra ở khắp
mọi nơi, từ thành ấp, làng xóm, núi non, đầm nước, giếng nước, ao hồ, bồn chậu... hết thảy đều có trăng hiện. Có những
chúng sanh đi được trăm do-tuần, trăm ngàn do-tuần, đều thấy
mặt trăng thường
đi theo mình. Kẻ
phàm phu ngu si sanh ra
ý tưởng sai lầm, nói rằng: ‘Khi ta còn ở nơi thành ấp nhà cửa, đã thấy
mặt trăng ấy. Nay đến chỗ đồng hoang trống vắng này cũng thấy. Đó là
mặt trăng trước, hay là
mặt trăng khác?’ Có những kẻ nghĩ rằng
mặt trăng có lớn, có nhỏ, hoặc như cái miệng chậu... Lại có kẻ khác nói rằng: ‘Nó lớn bằng bánh xe.’ Hoặc nói rằng: ‘Nó rộng bốn mươi chín do-tuần.’
Ai nấy đều thấy
mặt trăng chiếu sáng, hoặc có kẻ thấy nó tròn trịa như cái mâm vàng. Tánh của
mặt trăng ấy là
duy nhất, nhưng
chúng sanh mỗi người đều thấy tướng trạng của nó khác nhau.
“Thiện nam tử!
Như Lai xuất hiện ở
thế gian cũng vậy. Hoặc có người hay
chư thiên nghĩ rằng: ‘Hiện nay,
Như Lai ở
trước mặt ta.’ Lại có những
chúng sanh khác cũng
nghĩ tưởng rằng: ‘Hiện nay,
Như Lai ở
trước mặt ta.’ Hoặc có những kẻ
câm điếc thấy
Như Lai cũng
câm điếc như họ. Các loài
chúng sanh khác nhau, tiếng nói khác nhau, thảy đều bảo rằng
Như Lai nói cùng thứ tiếng với họ,
ai nấy cũng đều nghĩ rằng: ‘Như Lai ở tại nhà tôi, thọ nhận sự
cúng dường của tôi.’ Hoặc có những
chúng sanh thấy
Như Lai thân tướng rộng lớn
vô lượng. Lại có kẻ thấy
Như Lai hình tướng nhỏ bé. Hoặc có kẻ thấy Phật có
hình tượng Thanh văn. Cũng có kẻ thấy Phật mang
hình tượng Duyên giác. Lại có những kẻ
ngoại đạo nói rằng: ‘Hiện nay
Như Lai xuất gia học đạo ở trong pháp của
chúng tôi.’ Hoặc có những
chúng sanh lại nghĩ rằng: “Hiện nay
Như Lai chỉ riêng vì tôi mà
xuất hiện ở thế.’
“Tánh thật của
Như Lai ví như mặt trăng kia, tức là
pháp thân, là thân không sanh, là thân
phương tiện,
tùy thuận thế gian mà
thị hiện vô lượng nhân duyên gốc nghiệp... Ngài ở khắp
mọi nơi thị hiện có sanh ra, như
mặt trăng kia. Vì nghĩa ấy cho nên
Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như vị vua loài a-tu-la là La-hầu-la lấy tay
che khuất mặt trăng, người
thế gian đều bảo đó là nguyệt thực. Vua a-tu-la ấy
thật không thể nuốt
mất mặt trăng, chỉ
che khuất ánh sáng thôi.
Mặt trăng ấy vẫn tròn đầy không hao khuyết, chỉ vì bàn tay của vua a-tu-la
che khuất nên chẳng
hiện ra. Nếu bàn tay ấy rút đi,
thế gian sẽ cho rằng
mặt trăng lại sanh ra, đều nói rằng: ‘Mặt trăng chịu nhiều
khổ não.’ Nhưng dù cho trăm ngàn vị vua a-tu-la cũng không thể làm cho
mặt trăng khổ não!
“Như Lai
cũng thế, ngài
thị hiện có những
chúng sanh đối với
Như Lai sanh lòng thô ác, làm thân Phật chảy máu,
phát khởi Năm tội nghịch, [205]
cho đến thành kẻ nhất-xiển-đề.[206] Ngài vì các
chúng sanh đời
vị lai mà
thị hiện những việc
phá hoại Chúng tăng, đoạn dứt
Chánh pháp và gây ra những khó khăn
chướng ngại... [Thật ra, dù] có trăm ngàn
vô lượng chúng ma cũng không thể làm cho thân
Như Lai chảy máu. Vì sao vậy? Vì thân
Như Lai không có máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy.
Như Lai là
chân thật, không thể
quấy nhiễu,
phá hoại.
Chúng sanh đều cho rằng Pháp, Tăng bị hủy hoại,
Như Lai có diệt mất. Nhưng tánh
Như Lai chân thật, không
biến đổi, không thể
phá hoại. Vì
tùy thuận thế gian nên
thị hiện như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như hai người giao đấu tranh tài. Nếu dùng dao gậy gây ra thương tích, làm chảy máu đối phương, tuy có làm chết người nhưng không hề khởi
ý tưởng giết hại.
Hình thức tạo nghiệp như vậy là nhẹ chứ không phải nặng. Người đối với
Như Lai vốn không có tâm giết hại, tuy làm cho thân Phật chảy máu thì nghiệp này cũng như trên, nhẹ chứ không nặng.
Như Lai vì
giáo hóa chúng sanh đời
vị lai nên
thị hiện nghiệp báo như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có vị
lương y cố sức dạy cho con những phương thuốc
căn bản, dạy rằng: ‘Đây là rễ cây thuốc, đây là thân cây thuốc, đây là hoa cây thuốc... Con nên biết rành mọi thứ
hình dáng.’ Người con kính
vâng lời cha truyền dạy,
tinh cần học tập, hiểu rành các thứ thuốc. Về sau, vị
lương y ấy chết đi. Người con khóc kể và nói rằng: ‘Cha tôi từng dạy tôi: rễ thuốc như thế này, thân cây thuốc như thế này, hoa cây thuốc như thế này, màu sắc
hình dáng như thế này.’
“Như Lai
cũng thế, vì
giáo hóa chúng sanh nên
thị hiện chế định
giới luật: ‘Nên
thọ trì như thế này, đừng phạm vào tội
Ngũ nghịch,
phỉ báng Chánh pháp cùng là nhất-xiển-đề.’ Vì đời
vị lai nên khởi ra những việc ấy. Cho nên
thị hiện để khiến cho sau khi Phật
nhập diệt, các vị tỳ-kheo đều biết như thế này: ‘Đây là
Khế kinh,
nghĩa lý thâm sâu. Đây là
giới luật, có các
hình thức nặng nhẹ khác nhau; đây là A-tì-đàm,[207]
phân biệt rõ ràng các pháp.’ Cũng như đứa con của vị
lương y kia.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như loài người xem mặt trăng, cứ sáu tháng có
một lần nguyệt thực. Nhưng trên
cõi trời kia, chỉ trong một
thời gian ngắn mà
chư thiên đã thấy nhiều lần nguyệt thực. Vì sao vậy? Vì ngày ở
cõi trời ấy rất dài, còn ngày ở
cõi người thì ngắn.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế,
chư thiên thảy đều bảo rằng tuổi thọ của
Như Lai là ngắn. Cũng như
chư thiên kia trong một
thời gian ngắn đã thấy nhiều lần nguyệt thực;
Như Lai cũng thế, trong một
thời gian ngắn đã
thị hiện trăm ngàn vạn ức lần Niết-bàn, dứt trừ ma
phiền não, ma ấm, ma chết. Cho nên trăm ngàn vạn ức
thiên ma [208] thảy đều biết rằng
Như Lai vào Đại Niết-bàn. Lại còn
thị hiện vô lượng trăm ngàn
nhân duyên nghiệp đời trước,
tùy thuận mọi tánh của
thế gian mà
thị hiện vô lượng vô biên như vậy, không thể nghĩ bàn. Cho nên
Như Lai là
thường trụ, không
biến đổi.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như mặt trăng sáng,
chúng sanh đều muốn nhìn ngắm, nên khen
mặt trăng là đáng nhìn.
Chúng sanh nếu có
tham lam,
sân khuể,
ngu si, thì chẳng được khen là đáng nhìn. Tánh
Như Lai cũng như
mặt trăng sáng ấy, thuần thiện,
trong sạch không nhơ bợn, nên rất đáng xưng là đáng nhìn. Những
chúng sanh hâm mộ Chánh pháp đều
ngắm nhìn ngài không chán, những kẻ
ác tâm chẳng thích ngẩng mặt nhìn ngài. Vì nghĩa ấy cho nên nói rằng: ‘Như Lai
ví như trăng sáng.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như khi
mặt trời xuất hiện, có ba mùa khác nhau:
mùa xuân,
mùa hạ,
mùa đông.[209] Ngày
mùa đông ngắn, ngày
mùa xuân vừa phải, ngày
mùa hạ rất dài.
Như Lai cũng thế, ở trong cõi
Tam thiên đại thiên này, vì những người có
đời sống ngắn ngủi và các vị
Thanh văn nên
thị hiện đời sống ngắn ngủi. Những người này thấy vậy đều nói rằng
đời sống của Phật rất ngắn,
ví như ngày
mùa đông. Phật lại vì chư
Bồ Tát mà
thị hiện đời sống vừa phải, như trọn một kiếp hoặc một
kiếp giảm,
ví như ngày
mùa xuân. Duy chỉ có [chư] Phật nhìn thấy Phật có
đời sống vô lượng,
ví như ngày
mùa hạ.
“Thiện nam tử!
Giáo lý sâu kín
mầu nhiệm của
kinh phương đẳng Đại thừa do
Như Lai thuyết giảng,
thị hiện nơi
thế gian để đổ trận mưa pháp lớn. Trong tương lai, nếu có những người có thể
thọ trì kinh điển này, mở bày
chỉ bảo,
phân biệt làm
lợi ích chúng sanh, nên biết rằng những người ấy thật là
Bồ Tát,
ví như đang
mùa hạ nóng bức được cơn mưa mát mẻ! Nếu có hàng
Thanh văn,
Duyên giác nghe được giáo pháp sâu kín
mầu nhiệm của
Phật Như Lai,
ví như trong ngày
mùa đông phải chịu nhiều
khổ nạn buốt giá. Hàng
Bồ Tát nếu
nghe được lời
dạy bảo sâu kín
mầu nhiệm như thế này: ‘Như Lai là
thường trụ,
tánh không biến đổi,
ví như ngày xuân cây cối đâm chồi nảy lộc. Nhưng tánh
Như Lai vốn không dài ngắn, chỉ vì
thế gian nên
thị hiện như vậy, đó là tánh
pháp chân thật của chư Phật.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như các ngôi sao, ban ngày chẳng
hiện ra. Người ta đều cho rằng ban ngày sao lặn mất. Kỳ thật, sao ấy không có lặn mất.
Sở dĩ không
hiện ra là vì
mặt trời chói sáng.
Như Lai cũng thế,
Thanh văn,
Duyên giác không thể nhìn thấy được, cũng như người đời không nhìn thấy được các ngôi sao ban ngày.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như đang khi trời
u ám,
mặt trời,
mặt trăng không
hiện ra. Người ngu bảo rằng: ‘Mặt trời,
mặt trăng đã mất.’ Nhưng
mặt trời,
mặt trăng thật không mất! Vào lúc
Chánh pháp Như Lai diệt mất,
Tam bảo cũng
hiện ra tướng lặn khuất như vậy,
thật không phải diệt mất hẳn. Vậy nên biết rằng
Như Lai là
thường trụ, không có
biến đổi. Vì sao vậy? Vì tánh
chân thật của
Tam bảo chẳng bị những điều nhơ xấu làm
nhiễm ô.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như vào
tuần trăng tối,[210] sao chổi
hiện ra lúc ban đêm,
ánh sáng chói lòa, trong chốc lát rồi lặn mất.
Chúng sanh thấy vậy rồi sanh ra
ý tưởng cho là điềm chẳng lành. Các vị
Phật Bích-chi[211] lại cũng như vậy, ra đời vào lúc không có Phật.
Chúng sanh thấy vậy rồi, thảy đều cho rằng
Như Lai hẳn thật
diệt độ, nên sanh lòng lo buồn. Nhưng thân
Như Lai thật không có diệt mất, cũng như
mặt trời và
mặt trăng kia không hề lặn mất.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như khi
mặt trời hiện, sương mù đều tan mất.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này lại cũng như vậy,
hiện ra mạnh mẽ
trong đời. Nếu như có
chúng sanh nào tai nghe qua kinh này
một lần, liền có
thể diệt trừ được tất cả
nghiệp ác vô gián.[212]
Cảnh giới rất
thâm sâu của Đại Niết-bàn này không thể nghĩ bàn, khéo giảng bày tánh nhiệm mầu sâu kín của
Như Lai.
“Vì nghĩa ấy, các
thiện nam tử,
thiện nữ nhân nên đối với
Như Lai sanh tâm
thường trụ, không
biến đổi,
Chánh pháp không dứt mất,
Tăng bảo chẳng hề
tiêu diệt. Vậy nên phải tu nhiều
phương tiện, siêng học
kinh điển này. Người như vậy không lâu sẽ
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Vì vậy nên kinh này gọi là chỗ
thành tựu của
vô lượng công đức, cũng gọi là Bồ-đề không thể
cùng tận. Vì không
cùng tận, nên mới xưng là Đại Bát Niết-bàn. Bởi có ánh sáng lành, nên
ví như ngày
mùa hạ,[213] và bởi thân không hạn lượng nên gọi là Đại Niết-bàn.
[214]“Lại nữa,
thiện nam tử! Như ánh sáng của
mặt trời,
mặt trăng là hơn hết, tất cả
các loại ánh sáng khác đều không sánh được;
hào quang của kinh Đại Niết-bàn lại cũng như vậy,
vượt trội hơn hết so với
hào quang Tam-muội của các
Khế kinh, tất cả đều không sánh được. Vì sao vậy? Vì
hào quang của kinh Đại Niết-bàn có thể vào trong các lỗ chân lông của
chúng sanh. Dù
chúng sanh chẳng có tâm Bồ-đề, nhưng có thể vì họ mà tạo ra
nhân duyên Bồ-đề.
Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật nói rằng
hào quang của kinh Đại Niết-bàn vào tất cả những lỗ chân lông của
chúng sanh, dù họ chẳng có tâm Bồ-đề cũng có thể vì họ tạo ra nhân Bồ-đề. Nghĩa ấy chẳng đúng! Vì sao vậy? Thế Tôn! Những kẻ phạm
Bốn giới cấm nặng, những người làm
Năm tội nghịch, những kẻ nhất-xiển-đề, nếu
hào quang vào trong thân họ tạo ra được nhân Bồ-đề, thì những hạng người như vậy so với những người
giữ gìn giới hạnh trong sạch,
tu tập các điều lành có khác gì nhau? Nếu chẳng khác nhau, vì sao
Như Lai lại
giảng nghĩa Bốn pháp nương theo?[215]
“Thế Tôn! Lại như Phật nói rằng: ‘Nếu có những
chúng sanh, tai nghe qua kinh Đại Niết-bàn
một lần, ắt dứt trừ được các
phiền não.’ Vì sao trước đó
Như Lai dạy rằng: ‘Có người đã
phát tâm ở trước chư Phật nhiều như cát
sông Hằng, khi nghe kinh Đại Niết-bàn cũng chẳng hiểu được nghĩa?’ Nếu chẳng hiểu nghĩa, làm sao dứt trừ được tất cả phiền não?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề,
ngoài ra những
chúng sanh khác khi
nghe được kinh này rồi, thảy đều có thể tạo được
nhân duyên Bồ-đề. Tiếng
giảng pháp phát ra
hào quang, vào nơi lỗ chân lông rồi thì
nhất định người ấy sẽ
đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Nếu ai có thể
cúng dường cung kính vô lượng chư Phật, mới được nghe kinh Đại Niết-bàn. Những kẻ
bạc phước ắt chẳng được nghe. Vì sao vậy? Người có
phước đức lớn mới có thể được nghe việc lớn như thế này. Kẻ
tiểu nhân hạ tiện ắt chẳng được nghe. Sao gọi là việc lớn? Đó là tạng rất sâu kín của chư Phật, đó là tánh Phật. Vì nghĩa ấy, cho nên gọi là việc lớn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Vì sao người chưa
phát tâm Bồ-đề có thể tạo nhân Bồ-đề?”
Phật dạy: “Như ai có nghe kinh Đại Niết-bàn này rồi nói rằng mình chẳng cần
phát tâm Bồ-đề, và
phỉ báng Chánh pháp.
Tức thời người ấy đến đêm
nằm ngủ mộng thấy
hình tượng La-sát, trong lòng kinh sợ. La-sát nói với người ấy rằng: ‘Này
thiện nam tử! Nay nếu ông chẳng
phát tâm Bồ-đề, tôi sẽ lấy mạng ông.’ Người ấy hoảng sợ, khi
tỉnh giấc liền
phát tâm Bồ-đề. Người ấy sau khi
mạng chung, nếu ở trong
Ba đường dữ[216] cũng như ở các
cõi trời, người, vẫn
tiếp tục nhớ tưởng tâm Bồ-đề. Nên biết rằng đó là bậc
Đại Bồ Tát ma-ha-tát. Vì nghĩa ấy, sức
oai thần của kinh Đại Niết-bàn này có thể khiến người chưa
phát tâm Bồ-đề tạo nên nhân Bồ-đề.
“Thiện nam tử! Đó gọi là
nhân duyên phát tâm của
Bồ Tát, chẳng phải không có
nhân duyên. Vì nghĩa ấy,
kinh điển Đại thừa mầu nhiệm này
quả thật là do
Phật thuyết dạy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như giữa
hư không, khi kéo mây mưa lớn thì nước mưa trút xuống mặt đất. Trên những cây khô, núi đá, gò nổng, cao nguyên... nước chẳng đọng lại mà chảy dồn xuống nơi ruộng vườn, ao hồ, làm cho đầy tràn,
lợi ích vô lượng chúng sanh.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng như vậy đó, tưới trận mưa pháp lớn,
thấm nhuần khắp
chúng sanh.
“Nhưng kẻ nhất-xiển-đề mà
phát tâm Bồ-đề là việc không thể có! Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như hạt giống đã hư hỏng, dù gặp mưa xuống
cho đến trăm, ngàn,
vạn kiếp cũng không thể nảy mầm. Nếu mầm sanh ra được, đó là việc không thể có.
“Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, dù có được nghe
kinh điển vi diệu Đại Bát Niết-bàn này, cũng không hề nảy sanh cái mầm tâm Bồ-đề. Nếu họ nảy sanh ra được, đó là việc không thể có! Vì sao vậy? Những người ấy đã dứt mất hết thảy căn lành, như
hạt giống đã hư hỏng, không thể nảy sanh những mầm rễ là tâm Bồ-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như hạt
minh châu đặt vào chỗ nước đục. Nhờ
năng lực của hạt châu, nước liền lắng trong. Nhưng nếu ném xuống chỗ
bùn lầy, hạt châu cũng không thể làm cho
bùn lầy trở nên
trong sạch.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, đối với những
chúng sanh phạm Năm tội
vô gián cùng
Bốn giới cấm nặng, cũng như nước đục, còn có thể lắng trong, [khiến họ]
phát tâm Bồ-đề. Nhưng đối với
bùn lầy như những kẻ nhất-xiển-đề, dù
cho đến trăm ngàn vạn năm cũng không thể làm cho
trong sạch,
phát tâm Bồ-đề. Vì sao vậy? Những kẻ nhất-xiển-đề này đã dứt hết căn lành, không thể đón nhận
giáo pháp.
Ví như họ được nghe kinh Đại Niết-bàn này trong trăm ngàn vạn năm, rốt cùng cũng không thể
phát tâm Bồ-đề. Vì sao vậy? Vì chẳng có tâm lành.
“Thiện nam tử!
Ví như có loại cây thuốc gọi là cây thuốc chúa,
vượt trội hơn hết trong tất cả
các loại thuốc. Nếu đem hòa với kem sữa, hoặc với mật, với bơ, với nước, với sữa, làm thành thuốc tán, thuốc hoàn, rồi bôi những chỗ ghẻ, xông mình, thoa mắt... khi nhìn thấy hoặc ngửi mùi [thuốc ấy] đều có thể trừ được hết thảy bệnh tật của
chúng sanh. Nhưng cây thuốc ấy chẳng hề nghĩ rằng: ‘Tất cả
chúng sanh, như ai muốn lấy rễ của ta thì chẳng nên lấy lá, như lấy lá thì đừng lấy rễ. Như ai lấy thân ta thì chẳng nên lấy vỏ, như lấy vỏ thì đừng lấy thân.’ Tuy cây ấy chẳng khởi cái
ý nghĩ như vậy, nhưng nó có thể
trừ diệt tất cả
bệnh khổ.
“Thiện nam tử!
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể dứt trừ tất cả
nghiệp ác của
chúng sanh, như bốn tội ba-la-di, năm tội
vô gián, mọi điều ác của người ta, dù là ở trong hay ở ngoài. Những ai chưa
phát tâm Bồ-đề, nhân đây liền
phát tâm. Vì sao vậy? Vì
kinh điển vi diệu này là vua trong các kinh, cũng như cây thuốc kia là vua trong các cây thuốc. Dù ai có
tu tập kinh Đại Niết-bàn này hay là chẳng tu, nhưng nếu
nghe được danh hiệu của kinh này rồi đem lòng kính tin, thì người ấy dù có bao nhiêu
phiền não trọng bệnh cũng đều trừ hết. Chỉ là không thể làm cho những kẻ nhất-xiển-đề ở yên nơi
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Ví như món thuốc hay kia, dù trị được mọi thứ bệnh nặng, nhưng không thể chữa trị cho những kẻ
nhất định phải chết.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người có ghẻ nơi bàn tay, cầm nắm thuốc độc, chất độc liền theo chỗ ghẻ mà vào trong người.
Nếu không có ghẻ thì chất độc chẳng thể vào. Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, họ không có nhân Bồ-đề, cũng như người không có ghẻ, chất
độc không vào được. Ghẻ đó là ví cho
nhân duyên Bồ-đề
vô thượng. Chất độc đó là ví cho thuốc hay bậc nhất. Người không có ghẻ đó là ví cho kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như kim cang, không gì có thể
phá hoại nó được, nhưng nó lại có thể
phá hoại tất cả
mọi vật, chỉ
trừ ra mu rùa và sừng dê trắng.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể đặt yên
vô lượng chúng sanh nơi đạo Bồ-đề, duy không thể khiến cho kẻ nhất-xiển-đề tạo
lập nhân Bồ-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như loài cỏ răng ngựa, cây ta-la-sí, cây ni-ca-la, dù cho chặt đứt thân cây vẫn
tiếp tục mọc lên như cũ, không phải như cây đa-la, bị chặt rồi thì không mọc lại được.
Chúng sanh cũng vậy, nếu được nghe kinh Đại Niết-bàn, dù cho có phạm
Bốn giới cấm nặng cùng Năm tội
vô gián vẫn có thể phát
sanh nhân duyên Bồ-đề. Những kẻ nhất-xiển-đề không phải như vậy, dù có được nghe
kinh điển mầu nhiệm này cũng không thể phát
sanh nhân duyên đạo Bồ-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như cây khư-đà-la, cây trấn-đầu-ca, nếu bị chặt ngang rồi chì chẳng mọc lên được nữa, cũng như những
hạt giống đã bị hư hỏng. Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, dù có được nghe kinh Đại Niết-bàn này nhưng vẫn không thể phát
sanh nhân duyên Bồ-đề, như những
hạt giống bị hư hỏng.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như mưa lớn, nước chẳng đọng lại giữa không trung.
Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng vậy, rưới cơn mưa pháp xuống khắp nơi, nhưng nước mưa pháp ấy chẳng đọng lại được nơi kẻ nhất-xiển-đề. Kẻ nhất-xiển-đề ấy
toàn thể kín chặt,
ví như kim cang không cho vật thể bên ngoài
xen vào.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có thuyết kệ:
“Chẳng thấy thiện không làm,
Chỉ thấy ác nên làm,
Chỗ ấy là
đáng sợ,
Như đường hiểm xấu ác.”
“Bạch Thế Tôn!
Bài kệ đó có nghĩa thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chẳng thấy, đó là chẳng thấy tánh Phật. Thiện, tức là
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Chẳng làm, nghĩa là không gần gũi bạn hiền. Chỉ thấy, là thấy không có
nhân quả. Ác, nghĩa là
phỉ báng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Nên làm, là kẻ nhất-xiển-đề nói không có
kinh Phương đẳng. Vì nghĩa ấy cho nên kẻ nhất-xiển-đề không có lòng hướng về
thiện pháp thanh tịnh.
Thiện pháp là gì? Đó là Niết-bàn. Người hướng đến Niết-bàn là người có thể
tu tập các hạnh hiền thiện. Nhưng kẻ nhất-xiển-đề không có hạnh hiền thiện.
Vì vậy, kẻ ấy không thể hướng đến Niết-bàn. Chỗ ấy là
đáng sợ, đó là nói sự
phỉ báng Chánh pháp. Những ai nên sợ? Là những người có
trí tuệ. Vì sao vậy? Vì kẻ
phỉ báng Chánh pháp thì không có
thiện tâm và không có
phương tiện. Đường hiểm xấu ác, đó là nói các hành.”
Ca-diếp lại
bạch Phật: “Như Phật có thuyết kệ:
“Sao biết việc đã làm?
Làm sao được pháp lành?
Ở đâu không sợ sệt,
Như đường lớn vua đi?”
“Ý nghĩa
bài kệ này như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Biết
việc đã làm, nghĩa là bày tỏ,
phát lộ các điều ác.
Trải qua bao đời
sanh tử đã làm các điều ác, nay bày tỏ
phát lộ tất cả,
cho đến chỗ không
cùng tận. Vì nghĩa ấy, ở chỗ ấy là không sợ sệt.
Ví như một vị vua, khi dạo chơi trên đường thì bọn trộm cướp ở đó đều
chạy trốn hết.
Phát lộ như
vậy thì các điều ác sẽ dứt tuyệt. Lại nữa, không biết
việc đã làm là nói kẻ nhất-xiển-đề đã làm mọi điều ác nhưng chẳng thấy việc họ đã làm. Đó là lòng
kiêu mạn của kẻ nhất-xiển-đề. Tuy họ làm nhiều việc ác, nhưng đối với những việc ấy không hề sợ sệt.
Vì lẽ ấy nên họ không thể
chứng đắc Niết-bàn,
ví như những con khỉ bắt lấy
mặt trăng dưới nước.
“Thiện nam tử!
Ví như có
vô lượng chúng sanh cùng lúc đạt được quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, các
đức Như Lai cũng không thấy kẻ nhất-xiển-đề kia
thành đạo Bồ-đề. Vì nghĩa ấy, nên gọi là không biết
việc đã làm. Lại nữa, không biết việc của ai đã làm? Đó là không thấy biết những việc mà Phật đã làm. Phật vì
chúng sanh thuyết dạy có tánh Phật. Những kẻ nhất-xiển-đề lăn lộn
trong vòng sanh tử, không thể thấy biết. Vì nghĩa ấy nên gọi là chẳng thấy những việc mà Phật đã làm. Lại nữa, kẻ nhất-xiển-đề thấy
Như Lai buông bỏ tất cả mà vào Niết-bàn, bèn cho rằng đó thật là
vô thường, như dù hết thì đèn phải tắt. Vì sao vậy? Vì
nghiệp ác của kẻ ấy chẳng hề
giảm bớt chút nào. Như có các vị
Bồ Tát tạo những
nghiệp lành,
hồi hướng về quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tuy những kẻ nhất-xiển-đề chê bai,
phá hoại, chẳng tin, nhưng các vị
Bồ Tát vẫn
bố thí cho họ, muốn họ cùng được
thành đạo vô thượng. Vì sao vậy? Vì pháp của chư Phật là như thế!
“Làm ác, chẳng thọ liền,
Như sữa thành ra kem.
Như tro che phủ lửa,
Kẻ ngu khinh dể đạp.”
“Nhất-xiển-đề, gọi là không có mắt, nên không thấy
con đường của bậc A-la-hán; như bậc A-la-hán thì chẳng
đi theo đường
sanh tử hiểm ác. Vì không có mắt nên
phỉ báng kinh Phương đẳng, chẳng muốn
tu tập; như bậc A-la-hán thì
chuyên cần tu tập tâm từ. Những kẻ nhất-xiển-đề lại không
tu tập kinh Phương đẳng như vậy.
“Như có người nói: ‘Nay tôi chẳng tin
kinh điển Thanh văn, chỉ tin nhận
Đại thừa,
đọc tụng, giảng nói; nên tôi chính là
Bồ Tát. Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Vì có tánh Phật nên trong thân
chúng sanh có đủ mười sức,
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Chỗ tôi thuyết dạy cũng chẳng khác gì
Phật thuyết. Nay ông và tôi cùng phá
vô lượng phiền não độc dữ,
ví như người ta đập bể cái bình đựng nước. Phá xong các mối
trói buộc ấy rồi[217] tất sẽ được thấy
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Tuy kẻ ấy giảng nói như vậy, nhưng
tự tâm lại chẳng tin rằng mình có tánh Phật. Chỉ vì
lợi dưỡng nên theo những gì được nghe mà nói lại thế thôi. Kẻ
giảng thuyết như vậy gọi là
ác nhân. Nhưng kẻ ác ấy không thọ nhận
quả báo nhanh chóng như là sữa
biến thành kem.
“Ví như vị
sứ giả của vua, có tài
đàm luận, khéo léo về
phương tiện,
vâng lệnh đến nước khác. Thà chịu
mất mạng chứ không quên nói những điều vua đã căn dặn. Người có
trí tuệ cũng thế, ở giữa những người
phàm phu, không tiếc
thân mạng, chỉ cốt
tuyên thuyết cho được
kinh Đại thừa Phương đẳng, tạng sâu kín của
Như Lai: ‘Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật.’
“Thiện nam tử! Có những kẻ nhất-xiển-đề giả hình dạng như A-la-hán, ở nơi trống trải vắng vẻ mà
phỉ báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa. Những kẻ
phàm phu thấy vậy đều cho rằng họ thật là A-la-hán, là
Đại Bồ Tát ma-ha-tát. Những tỳ-kheo xấu nhất-xiển-đề ấy, ở nơi a-lan-nhã[218] nhưng
phá hoại pháp a-lan-nhã. Thấy người khác được lợi, họ liền sanh lòng
ganh ghét, nói rằng: ‘Những
kinh điển Phương đẳng Đại thừa thảy đều do
thiên ma Ba-tuần thuyết dạy.’ Họ cũng nói rằng: ‘Như Lai là pháp
vô thường.’ Họ hủy diệt
Chánh pháp,
phá hoại Chúng tăng, lại nói rằng: ‘Đó là thuyết của Ba-tuần, chẳng phải thuyết
thuận theo điều lành.’ Họ
tuyên thuyết những pháp tà ác như vậy. Họ làm ác nhưng không chịu
quả báo tức thì, cũng như sữa
hóa thành kem; như đống lửa phủ tro kín, kẻ ngu [không biết nên] khinh dể giẫm lên. Những kẻ như vậy, gọi là nhất-xiển-đề. Cho nên phải biết rằng
kinh điển vi diệu Phương đẳng Đại thừa chắc chắn thanh tịnh,
ví như hạt châu ma-ni,[219] ném vào nước đục thì nước liền lắng trong.
Kinh điển Đại thừa lại cũng như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như hoa sen, khi
ánh nắng soi chiếu thì nở cả ra. Tất cả
chúng sanh lại cũng như vậy, nếu được nghe thấy
mặt trời Đại Niết-bàn, người chưa
phát tâm cũng sẽ
phát tâm, tạo nhân Bồ-đề.
Vì vậy nên ta nói rằng
hào quang của kinh Đại Niết-bàn vào nơi lỗ chân lông rồi ắt tạo
thành nhân duyên
mầu nhiệm. Kẻ nhất-xiển-đề kia, dù có tánh Phật, nhưng bị
vô lượng tội nhơ buộc trói, không thể ra khỏi,
ví như con tằm ở trong cái kén. Vì
nghiệp duyên ấy không thể phát
sanh nhân Bồ-đề
mầu nhiệm, phải xoay chuyển mãi
trong vòng sanh tử, không lúc nào dứt được!
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như những loại
hoa sen ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lỵ[220] thảy đều từ nơi
bùn lầy mà sanh ra, nhưng chẳng hề bị
bùn lầy nhiễm ô.
Chúng sanh tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn lại cũng như vậy, tuy có
phiền não, nhưng rốt cùng chẳng bị
phiền não nhiễm ô. Vì sao vậy? Vì biết được tánh, tướng và lực của
Như Lai.
“Thiện nam tử!
Ví như ở xứ kia
thường có nhiều luồng gió trong lành mát mẽ. Khi gió ấy chạm đến lỗ chân lông của
chúng sanh thì có thể trừ được mọi sự
bứt rứt nóng nảy.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, vào khắp các lỗ chân lông của
chúng sanh, tạo ra
nhân duyên vi diệu Bồ-đề, chỉ trừ đối với những kẻ nhất-xiển-đề. Vì sao vậy? Vì họ chẳng phải là
pháp khí.[221]
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có vị
lương y hiểu rõ tám loại thuốc, trị được tất cả các bệnh, chỉ trừ những kẻ
nhất định phải chết. Các phép
thiền định Tam-muội trong tất cả
khế kinh lại cũng như vậy, có thể trị tất cả các bệnh
phiền não như
tham dục,
sân hận,
ngu si, có thể nhổ bật những mũi tên độc
phiền não, nhưng không trị được những kẻ phạm
Bốn giới cấm nặng và Năm tội
vô gián.
“Thiện nam tử! Lại có một vị
lương y thông thạo cách dùng tám loại thuốc, có thể trừ mọi thứ
bệnh khổ của
chúng sanh, duy không thể trị cho kẻ
nhất định phải chết.[222]
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể
trừ diệt tất cả
phiền não của
chúng sanh, khiến họ trụ yên nơi nhân
mầu nhiệm thanh tịnh của
Như Lai, khiến những kẻ chưa
phát tâm liền được
phát tâm, duy trừ những kẻ
nhất định phải chết là nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như vị
lương y có thể dùng thuốc hay mà trị các người bệnh mù, khiến họ trông thấy được ánh sáng
mặt trời,
mặt trăng,
tinh tú và tất cả
hình sắc,
chỉ không thể trị cho những kẻ mù
bẩm sanh.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, có thể khai
mở mắt huệ cho người trong hàng
Thanh văn,
Duyên giác, khiến họ trụ yên nơi
kinh điển Đại thừa vô lượng vô biên; đối với người chưa
phát tâm, người phạm
Bốn giới cấm nặng, Năm tội
vô gián, đều có thể khiến cho
phát tâm Bồ-đề, duy
trừ ra kẻ mù
bẩm sanh là nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như vị
lương y thông thạo tám phép dùng thuốc, muốn trị tất cả
bệnh khổ của
chúng sanh, bèn dùng đủ mọi phương thuốc như thuốc gây nôn, thuốc xổ, thuốc xoa, thuốc xông hơi, thuốc nhỏ vào mũi, thuốc tán, thuốc hoàn. Như có người ngu không muốn uống thuốc, vị
lương y đem lòng
thương xót liền đưa người ấy về nhà, ép phải uống thuốc. Nhờ sức thuốc nên bệnh được dứt. Như có người đàn bà
đang lúc sanh con nhưng đứa bé chẳng lọt lòng, liền cho uống thuốc. Uống xong liền sanh con được, và đứa con cũng
an ổn không bệnh.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, dù đến nơi nào, vào nhà nào cũng trừ được
vô lượng phiền não của
chúng sanh. Đối với những kẻ chưa
phát tâm, phạm
Bốn giới cấm nặng, Năm tội
vô gián, đều có thể khiến cho
phát tâm, chỉ
trừ ra những kẻ nhất-xiển-đề.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Những kẻ phạm
Bốn giới cấm nặng và Năm tội
vô gián, gọi là phạm những điều ác nặng nhất, như cây đa-la bị chặt đứt ngọn,
vĩnh viễn không mọc
trở lại. Nếu những kẻ ấy chưa
phát tâm Bồ-đề, làm sao có thể khiến họ tạo nhân Bồ-đề?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những
chúng sanh ấy, như trong
giấc mộng thấy mình đọa
địa ngục, chịu các
khổ não, liền sanh lòng
hối hận: ‘Buồn thay cho chúng ta! Tự mình chuốc lấy tội này! Nếu nay tôi được
thoát khỏi tội này,
nhất định sẽ
phát tâm Bồ-đề. Nay tự mắt tôi nhìn thấy, thật là nguy khổ quá mức!’ Sau khi
tỉnh mộng, những kẻ ấy liền biết
Chánh pháp, được
quả báo lớn.
“Như đứa trẻ kia,
dần dần lớn lên thường
suy nghĩ rằng: ‘Vị thầy thuốc ấy rất hay,
hiểu rõ các phương thuốc. Khi ta còn ở trong thai, ông ấy cho mẹ ta uống thuốc. Nhờ thuốc ấy, mẹ ta được
an ổn. Nhờ
nhân duyên ấy ta được toàn mạng. Lạ thay cho mẹ ta! Bà chịu
khổ não lớn, mang ta trong thai trọn đủ mười tháng. Sau khi sanh
ta ra rồi, bà đặt ta ở chỗ khô, tự bà nằm chỗ ướt, dọn bỏ những chất đại
tiểu tiện dơ dáy của ta, cho ta bú mớm,
nuôi dưỡng ta, chăm sóc ta.
Vì lẽ ấy, ta phải
báo ân,
hết lòng nuôi mẹ, hầu hạ đêm ngày,
tùy thuận phụng dưỡng.” Những kẻ phạm
Bốn giới cấm nặng và Năm tội
vô gián, đến lúc
lâm chung, nếu họ nhớ tới
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này, dù có phải đọa
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ hay sanh lên
cõi trời,
cõi người,
kinh điển này đều sẽ tạo nhân Bồ-đề cho họ, chỉ trừ bọn nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có vị
lương y và người con của ông đều
hiểu biết sâu sắc, giỏi hơn các vị
lương y khác,
thông thạo chú thuật vô thượng trừ độc. Như có
rắn độc, rồng hay bò cạp, họ liền dùng
chú thuật, niệm chú vào thuốc làm cho chúng trở nên
hiền lành. Nếu dùng thuốc ấy mà bôi lên giày da, khi giày ấy chạm phải trùng độc thì chất độc
tiêu tan, duy trừ một thứ độc gọi là nọc rồng lớn.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, như có
chúng sanh phạm
Bốn giới cấm nặng, Năm tội
vô gián, kinh này có thể
tiêu diệt tội báo, khiến các
chúng sanh ấy trụ yên nơi Bồ-đề, cũng như thuốc bôi ở giày da làm tiêu các thứ độc. Đối với những
chúng sanh chưa
phát tâm, kinh này liền khiến cho
phát tâm và trụ yên nơi đạo Bồ-đề. Món thuốc
oai thần kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này có
thể diệt trừ các độc, khiến
chúng sanh được an vui,
chỉ không trừ được một thứ độc nọc rồng lớn: đó là những kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có người kia, đem món thuốc độc còn mới, bôi lên một cái trống lớn, rồi đánh trống ấy lên giữa đám đông người.
Mọi người tuy vô tình nghe tiếng trống ấy nhưng đều phải chết, chỉ trừ một người, là không thể chết đột ngột.
Kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, bất kỳ ở nơi đâu, giữa các
chúng sanh, có ai nghe tiếng
giảng kinh này thì các
tham dục,
sân khuể,
ngu si thảy đều
tiêu diệt. Trong đó tuy có người vô tình mà
nghĩ tưởng đến kinh Đại Niết-bàn này, nhờ sức
nhân duyên ấy
vẫn có thể
trừ diệt phiền não, làm cho các mối
trói buộc phải tự tan biến.
Cho đến những kẻ phạm
Bốn giới cấm nặng và Năm tội
vô gián, khi nghe kinh này rồi cũng tạo ra được
nhân duyên Bồ-đề
vô thượng,
dần dần sẽ dứt hết
phiền não, chỉ trừ kẻ không thể chết đột ngột là hạng nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như đêm tối, tất cả mọi công việc thảy đều ngừng nghỉ. Nếu công việc nào chưa xong, phải chờ đến trời sáng. Người học
Đại thừa, tuy tu tất cả pháp
thiền định trong
Khế kinh, nhưng phải chờ đợi
mặt trời Đại thừa Đại Niết-bàn, nghe
giáo lý sâu kín của
Như Lai, rồi mới có thể tạo nghiệp Bồ-đề, trụ yên nơi
Chánh pháp.
Ví như trời mưa
thấm nhuần và làm
nảy nở tất cả các
hạt giống lớn lên kết thành trái ngọt, trừ dứt nạn đói,
mọi người được no đủ,
vui vẻ. Mưa pháp
vô lượng của tạng
Như Lai sâu kín cũng vậy, có thể trừ được
tám thứ bệnh nhiệt.[223] Kinh này ra đời,
ví như trái cây kia, có nhiều
lợi ích, làm cho tất cả được
an lạc, khiến
chúng sanh thấy được tánh Phật, như trong hội
Pháp hoa có tám ngàn
Thanh văn riêng được
Phật thọ ký, sẽ được quả lớn.
“Ví như
mùa thu thâu hoạch,
mùa đông chứa trữ, rồi không còn công việc
gì nữa cả. Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, đối với các pháp lành họ chẳng có công việc gì để làm nữa cả.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như một vị
lương y, nghe có con nhà kia bị loài
phi nhân[224] bắt, bèn lấy thuốc hay rồi
sai bảo một người rằng: ‘Ông mau đem thuốc này cho người ấy. Nếu người ấy gặp các
quỷ thần dữ, nhờ sức thuốc này chúng sẽ
lánh xa. Nếu ông
chậm trễ, tôi sẽ tự đi, chớ nên để người ấy phải chết
uổng mạng. Nếu bệnh nhân ấy được thấy
sứ giả và
oai đức của tôi, thì liền dứt được
khổ não,
vui vẻ an ổn.’
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy. Nếu trong hàng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng các
ngoại đạo, có những người
đủ sức thọ trì kinh điển này,
đọc tụng thông thạo, lại vì người khác
phân biệt giảng rộng,
như tự mình sao chép hay nhờ người khác sao chép, thì những người ấy đều tạo ra
nhân duyên Bồ-đề. Như những kẻ phạm Bốn
giới cấm,
Năm tội nghịch, hoặc bị tà quỉ
độc ác bắt giữ, nếu
nghe được kinh điển này thì tất cả những điều ác đều
tiêu diệt, cũng như
tà ma ác quỷ khi gặp
lương y liền phải tránh xa. Nên biết rằng những người ấy thật là
Đại Bồ Tát. Vì sao vậy? Nhờ được nghe kinh Đại Niết-bàn này trong chốt lát, lại sanh ra
ý tưởng Như Lai là thường tồn.
“Được nghe kinh này trong chốc lát còn như vậy, huống chi là sao chép,
thọ trì, đọc tụng? [Cho nên những người được nghe kinh này], chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề, còn lại đều là
Đại Bồ Tát.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như những kẻ điếc chẳng
nghe được âm thanh. Những kẻ nhất-xiển-đề cũng vậy, dù muốn lắng nghe
kinh điển vi diệu này cũng không
nghe được. Vì sao vậy? Vì bị điếc vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như một vị
lương y thông đạt hết các phương thuốc, lại thêm biết rộng
vô số chú thuật. Vị
lương y ấy đến gặp vua, tâu rằng: ‘Đại vương! Nay ngài đang có bệnh phải chết.’ Vua đáp rằng: ‘Khanh chẳng thấy được những gì trong bụng trẫm, làm sao nói rằng trẫm có bệnh phải chết?’
Lương y đáp: ‘Như ngài không tin, vậy nên uống thuốc xổ. Sau khi xổ ra rồi, tự ngài sẽ thấy biết.’ Vua không chịu uống thuốc xổ.
Lúc ấy, vị
lương y dùng sức chú thuật, khiến hậu môn của vua lở lói, lại có cả trùng và máu lẫn theo ra khi vua đi tiêu. Thấy vậy rồi, vua lấy làm khiếp sợ, khen ngợi vị
lương y ấy rằng: ‘Giỏi thay, giỏi thay! Trước khanh đã nói, nhưng trẫm không tin. Nay mới biết khanh làm chuyện
lợi ích lớn cho thân trẫm đây vậy.” Vua liền
cung kính vị
lương y dường như
cha mẹ.
“Kinh điển
Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, đối với các
chúng sanh, dù có
tham dục hay không
tham dục, kinh này có thể làm cho
phiền não của họ đều rơi rụng. Các
chúng sanh ấy,
cho đến trong
giấc mộng được thấy kinh này, thảy đều
cung kính cúng dường, cũng như vị vua kia
cung kính vị
lương y. Vị đại
lương y ấy, khi biết người bệnh
nhất định phải chết thì không
điều trị.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, không trị được những kẻ nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như lương y thông thạo tám phép dùng thuốc ắt có thể liệu trị hết thảy các bệnh,
chỉ không thể trị cho kẻ
nhất định phải chết. Chư Phật và chư
Bồ Tát cũng vậy, có thể
cứu độ cho hết thảy những người có tội,
chỉ không cứu được những kẻ
nhất định phải chết là nhất-xiển-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như vị
lương y thông thạo tám
phép mầu nhiệm trong sách thuốc, lại còn
hiểu biết rộng hơn cả tám phép ấy nữa. Trước hết, ông đem sự
hiểu biết của mình mà dạy cho con, khiến con biết rõ tất cả mọi thứ cây thuốc trên cạn,
dưới nước hoặc ở nơi
núi rừng. Cứ như vậy, ông
dần dần dạy cho con đủ tám phép trị bệnh, sau đó lại dạy đến những
phương thuật khác
mầu nhiệm và cao trổi hơn hết.
“Đức
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri cũng vậy, trước hết ngài dạy cho con là các vị tỳ-kheo về
phương tiện dứt trừ tất cả
phiền não,
tu học quán tưởng toàn thân vốn không
bền vững, đó là
ví như dưới nước, trên cạn, hoặc ở nơi
núi rừng.
Dưới nước là ví thân chịu khổ [
mong manh] như bọt nước. Trên cạn là ví thân chẳng
bền vững như thân cây chuối. Ở nơi
núi rừng là
ví như ở trong
phiền não mà
tu tập phép tưởng
vô ngã. Vì nghĩa ấy, thân được gọi là
vô ngã. Như vậy,
Như Lai dần dần dạy cho các
đệ tử giáo pháp chín bộ kinh, khiến cho
thông thuộc rõ biết. Kế đó, ngài mới dạy về tạng
Như Lai sâu kín. Ngài thuyết cho các
đệ tử nghe: ‘Như Lai là thường tồn.’ Như vậy,
Như Lai thuyết
Đại thừa Điển Đại
Niết-bàn Kinh, ngài tạo nhân Bồ-đề cho các
chúng sanh đã
phát tâm hoặc chưa
phát tâm, chỉ trừ bọn nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử!
Kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này là
vô lượng vô số như vậy, không thể nghĩ bàn, chưa từng có! Nên biết rằng kinh này là vị
lương y cao trổi hơn hết, đáng
tôn trọng nhất,
đứng đầu trong tất cả
kinh điển.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như một chiếc thuyền lớn từ bờ biển bên này lướt sang bờ biển bên kia, lại từ bờ biển bên kia
trở về bờ biển bên này.
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri lại cũng như vậy, ngài nương chiếc thuyền quý
Đại thừa Đại Niết-bàn, đi qua lại mà
cứu độ chúng sanh. Bất kỳ ở đâu, hễ có những
chúng sanh có thể
cứu độ, ngài đều khiến cho họ được thấy thân
Như Lai. Vì nghĩa ấy,
Như Lai được xưng là vị
thuyền sư[225] cao trổi hơn hết. Cũng giống như khi có thuyền tất phải có
thuyền sư, đã có
thuyền sư tất phải có những
chúng sanh vượt biển.
Như Lai thường trụ,
hóa độ chúng sanh lại cũng như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có người ở giữa biển cả, dùng thuyền [buồm] vượt biển. Nếu được gió thuận, trong chốc lát có thể đi được
vô số do-tuần.
Nếu không có gió, dù bao nhiêu năm cũng chẳng rời khỏi
vị trí ban đầu. Đến lúc thuyền hư hoại, sẽ bị chìm xuống nước mà chết.
Chúng sanh cũng vậy, ở giữa biển lớn
sanh tử ngu si, nương theo thuyền “các hành”. Nếu gặp được luồng gió Đại Bát Niết-bàn mạnh mẽ, ắt sẽ mau tới bờ
đạo pháp Vô thượng.
Nếu không gặp gió, ắt sẽ
lưu chuyển lâu dài trong
vô lượng sanh tử. Rồi khi thuyền “các hành” tan rã, sẽ đọa vào
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có những người không gặp được gió lớn, phải ở lâu giữa biển cả, bèn tự nghĩ rằng: ‘Nay
chúng ta chắc phải chết tại đây.’
Đang khi nghĩ như
vậy thì bỗng gặp luồng gió thuận, liền theo đó mà vượt biển. Họ lại nói rằng: ‘Vui thích thay, ngọn gió này thật chưa từng có! Giúp
chúng ta yên ổn qua khỏi được
tai nạn giữa biển cả.’
Chúng sanh cũng vậy, ở lâu trong biển cả
sanh tử ngu si, khốn khổ cùng lụy. Trong khi chưa gặp cơn gió Đại Niết-bàn này, hẳn phải nghĩ rằng: ‘Chúng ta
chắc chắn sẽ phải đọa vào
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.’
Đang khi nghĩ như
vậy thì bỗng gặp luồng gió
Đại thừa Đại Niết-bàn, liền
thuận theo gió mà đi, vào được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mới biết là
chân thật, phát sanh
ý tưởng cho là kỳ lạ, khen ngợi rằng: ‘Vui thích thay!
Chúng ta chắc chắn sẽ phải đọa vào
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.’
Đang khi nghĩ như
vậy thì bỗng gặp luồng gió
Đại thừa Đại Niết-bàn, liền
thuận theo gió mà đi, vào được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mới biết là
chân thật, phát sanh
ý tưởng cho là kỳ lạ, khen ngợi rằng: ‘Vui thích thay!
Chúng ta từ
xưa nay chưa từng nghe thấy tạng sâu kín như thế này của
Như Lai.”
Lúc ấy họ liền phát sanh
lòng tin trong sạch đối với kinh Đại Niết-bàn này.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như con rắn lột da, có chết mất chăng?”
“Bạch
Thế Tôn, không.”
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, ngài dùng
phương tiện thị hiện xả bỏ
thân độc dữ. Có thể nói rằng
Như Lai là
vô thường, diệt mất chăng?”
“Bạch
Thế Tôn, không thể.”
“Trong cõi Diêm-phù-đề này,
Như Lai dùng
phương tiện mà xả bỏ xác thân, cũng như con rắn kia lột bỏ bộ da cũ. Cho nên
Như Lai gọi là
thường trụ.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người thợ vàng gặp được loại
vàng ròng tốt,
tùy ý làm ra đủ món đồ dùng.
Như Lai cũng vậy, ở trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu, ngài có thể
thị hiện mọi thứ
sắc thân, vì muốn
giáo hóa chúng sanh vượt
thoát khỏi sanh tử. Cho nên
Như Lai gọi là thân
không giới hạn. Tuy ngài
thị hiện đủ mọi
thân hình, nhưng vẫn gọi là
thường trụ, không
biến đổi.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như cây am-la và cây
diêm phù, mỗi năm thay đổi ba lần: trong khi nở hoa màu sắc sáng lên
rực rỡ, lúc đâm chồi lá xanh um rậm rạp, vào mùa rụng lá lại trông giống như khô chết.
“Thiện nam tử! Ý ông thế nào? Cây ấy có thật là khô chết hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không phải.”
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng vậy, ở trong
Ba cõi ngài
thị hiện ba loại thân: có khi sơ sinh, có lúc
trưởng thành, đến lúc lại vào Niết-bàn. Nhưng thân
Như Lai thật chẳng phải là
vô thường.”
Bồ Tát Ca-diếp khen rằng: “Lành thay,
lành thay! Đúng như
lời Phật dạy,
Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN CHÍN
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN MƯỜI
PHẨM TÁNH
NHƯ LAIPhẩm thứ tư – Phần bảy
Thiện nam tử! Lời sâu kín của
Như Lai rất
sâu xa, khó hiểu.
Ví như vị
đại vương bảo quần thần: ‘Đem tiên-đà-bà[226] đến đây.’ Chỉ một tiếng tiên-đà-bà mà có bốn nghĩa: một là muối, hai là cái bát, ba là nước, bốn là ngựa. Bốn món ấy đều gọi cùng một tên.
Vị quan có
trí tuệ khéo hiểu được tiếng ấy. Như khi vua tắm rửa, gọi tiên-đà-bà thì dâng nước. Như khi vua dùng cơm, gọi tiên-đà-bà thì dâng muối. Khi vua ăn xong muốn uống nước, gọi tiên-đà-bà thì dâng bát. Khi vua muốn dạo chơi, gọi tiên-đà-bà thì dâng ngựa. Như vậy,
vị quan có
trí tuệ khéo hiểu được bốn cách nói sâu kín của
đại vương.
“Kinh
Đại thừa này cũng vậy, có đủ bốn lẽ
vô thường...[227]
Vị quan Đại thừa có
trí tuệ phải khéo hiểu được bốn lẽ ấy. Như khi Phật ra đời, vì
chúng sanh thuyết giảng Niết-bàn của
Như Lai, người có
trí tuệ nên biết rằng đó là
Như Lai vì những kẻ chấp
lẽ thường còn nên mới thuyết dạy
tư tưởng vô thường, khiến các vị tỳ-kheo
tu tập phép
quán tưởng vô thường.
“Hoặc khi Phật lại dạy: ‘Chánh pháp sắp diệt.’ Người có
trí tuệ nên biết rằng đó là
Như Lai vì những kẻ chấp lẽ vui thú nên thuyết dạy
tư tưởng khổ, khiến các vị tỳ-kheo thường tu phép quán khổ.
“Hoặc khi Phật lại dạy: ‘Nay ta
bệnh khổ,
Chúng tăng bị
phá hoại.’ Người có
trí tuệ nên biết rằng đó là
Như Lai vì những kẻ
chấp ngã nên thuyết dạy
tư tưởng vô ngã, khiến các vị tỳ-kheo
tu tập phép
quán vô ngã.
“Hoặc khi Phật lại dạy: ‘Cái gọi là không đó chính là
giải thoát chân chánh. Người có
trí tuệ nên biết rằng đó là
Như Lai nói
giải thoát chân chánh không có
Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu, khiến các vị tỳ-kheo
tu học phép
quán không. Vì nghĩa ấy,
giải thoát chân chánh gọi là không, cũng gọi là chẳng động. Gọi là chẳng động, đó là trong
giải thoát không có
khổ não. Cho nên chẳng
động tức là
giải thoát chân chánh, không có
hình tướng. Gọi là không có
hình tướng, nghĩa là không có
các loại hình sắc,
âm thanh, hương vị, xúc cảm. Cho nên gọi là không
hình tướng.
Giải thoát chân chánh thường tồn không
biến đổi. Trong
giải thoát ấy không có sự
vô thường,
nóng bức,
biến đổi. Cho nên
giải thoát chân chánh gọi là
thường trụ, không
biến đổi, trong mát.
“Có khi Phật lại dạy: ‘Tất cả
chúng sanh đều có tánh
Như Lai.’ Người có
trí tuệ nên biết rằng đó là
Như Lai thuyết dạy
pháp thường tồn, khiến các vị tỳ-kheo
tu pháp thường chân chánh. Nếu các vị tỳ-kheo có thể
thuận theo đó mà
tu học, nên biết rằng những người ấy thật là
đệ tử của ta, khéo biết rõ tạng sâu kín của
Như Lai, như
vị quan có
trí tuệ của
đại vương kia
hiểu rõ được ý vua.
“Thiện nam tử! Như vị vua ấy còn có lời sâu kín, huống chi
Như Lai lại chẳng có sao?
Thiện nam tử! Cho nên
giáo pháp sâu kín của
Như Lai thật khó rõ biết được. Chỉ những người có
trí tuệ mới có thể hiểu được pháp Phật rất
thâm sâu, chẳng phải hạng
phàm phu ở
thế gian có thể
đủ sức tin nhận.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như cây ba-la-xa, cây ca-ni-ca, cây a-thúc-ca, gặp khi nắng hạn chẳng sanh hoa trái.
Cho đến các loài vật khác trên cạn
dưới nước cũng đều khô héo, xác xơ, không được
thấm nhuần ướt át, không thể
tăng trưởng. Tất cả
các loại cây thuốc đều không còn
hiệu nghiệm.
“Thiện nam tử!
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy. Sau khi ta
diệt độ, nếu có những
chúng sanh không chịu
cung kính thì kinh này không có
oai đức. Vì sao vậy? Vì các
chúng sanh ấy không biết được tạng sâu kín của
Như Lai. Vì sao vậy? Vì các
chúng sanh ấy kém
phước đức.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Khi
Chánh pháp Như Lai sắp diệt mất, bấy giờ sẽ có nhiều tỳ-kheo làm điều xấu ác, không rõ biết tạng sâu kín của
Như Lai, lười nhác
chậm chạp, không thể
đọc tụng,
tuyên dương,
phân biệt Chánh pháp của
Như Lai.
Ví như kẻ trộm cướp
ngu si, vất bỏ những món
quý báu, lại đi
gánh vác cỏ rơm! Vì họ chẳng hiểu tạng sâu kín của
Như Lai, cho nên đối với kinh này lười nhác chẳng siêng năng. Thật nguy hiểm đáng thương thay! Đời
vị lai đáng lo sợ thay! Khổ thay cho
chúng sanh, không siêng năng nghe và
thọ trì kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này. Chỉ có các vị
Đại Bồ Tát mới có thể đối với kinh này nắm được
nghĩa lý chân thật, không
trói buộc nơi
văn tự,
tùy thuận không trái nghịch, vì
chúng sanh mà
thuyết giảng.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như cô gái chăn bò kia muốn bán sữa, vì
tham lợi nên thêm vào hai phần nước, rồi bán cho cô chăn bò khác. Cô này mua được sữa rồi lại thêm vào hai phần nước nữa, đem bán cho một cô gái ở gần thành. Mua sữa rồi, cô gái ở gần thành lại thêm vào hai phần nước, rồi đem bán cho cô gái ở trong thành. Cô gái ở trong thành mua sữa rồi lại thêm vào hai phần nước, kế đem ra chợ bán.
Lúc ấy, có một người cưới vợ cho con, cần loại sữa tốt để đãi khách liền đến chơ để mua, nhưng cô gái bán sữa ấy đòi giá đắt hơn gấp nhiều lần. Người ấy nói rằng: ‘Sữa của cô pha nhiều nước, chẳng đúng như
lời hứa của cô. Nhưng ngay hôm nay tôi cần đãi khách nên mới mua.” Người ấy nhận lấy sữa, về nhà nấu thành món cháo sữa nhưng nếm chẳng có vị sữa. Tuy chẳng có vị sữa, nhưng so với
vị đắng thì vẫn hơn cả nghìn lần. Vì sao vậy? Vì vị sữa là hơn hết trong tất cả các
mùi vị.
“Thiện nam tử! Sau khi ta vào Niết-bàn, lúc
Chánh Pháp chưa dứt, còn khoảng tám mươi năm, bấy giờ ở cõi Diêm-phù-đề kinh này sẽ được
lưu truyền khắp nơi.
Lúc ấy có những tỳ-kheo xấu ác cướp lấy kinh này rồi chia ra nhiều phần, có thể làm mất đi màu sắc, hương thơm và vị ngon của
Chánh pháp. Những kẻ xấu ác ấy, tuy cũng
đọc tụng kinh điển này, nhưng làm mất đi
nghĩa lý cốt yếu sâu kín của
Như Lai, đưa vào những lời lẽ
hoa mỹ vô nghĩa của
thế gian. Họ chép đoạn trước ra sau, đoạn sau ra trước, rồi lại chép đoạn trước và đoạn sau vào giữa, chép đoạn giữa vào nơi đoạn trước và đoạn sau. Nên biết rằng các tỳ-kheo xấu ấy là bạn hữu của ma. Họ thâu nhận và chứa trữ
mọi vật bất tịnh, nói rằng: ‘Như Lai có
cho phép tôi chứa trữ tất cả.’ Như cô gái chăn bò kia pha thêm nhiều nước vào sữa, các tỳ-kheo xấu ác cũng vậy, họ
pha lẫn những lời
thế tục làm
sai lầm [
ý nghĩa] kinh này, khiến nhiều
chúng sanh chẳng nhận được sự thuyết dạy chân chánh, chẳng có được bản chép kinh chân chánh, cũng chẳng được nhận giữ kinh này một cách chân chánh để
tôn trọng,
ngợi khen,
cúng dường cung kính. Các tỳ-kheo xấu ấc ấy vì
lợi dưỡng nên không thể
truyền bá,
lưu hành kinh này một cách
rộng rãi. Chỗ
truyền bá lưu hành của họ thật quá ít oi, không
đáng kể.
“Như cô gái chăn bò
nghèo khổ kia bán sữa qua nhiều người,
cho đến khi nấu thành cháo thì chẳng còn
mùi vị của sữa.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy,
lưu chuyển nhiều nơi mà trở nên mỏng manh, nhạt nhẽo, chẳng còn khí vị. Tuy chẳng còn khí vị, nhưng vẫn còn hơn các kinh khác cả ngàn lần. Cũng như
mùi vị sữa kia so với
vị đắng vẫn còn hơn cả ngàn lần. Vì sao vậy?
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này, so với
kinh điển của
Thanh văn là bậc cao trổi, cũng như sữa bò là vị ngon hơn hết trong tất cả các
mùi vị. Vì nghĩa ấy nên gọi kinh này là Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Tất cả
mọi người, ai cũng cầu được làm thân nam tử. Vì sao vậy? Vì tất cả người nữ đều phải chịu mọi sự xấu kém.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như nước tiểu của con muỗi thì không thể làm cho khắp cõi đất này thấm ướt.
Lòng dục khó thỏa của người nữ cũng giống như vậy.
Ví như mang hết thảy cõi đất này vo lại thành những viên nhỏ như hạt cải, với số đàn ông nhiều như số hạt cải ấy cùng ăn nằm với một người đàn bà cũng không thể đủ!
Giả sử đàn ông nhiều đến như
số cát sông Hằng cùng làm việc
dâm dục với một người đàn bà, cũng không thể đủ!
“Thiện nam tử!
Ví như biển cả, hết thảy nước mưa
trên trời đổ xuống và nước ở trăm sông đều chảy dồn về, nhưng biển vẫn chưa từng đầy tràn. Người đàn bà
cũng thế,
ví như tất cả [
loài người] đều là đàn ông, cùng ăn nằm với một người đàn bà cũng vẫn không đủ![228]
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như cây a-thúc-ca, cây ba-trá-la, cây ca-ni-ca, đến
mùa xuân trổ hoa, loài ong đến hút lấy hết vị
tinh tế trong sắc đẹp và hương thơm của các hoa ấy, nhưng vẫn không biết chán. Người đàn bà
ham muốn đàn ông cũng như thế, chẳng hề biết chán.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên những kẻ nam người nữ được nghe
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này thường nên chê bỏ
thân tướng nữ nhân và cầu được thân nam tử. Vì sao vậy? Vì
kinh điển Đại thừa này có tướng
trượng phu, ấy là tánh Phật. Nếu ai không biết tánh Phật ắt không có tướng nam tử. Vì sao vậy? Vì chẳng tự
biết mình có tánh Phật.
“Như ai không biết được tánh Phật, ta gọi những người ấy là
nữ nhân. Như ai tự
biết mình có tánh Phật, ta nói rằng người ấy có tướng
trượng phu.[229]
“Như có những người nữ nào có thể biết rằng tự thân quyết có tánh Phật, nên biết rằng những người ấy tức là nam tử.
“Thiện nam tử!
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này gồm thâu các
công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Vì
thuyết giảng được tạng sâu kín của
Như Lai. Cho nên những kẻ nam người nữ nào muốn mau chóng biết được tạng sâu kín của
Như Lai thì nên
tùy phương tiện mà siêng năng
tu tập kinh này.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, như vậy! Đúng như
lời Phật dạy, nay con nhờ có tướng
trượng phu nên được vào tạng sâu kín của
Như Lai. Hôm nay
đức Như Lai vừa
khai ngộ cho con, nhân đó con
chắc chắn sẽ được
thông đạt.”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông
tùy thuận pháp
thế gian mà nói như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa: “Con chẳng
tùy thuận pháp
thế gian.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Nay ông đã biết được
mùi vị của pháp cao trổi hơn hết, rất
thâm sâu khó biết, thế mà ông được biết. Như loài ong hút lấy
mùi vị tinh tế nhất, ông cũng như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như nước tiểu của con muỗi chẳng thể thấm ướt khắp cõi đất này. Sự
lưu hành phân bố của kinh này trong tương lai cũng vậy, [không thể nào đủ khắp]. Cũng như nước tiểu của loài muỗi, kinh này về thuở
Chánh pháp sắp diệt sẽ bị mất đi ở cõi đất này trước hết. Nên biết rằng đó tức là tướng suy của
Chánh pháp.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như vừa qua hết
mùa hạ, tháng đầu
mùa thu trời mưa
liên miên nhiều ngày.
Kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này cũng vậy, vì các vị
Bồ Tát ở phương Nam mà sẽ tuôn mưa pháp thấm đẫm khắp nơi. Khi
Chánh pháp sắp dứt mất, kinh này sẽ đến xứ
Kế Tân,[230] đầy đủ không thiếu, được chôn giấu trong lòng đất. Hoặc có người tin, hoặc có người không tin,
pháp vị cam lộ của
kinh điển Phương đẳng Đại thừa này cũng sẽ nằm sâu trong lòng đất. Kinh này mất đi rồi, tất cả các
kinh điển Đại thừa cũng đều sẽ dứt mất. Nếu như ai có được kinh này, đầy đủ không thiếu, đó là bậc cao quý
vượt trội giữa
loài người. Các vị
Bồ Tát nên biết rằng
Chánh pháp vô thượng của
Như Lai còn chẳng bao lâu nữa sẽ dứt mất.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn! Nay Thuần-đà còn có lòng nghi, xin
Như Lai phân biệt [giảng nói] lần nữa để dứt trừ lòng nghi của ông ấy.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông ấy có lòng nghi như thế nào hãy nói ra đi, ta sẽ dứt trừ cho.”
Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thuần-đà có lòng nghi rằng: ‘Như Lai
thường trụ là nhờ sức thấy biết được tánh Phật. Nếu thấy tánh Phật rồi là thường, thì lúc chưa thấy
đáng lẽ phải là
vô thường. Nhưng nếu trước đã
vô thường, về sau
đáng lẽ cũng như thế. Vì sao vậy? Như những vật ở
thế gian trước vốn là không, nay lại thành có, rồi từ có
trở lại thành không. Những vật như vậy đều là
vô thường. Theo nghĩa ấy thì chư Phật,
Bồ Tát,
Thanh văn,
Duyên giác chẳng khác gì nhau.”
Lúc ấy,
Thế Tôn liền thuyết kệ rằng:
Vốn là có mà nay thành không,
Vốn là không mà nay thành có,
Nếu nói trong
Ba đời có pháp,[231]
Thật không thể có nghĩa như thế!
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên chư Phật,
Bồ Tát,
Thanh văn,
Duyên giác có chỗ khác nhau mà cũng không khác nhau.”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
ngợi khen rằng: “Lành thay! Đúng như lời dạy của
Thế Tôn. Nay con mới hiểu rằng chư Phật,
Bồ Tát,
Thanh văn,
Duyên giác có chỗ khác nhau mà cũng không khác nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy rằng tánh của chư Phật,
Bồ Tát,
Thanh văn,
Duyên giác vốn không khác biệt. Xin
Như Lai phân biệt giảng rộng để làm
lợi ích an vui cho hết thảy
chúng sanh.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hãy nghe cho kỹ, hãy nghe cho kỹ. Ta sẽ vì các ông mà giảng nói.
“Thiện nam tử!
Ví như một người con nhà
trưởng giả kia, nuôi rất nhiều bò sữa, có đủ các sắc lông, thường giao cho một người chăn giữ, chăm sóc. Một hôm, người ấy muốn cúng tế nơi đền thờ nên vắt hết sữa của các con bò, cho vào một cái thùng. Người ấy thấy sữa toàn một màu trắng, lấy làm kinh quái, nghĩ rằng: ‘Bò có màu lông khác nhau, vì sao sữa lại chỉ có một màu?’ Người ấy liền
suy nghĩ rằng: ‘Như vậy, tất cả đều do
nhân duyên nghiệp báo của
chúng sanh nên khiến cho sữa chỉ có một màu.’
“Thiện nam tử!
Thanh văn,
Duyên giác,
Bồ Tát cũng vậy, thảy đều đồng một tánh Phật, cũng như chất sữa kia [cùng một màu] vậy. Vì sao thế? Vì thảy đều dứt sạch
phiền não. Nhưng
chúng sanh vẫn nói rằng Phật,
Bồ Tát,
Thanh văn,
Duyên giác đều có khác biệt. Có những vị
Thanh văn và người
phàm phu có lòng nghi đối với
Ba thừa: ‘Tại sao không khác nhau?’ Các
chúng sanh ấy lâu về sau mới tự hiểu ra rằng tất cả
Ba thừa đều đồng một tánh Phật, cũng như người chủ bò kia
tỉnh ngộ mà hiểu rằng màu sắc của sữa là do
nhân duyên nghiệp báo của
chúng sanh.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như chất khoáng vàng được nung luyện sạch hết cặn bẩn thành
vàng ròng, từ đó mới có
giá trị vô cùng.
Thiện nam tử!
Thanh văn,
Duyên giác,
Bồ Tát cũng thế, đều được
thành tựu cùng một tánh Phật. Vì sao vậy? Vì dứt
trừ phiền não, cũng như khoáng vàng kia lọc bỏ những chất cặn bẩn. Vì nghĩa ấy nên tất cả
chúng sanh đều cùng một tánh Phật chẳng khác gì nhau. Vì trước được nghe tạng sâu kín của
Như Lai nên sau mới
thành Phật,
tự nhiên được rõ biết, cũng như ông
trưởng giả kia biết được sữa chỉ có một màu. Vì sao vậy? Vì đã dứt sạch
vô số phiền não.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, thì Phật với
chúng sanh có khác gì nhau?
Thuyết giảng như vậy thật quá sai lầm! Nếu như
chúng sanh đều có tánh Phật, vì
nhân duyên gì mà những người như ông Xá-lợi-phất đều vào Niết-bàn bậc hạ? Hàng
Duyên giác đều vào Niết-bàn bậc trung? Hàng
Bồ Tát lại vào Niết-bàn bậc thượng? Tất cả
mọi người nếu cùng một tánh Phật, vì sao chẳng cùng vào Niết-bàn của Như Lai?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Niết-bàn mà chư
Phật Thế Tôn chứng đắc không phải chỗ
chứng đắc của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Vì nghĩa ấy, Đại Bát Niết-bàn gọi là sự
hiện hữu tốt đẹp.
Thế gian dù không có Phật
vẫn có những người trong
Hai thừa chứng đắc hai bậc Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Nghĩa ấy như thế nào?”
Phật dạy: “Trải qua
vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp mới có một
đức Phật ra đời chỉ bày giảng rõ
Ba thừa.
“Thiện nam tử! Như ông vừa nói đó,
Bồ Tát với hàng
Nhị thừa chẳng khác biệt nhau. Trước đây, ở tạng sâu kín của
Như Lai trong kinh Đại Niết-bàn này đã có
thuyết giảng nghĩa đó. Các vị A-la-hán chưa phải [
đạt đến] sự
hiện hữu tốt đẹp. Vì sao vậy? Vì tất cả các vị A-la-hán [
cuối cùng] đều sẽ
đạt đến Đại Niết-bàn này. Vì nghĩa ấy nên Đại Bát Niết-bàn mới có được niềm vui
hoàn toàn,
rốt ráo. Vì thế nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Như Phật vừa dạy, nay con mới biết được nghĩa khác nhau và chẳng khác nhau. Vì sao vậy? Vì tất cả
Bồ Tát,
Thanh văn,
Duyên giác, [
cuối cùng rồi]
trong đời vị lai đều sẽ về nơi Đại Bát Niết-bàn, cũng như các dòng nước đều về nơi biển cả. Cho nên hàng
Thanh văn,
Duyên giác thảy đều gọi là thường, chẳng phải
vô thường. Vì nghĩa ấy nên có chỗ khác nhau mà cũng không khác nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh khác nhau?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hàng
Thanh văn ví như sữa, hàng
Duyên giác ví như kem sữa, hàng
Bồ Tát ví như bơ sữa, chư
Phật Thế Tôn ví như đề-hồ.[232] Vì nghĩa ấy, trong kinh Đại Niết-bàn này ta nói bốn loại tánh khác biệt nhau.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch: “Tánh tướng của tất cả
chúng sanh là như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như con bò cái mới sanh con, sữa và máu chưa
phân biệt. Tánh
phàm phu lẫn lộn các
phiền não cũng giống như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch: “Trong thành Câu-thi-na có người dòng chiên-đà-la tên là
Hoan Hỷ. Phật có
thọ ký cho người ấy rằng, nhờ
một lần phát tâm mà sẽ mau chóng được
thành đạo Vô thượng Chánh giác trong
thế giới này, nằm trong số một ngàn
đức Phật sẽ ra đời. Vì sao
Như Lai chẳng
thọ ký cho những người như
tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên... được sớm
thành Phật đạo?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có những
Thanh văn,
Duyên giác hoặc
Bồ Tát phát
thệ nguyện rằng: ‘Tôi sẽ
hộ trì Chánh pháp rất lâu, rồi sau mới
thành Phật đạo
vô thượng.’ Vì [những người]
phát nguyện nhanh chóng mới
thọ ký [cho họ] nhanh chóng [
thành Phật].
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như nhà buôn kia có một
vật báu vô giá,
mang đến chợ bán. Những kẻ ngu nhìn thấy không biết,
chê cười. Người chủ
vật báu nói to rằng: ‘Hạt
châu báu của tôi đây
giá trị vô cùng.’ Họ nghe rồi lại cười nữa, thảy đều bảo nhau rằng: ‘Đây chẳng phải hạt châu thật, chỉ là
pha lê thôi.’
“Thiện nam tử! Hàng
Thanh văn,
Duyên giác cũng vậy. Nếu nghe việc mau chóng
thọ ký, ắt sẽ
biếng nhác,
chê cười, khinh dể, như những kẻ ngu kia chẳng biết
vật báu thật.
“Trong đời
vị lai sẽ có những tỳ-kheo không chịu
chuyên cần tu tập thiện pháp; họ bần cùng khốn khổ, bức thiết vì nỗi
đói khát, vì thế mới
xuất gia để được
no ấm tấm thân. Tâm ý họ dể duôi,
đời sống gian tà, bợ đỡ nịnh hót. Nếu họ nghe hàng
Thanh văn được
Như Lai thọ ký sớm
thành Phật, ắt họ sẽ cười to, khinh mạn,
chế nhạo. Nên biết rằng đó là bọn
phá giới, họ tự nói rằng
chứng đắc quả thánh.
“Vì lẽ ấy nên
tùy theo sự
phát nguyện nhanh chóng mà được
thọ ký nhanh chóng. Người [
phát tâm]
hộ trì Chánh pháp [dài lâu] thì
thọ ký lâu xa mới
thành Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!
Bồ Tát ma-ha-tát làm thế nào để
quyến thuộc khỏi bị hư hoại?”
Phật bảo Ca-diếp rằng: “Như những
Bồ Tát nào
chuyên cần tinh tấn, dốc lòng
hộ trì Chánh pháp, nhờ
nhân duyên ấy,
quyến thuộc khỏi bị hư hoại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Do
nhân duyên nào mà môi miệng của
chúng sanh khô khan, nóng phỏng?”
Phật dạy Ca-diếp rằng: “Như ai không biết rằng
Tam bảo là thường tồn, do
nhân duyên ấy môi miệng họ bị khô khan, nóng phỏng.
Ví như người trong miệng khó chịu, chẳng
phân biệt được
sáu vị: ngọt, đắng, cay, chua, mặn, nhạt. Tất cả
chúng sanh ngu si không
trí tuệ, chẳng biết
Tam bảo là
pháp thường tồn, nên gọi là môi miệng khô khan, nóng phỏng.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có
chúng sanh chẳng biết
Như Lai là
thường trụ, nên biết rằng họ là những kẻ đui mù
bẩm sanh. Những ai biết rằng
Như Lai là
thường trụ, dù chỉ có
mắt thịt nhưng ta cũng gọi họ là có
thiên nhãn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như ai có thể biết rằng
Như Lai là thường, nên biết rằng những người ấy
tu tập kinh điển này
đã lâu. Ta nói rằng những người ấy là có
thiên nhãn. Dù ai có
thiên nhãn mà không biết rằng
Như Lai là thường tồn thì ta gọi những kẻ ấy là mang
mắt thịt. Hạng người ấy thậm chí không biết được
thân thể tay chân của chính họ, cũng không thể làm cho kẻ khác biết được. Vì nghĩa ấy nên gọi là kẻ mang
mắt thịt.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Như Lai thường vì tất cả
chúng sanh mà làm
cha mẹ. Vì sao vậy? Tất cả
chúng sanh, đủ mọi
hình tướng, chủng loại, như loài có hai chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc không có chân, Phật chỉ dùng một giọng nói mà
thuyết pháp với họ, nhưng
chúng sanh loài nào cũng hiểu được, thảy đều khen rằng: ‘Hôm nay
Như Lai vì tôi mà
thuyết pháp.’ Bởi nghĩa ấy, nên gọi
Như Lai là
cha mẹ.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như người kia sanh một đứa con mới được mười sáu tháng. Tuy có nói chuyện, nhưng trẻ chưa thể hiểu được.
Cha mẹ muốn dạy trẻ nói, trước hết phải nói một giọng theo nó, rồi
dần dần mới dạy nó. Vậy giọng nói
theo như trẻ của
cha mẹ có gọi là không đúng hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không phải vậy.”
“Thiện nam tử!
Chư Phật Như Lai cũng vậy,
tùy theo đủ loại tiếng nói của
chúng sanh mà
thuyết pháp, vì muốn giúp cho họ trụ yên nơi
Chánh pháp.
Tùy theo ý muốn của
chúng sanh mà
thị hiện đủ mọi
hình tướng.
Như Lai nói theo đồng một giọng nói với
chúng sanh, vậy có gọi là không đúng hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không phải vậy. Vì sao? Vì chỗ thuyết dạy của
Như Lai dường như tiếng
sư tử rống,
tùy theo đủ mọi
âm thanh của
thế gian mà
diễn giải,
thuyết giảng giáo pháp mầu nhiệm.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN CHÍN
[161] Ngã và ngã sở: ngã là ta, ngã sở là những gì thuộc về ta, những gì mà ta sở hữu. Nếu biết cái ta (ngã) vốn đã là không thật, thì những vật do ta sở hữu (ngã sở) cũng không thật có.
[162] Bậc cao nhất chẳng sợ (Vô thượng vô sở úy): tôn xưng đức Phật, là bậc cao thượng hơn hết, chẳng ai bằng, đã trừ hết mọi lo âu, sầu não, không còn có sự sợ sệt đối với muôn pháp.
[163] Pháp thân Xá-lợi. Xá-lợi của Phật có hai loại:
– Sanh thân Xá-lợi: Tro cốt của Phật sau khi thiêu nhục thân của ngài còn lại, được thờ trong các chùa tháp.
– Pháp thân Xá-lợi: Diệu pháp mà Phật để lại, tức là giáo pháp thường trụ mà Phật đã thuyết dạy trong kinh điển.
[164] Câu cuối đoạn này có vẻ như thừa. Tham khảo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển không có câu này.
[165] Chúng tôi đã tham khảo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh để hiểu rõ ý câu này: Nhất thiết pháp thị khổ, thị tắc đoạn diệt thuyết; nhất thiết pháp thị lạc, thị tắc kế thường thuyết.
[166] Nguyên bản câu này là: Tu dư pháp khổ giả giai danh bất thiện. Bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh dịch câu tương đương là: Dị pháp tu khổ giả tắc thuyết bất thiện phần. So sánh hai bản và tham khảo thêm văn sớ giải thì hiểu rằng “dư pháp” hay “dị pháp” ở đây chỉ đến các pháp [quyền thừa phương tiện] khác với pháp môn đang được thuyết giảng, tức là pháp trung đạo, pháp Đại thừa.
[167] Trong bản dịch Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển có thêm một câu giúp rõ nghĩa hơn: Kế thường cập đoạn diệt, thị kiến nhị câu ly. (Lìa bỏ cả hai quan điểm chấp thường và chấp đoạn.)
[168] Đoạn này dựa theo quan điểm cho rằng con người sở dĩ có bệnh là do sự tương khắc, không đồng đều của bốn đại, làm cho cơ thể phát triển không hài hòa. Vì thế, vị thầy thuốc chỉ cần điều chỉnh được sự mất cân đối đó là có thể làm cho bệnh tật mất đi.
[169] Nhân trung sư tử (sư tử trong loài người) một tôn hiệu để xưng tán đức Phật, là bực dũng mãnh hơn hết trong loài người, như sư tử là loài thú oai mãnh hơn hết trong các loài thú. Có khi cũng dùng Nhân hùng sư tử.
[170] Vô minh, hành, thức... là những yếu tố trong Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên), giải thích về sự hình thành và vận hành của tất cả các pháp.
[171] Có ba cách giải thích. Một thuyết cho rằng ở đây chỉ loài cỏ ngà voi (tượng nha thảo), khi trời có sấm sét thì trổ hoa. Thuyết thứ hai cho rằng trong kinh có nói đến loài voi khi nghe tiếng sấm thì trên ngà của chúng trổ ra hoa. Thuyết thứ ba nói rằng không có hoa được sanh ra, nhưng là trên các ngà voi hiện lên những đường vân có hình như vân hoa. Chúng tôi xét rằng: Thuyết thứ nhất võ đoán chữ thảo (cỏ), trong kinh văn không có; thuyết thứ hai nói là “trong kinh nói” nhưng không nói là kinh nào, đã thử tìm cũng không thấy. Vì thế, chúng tôi chọn tin theo thuyết thứ ba. Tuy nhiên, tham khảo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển thì ở chỗ này thấy dịch là: Thí như xuân nguyệt hưng đại vân lôi nhi vị hàng vũ, thảo mộc hoa quả giai vị manh nha, hạ thời đại vũ nhất thiết phù sớ. (Ví như vào mùa xuân sấm sét nổi lên nhưng chưa đổ mưa, cây cỏ hoa trái đều chưa nảy mầm, đến mùa hạ trời đổ mưa lớn thì mới giúp ích cho tất cả.) Mặc dù vậy, khi so với bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm thì những đoạn tiếp theo thiếu rất nhiều chi tiết nên ở chỗ này chúng tôi vẫn tin vào bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm hơn.
[172] Khế kinh, dịch âm là Tu-đa-la, còn gọi là Khế phạm, Khế tuyến, tức là những kinh văn khế hợp theo căn cơ chúng sanh mà Phật thuyết giảng. Vì tùy theo mỗi hạng chúng sanh đều được phù hợp nên gọi là khế. Cũng hiểu theo hai nghĩa là khế lý (phù hợp về lý lẽ) và khế cơ (phù hợp về căn cơ). Khế kinh chỉ cho hầu hết kinh điển do đức Phật tùy căn cơ của chúng sanh mà thuyết ra, nên cũng thường gọi tắt là kinh.
[173] Các hạnh ba-la-mật: dịch âm là Ba-la-mật-đa, gọi tắt là Ba-la-mật, Hán dịch nghĩa là đáo bỉ ngạn, nghĩa là “đến bờ bên kia”. Đây là sáu hạnh lớn của hàng Bồ Tát, bao gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ.
[174] Thập trụ: Hàng Bồ Tát ở trụ ở địa vị thứ mười là địa vị cao nhất trong mười địa vị, bao gồm: 1. Phát tâm trụ, 2. Trì địa trụ, 3. Tu hành trụ, 4. Sanh quý trụ, 5. Phương tiện cụ túc trụ, 6. Chánh tâm trụ, 7. Bất thối trụ, 8. Đồng chân trụ, 9. Pháp vương tử trụ, 10. Quán đỉnh trụ.
[175] Thư lại: người làm công việc ghi chép, giống như thư ký ngày nay.
[176] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu phẩm Văn tự thứ 13 (Văn tự phẩm đệ thập tam). Bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh cũng phân chia và gọi tên giống như vậy, nhưng đây là phẩm thứ 14 (Văn tự phẩm đệ thập tứ).
[177] Câu này trong bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển có nội dung khác hẳn: Nhất thiết ngôn thuyết chú thuật ký luận, Như Lai sở thuyết vi nhất thiết bổn. (Tất cả những ngôn thuyết, chú thuật, ký luận... đều lấy chỗ thuyết dạy của Như Lai làm căn bản.)
[178] Từ đoạn này trở đi, Phật lần lượt giảng nghĩa các âm của chữ viết. Chữ viết đang nói ở đây là chữ Phạn (Sanskrit).
[179] Tức chữ a giọng ngắn trong âm tiếng Phạn, có độ ngân ngắn nên gọi là a ngắn. Trong Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh đều dịch là đoản a. Ở đây dùng chữ ác có lẽ vì cách phát âm a tắt giọng lại gần giống như chữ ác.
[180] Chín lỗ (cửu khổng): chỉ chín lỗ thông giữa cơ thể với môi trường bên ngoài, gồm 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, 2 lỗ con mắt, miệng và 2 lỗ đại, tiểu tiện.
[181] Tam hữu : Ba cõi có những chúng-sanh quay đi lộn lại, sanh tử luân hồi. Ấy là: Dục-giới, sắc-giới, Vô sắc giới.
[182] Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh đều dịch là trường a để phân biệt với chữ a ngắn ở trước.
[183] Tam Tôn: Ba bậc đáng tôn kính: Phật, Pháp, Tăng. thường gọi là Tam bảo.
[184] Tức âm y giọng ngắn. Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh dịch là đoản y.
[185] Các bản khác hiện nay đều khắc chữ “Phật pháp”, nhưng chúng tôi tin theo cổ bản. Hơn nữa, đoạn tiếp theo sẽ nói về pháp Phật, nên đoạn này nói tánh Phật cũng là hợp lý.
[186] Trong Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh dịch là trường y.
[187] Bốn vị Tự Tại: Tức bốn vị Hộ Thế Thiên vương, ở lưng chừng núi Tu-di, có phận sự hộ pháp ở bốn phương trong thế gới: 1. Trì Quốc Thiên vương, quản lãnh phương đông 2. Quảng Mục Thiên vương, quản lãnh phương tây 3. Tăng Trưởng Thiên vương, quản lãnh phương nam 4. Đa Văn Thiên vương, quản lãnh phương bắc.
[188] Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh đều dịch là đoản ưu, tức là chữ ưu ngắn.
[189] Trong Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh dịch là trường ưu.
[190] Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh đều dịch là yết.
[191] Con tằm làm kén, không thể ra ngoài cái kén; con bọ hung chui vào đống phân, loay hoay mãi cũng không ra khỏi đống phân.
[192] Mười sức của Phật (Thập lực), cũng gọi là Mười trí lực (Thập trí lực), bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực, 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực, 3. Tri chư thiên giải thoát tam-muội trí lực, 4. Tri chúng sanh tâm tánh trí lực, 5. Tri chủng chủng giải trí lực, 6. Tri chủng chủng giới trí lực, 7. Tri nhất thiết sở đạo trí lực, 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực, 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực, 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
[193] Ba mũi tên (Tam tiễn): Ba mũi tên độc giết hại người, chỉ Ba độc: tham, sân, si.
[194] Điều-bà-đạt: tên gọi khác của Đề-bà-đạt-đa.
[195] Ấm, nhập, giới: Ba phần cấu tạo nên sự hiện hữu của con người, của chúng sanh. Ấm là Năm ấm (hay Năm uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là mười hai nhập: sáu căn nhập với sáu trần, sáu trần nhập với sáu căn. Giới là mười tám giới: do sáu căn hợp với sáu trần và sáu thức.
[196] Theo Nam bản và Đại Bát Nê-hoàn kinh thì từ đây bắt đầu phẩm Điểu dụ. Nam bản là phẩm 14, còn trong Đại Bát Nê-hoàn kinh là phẩm 15.
[197] Ca-lân-đề, cũng đọc là ca-già-lân-địa, là một loài chim biển rất đẹp, cùng họ với chim uyên ương. Các loài chim này con trống và con mái luôn theo sát nhau, không lúc nào rời xa. Vì thế trong văn chương thường dùng hình ảnh uyên ương để ví những cặp vợ chồng hay tình nhân luôn gắn bó quấn quýt nhau.
[198] Vô tưởng thiên: tức là cảnh giới Vô sở hữu xứ, thuộc cõi Vô sắc giới, nằm dưới cảnh trời cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Người tu hành đạt đến Vô tưởng định thì thần thức vượt đến cảnh giới Vô tưởng thiên.
[199] Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Chư thiên thần ở cảnh trời này chẳng phải tưởng chẳng phải không tưởng. Cũng gọi là Hữu đỉnh thiên, là cảnh trời cao nhất trong cõi Vô sắc giới, cũng là cao nhất trong Ba cõi. Người tu hành đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng định thì thần thức vượt đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
[200] Đây chỉ sự già chết (lão tử) là một trong 12 nhân duyên, vốn sanh khởi do sự hiện hữu hòa hợp của các hành. Vì thế, nếu hành giả đạt đến cảnh giới “phá trừ hết thảy các hành” như vừa nói ở đoạn trên thì không còn có sự già chết.
[201] Chấp hữu: kiến chấp sai lầm cho rằng thật có sự hiện hữu của những yếu tố thật ra là hư huyễn.
[202] Đây nói pháp thường trụ và pháp thị hiện của Như Lai vốn thật không tách rời nhau, như các loài chim uyên ương, ca-lân-đề luôn đi với nhau thành cặp.
[203] Trong Nam bản là phẩm Nguyệt dụ thứ 15, theo bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển thì đây cũng là phẩm Nguyệt dụ, nhưng là phẩm thứ 16.
[204] Chúng ta không thể không lấy làm ngạc nhiên với sự giải thích này vào thời đức Phật! Mãi cho đến nhiều thế kỷ về sau phương Tây vẫn chưa hiểu đúng được về hiện tượng mọc lặn của mặt trời, mặt trăng, vẫn không thể hình dung đúng rằng trái đất là một quả cầu lơ lửng giữa không trung, nhưng từ thời đó đức Phật đã mô tả hiện tượng mọc lặn, tròn khuyết của mặt trăng không khác gì chúng ta ngày nay!
[205] Năm tội nghịch (Ngũ nghịch tội): 1. Giết cha, 2. Giết mẹ, 3. Giết A-la-hán, 4. Phá Hòa hiệp Tăng, 5. Làm thân Phật chảy máu. Kẻ phạm Năm tội nghịch này, sau khi chết đọa vào Địa ngục Vô gián, nên cũng gọi năm tội ấy là Ngũ Vô gián tội.
[206] Nhất-xiển-đề: từ dịch âm tiếng Phạn, chỉ người hoàn toàn không có lòng tin nơi Phật pháp, nên cũng dịch nghĩa là đoạn thiện căn hay tín bất cụ túc.
[207] Phiên âm từ Phạn ngữ Abhidharma, tức Luận tạng, cũng đọc là A-tì-đạt-ma.
[208] Ma phiền-não, Ma ấm, Ma chết, Thiên ma: đó là bốn loại Ma.
1.Phiền não ma: Do tham, sân, si sanh khởi, làm não hại thân và tâm.
2. Ấm ma (năm ấm, hay năm uẩn): bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hợp lại thành thân tâm chúng sanh, là nguyên nhân của vô số khổ não.
3. Tử ma: Sự chết làm dứt mạng căn chúng sanh, là trở ngại không ai vượt qua được.
4.Thiên ma: do vị Tha hóa tự tại thiên (Ma vương) làm chủ, tìm mọi cách để ngăn cản, gây trở ngại cho sự tu tập, hành trì.
[209] Thời tiết ở Ấn Độ chỉ có 3 mùa như được trình bày ở đây.
[210] Tuần trăng tối (hắc nguyệt): Từ ngày mười sáu đến cuối tháng, trăng ngày càng tối hơn. Ngược lại, tuần trăng sáng (bạch nguyệt) là từ mồng một đến ngày rằm, trăng ngày càng sáng hơn.
[211] Phật Bích-chi, cũng đọc là Bích-chi-ca, dịch nghĩa là Duyên giác, Độc giác. Phật Bích-chi là vị sanh ra nhằm lúc không có Phật ra đời, nhờ quán xét 12 nhân duyên mà được giác ngộ, nên gọi là Duyên giác. Vì tự mình tu học vào thời không có Phật, đạt được giải thoát và nhập Niết-bàn nên gọi là Độc giác.
[212] Nghiệp ác vô gián: những nghiệp ác rất nặng nề, phải đọa vào địa ngục Vô gián, nghĩa là phải chịu đựng những hình phạt khổ não không lúc nào gián đoạn.
[213] Lấy ý trong ví dụ trước đây, ngày mùa hạ rất dài, ví như đời sống vô lượng của chư Phật.
[214] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu phẩm Bồ Tát thứ 16 (Bồ Tát phẩm đệ thập lục). Bản Đại Bát Nê-hoàn kinh đến đây dứt phẩm thứ 16 (quyển 5), bắt đầu quyển 6, phẩm Vấn Bồ Tát thứ 17 nhưng có một đoạn ngắn nội dung không thấy trong bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm.
[215] Tứ y: Xem lại quyển 6, phẩm 4, phần 3. Đó là: 1. Y theo pháp, chẳng y theo người. 2. Y theo nghĩa, chẳng y theo lời. 3. Y theo trí, chẳng y theo thức. 4. Y theo kinh liễu nghĩa, chẳng y theo kinh bất liễu nghĩa.
[216] Ba đường dữ (Tam ác đạo, hay Tam ác thú): Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Đó là ba cảnh giới mà những chúng sanh tạo nhiều nghiệp ác phải thọ sanh vào, chịu nhiều khổ não.
[217] Các mối trói buộc (chư kết): Vì các phiền não trói buộc thân tâm cho nên gọi là các mối trói buộc.
[218] A-lan-nhã, a-luyện-nhã, dịch nghĩa: không nhàn, nhàn cư. Tiếng dùng để chỉ đến những nơi trống vắng như mồ mã, đồng hoang, rừng vắng, núi cao... nơi mà những bậc xuất gia tu hành quyết chí đi đến để tập trung tu tập thiền định tịch tĩnh, tránh xa mọi sự tranh chấp. Ngoài cách dùng a-lan-nhã xứ để chỉ những nơi như thế, còn dùng pháp a-lan-nhã và hạnh a-lan-nhã để chỉ pháp tu và công hạnh của những vị này.
[219] Ma-ni (Mani), dịch nghĩa là ly cấu (lìa khỏi sự dơ nhớp), là như ý (theo đúng như ý muốn). Hạt châu ma-ni là loại châu báu quý nhất, được tin là có thể làm cho người chủ sở hữu nó muốn gì cũng được như ý, nên gọi là như ý châu.
[220] Ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lỵ: Bốn loại hoa sen màu sắc khác nhau. Ưu-bát-la là hoa sen xanh, bát-đầu-ma là hoa sen hồng, câu-vật-đầu là hoa sen vàng, phân đà lỵ là hoa sen trắng.
[221] Pháp khí: Căn khí của người có thể chấn hưng đạo Phật, nhận lấy pháp tạng để truyền bá cho đời, ví như cái bát (khí) đựng cơm của vị tỳ-kheo. Bậc pháp khí là người có khả năng thọ nhận và rộng truyền các pháp môn của Phật.
[222] Nguyên bản dùng “tất tử” (nhất định phải chết). Theo Nam bản thì chỗ này dùng cách phiên âm Phạn ngữ là a-tát-xà. Huyền ứng âm nghĩa quyển 3 giải thích rằng từ này chỉ những bệnh không thể trị được (bất khả trị bệnh).
[223] Tám thứ bệnh nhiệt tức là tám nỗi khổ của chúng sanh (Bát khổ), bao gồm: sanh, lão, bệnh, tử, xa người yêu mến, gần kẻ oán thù, mong cầu chẳng được, năm ấm chẳng điều hòa.
[224] Phi nhân: Chẳng phải người, loài chúng sanh không có thân xác như người.
[225] Thuyền sư: người chỉ huy con tàu trên biển, như thuyền trưởng ngày nay.
[226] Tiên-đà-bà: phiên âm từ Phạn ngữ saindhava, nghĩa thường dùng là thạch diêm (muối), nhưng theo đoạn này thì gồm đủ bốn nghĩa là diêm, khí, thủy, mã (muối, bát đựng, nước, ngựa). Các bản luận giải thường trích dẫn ví dụ này với tên là “nhất danh tứ thật” (một tên bốn nghĩa).
[227] Đó là các lẽ vô thường, khổ, vô ngã và không.
[228] Ở đây muốn nhấn mạnh ý nghĩa là tính dục không bao giờ có thể thỏa mãn hoàn toàn. Bởi vì sự thỏa mãn tính dục cũng chính là nguyên nhân làm sanh khởi tính dục ở mức độ cao hơn, và vòng lẩn quẩn như thế sẽ mãi mãi tồn tại, phát triển, trừ khi người tu có thể đoạn trừ tận gốc rễ của tính dục. Trong nhiều kinh điển khác, đức Phật thường đưa ra ví dụ người khát uống nước muối, càng uống lại càng khát nhiều hơn nữa.
[229] Theo cách phân biệt như nêu trong đoạn này thì sự khác biệt giữa hình tướng nam nữ không còn quan trọng nữa, cũng không có ý nghĩa gì trong sự xác định năng lực giải thoát của một người.
[230] Nước Kế Tân, cũng phiên âm là Kiền-đà-la, là một nước thuộc Ấn Độ thời cổ, nằm ở phía bắc lưu vực Ngũ Hà, vùng hạ du sông Kabul, thuộc tây bắc Ấn Độ ngày nay.
[231] Ba đời (Tam thế), tức là quá khứ, hiện tại và vị lai.
[232] Sữa, kem sữa, bơ, đề-hồ... là các món ăn lần lượt được chế biến từ sữa bò, trong đó đề-hồ là món tinh khiết nhất, ngon và quý nhất.