QUYỂN MỘT
Phẩm THỌ MẠNG - Thứ nhất – Phần một [1]
Chúng tôi được nghe đúng như thế này:[2] Vào lúc
đức Phật đang ở tại thành Câu-thi-na, quê hương của tộc họ Lực-sĩ,[3] bên bờ sông A-lỵ-la-bạt-đề,[4] trong rừng cây Sa-la Song thọ.[5]
Bấy giờ,
đức Thế Tôn và tám mươi ức trăm ngàn vị đại tỳ-kheo cùng tụ hội, các vị cùng theo hầu chung quanh
đức Phật. Vào ngày rằm tháng hai, lúc Phật sắp vào Niết-bàn,[6] liền dùng
thần lực phát ra
âm thanh rất lớn.
Âm thanh ấy
vang dội khắp nơi, lên đến tận
cõi trời Hữu đỉnh.[7] Mỗi loài
chúng sanh đều nghe hiểu được
âm thanh của Phật bằng
ngôn ngữ của mình, cùng hiểu như nhau rằng:
“Hôm nay,
đức Như Lai, bậc xứng đáng nhận sự
cúng dường của muôn loài; bậc luôn
thương xót,
che chở cho
chúng sanh như con một của ngài là La-hầu-la, bậc làm chỗ
nương nhờ, trú ẩn cho tất cả
chúng sanh; bậc
Đại Giác Thế Tôn sắp vào Niết-bàn. Tất cả
chúng sanh, ai còn có điều
nghi hoặc, hôm nay nên đến thưa hỏi Ngài, là lần thưa hỏi
cuối cùng.”
Lúc ấy vừa rạng sáng,
đức Thế Tôn từ nơi khoảng giữa hai lông mày phóng ra nhiều loại
hào quang, có đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng,
pha lê,
mã não.
Hào quang ấy chiếu sáng khắp cõi
thế giới tam thiên đại thiên[8] của
đức Phật Thích-ca,
cho đến khắp cả
mười phương cũng đều được chiếu sáng như vậy.
Trong khắp các cõi
thế giới, những
chúng sanh trong
sáu đường,[9] khi được
hào quang ấy chiếu lên
thân thể thì tất cả
phiền não,
tội lỗi đều được
tiêu trừ. Hết thảy
chúng sanh nhìn thấy
hào quang và nghe
âm thanh của Phật, lòng rất đau buồn, cùng nhau
cất tiếng bi ai than khóc:
“Than ôi! Đấng cha lành của chúng ta!
Đau đớn thay!
Khổ não thay!”
Hết thảy đều vò đầu đấm ngực mà khóc la; lại có những kẻ run rẩy cả
thân hình, nghẹn ngào khóc không thành tiếng.
Lúc ấy, khắp mặt đất, núi non, biển cả thảy đều
chấn động.
Bấy giờ, tất cả
chúng sanh bảo nhau rằng: “Chúng ta nên cố
dằn lòng, đừng quá buồn khổ. Hãy mau đến chỗ
đức Như Lai ở thành Câu-thi-na, quê hương của tộc họ Lực-sĩ,
đảnh lễ ngài và kính bạch rằng: “Chúng con xin
khuyến thỉnh Như Lai đừng nhập Niết-bàn, ngài nên trụ
thế cho trọn một kiếp hoặc một
kiếp giảm.”[10]
Rồi
mọi người lại nắm tay nhau, cùng nói rằng: “Thế gian sắp trống rỗng! Phước của
chúng sanh hết rồi! Các
nghiệp bất thiện sẽ ngày càng nhiều hơn ở thế gian!
Mọi người hãy nhanh chân lên, nhanh lên! Chẳng bao lâu nữa
đức Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Mọi người lại
than vãn rằng: “Thế gian sắp trống rỗng!
Thế gian sắp trống rỗng! Từ nay
chúng ta không còn ai là người
cứu hộ, không còn ai để kính ngưỡng,
chúng ta sẽ trở nên bần cùng,
côi cút, trong chốc lát đã phải
xa lìa đấng
Vô thượng Thế Tôn! Như có
điều chi nghi hoặc,
chúng ta còn biết thưa hỏi với ai?”
Lúc ấy, có
vô số các vị
đệ tử lớn như:
Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên,
Tôn giả Bạc-câu-la,
Tôn giả Ưu-ba-nan-đà... Các vị đại tỳ-kheo như vậy, khi gặp
hào quang của Phật chiếu đến thì run rẩy cả
thân hình,
xúc động mạnh mẽ không sao tự
kiềm chế được,
tinh thần bấn loạn,
sầu muộn mê muội, lớn tiếng khóc than, sanh ra
khổ não muôn phần như vậy!
Lại có tám trăm vạn tỳ-kheo, thảy đều là bậc A-la-hán, tâm đã được
tự tại, đã làm xong việc cần làm, lìa khỏi các
phiền não,
điều phục các căn, như loài rồng lớn có
oai đức lớn,
thành tựu trí tuệ Không,[11] được sự
lợi ích cho
bản thân. Như rừng chiên-đàn có nhiều cây chiên-đàn vây quanh; như chúa
sư tử có nhiều
sư tử vây quanh, những vị
thành tựu được
vô lượng công đức như vậy đều là những
đệ tử chân chánh luôn theo hầu quanh Phật.
Vừa lúc tảng sáng,
mặt trời vừa mọc, các vị tỳ-kheo ấy rời khỏi chỗ ở của mình.
Đang khi súc miệng, chải răng bằng nhành dương, các vị gặp
hào quang của Phật chiếu đến liền bảo nhau rằng: “Mọi người nên súc miệng, rửa tay nhanh nhanh lên!” Vừa nói xong thì khắp
thân thể các vị đều sởn ốc, lông trên người dựng ngược, máu hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau
sầu khổ vô cùng. Nhưng vì muốn
lợi ích và
an lạc cho
chúng sanh, vì muốn
thành tựu hạnh Không[12] bậc nhất của
Đại thừa, làm rõ bày
giáo pháp phương tiện sâu kín của
Như Lai; vì muốn các môn
thuyết pháp không bị dứt mất; vì muốn
điều phục hết thảy
chúng sanh, nên các vị ấy liền nhanh chóng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng,[13]
chắp tay cung kính rồi lui xuống ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có bà Câu-đà-la, tỳ-kheo ni
Thiện Hiền, tỳ-kheo ni Ưu-ba-nan-đà, tỳ-kheo ni Hải Ý, cùng với sáu mươi ức các vị tỳ-kheo ni, tất cả đều là các bậc Đại A-la-hán, các lậu[14] đã dứt, tâm được
tự tại, đã làm xong việc cần làm, lìa khỏi các
phiền não,
điều phục các căn, như những vị đại
long vương có
oai đức lớn,
thành tựu trí tuệ Không. Cũng vào lúc tảng sáng, khi
mặt trời vừa mọc, khắp
thân thể các vị đều sởn ốc, lông trên người dựng ngược, máu hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau
sầu khổ vô cùng. Nhưng cũng vì muốn
lợi ích và
an lạc cho
chúng sanh, vì muốn
thành tựu hạnh Không bậc nhất của
Đại thừa, làm rõ bày
giáo pháp phương tiện sâu kín của
Như Lai; vì muốn các môn
thuyết pháp không bị dứt mất; vì muốn
điều phục hết thảy
chúng sanh, nên các vị ấy liền nhanh chóng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng,
chắp tay cung kính, rồi lui xuống ngồi sang một bên.
Trong chúng tỳ-kheo ni, lại có những vị tỳ-kheo ni đều là bậc
Bồ Tát, như rồng giữa
loài người,[15] đều đạt tới
địa vị thứ mười[16] là
địa vị rốt ráo của
Bồ Tát, trụ yên ở
cảnh giới bất động,[17] các vị vì muốn
giáo hóa chúng sanh nên
thị hiện thân nữ, thường
tu tập Bốn tâm vô lượng,[18]
đạt được sức
tự tại, có thể
hóa hiện làm Phật.
Lúc ấy, lại có
chư Đại Bồ Tát nhiều như số cát một
sông Hằng,[19] như rồng giữa
loài người, đều đạt tới
địa vị thứ mười là
địa vị rốt ráo của
Bồ Tát, trụ yên ở
cảnh trí bất động,
tùy phương tiện mà
hiện thân. Có các ngài
Bồ Tát Hải Đức,
Bồ Tát Vô Tận Ý... là những bậc
đứng đầu. Các ngài thảy đều đem lòng
kính trọng Đại thừa, trụ yên nơi
Đại thừa, hiểu sâu
Đại thừa,
ưa thích Đại thừa,
bảo vệ gìn giữ Đại thừa. Các ngài khéo
tùy thuận tất cả
thế gian, có
phát nguyện rằng: “Đối với những
chúng sanh chưa được
cứu độ, sẽ khiến cho được
cứu độ.”
Trong
vô số kiếp đã qua, các ngài từng
tu trì giới hạnh trong sạch, khéo giữ việc
hành trì,
giải thoát cho những người chưa
được giải thoát, nối tiếp
hạt giống Tam bảo không để dứt tuyệt.
Trong đời vị lai, các ngài sẽ quay bánh xe Pháp, dùng sự
trang nghiêm tốt đẹp để tự
trang nghiêm mình. Các ngài đều
thành tựu vô lượng công đức như vậy,
yêu thương tất cả
chúng sanh như con một của mình.
Cũng vào lúc tảng sáng, khi
mặt trời vừa mọc, khắp
thân thể các ngài đều sởn ốc, lông trên người dựng ngược, máu hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau
sầu khổ vô cùng. Nhưng cũng vì muốn
lợi ích và
an lạc cho
chúng sanh, vì muốn
thành tựu hạnh Không bậc nhất của
Đại thừa, làm rõ bày
giáo pháp phương tiện sâu kín của
Như Lai; vì muốn các môn
thuyết pháp không bị dứt mất; vì muốn
điều phục hết thảy
chúng sanh, nên các ngài liền nhanh chóng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng,
chắp tay cung kính, rồi lui xuống ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có những ưu-bà-tắc,[20] nhiều như số cát hai
sông Hằng, là những người
thọ trì Năm giới,[21]
trọn vẹn oai nghi của người tu
tại gia. Trong số ấy, có ưu-bà-tắc
Oai Đức Vô Cấu Xưng Vương, ưu-bà-tắc
Thiện Đức là những vị
đứng đầu. Các vị ưu-bà-tắc này thích
quán sát sâu xa các
pháp môn đối trị như là: khổ đối với vui, thường đối với
vô thường, tịnh đối với
bất tịnh, ngã đối với
vô ngã, thật đối với
không thật,
quy y đối với không
quy y,
chúng sanh đối với phi
chúng sanh, thường còn đối với không thường còn,
an ổn đối với không
an ổn,
hữu vi đối với
vô vi, đoạn đối với
bất đoạn, Niết-bàn đối với không phải Niết-bàn,
tăng thượng đối với phi
tăng thượng...
Các vị ấy thường
ưa thích quán sát các
pháp môn đối trị như vậy. Lại cũng thích
nghe pháp Đại thừa cao trổi nhất. Được nghe rồi liền có thể
giảng thuyết cho kẻ khác nghe. Các vị ấy khéo
giữ giới hạnh
trong sạch, khao
khát ngưỡng mộ
Đại thừa. Khi đã được đầy đủ, lại có thể làm cho những người đang khao
khát ngưỡng mộ cũng được đầy đủ như mình. Những vị ấy khéo thâu nhiếp và giữ lấy
trí tuệ cao trổi nhất,
ưa thích Đại thừa,
bảo vệ gìn giữ Đại thừa, khéo
tùy thuận tất cả
thế gian. Những vị ưu-bà-tắc ấy
hóa độ những những người chưa được
hóa độ,
giải thoát những người chưa
được giải thoát, nối tiếp
hạt giống Tam bảo chẳng để cho dứt tuyệt. Ở đời
vị lai, các vị sẽ quay bánh xe Pháp, sẽ dùng sự
trang nghiêm tốt đẹp mà tự
trang nghiêm mình, lòng thường
vui thích sâu xa nơi
giới hạnh thanh tịnh. Tất cả đều có thể
thành tựu những
công đức như vậy. Đối với
chúng sanh đều sanh lòng
đại bi,
yêu thương tất cả như con một của mình, không có sự
phân biệt.
Cũng vào lúc tảng sáng, khi
mặt trời vừa mọc, vì muốn dự lễ
hỏa táng đức Như Lai,
ai nấy đều
mang theo cả muôn bó củi thơm như chiên-đàn,
trầm thủy,
ngưu đầu chiên-đàn, thiên
mộc hương... Từ nơi mỗi cây
gỗ thơm ấy đều tỏa chiếu ánh sáng
thất bảo vi diệu, như những bức họa tô điểm nhiều màu. Nhờ sức thần của Phật nên có đủ những màu đẹp như xanh, vàng, đỏ, trắng... các
chúng sanh đều thích nhìn. Những cây ấy lại được tẩm vào nhiều loại hương thơm nữa như hương cỏ uất kim, hương
trầm thủy, hương keo...
Người ta lại rảy nhiều thứ hoa để thêm
trang nghiêm, như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ. Ở trên đầu những cây
gỗ thơm lại treo những lá phan
ngũ sắc mềm mại, mịn màng và
tốt đẹp, dường như vải lụa
cõi trời, như vải kiêu-xa-da, vải sô-ma lụa nhiều màu.
Người ta lại dùng xe báu mà chở những cây
gỗ thơm ấy. Từ những chiếc xe báu tỏa chiếu rất nhiều ánh
hào quang màu xanh, vàng, đỏ, trắng... Gọng xe,
trục xe đều là
bảy báu làm thành. Mỗi xe đều thắng bốn ngựa, mỗi ngựa đều có sức chạy nhanh như gió. Trước mỗi đầu xe có treo 50 bức màn thật đẹp bằng
bảy báu, có lưới bằng vàng che phủ phía trên. Mỗi xe báu lại có 50 cái lọng quý
tuyệt đẹp.
Trên mỗi xe còn treo những dây hoa như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ. Những hoa ấy có cánh hoa bằng
vàng ròng, đài hoa bằng
kim cương. Giữa đài hoa có nhiều con ong màu đen bay đến
tụ tập vui thích, phát ra những
âm thanh vi diệu,
diễn giải những
lý vô thường, khổ, không,
vô ngã. Trong
âm thanh ấy cũng kể lại sự
hành đạo của Phật trước kia, khi còn là
Bồ Tát. Lại có rất nhiều các
thứ ca múa
kỹ nhạc, đàn tranh, sáo địch,
không hầu, ống tiêu, đàn sắt, trống phách... Trong tiếng nhạc lại phát ra những lời này: “Khổ thay! Khổ thay!
Thế gian sắp trống rỗng!”
Phía trước mỗi chiếc xe có những vị ưu-bà-tắc nâng hương án bằng bốn thứ báu.[22] Trên những hương án ấy có nhiều thứ hoa như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ, lại có hương uất-kim và các thứ hương xông khác
có mùi thơm
vi diệu nhất.
Vì muốn
cúng dường Phật và
chư tăng, các vị ưu-bà-tắc cũng bày biện đầy đủ các món ăn, tất cả đều được nấu bằng củi thơm chiên-đàn,
trầm thủy, và bằng
nước tám công đức.[23] Các món ăn ấy đều thơm ngon, đủ sáu
mùi vị: đắng, chua, ngọt, cay, mặn và lạt. Lại có ba
đặc tính là nhẹ mềm,
tinh khiết và đúng theo pháp.[24]
Sắp đặt mọi thứ
trang nghiêm như vậy rồi, những vị ưu-bà-tắc ấy liền đi đến quê hương của tộc họ Lực-sĩ, nơi rừng cây Sa-la Song thọ. Những vị ấy lại dùng cát vàng mà rải khắp trên mặt đất, dùng vải ca-lăng-già, vải khâm-bà-la và vải lụa nhiều màu mà phủ trên cát, bao trùm một vùng rộng 12 do-tuần,[25] và cũng vì Phật và
chư tăng mà chuẩn bị các tòa
sư tử bằng bảy thứ báu.[26] Tòa ấy cao lớn như núi Tu-di, trên các chỗ ngồi đều có giăng che trướng báu, có treo những xâu
chuỗi ngọc rủ xuống. Trên những cây sa-la đều có treo nhiều lá phướn và lọng che cực kỳ
đẹp đẽ. Lại đem hương tốt bôi lên thân cây và đem nhiều thứ hoa quý mà rải
trong khoảng giữa các cây sa-la.
Những vị ưu-bà-tắc ấy, thảy đều
phát nguyện rằng: “Trong tất cả
chúng sanh, như có điều gì
thiếu thốn: cần ăn ta sẽ cho ăn, cần uống ta sẽ cho uống,
cho đến cần đầu, cần mắt ta sẽ
bố thí cho đầu, mắt...
Tùy ý cần vật chi, ta đều
cung cấp đủ cả. Trong khi làm việc
bố thí như vậy, ta lìa khỏi lòng
tham dục, giận hờn, lòng độc địa nhơ bẩn, không còn
ý nghĩ cầu sự phước lạc ở đời, chỉ mong được quả bồ-đề
trong sạch và cao trổi nhất mà thôi.”
Những vị ưu-bà-tắc ấy đã trụ yên nơi đạo bồ-đề rồi, lại
phát khởi ý niệm rằng: “Hôm nay
Như Lai thọ nhận bữa cơm của
chúng ta rồi sẽ nhập Niết-bàn.” Niệm tưởng như vậy rồi, khắp
thân thể các vị đều sởn ốc, lông trên người dựng ngược, máu hiện dưới da, đỏ như hoa ba-la-xa, nước mắt đượm tròng, buồn đau
sầu khổ vô cùng!
Các vị ấy
đem theo đủ các món
cúng dường, dùng xe quý mà chở
gỗ thơm, cờ phướn, lọng quý, đồ ăn
thức uống, nhanh chóng đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật. Rồi đem các món ấy mà
cúng dường đức Như Lai, đi quanh
cung kính cả trăm ngàn vòng,
cất tiếng kêu khóc,
đau xót cảm động cả trời đất! Thảy đều đấm ngực mà khóc than, lệ tuôn như mưa! Họ lại bảo nhau rằng: “Khổ thay! Này các vị!
Thế gian sẽ trống rỗng!
Thế gian sẽ trống rỗng!” Liền đó, các vị ấy đến phủ phục trước
đức Như Lai và bạch rằng: “Xin
Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Thế Tôn biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Các vị
thỉnh cầu như vậy đến ba lần, nhưng Phật vẫn không nhận.
Sở nguyện không thành, các vị ưu-bà-tắc lấy làm bi ai
áo não,
lẳng lặng đứng yên một chỗ.
Ví như người cha lành chỉ có một đứa con, bỗng mang bệnh mất đi, khi đem thi hài đứa con
an táng rồi
trở về nhà, trong lòng bần thần
dã dượi,
ưu sầu khổ não. Các vị ưu-bà-tắc ấy cũng
ưu sầu khổ não như vậy. Các vị ấy bèn đem những món
cúng dường đặt tại một chỗ, rồi lui xuống
lẳng lặng ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có các vị ưu-bà-di[27] nhiều như số cát ba
sông Hằng. Đó là những người
thọ trì năm giới,
trọn vẹn oai nghi của hàng
phụ nữ tu
tại gia. Có những vị như ưu-bà-di Thọ Đức, ưu-bà-di Đức Man, ưu-bà-di Tỳ-xá-khư... tám vạn bốn ngàn vị
đứng đầu như vậy. Tất cả đều
đủ sức gánh vác,
ủng hộ,
giữ gìn Chánh pháp. Vì
cứu độ vô lượng trăm ngàn
chúng sanh nên các vị
thị hiện thân nữ. Các vị thường chê bỏ cuộc sống
gia đình,
tự quán tưởng thân như loài rắn có
bốn thứ độc.[28] Thân này thường bị
vô số côn trùng đục khoét. Thân này hôi thối, nhơ nhớp, lòng
tham dục là nhà lao
giam hãm,
trói buộc nó. Thân này đáng
chán ghét, khác nào như con chó chết. Thân này chẳng
trong sạch, từ nơi
chín lỗ[29] thường chảy ra những chất dơ nhớp. Thân này như một thành ấp, phía ngoài là lớp da, che phủ những thứ máu, thịt, gân, xương bên trong; tay và chân
ví như lầu canh, vọng gác để
ngăn ngừa quân địch; mắt như cửa thông ra ngoài; đầu như cung điện, tâm như vua ngự trong đó. Cái thân như thành ấp ấy, chư
Phật Thế Tôn đều dứt bỏ.
Kẻ
phàm ngu thường mê đắm cái thân này. Tham dâm, nóng giận,
ngu si là bọn la-sát ngừng nghỉ và trú ngụ trong đó. Thân này không bền chắc, chỉ như lau sậy, như hoa y-lan,[30] như bọt nước, như thân chuối. Thân này là
vô thường, chẳng lúc nào ngưng
biến đổi, như tia chớp, như thác nước, như ngọn lửa
ma trơi. Thân này lại như lằn vạch xuống nước, vừa vạch xong thì mặt nước đã liền như cũ. Thân này rất dễ hư hoại, như cây cao lớn mọc sát ven sông.[31] Thân này chẳng
lâu dài, như miếng mồi ngon của loài chồn, sói, chim chí, chim kiêu, diều hâu, ó, quạ, chim khách, chó đói... Ai là người có trí mà lại
ưa thích thân này chăng?
Ví như có thể đem hết nước biển cả mà chứa vào
dấu chân con bò, nhưng cũng không thể nào nói ra hết được những nỗi
vô thường, nhơ nhớp,
xấu xa, hôi hám của thân này!
Ví như có thể vò nát trái đất này và bóp nhỏ lại bằng trái táo, rồi
dần dần thu nhỏ như hạt
đình lịch,[32]
cho đến như một
hạt bụi cực nhỏ, nhưng cũng không thể nói hết những
lỗi lầm,
tai hại của thân này! Bởi vậy, nên xả bỏ nó đi như khạc bỏ đờm dãi.
Bởi
nhân duyên ấy, các vị ưu-bà-di thường
tu tâm mình bằng các pháp: Không,
Vô tướng,
Vô nguyện. Các vị rất thích thưa hỏi và vâng lãnh
kinh điển Đại thừa. Được nghe rồi, các vị cũng có thể
giảng thuyết cho kẻ khác nghe. Các vị
giữ gìn bổn nguyện,
chê trách thân nữ rất đáng lo sợ và
chán ngán, vốn
tánh không bền chắc. Lòng thường
tu tập phép
quán tưởng chánh đáng như vậy, phá dứt được
vòng sanh tử không bờ bến. Các vị khao khát, ngưỡng mộ
Đại thừa, khi đã được đầy đủ, các vị lại có thể làm cho những người đang khao
khát ngưỡng mộ cũng được đầy đủ như mình. Các vị rất
ưa thích Đại thừa,
bảo vệ,
giữ gìn Đại thừa. Tuy
thị hiện thân nữ nhưng thật ra các vị đều là
Bồ Tát. Các vị khéo
tùy thuận tất cả
thế gian,
cứu độ những người chưa được
cứu độ,
giải thoát những người chưa
được giải thoát, nối tiếp
hạt giống Tam bảo chẳng để cho dứt tuyệt. Ở đời
vị lai, các vị sẽ quay bánh xe Pháp, dùng sự
trang nghiêm rất
tốt đẹp mà tự
trang nghiêm mình,
giữ gìn giới cấm một cách
kiên cố. Các vị
thành tựu được những
công đức như vậy. Đối với
chúng sanh, các vị sanh lòng
đại bi,
bình đẳng yêu thương tất cả đồng như con một của mình.
Cũng vào lúc tảng sáng, khi
mặt trời vừa mọc, các vị ưu-bà-di ấy bảo nhau rằng: “Hôm nay
chúng ta phải đến rừng cây Song thọ.” Các vị
đem theo những thức
cúng dường nhiều hơn cả các vị ưu-bà-tắc như đã kể trên. Đi đến chỗ Phật, các vị
đảnh lễ sát
chân Phật, đi quanh
cung kính cả trăm ngàn vòng rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Nay vì Phật và
chư tăng, chúng con đã sắm sửa các món
cúng dường. Xin
Như Lai thương xót, nhận cho sự
cúng dường của chúng con.”
Đức Như Lai lặng thinh chẳng nhận.
Sở nguyện không thành, các vị ưu-bà-di lấy làm buồn bã, bèn lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy, lại có những người thuộc tộc họ Ly-xa[33] ở thành Tỳ-da-li,[34] kẻ nam người nữ, kẻ lớn người nhỏ, cùng với
vợ con,
quyến thuộc, cùng
quyến thuộc của các vua trong cõi Diêm-phù-đề, tất cả nhiều như số cát bốn
sông Hằng. Vì
cầu pháp, họ khéo tu
giới hạnh, đầy đủ các
oai nghi, thắng phục được những kẻ theo tà phái hủy hoại
Chánh pháp. Họ thường bảo nhau rằng: “Chúng ta nên đem
vàng bạc,
tài sản thế gian mà làm cho
cam lộ, kho báu sâu kín của
Chánh pháp vô tận được
tồn tại lâu dài ở đời. Nguyện cho
chúng ta thường được
tu học. Nếu có kẻ
phỉ báng Chánh pháp của Phật, ta nên chặn dứt ngay những lời lẽ của họ.” Họ lại có nguyện rằng: “Nếu có những người
xuất gia hủy
phá giới cấm,
chúng tôi sẽ buộc họ phải
trở lại thế tục mà làm hạng tôi tớ. Còn như những vị có thể
gắng sức hộ trì Chánh pháp,
chúng tôi sẽ
kính trọng, hầu hạ như
cha mẹ. Nếu có
chúng tăng thường tu theo
Chánh pháp,
chúng tôi sẽ
vui vẻ tán trợ, giúp cho
chư tăng ấy được thêm
sức mạnh.”
Các vị ấy thường thích nghe
kinh điển Đại thừa. Được nghe rồi, cũng có thể nói rộng ra cho người khác nghe. Các vị đều
thành tựu công đức như vậy. Tên của các vị là: Ly-xa Tịnh
Vô Cấu Tạng, Ly-xa Tịnh
Bất Phóng Dật, Ly-xa
Hằng Thủy Vô Cấu Tịnh Đức... Các vị ấy bảo nhau rằng: “Hôm nay,
chúng ta nên nhanh chân đến chỗ
đức Phật.” Rồi các vị liền chuẩn bị đầy đủ các thức
cúng dường. Mỗi người trong họ Ly-xa đều chuẩn bị tám mươi bốn ngàn thớt voi lớn, tám mươi bốn ngàn cỗ xe báu thắng bằng bốn ngựa, tám mươi bốn ngàn hạt
bảo châu minh nguyệt. Còn có những bó củi bằng cây thiên mộc, chiên-đàn,
trầm thủy, mỗi thứ cũng đủ số tám mươi bốn ngàn. Phía trước mỗi thớt voi đều có cờ báu, phướn, lọng. Những cái lọng nhỏ nhất chu vi ngang dọc cũng choán trọn một do-tuần. Những lá phướn ngắn nhất, bề dài cũng đến ba mươi hai do-tuần. Những cây cờ thấp nhất cũng cao đến trăm do-tuần.
Mang theo những thức
cúng dường như vậy, các vị ấy đến chỗ Phật,
đảnh lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng
cung kính rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Hôm nay, vì Phật và
chư tăng, chúng con chuẩn bị các món
cúng dường. Xin
Như Lai đem lòng
thương xót, thọ nhận sự
cúng dường của chúng con.”
Như Lai lặng thinh không nhận.
Sở nguyện không thành, những người họ Ly-xa lấy làm
sầu não. Nhờ sức thần của Phật, họ rời khỏi mặt đất, bay lên cao đến bảy cây đa-la[35] và đứng lặng giữa
hư không.
Lúc ấy, lại có những vị đại thần,
trưởng giả, nhiều như số cát năm
sông Hằng, đều là những người
kính trọng Đại thừa. Nếu có những kẻ học theo thuyết khác
phỉ báng Chánh pháp, những vị ấy đều
đủ sức thắng phục như mưa đá làm hư gãy cây cỏ. Trong số các vị ấy,
Trưởng giả Nhật Quang,
Trưởng giả Hộ Thế,
Trưởng giả Hộ Pháp là những vị
đứng đầu. Các vị ấy chuẩn bị những thức
cúng dường nhiều gấp năm lần so với những thứ vừa nói trên, rồi cùng nhau đi đến rừng Sa-la Song thọ, cúi đầu lạy sát
chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng
cung kính, rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Hôm nay vì Phật và
chư tăng, chúng con sửa soạn các món đồ cúng. Xin
Như Lai thương xót, thọ nhận sự
cúng dường của chúng con.”
Như Lai lặng thinh chẳng nhận.
Sở nguyện không thành, các vị
trưởng giả lấy làm
sầu não. Nhờ sức thần của Phật, họ đều rời khỏi mặt đất, lên cao đến bảy cây đa-la và đứng lặng giữa
hư không.
Lúc ấy lại có vua thành Tỳ-xá-ly với
phu nhân, hậu cung và
quyến thuộc, cùng với các vua trong cõi Diêm-phù-đề như vua Nguyệt
Vô Cấu... và
nhân dân các thành ấp, làng mạc, nhiều như số cát sáu
sông Hằng,
trừ ra vua A-xà-thế là
vắng mặt. Mỗi vị vua đều có quân đội
uy nghiêm đủ bốn hạng quân,[36] sắp đến chỗ Phật. Mỗi vua có một trăm tám mươi muôn ức
nhân dân và
quyến thuộc. Các chiến xa đều thắng bằng voi hoặc ngựa. Voi có sáu ngà, ngựa có thể chạy nhanh như gió. Những thức
cúng dường bày ra nhiều gấp sáu lần so với những thứ vừa nói trên. Trong số lọng quý, những cái nhỏ nhất chu vi ngang dọc cũng chiếm trọn 8 do-tuần. Những lá phướn ngắn nhất cũng dài đến 16 do-tuần. Những cờ quý, nhỏ thấp nhất cũng đến 36 do-tuần.
Các vua ấy đều đã
vững vàng trong
Chánh pháp. Các vị khinh ghét
tà pháp,
kính trọng Đại thừa,
hết sức ưa thích Đại thừa. Các vị
thương yêu chúng sanh đồng như con một của mình. Những
thức ăn uống mà các vị
đem theo tỏa hương thơm ra quanh đó đến 4 do-tuần. Cũng
vừa lúc tảng sáng, khi
mặt trời vừa mọc, các vua ấy
mang theo rất nhiều
thức ăn ngon ngọt bậc nhất, đến chỗ Phật nơi rừng Sa-la Song thọ, bạch rằng: “Thế Tôn! Nay vì Phật và chư tỳ-kheo tăng, chúng con đã chuẩn bị mọi thức
cúng dường. Xin
Như Lai rủ lòng
thương xót, nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên cũng không nhận.
Sở nguyện không thành, các vua ấy lấy làm
sầu não, bèn lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy lại có những vị
phu nhân của các vua, nhiều như số cát bảy
sông Hằng, chỉ trừ
phu nhân của vua A-xà-thế. Vì độ
chúng sanh, các vị ấy
thị hiện mang thân nữ, nhưng thường quán xét các hạnh của thân. Các vị
tu tâm bằng những pháp: Không,
Vô tướng,
Vô nguyện. Trong số các vị ấy,
Phu nhân Tam Giới Diệu,
Phu nhân Ái Đức là những vị
đứng đầu. Các vị
phu nhân ấy, thảy đều đã
vững vàng trong
Chánh pháp,
thọ trì giới cấm, đầy đủ
oai nghi,
thương yêu chúng sanh đồng như con một của mình. Các vị nói
với nhau rằng: “Hôm nay phải nhanh chóng đến chỗ
đức Thế Tôn.”
Các vị
phu nhân ấy chuẩn bị những thức
cúng dường nhiều gấp bảy lần so với những thứ vừa nói trên, như: hương, hoa, cờ báu, hàng lụa, lọng, phướn, những
thức ăn uống ngon bậc nhất. Những lọng báu nhỏ nhất, chu vi ngang dọc cũng đến 16 do-tuần. Những lá phướn ngắn nhất cũng đến 36 do-tuần. Những cây cờ báu nhỏ, thấp nhất cũng đến 68 do-tuần. Hương thơm từ
thức ăn thức uống tỏa ra quanh đó đến 8 do-tuần. Các vị
đem theo mọi thức
cúng dường như vậy, đến chỗ
Như Lai, cúi lạy sát
chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng
cung kính, rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Chúng con chuẩn bị mọi thức
cúng dường này để dâng lên Phật và chư tỳ-kheo tăng. Xin
Như Lai rủ lòng
thương xót, nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng này của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Bấy giờ,
sở nguyện không thành nên các vị
phu nhân trong lòng
sầu não, vò đầu
bứt tóc, đấm ngực kêu khóc lớn tiếng như có đứa con yêu vừa chết. Rồi các vị lui xuống
đứng yên một bên.
Lúc ấy lại có các vị
thiên nữ, nhiều như số cát tám
sông Hằng. Trong số ấy,
thiên nữ Quảng Mục là bậc
đứng đầu,
lên tiếng nói rằng: “Này các chị! Hãy nhìn cho kỹ! Hãy nhìn cho kỹ! Các hàng
đại chúng kia đã chuẩn bị đủ mọi thức
cúng dường tốt đẹp để
cúng dường đức Như Lai và chư tỳ-kheo tăng.
Chúng ta cũng nên làm như vậy, chuẩn bị
nghiêm trang những thức
cúng dường thật
tốt đẹp để
cúng dường Như Lai.
Đức Như Lai sau khi thọ nhận sẽ nhập Niết-bàn. Thưa các chị! Rất khó mà gặp Phật ra đời. Được
cúng dường đức Phật lần
cuối cùng lại càng khó hơn! Nếu Phật nhập Niết-bàn,
thế gian sẽ trống rỗng!”
Các vị
thiên nữ ấy
ưa thích Đại thừa, muốn
nghe pháp Đại thừa. Được nghe rồi, các vị cũng có thể
giảng thuyết rộng cho người khác nghe. Các vị khao
khát ngưỡng mộ
Đại thừa. Khi đã được đầy đủ lại có thể làm cho những người đang khao
khát ngưỡng mộ cũng được đầy đủ như mình. Các vị
bảo vệ,
gìn giữ Đại thừa. Nếu có kẻ học theo các pháp khác rồi đem lòng
ganh ghét Đại thừa, các vị
đủ sức đả phá và
tiêu diệt tà kiến của họ, như mưa đá làm hư hại cây cỏ. Các vị
hộ trì giới hạnh, đầy đủ
oai nghi. Các vị khéo
tùy thuận tất cả
thế gian,
cứu độ những kẻ chưa được
cứu độ,
giải thoát những kẻ chưa
được giải thoát. Ở đời
vị lai, các vị sẽ quay bánh xe Pháp, nối tiếp
hạt giống Tam bảo chẳng để cho dứt tuyệt. Các vị
tu học Đại thừa, dùng sự
trang nghiêm tốt đẹp mà tự
trang nghiêm mình. Các vị
thành tựu vô lượng công đức như vậy. Có
lòng từ bình đẳng, đối với tất cả
chúng sanh đều
xem như con một của mình.
Cũng vào lúc tảng sáng,
mặt trời vừa mọc, các vị
thiên nữ ấy
đem theo nhiều thứ
gỗ thơm cõi trời, vượt xa
các loại gỗ thơm có ở
cõi người. Hương thơm từ những
gỗ thơm ấy bay ra có thể làm mất đi mọi
thứ xấu xa, hôi hám ở
cõi người. Các vị cũng
đem theo những cỗ xe trắng có che lọng trắng, kéo bằng bốn con ngựa bạch, trên xe có giăng màn trướng màu trắng, bốn bên mỗi bức trướng đều có treo những chuông vàng. Lại có đủ
các loại hương, hoa, cờ báu, lọng, phướn, những
thức ăn ngon bậc nhất, các thứ
kỹ nhạc, đều bày giăng nơi tòa
sư tử. Bốn chân của tòa
sư tử toàn bằng ngọc
lưu ly xanh. Phía sau mỗi tòa đều có giường nằm bằng
bảy món báu, phía trước lại có một án nhỏ bằng vàng. Lại dùng
bảy món báu mà làm thành những cây đèn, và dùng mọi thứ
châu báu mà làm ánh sáng đèn. Những đóa hoa trời
vi diệu rải khắp trên mặt đất nơi ấy.
Các vị
thiên nữ chuẩn bị mọi thức
cúng dường rồi, trong lòng xúc cảm
đau đớn, nước mắt chan hòa,
khổ não vô cùng. Nhưng cũng vì muốn
lợi ích và
an lạc cho
chúng sanh, vì muốn
thành tựu hạnh Không bậc nhất của
Đại thừa, làm rõ bày
giáo pháp phương tiện sâu kín của
Như Lai; vì muốn các môn
thuyết pháp không bị dứt mất, nên các vị ấy liền đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng
cung kính, rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành, các vị
thiên nữ trong lòng
sầu não, lui xuống
đứng yên một bên.
Lúc ấy, lại có các vị
long vương ở bốn phương, nhiều như số cát chín
sông Hằng. Trong
hàng long vương ấy,
Long Vương Hòa-tu-kiết,
Long Vương Nan-đà,
Long Vương Bà-nan-đà là những vị
đứng đầu. Cũng vào lúc tảng sáng, khi
mặt trời vừa mọc, các vị
long vương chuẩn bị những món
cúng dường gấp bội phần so với của
loài người và
chư thiên. Các vị ấy đem đến chỗ Phật, cúi đầu lạy sát
chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng, rồi bạch rằng: “Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành, các vị
long vương trong lòng
sầu não, ngồi sang một bên.
Lúc ấy lại có các vua
quỷ thần, nhiều như số cát mười
sông Hằng. Trong các vua ấy, vua Tỳ-sa-môn là vị
đứng đầu. Họ bảo nhau rằng: “Các vị! Hôm nay nên nhanh chóng đến chỗ Phật ngự.” Rồi họ chuẩn bị các thức
cúng dường nhiều gấp bội phần so với của các vị
long vương vừa nói trên,
mang đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật trăm ngàn vòng
cung kính, rồi bạch rằng: “Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận.
Sở nguyện không thành, các vị vua
quỷ thần trong lòng
sầu não,
lui lại ngồi sang một bên.
Lúc ấy, lại có các vị vua của loài
chim cánh vàng,[37] nhiều như số cát 20
sông Hằng. Trong đó, chim chúa Hàng Oán là vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài càn-thát-bà, nhiều như số cát 30
sông Hằng. Trong đó, vua Na-la-đạt là vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài khẩn-na-la, nhiều như số cát 40
sông Hằng. Trong đó, vua
Thiện Kiến là vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài ma-hầu-la-già, nhiều như số cát 50
sông Hằng. Trong đó, vua
Đại Thiện Kiến là vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài a-tu-la, nhiều như số cát 60
sông Hằng. Trong đó, vua Siểm-bà-lỵ là vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài đà-na-bà, nhiều như số cát 70
sông Hằng. Trong đó, vua
Vô Cấu Hà Thủy và vua Bạc-đề-đạt-đa là những vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài la-sát, nhiều như số cát 80
sông Hằng. Trong đó, vua Khả Úy là vị
đứng đầu. Các vị này đã
lìa bỏ tâm
ác độc,
mãi mãi chẳng còn
ăn thịt người. Đối với sự oán ghét, các vị sanh
lòng từ bi.
Hình tướng của họ vốn
xấu xí, nhưng nhờ sức thần của Phật, thảy đều trở nên
đoan chính.
Lại có các vị vua của loài thần cây trong rừng, nhiều như số cát 90
sông Hằng. Trong đó, vua Nhạo Hương là vị
đứng đầu.
Lại có các vị vua của loài trì-chú, nhiều như số cát một ngàn
sông Hằng. Trong đó, vua Trì-chú Đại Huyễn là bậc
đứng đầu.
Lại có loài quỷ mỵ tham sắc, nhiều như số cát một ức
sông Hằng. Trong đó, vua
Thiện Kiến là vị
đứng đầu.
Lại có các vị thể nữ trên
cõi trời, nhiều như số cát một trăm ức
sông Hằng. Trong hàng thể nữ ấy, các cô Lam-bà, Uất-bà-thi, Đế-lộ-triêm, Tỳ-xá-khư là những vị
đứng đầu.
Lại có các vị quỷ vương dưới mặt đất, nhiều như số cát ngàn ức
sông Hằng. Trong đó, Bạch Thấp vương là vị
đứng đầu.
Lại có các vị
thiên tử trên các
cõi trời, nhiều như số cát ngàn muôn ức
sông Hằng, cùng các vị
Thiên vương và bốn
Thiên vương [ở bốn phương]...
Lại có các vị thần gió ở bốn phương, nhiều như số cát mười vạn ức
sông Hằng. Các vị ấy thổi trên các cây, làm cho những hoa nở đúng mùa và không đúng mùa đều rơi rải khắp rừng cây Sa-la Song thọ.
Lại có các vị thần lo việc mây mưa, nhiều như số cát mười muôn ức
sông Hằng. Thảy đều phát sanh
ý nghĩ này: “Như Lai sắp nhập Niết-bàn. Đến lúc thiêu nhục thân ngài,
chúng ta sẽ làm mưa để rưới tắt lửa. Khi ấy,
đại chúng đang lúc phiền muộn nóng nảy,
chúng ta sẽ làm cho tất cả đều được
mát mẻ.”
Lại có các vị voi chúa lớn, nhiều như số cát 20
sông Hằng. Trong số ấy, voi chúa La-hầu, voi chúa
Kim Sắc, voi chúa Cam Vị, voi chúa Hám Nhãn, voi chúa Dục Hương là những vị
đứng đầu. Các vị
kính trọng Đại thừa,
ưa thích Đại thừa, biết rằng còn chẳng bao lâu Phật sẽ
buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn, nên các vị
mang theo vô số những
hoa sen thơm đẹp đến chỗ Phật, cúi đầu
lễ Phật, rồi lui xuống đứng sang một bên.
Lại có các vị
sư tử chúa, nhiều như số cát 20
sông Hằng. Trong đó, chúa
Sư Tử Hống là bậc
đứng đầu. Các
sư tử ấy ban phát cho tất cả
chúng sanh đức không sợ sệt, đều
mang theo nhiều
hoa quả đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, rồi lui xuống đứng sang một bên.
Lại có các vị vua của loài chim và các loài chim như: chim phù, chim nhạn, uyên, ương, se sẻ, càn-thát-bà, ca-lan-đà, sáo, két, câu-si-la, bà-hi-già, ca-lăng-tần-già, kỳ-bà-kỳ-bà... nhiều như số cát 20
sông Hằng. Các loài chim ấy đều
mang theo hoa quả đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, rồi lui xuống đứng sang một bên.
Lại có những trâu, bò, dê... nhiều như số cát 20
sông Hằng, cùng đến chỗ Phật, tuôn ra những loại sữa ngon ngọt thơm tho. Sữa ấy chảy đầy khắp các mương rãnh, hầm hố trong thành Câu-thi-na, có đủ các màu sắc, hương thơm và vị ngọt. Sau khi hiến sữa, tất cả đều lui xuống đứng sang một bên.
Lại có các vị
thần tiên[38] trong khắp
bốn cõi thiên hạ, nhiều như số cát 20
sông Hằng, do vị tiên
Nhẫn Nhục đứng đầu. Các vị ấy
mang theo hoa thơm và trái ngọt đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật ba vòng
cung kính rồi bạch rằng: “Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành, các vị
thần tiên ấy trong lòng
sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lại có tất cả những con ong chúa trong cõi Diêm-phù-đề, trong đó có ong chúa
Diệu Âm dẫn đầu,
mang theo đủ
các loại hoa đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, bay quanh Phật một vòng
cung kính rồi lui xuống tránh sang một bên.
Lúc ấy, tất cả tỳ-kheo và tỳ-kheo ni trong cõi Diêm-phù-đề đều tụ hội lại, chỉ trừ hai chúng của
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và của ngài A-nan.
Lại có các quả núi ở khoảng giữa
thế giới và trong cõi Diêm-phù-đề, nhiều như số cát
vô số sông Hằng. Trong các núi ấy, núi chúa Tu-di là
đứng đầu. Những núi ấy
trang nghiêm, rừng rú sum suê, cây cối tươi tốt, cành nhánh san sát che bóng
mặt trời. Các thứ
hoa thơm lạ nở đầy khắp núi. Suối chảy như rồng uốn khúc, nước
trong sạch, thơm tho.
Chư thiên, loài rồng, thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già và các vị
thần tiên chú thuật, thảy đều
xướng họa đàn ca khắp nơi trong núi. Các thần núi ấy cũng đi đến chỗ Phật ngự, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, rồi lui xuống đứng sang một bên.
Lại có các thần bốn biển cả và các thần sông nhiều như số cát
vô số sông Hằng. Các vị ấy có
oai đức lớn, đủ phép
thần túc lớn.[39] Các vị chuẩn bị những thức
cúng dường nhiều gấp bội so với những thứ vừa nói trên.
Hào quang nơi thân các vị thần ấy và
ánh đèn sáng soi khi các vị múa hát làm
cho không còn ai có thể nhìn thấy
mặt trời,
mặt trăng. Các vị dùng hoa chiêm-bà rảy trên sông Hy-liên, cùng đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật rồi lui xuống đứng sang một bên.
Bấy giờ, toàn cảnh rừng cây sa-la ở thành Câu-thi-na đều đổi sang màu trắng như
bạch hạc. Trên
hư không tự nhiên có những nhà cửa, lầu gác bằng
bảy báu, chạm hình khắc chữ và
thêu dệt đường nét
rõ ràng, có các món báu bao quanh theo những lan can. Phía dưới các nhà cửa, lầu gác ấy lại có suối nước, ao tắm. Trong ấy có những
hoa sen đẹp và thơm tho nhất nở rộ khắp nơi, giống như cõi Uất-đan-việt ở phương bắc, lại cũng giống như
vườn Hoan Hỷ ở cung trời Đao-lợi.
Lúc ấy, ở khoảng giữa rừng cây sa-la cũng có đủ mọi sự
trang nghiêm vui thích như vậy. Các hàng
chư thiên, người và a-tu-la đều thấy rõ tướng Niết-bàn của
Như Lai, thảy đều
cảm động,
đau xót,
ưu sầu chẳng vui.
Lúc ấy, bốn vị
thiên vương và Đế-thích bảo nhau rằng: “Các ngài hãy xem kìa!
Chư thiên,
loài người và a-tu-la đều thiết lễ
cúng dường rất lớn, đều muốn
cúng dường đức Như Lai lần
cuối cùng.
Chúng ta cũng nên
cúng dường như vậy. Nếu
chúng ta được
cúng dường Phật lần
cuối cùng,
chúng ta sẽ
thành tựu hạnh
bố thí một cách
trọn vẹn và dễ dàng.”
Lúc ấy, bốn vị
thiên vương chuẩn bị các thức
cúng dường nhiều gấp bội so với những thứ vừa nói trên. Các vị
đem theo những hoa mạn-đà-la, hoa ca-chỉ-lâu-già, hoa mạn-thù-sa, hoa tán-đa-ni-ca, hoa
ái lạc, hoa
phổ hiền, hoa thời, hoa hương thành, hoa
hoan hỷ,
hoa phát dục, hoa hương túy, hoa
phổ hương, mỗi thứ đều có đủ hai loại cỡ nhỏ và cỡ lớn; cùng với các
hoa thiên kim diệp, hoa long, hoa ba-lị-chất-đa, hoa câu-tỳ-đà-la... Các vị lại
mang theo đủ các
thức ăn ngon bậc nhất đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật.
Hào quang của các vị ấy chiếu ra làm
cho không còn ai có thể nhìn thấy
mặt trời,
mặt trăng. Các vị
mang đến những
lễ vật ấy, đều muốn
cúng dường Phật.
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành, Đế-thích và
chư thiên buồn
đau khổ não, lui xuống đứng sang một bên.
Cho đến chư thiên ở
cõi trời thứ sáu trong
Dục giới[40] cũng chuẩn bị các thức
cúng dường. Những thức
cúng dường đem đến sau lại
dần dần tăng nhiều hơn những thứ đã đem đến trước, như: cờ báu, lọng, phướn... Lọng báu nhỏ nhất cũng che trùm
Bốn cõi thiên hạ.[41] Lá phướn ngắn nhất cũng bao quanh được bốn biển. Cờ nhỏ thấp hơn hết cũng từ mặt đất lên tới
cõi trời Tự tại. Gió nhẹ thổi động những lá phướn, phát ra
âm thanh vi diệu.
Chư thiên mang theo những
thức ăn ngon nhất đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật rồi bạch rằng: “Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành,
chư thiên ấy trong lòng
sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Các vị
chư thiên từ
cõi trời Phạm thiên trở lên
cho đến cõi trời Hữu đỉnh[42] đều đến
tụ họp.
Lúc ấy, vua
Đại Phạm thiên và
chư thiên ở
cõi trời ấy
phóng hào quang từ nơi
thân thể mình ra, chiếu khắp
Bốn cõi thiên hạ và
Dục giới của
loài người với
chư thiên. Do ánh sáng ấy, không còn ai trông thấy được
mặt trời,
mặt trăng. Các ngài
đem theo cờ báu, lọng và phướn bằng lụa. Lá phướn ngắn nhất cũng treo từ
trời Phạm thiên xuống tới giữa những cây sa-la. Các vị đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, rồi bạch rằng: “Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành,
chư thiên ở cõi
Phạm thiên trong lòng
sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy, vua Tỳ-ma-chất-đa của loài a-tu-la cùng với
vô số a-tu-la và tất cả
quyến thuộc thảy đều hội họp.
Hào quang nơi thân các vị ấy trội hơn cả
hào quang của
chư thiên ở cảnh
trời Phạm thiên. Các vị ấy
đem theo cờ báu, lọng và phướn bằng lụa. Những chiếc lọng nhỏ nhất cũng che trùm cả ngàn
thế giới.[43] Các vị ấy
đem theo thức ăn ngon ngọt bậc nhất đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, rồi bạch rằng: “Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh không nhận.
Sở nguyện chẳng thành, các vị a-tu-la trong lòng
sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy,
Ma vương Ba-tuần ở
Dục giới cùng với
quyến thuộc, các thể nữ
cõi trời và
vô số chúng ma đến mở
cửa địa ngục,
bố thí nước
thanh tịnh, nhân đó bảo rằng: “Nay các người không thể làm được điều gì cả, chỉ nên
chuyên tâm niệm tưởng
đức Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri...
tùy tâm hoan hỷ chuẩn bị các thức
cúng dường lần
cuối cùng. Nhờ đó, các người sẽ được sự an vui
lâu dài.”
Lúc ấy, ma Ba-tuần
dẹp bỏ hết đao kiếm và
vô số các món khổ độc ở
địa ngục; lửa đang cháy bùng rất mạnh bỗng bị mưa lớn làm cho tắt hẳn. Nhờ
oai thần của Phật,
Ma vương lại
phát tâm rằng: “Xin cho
quyến thuộc của ta đều bỏ hết đao kiếm, cung nỏ, áo giáp, trượng, xà mâu, giáo sóc, câu móc dài, chùy sắt, rìu, búa, vòng đánh, dây trói...” Rồi
Ma vương và
quyến thuộc đem theo những thức
cúng dường trội hơn tất cả những thứ mà
loài người và
chư thiên đã
mang đến. Lọng nhỏ nhất cũng che trùm cả một
trung thiên thế giới.[44] Tất cả đều đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật rồi bạch rằng: “Nay chúng con
ưa thích Đại thừa, muốn
gìn giữ bảo vệ Đại thừa. Bạch Thế Tôn! Như có kẻ nam người nữ lòng lành vì muốn
cúng dường, hoặc vì sợ sệt, hoặc vì dối gạt kẻ khác, hoặc vì
của cải lợi lộc, hoặc vì nương theo người khác mà nhận lãnh pháp
Đại thừa này, dù là
chân thật hay
dối trá, lúc đó chúng con cũng vì người ấy mà dứt trừ sự sợ sệt, thuyết ra câu chú này:
“Trác chỉ, trá sá la trác chỉ, lô ha lệ,
ma ha lô ha lệ,
a la già la,
đa la tá ha!
“Chú này có thể làm cho những kẻ
mất hồn, những kẻ sợ sệt, những người
thuyết pháp đều chẳng
gián đoạn Chánh pháp. Chúng con vì muốn
hàng phục ngoại đạo,
gìn giữ tự thân,
bảo vệ Chánh pháp,
bảo vệ Đại thừa nên thuyết ra chú này. Những ai có thể
trì chú này,
hình tượng hung dữ không làm cho họ sợ. Nếu đến nơi đồng không, đầm vắng, chỗ nguy hiểm, cũng chẳng sanh tâm sợ sệt. Cũng khỏi bị những nạn như nước, lửa,
sư tử, cọp, chó sói, trộm cướp, phép vua luật nước...
“Bạch Thế Tôn! Nếu ai trì được chú này thì dứt hết mọi nỗi lo sợ kể trên. Thế Tôn! Chúng con sẽ
bảo hộ người
trì chú ấy như cái mu rùa
bảo hộ toàn thân con rùa.
“Bạch Thế Tôn! Hôm nay, chúng con không đem lòng nịnh hót mà nói ra việc ấy. Đối với người
trì chú này, chúng con sẽ đem
hết lòng thành mà giúp thêm
sức mạnh cho người ấy. Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con.”
Lúc ấy,
Phật bảo ma Ba-tuần rằng: “Ta không thọ nhận những
thức ăn uống do ông
cúng dường. Nhưng vì muốn làm
an lạc cho tất cả
chúng sanh, cho
Bốn bộ chúng[45] nên ta
chấp nhận thần chú mà ông vừa thuyết đó.”
Nói rồi, Phật lặng thinh không nhận
cúng dường.
Ma vương thỉnh cầu đến ba lần, Phật vẫn không nhận.
Lúc ấy,
sở nguyện chẳng thành,
Ma vương Ba-tuần trong lòng
sầu não, lui xuống đứng sang một bên.
Lúc ấy, vua trời
Đại Tự tại cùng với
vô số quyến thuộc và
chư thiên ở
cõi trời của ngài cũng chuẩn bị những thức
cúng dường bao trùm hơn tất cả những thức
cúng dường của vua
Phạm thiên, Đế-thích,
bốn Thiên vương Hộ thế[46] và của tám bộ trời người[47] với hàng
phi nhân.[48] So với những thức
cúng dường này, những thức
cúng dường của
Phạm thiên và Đế-thích chỉ như chấm mực đen đặt cạnh
các loại ngọc quý, không thể tỏa sáng được. Những lọng báu nhỏ nhất của các vị cũng có thể che trùm trọn cõi
tam thiên đại thiên thế giới.
Các vị
mang theo mọi thức
cúng dường như vậy đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật
vô số vòng
cung kính rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Những
lễ vật mà chúng con muốn
cúng dường đây thật là nhỏ nhen, chỉ giống như
lễ vật của con muỗi
mang đến cúng dường chúng con; lại cũng giống như người đem một bụm nước giữa hai bàn tay mà đổ xuống biển cả; như ánh sáng một
ngọn đèn nhỏ mà góp vào cho ánh sáng của trăm ngàn
mặt trời; như trong
mùa xuân,
mùa hạ, các loài hoa đều tươi tốt, lại có người cầm một đóa hoa để làm tăng thêm số hoa; như lấy hạt
đình lịch để làm cho núi Tu-di to lớn thêm! Những
việc làm như vậy há có ích gì cho biển cả, cho ánh sáng
mặt trời, cho đám hoa và cho núi Tu-di kia đâu?
“Bạch Thế Tôn!
Lễ vật mà chúng con
phụng hiến hôm nay cũng ít oi, nhỏ bé như vậy. Dầu cho đem tất cả hương, hoa,
kỹ nhạc, phướn, lọng trong toàn cõi
tam thiên đại thiên thế giới mà
cúng dường Như Lai, cũng chẳng gọi là đủ. Vì sao vậy? Vì
Như Lai đã thường vì
chúng sanh mà chịu mọi
khổ não trong các đường ác:
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh. Vậy xin
Như Lai rủ lòng
thương xót, nhận cho sự
cúng dường của chúng con.”
Lúc ấy, về phương đông cách cõi Ta-bà này
vô số thế giới nhiều như số cát của
vô số con
sông Hằng, nhiều như số
hạt bụi cực nhỏ, có một
cõi Phật tên là
Ý Lạc Mỹ Âm.
Đức Phật ở cõi ấy hiệu là
Hư Không Đẳng,
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn.
Bấy giờ,
đức Phật Hư Không Đẳng bảo vị
đại đệ tử lớn nhất của ngài rằng: “Thiện nam tử! Hôm nay ông nên sang
thế giới Ta-bà ở phương tây. Ở cõi ấy có
Phật hiệu là
Thích-ca Mâu-ni,
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn. Còn không bao lâu Phật ấy sẽ nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Ông nên
mang theo cơm gạo thơm của
thế giới này. Cơm ấy thơm tho ngon ngọt, ăn vào sẽ được
an ổn. Có thể dùng món cơm này
phụng hiến đức Phật ấy, ngài dùng xong sẽ nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Các ông đều nên
kính lễ đức Phật ấy và
thỉnh cầu ngài giảng rõ cho những chỗ còn chưa rõ [trong
Chánh pháp].”
Lúc ấy,
Đại Bồ Tát Vô Biên Thân[49]
vâng lời dạy của Phật
Hư Không Đẳng, bèn
đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật, đi quanh Phật ba vòng
cung kính theo tay mặt, rồi dẫn theo
vô số các vị
Bồ Tát từ cõi
thế giới ấy cùng đến
thế giới Ta-bà.
Đúng lúc ấy, trong cõi
tam thiên đại thiên thế giới này, khắp mặt đất
chấn động theo sáu cách.[50] Bấy giờ,
đại chúng gồm tất cả những vị
đi theo Phạm Vương, Đế-thích,
Tứ Thiên vương,
Ma vương Ba-tuần, Ma-hê-thủ-la bỗng thấy mặt đất
chấn động như
vậy thì lông trên mình đều dựng ngược, cổ họng và lưỡi khô khan, sanh lòng sợ sệt, run rẩy... Tất cả đều muốn phân tán đi bốn phương. Khi nhìn lại thân mình, các vị thấy chẳng còn
hào quang và
oai nghi phước đức đều đã mất hết.
Lúc ấy Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi liền
đứng dậy khỏi chỗ ngồi, bảo
đại chúng rằng: “Chư
thiện nam tử! Các vị đừng hoảng sợ. Vì sao vậy? Về phương đông cách cõi Ta-bà này
vô số thế giới nhiều như số cát của
vô số sông Hằng, nhiều như số
hạt bụi cực nhỏ, có một
cõi Phật tên là
Ý Lạc Mỹ Âm.
Đức Phật ở cõi ấy hiệu là
Hư Không Đẳng,
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri... đủ
mười danh hiệu. Ở cõi ấy có một vị
Bồ Tát tên là
Vô Biên Thân, cùng với
vô số Bồ Tát muốn đến cõi này
cúng dường đức Như Lai của
chúng ta. Do
oai đức của các vị
Bồ Tát ấy nên đã làm cho
hào quang nơi thân các vị không
hiện ra được nữa. Vậy các vị nên sanh lòng
hoan hỷ, chớ nên sợ sệt.”
Bấy giờ,
đại chúng của
đức Phật Thích-ca nhìn xa về phương đông đều thấy được
đức Phật Hư Không Đẳng và
đại chúng của ngài,
ví như nhìn vào tấm gương mà thấy rõ chính mình.
Liền đó, ngài Văn-thù-sư-lợi lại bảo
đại chúng: “Nay các vị đã thấy rõ
đức Phật kia [ở phương đông] và
đại chúng của ngài, cũng như thấy
đức Phật Thích-ca nơi đây. Nhờ
oai thần của Phật, các vị sẽ được nhìn thấy cả
vô số chư Phật ở chín phương khác.”[51]
Bấy giờ,
đại chúng đều bảo nhau rằng: “Khổ thay! Khổ thay!
Thế gian sắp trống rỗng!
Thế gian sắp trống rỗng! Còn không bao lâu
Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Ngay
lúc ấy,
ai nấy trong
đại chúng đều nhìn thấy
Bồ Tát Vô Biên Thân và
quyến thuộc[52] của ngài. Nơi thân
Bồ Tát ấy, mỗi lỗ chân lông đều
xuất hiện một đóa
hoa sen lớn. Mỗi
hoa sen chứa bảy muôn tám ngàn thành ấp. Mỗi thành ấp đều rộng lớn vuông vức bằng đô thành Tỳ-da-ly; tường trong, tường ngoài và những hào sâu đều
xây đắp bằng
bảy báu xen lẫn nhau, những cây quý đa-la mọc lên có thứ tự, gồm bảy lớp. Trong thành ấy
nhân dân phồn thạnh,
an ổn,
phong phú,
vui vẻ. Những lầu canh đều được làm bằng
vàng ròng. Ở mỗi lầu canh có những cây bằng
bảy báu mọc thành rừng, hoa trái tươi tốt, gió nhẹ thổi động, phát ra
âm thanh vi diệu.
Âm thanh ấy
hòa nhã như tiếng
nhạc trời.
Nhân dân trong thành
nghe được âm thanh ấy lấy làm khoái lạc,
sung sướng vô cùng. Trong những hào vây quanh thành chứa đầy nước ngọt, thơm tho và
trong vắt như
lưu ly. Trên mặt nước có những chiếc thuyền bằng
bảy báu. Những người ngồi thuyền, hoặc đi
du ngoạn hay tắm rửa, cùng nhau
vui hưởng sự khoái lạc
vô cùng.
Lại có
vô số những
hoa sen đủ màu, như hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ.[53] Những hoa ấy đều lớn như bánh xe. Dọc theo bờ hào có nhiều vườn tược. Mỗi cảnh vườn có
ao năm suối.[54] Trong ao ấy lại cũng có
các loại hoa sen: hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma, hoa phân-đà-lỵ. Những hoa ấy cũng lớn như bánh xe, hương thơm lan tỏa rất đáng
ưa thích. Nước dưới ao
trong sạch, chạm vào có
cảm giác hết sức mềm mại. Những loài chim phù, chim nhạn, uyên ương đều bay đến dạo chơi nơi ấy. Trong mỗi cảnh vườn tược có nhiều cung điện nhà cửa. Mỗi cung điện nhà cửa ngang dọc vuông vức choán trọn bốn do-tuần. Những tường trong và tường ngoài đều xây bằng bốn món báu là vàng, bạc,
lưu ly và
pha lê. Các cửa sổ trên tường đều bằng
vàng ròng, có lan can bao quanh. Mặt đất toàn là các thứ ngọc và đá quý, có trải cát bằng vàng. Trong nhiều cung điện nhà cửa lại có suối nước và ao tắm bằng
bảy báu. Bên ao có thang mười tám bậc để lên xuống, toàn bằng
vàng ròng. Có những cây chuối bằng
vàng diêm-phù-đàn,[55] giống như
vườn Hoan Hỷ[56] ở cung trời Đao-lợi.
Mỗi thành ấy đều có tám mươi bốn ngàn vị vua. Mỗi vị đều có
vô số phu nhân và thể nữ, cùng nhau
vui hưởng mọi sự
thích thú,
vui sướng.
Ngoài ra,
nhân dân ở đó cũng vậy, mỗi người đều ở tại chỗ của mình mà tận hưởng cuộc sống
sung sướng.
Chúng sanh trong những thành ấy chẳng nghe tiếng gì khác ngoài những
âm thanh diễn
giảng pháp Đại thừa cao trổi nhất.
Trong mỗi
hoa sen đều có tòa
sư tử. Các tòa
sư tử ấy có bốn chân bằng ngọc
lưu ly xanh, trên tòa có trải vải lụa mịn màng, rất đẹp, là loại tốt nhất trong
Ba cõi.[57] Trên mỗi tòa đều có một vị vua ngự và
giáo hóa chúng sanh bằng pháp
Đại thừa, hoặc có những
chúng sanh đang sao chép,
thọ trì,
đọc tụng kinh điển Đại thừa,
tu hành theo đúng như kinh dạy và
lưu truyền rộng rãi như vậy.
Lúc ấy,
Bồ Tát Vô Biên Thân làm cho
vô số chúng sanh được nghỉ ngơi
an ổn rồi, sau đó mỗi người đều tự dứt bỏ
cuộc vui thế sự,
than thở rằng: “Khổ thay! Khổ thay!
Thế gian sắp trống rỗng! Còn không bao lâu
đức Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Bấy giờ,
Bồ Tát Vô Biên Thân cùng
vô số các
Bồ Tát vây quanh đã
thị hiện sức
thần thông như vậy rồi, liền
mang đến đủ các thức
cúng dường nhiều
vô số, cùng với những
thức ăn uống thơm tho, ngon ngọt bậc nhất. Nếu ai ngửi được hương thơm của những
thức ăn ấy thì mọi sự
ô nhiễm phiền não đều dứt sạch. Nhờ sức
thần thông của
Bồ Tát ấy, tất cả
đại chúng đều được nhìn thấy sự
biến hóa:
Bồ Tát Vô Biên Thân hiện thân lớn
vô biên, đồng như
hư không, ngoài chư Phật ra thì không ai có thể thấy được thân của
Bồ Tát cao lớn đến mức nào.
Lúc ấy,
Bồ Tát Vô Biên Thân cùng
quyến thuộc chuẩn bị những thức
cúng dường trội hơn tất cả những thứ đã
nói trước, rồi đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát
chân Phật,
chắp tay cung kính bạch rằng: “Thế Tôn! Nguyện
đức Như Lai rủ lòng
thương xót nhận cho bữa cơm
cúng dường của chúng con.”
Đức Như Lai biết là chưa phải lúc nên lặng thinh chẳng nhận. Ba lần thưa thỉnh như vậy, Phật vẫn không nhận.
Sở nguyện chẳng thành,
Bồ Tát Vô Biên Thân cùng
quyến thuộc liền lui xuống đứng sang một bên.
Lại ở các
cõi Phật về phương nam, phương tây, phương bắc cũng có
vô số vị
Bồ Tát Vô Biên Thân mang theo những thức
cúng dường trội hơn những thức
cúng dường đã
nói trước, cùng đi đến chỗ Phật,
cuối cùng cũng đều lui xuống đứng sang một bên như vậy.[58]
Bấy giờ, tại vùng đất
an lành ở rừng Sa-la Song thọ,
trong khoảng chu vi hai mươi hai do-tuần,
đại chúng tụ họp đầy kín không còn chỗ trống.
Lúc ấy, những tòa ngồi của các vị
Bồ Tát Vô Biên Thân và
quyến thuộc từ bốn phương đến chỉ nhỏ bé như mũi dùi, mũi kim, như những
hạt bụi cực nhỏ.
Chư Đại Bồ Tát từ các
cõi Phật mười phương nhiều như số
hạt bụi cực nhỏ cũng đều đến nhóm họp, và tất cả
đại chúng ở khắp cõi Diêm-phù-đề cũng đến nhóm họp. Chỉ còn thiếu hai chúng của
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và của ngài A-nan với vua A-xà-thế và
quyến thuộc.
Ngoài ra,
cho đến những loài
rắn độc mà mắt nhìn cũng đủ làm chết người, những loài bò hung, rắn đất, bò cạp và 16 loại chuyên làm
ác nghiệp, tất cả cũng đều tụ hội. Các vị thần đà-na-bà, a-tu-la đều bỏ những
tư tưởng xấu, khởi sanh
lòng từ, đối
với nhau như cha, mẹ, chị em. Các
chúng sanh trong cõi
tam thiên đại thiên thế giới cũng đều sanh
lòng từ đối
với nhau như thế, chỉ trừ những kẻ nhất-xiển-đề.[59]
Lúc ấy, nhờ
oai thần của Phật, trong khắp cõi
tam thiên đại thiên thế giới mặt đất bỗng trở nên mềm mại, không có những gò nổng, đất cát, sỏi đá, gai gốc, cỏ độc... các món báu đơm kết làm cho
xinh đẹp, dường như
thế giới Cực Lạc ở phương tây của
đức Phật A-di-đà.
Đại chúng thảy đều thấy rõ các
thế giới của chư Phật trong
mười phương, nhiều như những
hạt bụi cực nhỏ,
ví như người ta nhìn vào tấm gương thấy được chính mình,
ai nấy đều thấy các
cõi Phật một cách
rõ ràng như vậy.
Lúc ấy, từ nơi khoảng giữa hai chân mày
đức Như Lai phóng ra
hào quang năm sắc.
Hào quang ấy sáng
rực rỡ, bao trùm cả
đại hội, khiến cho
hào quang nơi thân của mỗi vị trong
đại hội đều chẳng
hiện ra được.
Hào quang của Phật sau khi đã phóng ra rồi, liền theo nơi miệng của ngài mà quay trở vào.
Bấy giờ,
chư thiên,
loài người, a-tu-la và hết thảy
chúng hội nhìn thấy
hào quang của Phật quay trở vào trong miệng ngài, thảy đều lấy làm
sợ hãi,
rùng mình rởn ốc, nói rằng: “Hào quang của
Như Lai phóng ra rồi lại quay trở vào, không
thể không có
nhân duyên, ắt là việc cần làm của Phật trong
mười phương đã xong, đây là tướng trạng
cuối cùng ngài sắp nhập Niết-bàn. Khổ thay! Khổ thay! Tại sao chỉ trong chốc lát
đức Thế Tôn đã
buông bỏ bốn tâm vô lượng,[60] chẳng nhận sự
cúng dường của
loài người và chư thiên? Ánh sáng của
mặt trời trí tuệ từ nay dứt mất! Con thuyền
Chánh pháp vô thượng hôm nay sắp chìm mất! Ôi!
Đau đớn thay!
Khổ não thay cho thế gian!”
Ai nấy đều
đứng dậy, đấm ngực
kêu la, khóc lóc bi ai, tay
chân run rẩy, không tự
kiềm chế được, từ các lỗ chân lông trên người họ máu tươi ứa ra, rơi vấy đầy trên mặt đất.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN MỘT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN HAI
PHẨM THỌ MẠNG
Phẩm thứ nhất – Phần hai[61]
Bấy giờ, trong
chúng hội có một vị ưu-bà-tắc ở thành Câu-thi-na tên là Thuần-đà, con nhà thợ thuyền, dẫn theo 15 người cũng thuộc trong giới mình. Vì muốn cho
thế gian được quả lành, ông
dẹp bỏ oai nghi của thân, từ chỗ ngồi
đứng dậy, trần vai áo bên phải,[62] quỳ gối phải
sát đất, hai tay chắp lại hướng về phía Phật,
đau xót rơi lệ, cúi đầu lễ sát
chân Phật, rồi
bạch Phật rằng: “Nguyện
đức Thế Tôn và chư tỳ-kheo rủ lòng
thương xót nhận cho sự
cúng dường lần
cuối cùng của chúng con, để
cứu độ vô số chúng sanh.
“Bạch Thế Tôn! Từ nay chúng con không còn người làm chủ, không còn người
thân thích, không còn người cứu vớt,
bảo hộ, không còn nơi quy hướng, bần cùng, đói khổ, muốn nương
đức Như Lai cầu lấy món ăn cho thuở tương lai. Xin ngài
thương xót thọ nhận lễ cúng
hèn mọn của chúng con rồi hãy nhập Niết-bàn.
“Thế Tôn!
Ví như có một người thuộc
giai cấp sát-lỵ hoặc
giai cấp bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà,[63] vì bần cùng nên đi tới một nước khác xa xôi. Người ấy ra sức làm ruộng nương, sắm được con trâu khỏe, dễ điều khiển; được ruộng tốt, bằng thẳng; đã
dọn sạch không còn những cát sỏi, chất phèn, cỏ hoang, gốc cây. Người ấy chỉ còn mong được trời mưa xuống mà thôi.
“Trâu khỏe và dễ điều khiển,
ví như bảy nghiệp lành của thân và khẩu.[64] Ruộng tốt và bằng thẳng,
ví như trí tuệ. Những món cát sỏi, chất phèn, cỏ hoang, gốc cây đã bị dẹp trừ,
ví như các
phiền não đã trừ dứt.
“Thế Tôn! Nay thân chúng con có đủ trâu khỏe, dễ điều khiển; ruộng tốt và bằng thẳng; đã
dọn sạch những món, cát sỏi, chất phèn, cỏ hoang, gốc cây. Chúng con chỉ còn
mong chờ đức Như Lai ban cho cơn mưa pháp
cam lộ[65] mà thôi.
“Người bần cùng nói trên chính là thân chúng con đây,
thiếu thốn món
của cải là
Chánh pháp vô thượng. Xin Phật
thương xót, dứt trừ sự bần cùng khốn khổ ấy cho chúng con và cứu giúp
vô lượng chúng sanh khổ não.
“Mặc dầu lễ cúng của chúng con hôm nay là
hèn mọn, nhưng cũng mong rằng được làm no lòng
Như Lai và
đại chúng. Từ nay chúng con không còn người làm chủ, không còn người
thân thiết, không còn nơi quy hướng. Xin
Như Lai rủ lòng
thương xót chúng con như La-hầu-la.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn, bậc
Nhất thiết chủng trí,[66] bậc
Vô thượng Điều ngự, bảo Thuần-đà rằng: “Lành thay,
lành thay! Hôm nay ta sẽ vì ông mà dứt trừ sự bần cùng. Ta sẽ đem mưa Pháp
vô thượng mà rưới xuống đám ruộng tốt ở thân ông để làm cho mầm pháp mọc lên. Nay ông muốn cầu ở ta
thọ mạng,
sắc tướng,
sức lực,
an lạc,
biện tài vô ngại. Ta sẽ
ban cho ông được
đời sống trường tồn,
sắc tướng,
sức lực,
an lạc và tài biện thuyết
vô ngại.
“Vì sao vậy? Thuần-đà! Có hai lần
thí thực mà
quả báo như nhau. Sao gọi là hai? Thứ nhất là, ta thọ thực rồi sẽ
đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.[67] Thứ hai là, ta thọ thực xong sẽ nhập Niết-bàn. Nay ta thọ nhận sự
cúng dường lần
cuối cùng này của ông, sẽ khiến cho ông được đầy đủ hạnh
Bố thí.”
Bấy giờ, Thuần-đà liền
bạch Phật rằng: “Như Phật nói rằng
quả báo hai lần
thí thực ấy là như nhau, nghĩa ấy chẳng đúng!
“Vì sao vậy? Người thọ thí lần trước, chưa dứt
phiền não, chưa
thành tựu Nhất thiết chủng trí, cũng chưa thể khiến cho
chúng sanh được đầy đủ hạnh
Bố thí.
“Người thọ thí lần sau,
phiền não đã dứt, đã
thành tựu Nhất thiết chủng trí, lại có thể khiến cho
chúng sanh thảy đều được đầy đủ hạnh
Bố thí.
“Người thọ thí lần trước, thật là
chúng sanh. Người thọ thí lần sau, là bậc
Thiên Trung Thiên.[68]
“Người thọ thí lần trước, đó là cái thân sống nhờ
ăn uống, cái thân
phiền não, cái thân còn phải
trở lại cõi này, cái thân
vô thường. Người thọ thí lần sau, đó là thân không
phiền não,
thân kim cang, là
Pháp thân, là thân thường còn chẳng mất, là thân
không giới hạn.
“Như vậy, vì sao nói rằng hai lần
thí thực ấy
quả báo chẳng khác gì nhau?
“Người thọ thí lần trước chưa có đầy đủ từ hạnh
Bố thí cho tới hạnh
Trí tuệ;[69] chỉ có
nhục nhãn mà thôi, chưa được
Phật nhãn, thậm chí chưa được
Huệ nhãn.[70]
“Người thọ thí lần sau, đã có đầy đủ từ hạnh
Bố thí cho tới hạnh
Trí tuệ, lại được đầy đủ
từ Huệ nhãn cho chí
Phật nhãn.
“Như vậy, vì sao nói rằng hai lần
thí thực ấy
quả báo chẳng khác gì nhau?
“Bạch Thế Tôn! Người thọ thí lần đầu, thọ nhận rồi thì cho vào miệng mà ăn,
thức ăn vào bụng thì
tiêu hóa, nhờ đó mới được
thọ mạng,
sắc tướng,
sức lực,
an lạc,
biện tài vô ngại.
“Người thọ thí lần sau, chẳng ăn, chẳng tiêu, cũng chẳng nhân đó mà được năm kết quả trên.[71]
“Như vậy, vì sao nói rằng hai lần
thí thực ấy
quả báo chẳng khác gì nhau?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Từ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp,
Như Lai không hề có cái thân
nuôi sống bằng thức ăn, cái thân
phiền não; không có thân phải
trở lại cõi này. [
Như Lai thật chỉ có] thân thường tồn, thân Pháp,
thân kim cang.
“Thiện nam tử! Người chưa thấy tánh Phật nên thân ấy gọi là thân
phiền não, là thân sống nhờ
ăn uống, là thân phải
trở lại cõi này. Bấy giờ, khi
Bồ Tát [sắp
thành đạo],
ăn uống xong bèn nhập Tam-muội
Kim cang.
Thức ăn ấy
tiêu hóa rồi,
Bồ Tát liền thấy tánh Phật,
chứng quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Vì vậy, ta nói rằng
quả báo của hai lần thí ấy chẳng khác gì nhau.
“Lúc bấy giờ,
Bồ Tát phá bốn thứ ma,[72] nay vào Niết-bàn cũng phá bốn thứ ma.
Vì vậy cho nên ta nói rằng
quả báo của hai lần thí ấy chẳng khác gì nhau.
“Lúc bấy giờ,
Bồ Tát tuy chưa thuyết rộng
mười hai bộ kinh,[73] nhưng trước đó đã
thông đạt rồi; nay sắp vào Niết-bàn, sẽ rộng vì tất cả
chúng sanh mà
phân biệt diễn thuyết mười hai bộ kinh.
Vì vậy cho nên ta nói rằng
quả báo của hai lần thí ấy chẳng khác gì nhau.
“Thiện nam tử!
Từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thân
Như Lai đã chẳng hề dùng các món ăn
thức uống. Vì hàng
Thanh văn nên mới nói rằng: “Trước kia ta có thọ món cháo sữa của hai cô chăn bò là Nan-đà và Nan-đà-ba-la
cúng dường, sau đó
chứng quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thật ra, ta chẳng hề ăn. Hôm nay, ta lại vì
đại chúng trong hội này mà thọ nhận sự
cúng dường lần
cuối cùng của ông, thật ra cũng chẳng hề ăn.”
Lúc ấy,
đại chúng nghe
đức Phật dạy rằng ngài vì khắp cả
đại hội nên thọ nhận bữa
cúng dường cuối cùng của Thuần-đà, đều lấy làm
vui mừng, phấn chấn, cùng
cất tiếng khen rằng:
“Lành thay,
lành thay! Ít có ai được như ông Thuần-đà! Tên ông đặt như vậy, thật là xứng đáng. Hai chữ “thuần-đà” có nghĩa là “hiểu được
nghĩa lý vi diệu”.[74] Nay ông đã
kiến lập được nghĩa lớn như vậy, cho nên
y theo chỗ thật,
tùy nghĩa mà đặt tên, gọi là Thuần-đà.
“Ông nay ở đời
hiện tại được
danh lợi lớn, đức nguyện đều đầy đủ. Kỳ lạ thay cho Thuần-đà! Ông sanh ra ở
cõi người, lại được điều
lợi ích cao quý nhất, khó được nhất!
“Lành thay Thuần-đà! Như hoa ưu-đàm ít có ở
thế gian. Phật
xuất hiện ở
thế gian, lại càng khó gặp hơn. Gặp Phật rồi đem
lòng tin và
nghe Pháp, lại càng khó hơn nữa. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn, lại được bày biện
lễ vật cúng dường lần
cuối cùng như thế này, việc ấy lại là khó hơn cả.
“Đáng kính thay Thuần-đà!
Đáng kính thay Thuần-đà! Nay hạnh
bố thí của ông đã được đầy đủ như trăng thu đêm rằm, đã
trong sáng tròn đầy lại không bị mây che,
mọi người đều
chiêm ngưỡng. Ông cũng như thế, tất cả
chúng tôi đều
chiêm ngưỡng ông.
Phật thọ nhận lễ
cúng dường cuối cùng của ông rồi, sẽ làm cho hạnh
bố thí của ông được đầy đủ.
Đáng kính thay Thuần-đà!
Vì vậy nên
chúng tôi nói rằng ông như vầng trăng tròn đầy,
mọi người đều
chiêm ngưỡng.
Đáng kính thay Thuần-đà. Tuy ông thọ thân người, nhưng tâm ông như
tâm Phật. Thuần-đà! Hôm nay ông thật là con Phật, như La-hầu-la chẳng khác.
Lúc ấy,
đại chúng liền đọc kệ rằng:
Ông tuy sanh
cõi người,
Đã vượt
trời Tha hóa.
Chúng tôi toàn
đại chúng,
Nay cúi đầu
cầu thỉnh.
Bậc
Nhân trung Tối thắng,
Nay sắp nhập Niết-bàn.
Ông nên thương
chúng tôi,
Mau mau
cầu thỉnh Phật:
Trụ lâu chốn
thế gian,
Lợi ích vô lượng chúng.
Thuyết giảng pháp
vô thượng,
Pháp bậc trí
ngợi khen.
Nếu ông không
thỉnh Phật,
Mạng
chúng tôi chẳng còn!
Nên mong ông
tức thời:
Đảnh lễ bậc
Điều ngự.
Lúc ấy, Thuần-đà
hết sức vui mừng phấn chấn.
Ví như có một người kia,
cha mẹ đã chết rồi bỗng nhiên
sống lại, lấy làm
vui sướng. Sự
vui sướng của Thuần-đà cũng giống như vậy. Ông liền
đứng dậy lễ Phật và tụng kệ rằng:
Khoái thay được lợi mình,
Khéo sanh ra làm người,
Dẹp trừ tham, sân, si,
Rời cả ba nẻo dữ![75]
Khoái thay được lợi mình,
Gặp được kho vàng ngọc,
Gặp được đấng
Điều ngự,
Chẳng sợ đọa súc sanh!
Phật như hoa ưu-đàm,
Khó gặp; gặp khó tin.
Gặp rồi, trồng
thiện căn,
Dứt tuyệt khổ
ngạ quỷ.
Lại trừ được mối lo,
Sanh loài A-tu-la.
Phật muôn đời khó gặp,
Như
hạt cải đầu kim.[76]
Con được tròn hạnh thí,
Thoát
sanh tử, trời người.
Phật chẳng nhiễm
việc đời,
Như
hoa sen ở nước.
Dứt luôn cảnh
Hữu đỉnh,
Vĩnh viễn vượt
sanh tử.
Sanh làm người là khó,
Gặp Phật lại càng khó,
Dường như giữa biển cả,
Rùa mù gặp bộng nổi![77]
Con nay hiến cơm này,
Nguyện được quả cao nhất.
Hết thảy dây
phiền não,
Chặt đứt chẳng khó khăn.
Nay con ở chốn này,
Chẳng cầu thân trời, người.
Ví dầu sanh cảnh ấy,
Lòng chẳng lấy làm vui.
Phật nhận lễ con dâng,
Vui sướng không kể xiết!
Con như hoa y-lan,[78]
Được
cúng dường Như Lai,
Như tỏa hương chiên-đàn,[79]
Nên con rất
vui mừng.
Nay con được
hiện báo,
Đến nơi cao đẹp nhất.
Chư thiên trời Thích, Phạm,
Sẽ đến
cúng dường con.
Hết thảy khắp
thế gian,
Ắt
sanh khổ não lớn,
Vì biết
Phật Thế Tôn,
Đang muốn nhập Niết-bàn.
Cùng lớn tiếng thưa rằng:
“Thế gian không Điều ngự!
Xin đừng bỏ
chúng sanh,
Xin thương như con một."
Như Lai giữa
chúng tăng,
Diễn thuyết Pháp
vô thượng,
Như núi báu Tu-di,
Vững vàng nơi biển cả.
Trí tuệ Phật khéo trừ,
Lòng tăm tối chúng con,
Ví như giữa
hư không,
Vén mây, trời
trong sáng.
Như Lai khéo dẹp trừ,
Hết thảy mọi
phiền não,
Ví như mặt trời hiện,
Mây tan, ánh sáng chiếu.
Hết thảy mọi
chúng sanh,
Nghẹn ngào, khóc sưng mặt.
Thảy bị
khổ luân hồi,
Làm trôi dạt khắp nơi.
Vì vậy, nguyện
Thế Tôn,
Tăng
lòng tin của chúng,
Vì
cứu khổ sanh tử,
Trụ lâu nơi
thế gian.
Phật bảo Thuần-đà: “Đúng vậy, đúng vậy! Như ông đã nói, khó gặp Phật ra đời, cũng như hoa ưu-đàm. Gặp Phật rồi phát sanh
lòng tin, lại càng khó hơn. Đến khi Phật sắp nhập Niết-bàn, được
cúng dường Phật bữa cơm
cuối cùng, nhân đó đầy đủ hạnh
bố thí, việc ấy lại càng rất khó.
“Thuần-đà! Nay ông chớ nên
sầu khổ thái quá. Nên sanh lòng phấn chấn, mừng vui vì được sự
may mắn,
hạnh phúc lớn, được
cúng dường Như Lai lần
cuối cùng,
thành tựu trọn vẹn hạnh
bố thí. Không nên
thỉnh Phật trụ thế lâu dài. Nay ông nên quán xét các
cảnh giới của Phật đều là
vô thường, tánh và tướng của các hành[80] lại cũng
vô thường như vậy.”
Phật vì Thuần-đà thuyết kệ:
Hết thảy khắp
thế gian,
Có sanh đều có tử.
Mạng sống dù kéo dài,
Cũng có ngày phải dứt.
Có thạnh ắt có suy,
Hợp nhau rồi phải lìa.
Tuổi thanh xuân rất ngắn,
Khỏe mạnh rồi ốm đau.
Mạng sống rồi phải hết,
Không có pháp nào thường.
Các vua được
tự tại,
Thế lực chẳng ai bằng,
Hết thảy đều
dời đổi,
Mạng sống cũng chẳng khác.
Vòng
khổ não không cùng,
Lưu chuyển không ngừng nghỉ.
Ba cõi đều
vô thường,
Các cảnh chẳng gì vui.
Thấy rõ tánh
thật tướng:
Hết thảy đều rỗng không.
Pháp hư hoại
lưu chuyển,
Thường
lo âu,
hoạn nạn,
Sợ hãi và
tội lỗi,
Khổ già, suy, bệnh, chết.
Hết thảy đều không cùng.
Hư hoại, kẻ oán hại,
Phiền não buộc trói chặt,
Như tằm kia trong kén.
Những người có
trí tuệ,
Ai
ưa thích chốn này?
Thân này, muôn khổ họp,
Hết thảy đều nhớp nhơ,
Ung nhọt, trói, chèn ép,
Xét cùng, không
ích lợi.
Cho đến thân
chư thiên,
Cũng đều như vậy cả.
Tham dục đều
vô thường,
Nên ta chẳng tham chấp.
Lìa dục, khéo
suy xét,
Rõ được lý
chân thật,
Đoạn dứt cả
ba cõi.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Sang đến tận bờ kia,
Đã vượt hết các khổ.
Nay chỉ thuần an vui,
Nhiệm mầu hơn tất cả.[81]
Vì
nhân duyên như vậy,
Vượt ngoài mọi
hí luận.
Vĩnh viễn dứt
trói buộc.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Không còn: già, bệnh, chết,
Đời sống không thể dứt.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Như lửa lớn vụt tắt.
Thuần-đà, ông chẳng nên,
Suy lường nghĩa
Như Lai.
Nên quán tánh
Như Lai,
Như núi lớn Tu-di.
Nay Phật nhập Niết-bàn,
Thọ niềm vui bậc nhất.
Chư Phật đều như vậy,
Chẳng nên than khóc nữa.
Lúc ấy, Thuần-đà
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Phải vậy, phải vậy. Đúng như
lời Phật dạy.
Trí tuệ của con nay rất nông cạn, dường như loài muỗi mòng, làm sao bàn xét nổi
ý nghĩa sâu kín Niết-bàn của Như Lai?
“Thế Tôn! Nay con được đứng cùng với các vị
Đại Bồ Tát, là hàng
đại long tượng[82] trong
chúng tăng, đã dứt sạch mọi
phiền não, những vị như ngài Văn-thù-sư-lợi
Pháp vương tử đây.
“Thế Tôn!
Ví như người còn trẻ, vừa mới
xuất gia, tuy chưa thọ đủ giới nhưng cũng được
dự vào hàng
Tăng chúng. Con nay cũng vậy, nhờ sức thần của Phật và
Bồ Tát mới được đứng vào hàng
Đại Bồ Tát.
Vì vậy mà nay con muốn
thỉnh cầu Như Lai trụ lâu ở
thế gian, đừng nhập Niết-bàn.
Ví như người quá đói,
hoàn toàn không có gì để nôn ra.[83] Nguyện cho
đức Thế Tôn cũng vậy,
thường trụ thế gian, không [xả bỏ mà] nhập Niết-bàn.”
Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi
Pháp Vương tử bảo Thuần-đà rằng: “Thuần-đà! Nay ông chẳng nên nói ra lời như thế, muốn cho
đức Như Lai thường trụ ở
thế gian không nhập Niết-bàn, giống như người đói không có gì để nôn ra. Nay ông nên quán tánh và tướng của các hành. Quán các hành như vậy sẽ được đầy đủ phép
Tam-muội Không. Muốn cầu
Chánh pháp, phải học như thế.”
Thuần-đà hỏi: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Như Lai là bậc cao quý hơn hết trong khắp
cõi trời người. Bậc
Như Lai như thế, há có thể là các hành hay sao? Nếu là các hành, tức là pháp
sanh diệt.
Ví như bọt nước hiện đó, tan đó, những sự đến đi, dời chuyển, khác nào như bánh xe quay. Tất cả các hành lại cũng như vậy. Con nghe nói rằng
đời sống của
chư thiên rất
lâu dài. Tại sao
đời sống của
đức Thế Tôn, vị cao quý nhất trong
chư thiên lại ngắn ngủi chẳng đầy trăm năm?
“Ví như người
đứng đầu một thành ấp, do
thế lực nên muốn làm gì
tùy ý. Người ấy nhờ
thế lực mà có
thể chế ngự người khác. Về sau, đến khi hết phước người ấy thành kẻ nghèo hèn, bị người khinh miệt và bị kẻ khác
sai khiến. Vì sao vậy? Vì đã mất
hết thế lực.
Đức Thế Tôn cũng vậy, như ngài nói là [
Như Lai] đồng với các hành, tức chẳng thể xưng là bậc cao quý nhất trong
chư thiên. Vì sao vậy? Các hành là pháp
sanh tử. Thưa ngài Văn-thù!
Vì vậy không nên quán xét
đức Như Lai đồng với các hành.
“Lại nữa, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ngài bảo rằng
Như Lai đồng với các hành, đó là rõ biết mà nói hay không rõ biết mà nói? Nếu
Như Lai đồng với các hành, tất không thể nói là bậc
Tự tại Pháp vương cao quý nhất trong
chư thiên, trong
ba cõi.
“Ví như một vị vua kia có một người
đại lực sĩ, sức địch với ngàn người, rốt cùng chẳng ai có thể thắng được người ấy.
Vì vậy nên xưng
lực sĩ ấy là người địch nổi ngàn người. Người
lực sĩ như thế được vua yêu mến,
tự nhiên ban cho tước lộc, phong thưởng.
Vì vậy được xưng là địch nổi ngàn người. [Thật ra] sức của người
lực sĩ ấy chưa chắc địch nổi [sức của] ngàn người, chỉ vì biết dùng đủ các kỹ thuật, thế võ hay nên thắng được ngàn người.
Vì vậy được xưng là địch nổi ngàn người.
Như Lai cũng thế,
hàng phục được ma
phiền não, ma ấm, ma trời và ma chết, cho nên
Như Lai mới được xưng là bậc đáng
tôn kính nhất trong
Ba cõi,[84] như người
lực sĩ kia, một người địch nổi ngàn người. Vì
nhân duyên ấy, ngài
thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức chân thật, cho nên được xưng là
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri.
“Văn-thù-sư-lợi! Nay ngài không nên
nghĩ tưởng phân biệt, cho rằng
pháp Như Lai đồng với các hành.
“Ví như người
trưởng giả rất
giàu có, sanh ra đứa con. Thầy tướng đến xem trẻ ấy, nói rằng nó có tướng
chết yểu.
Cha mẹ nghe vậy, biết rằng nó không thể đảm nhiệm việc nối dõi
tông môn, cho nên chẳng yêu trọng, coi như rơm cỏ. Nếu là kẻ yểu mạng thì chẳng được các vị sa-môn, bà-la-môn, hết thảy
mọi người kính trọng. Nếu cho rằng
Như Lai đồng với các hành thì tất cả
chúng sanh trong
thế gian, khắp
cõi trời người đều chẳng phụng kính Ngài. Và
pháp chân thật chẳng
biến đổi mà
Như Lai thuyết ra cũng chẳng ai
thọ trì.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Bởi vậy, không nên nói rằng
Như Lai đồng với tất cả các hành.
“Lại nữa, thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Ví như một cô gái nghèo kia, không có nhà cửa, không ai cứu giúp, lại thêm bị
bức bách vì
bệnh khổ,
đói khát. Cô lang thang khắp nơi
xin ăn, dừng chân tại một quán trọ, ngụ ở đó và sanh được một đứa con. Chủ quán trọ bèn đuổi cô đi. Vừa sanh con chưa được bao lâu, cô phải ôm con, muốn đi sang nước khác. Trong khi đi đường, cô gặp phải gió mưa
dữ dội, chịu lạnh, chịu khổ, lại bị nhiều muỗi mòng, ong độc, trùng độc cắn chích... Khi qua
sông Hằng, cô vừa lội vừa ôm con. Sức nước chảy mạnh cuốn trôi, nhưng cô cũng chẳng bỏ con. Thế rồi
mẹ con đều
chết chìm. Cô gái ấy, nhờ
công đức của niệm lành [
hết lòng thương con] nên sau khi
mạng chung được sanh lên cõi
Phạm thiên.
“Văn-thù-sư-lợi! Nếu có vị
thiện nam nào muốn
ủng hộ Chánh pháp, chẳng nên nói rằng
Như Lai đồng với các hành hoặc chẳng đồng với các hành. Chỉ nên tự trách rằng: Hiện nay mình
ngu si, chẳng có con mắt
trí tuệ.
Chánh pháp của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn,
vì vậy chẳng nên
tuyên thuyết rằng
Như Lai nhất định là
hữu vi hoặc
nhất định là
vô vi.
Như người có
chánh kiến nên nói rằng
Như Lai nhất định là
vô vi. Vì sao vậy? Ngài vì
chúng sanh, sanh ra các pháp lành, sanh lòng
thương xót. Cũng như cô gái nghèo kia, ở
dưới sông Hằng, vì lòng thương con nên liều bỏ cả
thân mạng mình.
“Thiện nam tử! Bậc
Bồ Tát hộ pháp cũng nên làm như vậy. Thà bỏ
thân mạng mình, chứ đừng nói rằng
Như Lai đồng với
hữu vi. Nên nói rằng
Như Lai đồng với
vô vi. Nhờ nói rằng
Như Lai đồng với
vô vi nên
đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cũng như cô gái kia được sanh lên cõi
Phạm thiên. Vì sao vậy? Vì là
hộ trì Chánh pháp. Thế nào là
hộ trì Chánh pháp? Là nói rằng:
Như Lai đồng với
vô vi.
“Thiện nam tử! Người như vậy dù chẳng cầu
giải thoát cũng
tự nhiên được giải thoát. Như cô gái nghèo kia chẳng cầu mà
tự nhiên cũng được lên cõi
Phạm thiên.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Ví như có người đi xa, giữa đường mỏi mệt, bèn vào nghỉ nhờ nơi nhà người khác.
Đang khi ngủ, nhà ấy bỗng nhiên phát hỏa
dữ dội. Người ấy bừng tỉnh lấy làm kinh sợ, nghĩ rằng: “Hôm nay
chắc chắn mình phải chết.” Người ấy vì lòng
hổ thẹn nên mặc quần áo che kín thân [trước lúc chết]. Sau đó
mạng chung liền sanh lên
cõi trời Đao-lợi. Từ đó về sau, sau tám mươi lần
tái sanh liền được sanh làm vua
trời Đại phạm.
Trải qua trăm ngàn đời lại được sanh làm
Chuyển luân vương trong
loài người, không hề sanh
trở lại trong
ba đường dữ, cứ thường xoay
chuyển sanh về những nơi
an lạc. Văn-thù-sư-lợi!
Vì lẽ ấy nên những vị
thiện nam có lòng
hổ thẹn, chẳng nên quán xét rằng
Như Lai đồng với các hành.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Những kẻ
ngoại đạo tà kiến có thể nói rằng
Như Lai đồng với
hữu vi, còn những tỳ-kheo
trì giới không nên nói như vậy. Chẳng nên ở chỗ
Như Lai, phát sanh
tư tưởng hữu vi. Như nói rằng: “Như Lai là hữu vi”, tức là nói điều
sai trái. Nên biết rằng kẻ ấy khi chết sẽ vào
địa ngục, xem đó như nhà ở của mình.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Đức Như Lai chân thật tức là
pháp vô vi, chẳng nên nói đó là
pháp hữu vi. Từ nay về sau, trong cõi
sanh tử, ngài nên bỏ sự
vô trí, cầu lấy
chánh trí, nên biết rằng
Như Lai tức là
vô vi. Như ai thường quán xét
Như Lai như vậy, ắt sẽ được đầy đủ
ba mươi hai tướng tốt, nhanh chóng
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Lúc ấy,
Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi
ngợi khen Thuần-đà: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông đã tạo được
nhân duyên trường thọ, có thể biết được rằng
Như Lai là
pháp thường trụ, là
pháp không biến đổi, là
pháp vô vi. Như vậy, nay ông đã khéo
che khuất tướng
hữu vi của
Như Lai.
Ví như người
bị nạn lửa kia, vì lòng
hổ thẹn nên lấy áo che thân [trước khi chết]. Nhờ lòng lành ấy được sanh lên
cõi trời Đao-lợi, rồi sanh làm
Phạm vương,
Chuyển luân Thánh vương, chẳng đọa các đường dữ, thường được
an lạc. Nay ông cũng vậy, khéo
che khuất tướng
hữu vi của
Như Lai.
Trong đời vị lai, ông
chắc chắn sẽ được
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười
tám pháp không
cùng chung với
hai thừa,[85]
đời sống dài vô hạn, chẳng ở nơi
sanh tử, thường
thọ hưởng an lạc, chẳng bao lâu nữa, ông sẽ thành bậc
Ứng cúng,
Chánh biến tri.
“Thuần-đà! Để sau rồi
Như Lai sẽ tự ngài thuyết rộng. Nay ông với tôi,
chúng ta đều nên
che khuất tướng
hữu vi của
Như Lai. Thôi hãy gác chuyện
hữu vi,
vô vi lại, nay ông hãy
tùy thời, mau
cúng dường cơm nước. Bữa
cúng dường hôm nay,
công đức cao trổi nhất. Như có những tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, từ xa đến đây
cực nhọc, ông nên đem những món
thanh tịnh mà
cung cấp cho phải lúc. Hãy mau
cúng dường như vậy đi, rồi ông sẽ được đầy đủ hạnh
bố thí, là
hạt giống căn bản.
“Thuần-đà! Nếu
cúng dường Phật cùng
chư tăng lần cuối, dù nhiều dù ít, dù đủ hay chẳng đủ, phải mau mau cho kịp giờ, chính là lúc
Như Lai sắp nhập Niết-bàn.”
Thuần-đà đáp: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Sao nay ngài lại tham vì
bữa ăn này mà nói rằng dù nhiều dù ít, dù đủ hay chẳng đủ, giục con phải
cúng dường ngay bây giờ?
“Văn-thù-sư-lợi!
Ngày xưa, sáu năm
khổ hạnh Như Lai còn
chịu đựng nổi, huống chi ngày nay chỉ chờ trong khoảnh khắc?
“Văn-thù-sư-lợi! Nay ngài thật cho rằng
đức Như Lai Chánh giác có
thọ dụng bữa cơm này hay sao? Nhưng con biết chắc rằng thân
Như Lai là thân Pháp, chẳng phải là thân sống nhờ
ăn uống.”
Lúc ấy,
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời Thuần-đà.
Lành thay, Thuần-đà! Ông đã
thành tựu đại trí vi diệu, khéo
thâm nhập kinh điển Đại thừa rất
sâu xa.”
Văn-thù-sư-lợi bảo Thuần-đà: “Ông nói rằng
Như Lai là
vô vi, thân
Như Lai tức là
trường thọ. Nếu ông rõ biết được vậy, chính là chỗ Phật rất
hài lòng.”
Thuần-đà đáp: “Chẳng những
Như Lai hài lòng với riêng con, ngài cũng
hài lòng với tất cả
chúng sanh.”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Vậy đối với ông cũng như tôi và tất cả
chúng sanh,
Như Lai đều
hài lòng.”
Thuần-đà đáp: “Xin ngài chớ nên nói rằng ‘Như Lai hài lòng’. Sự
hài lòng chính là
tư tưởng điên đảo. Nếu có
tư tưởng điên đảo tức là có
sanh tử. Có
sanh tử tức là
pháp hữu vi. Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Vì vậy không nên nói rằng
Như Lai là
hữu vi. Nếu nói
Như Lai là
hữu vi thì cả con và ngài đều
thực hành theo pháp điên đảo!
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Như Lai không hề có
tư tưởng ái luyến. Sự
ái luyến cũng giống như con bò mẹ nhớ nghĩ
ái luyến với con bò con. Trong khi
đói khát đi tìm nước uống và cỏ ăn, nhưng dù đủ hay chưa đủ, bỗng nhớ tới con liền chạy về. Chư
Phật Thế Tôn không hề có sự nhớ nghĩ
ái luyến như vậy, luôn xem tất cả
chúng sanh bình đẳng như nhau, cũng như La-hầu-la là con một của ngài. Niệm tưởng [
từ bi bình đẳng] như vậy chính là
cảnh giới trí tuệ của chư Phật.
“Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi!
Ví như một vị vua, được người đánh xe đưa đi bằng xe bốn ngựa. Như muốn dùng xe lừa để
chạy theo cho kịp,
thật không thể được. Nay ngài với con cũng vậy. Như muốn thấu hết lẽ sâu kín và
ẩn mật của
Như Lai,
thật không thể được!
“Văn-thù-sư-lợi!
Ví như loài
chim cánh vàng[86] bay lên
hư không, cao đến
vô số do-tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài sống
dưới nước như cá,
ba ba, trạnh, đà, rùa, rồng..., lại cũng thấy cả hình chiếu của mình, như người ta nhìn vào tấm
gương sáng mà thấy được các màu sắc,
hình ảnh. Kẻ
phàm phu trí tuệ nhỏ hẹp không thể đo lường chỗ thấy như thế. Ngài và tôi cũng vậy,
chúng ta không thể đo lường
trí tuệ Như Lai.”
Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà rằng: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chẳng phải tôi không thấu đạt việc ấy, nhưng vì ta muốn đem việc của hàng
Bồ Tát mà thử ông đó thôi.”
Lúc ấy, từ nơi khoảng giữa hai lông mày,
Thế Tôn phóng ra mọi ánh
hào quang.
Hào quang ấy sáng rực, chiếu lên thân ngài Văn-thù. Thấy
hào quang rồi, ngài Văn-thù-sư-lợi biết rõ
duyên cớ việc ấy liền bảo Thuần-đà: “Nay
Như Lai hiện ra tướng lành này tức là còn chẳng bao lâu sẽ nhập Niết-bàn. Vậy trước hết, ông hãy chuẩn bị lễ
cúng dường lần
cuối cùng đi, để kịp giờ
phụng hiến Phật và
đại chúng.
“Thuần-đà! Ông nên biết rằng
Như Lai phóng ra mọi ánh
hào quang, chẳng phải là không có
duyên cớ.”
Thuần-đà nghe xong, lặng thinh chẳng
tỏ ý gì cả.
Phật dạy Thuần-đà rằng: “Việc ông
cúng dường Phật và
đại chúng, nay đã
đúng lúc rồi. Ngay bây giờ đây,
Như Lai sắp nhập Niết-bàn.”
Phật lại dạy như vậy lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
Lúc ấy, nghe Phật dạy như vậy rồi, Thuần-đà
cất tiếng kêu khóc nghẹn ngào rằng: “Khổ thay! Khổ thay!
Thế gian sắp trống rỗng!”
Rồi ông bạch với
đại chúng: “Tất cả
chúng ta hôm nay hãy gieo mình phủ phục xuống đất,
đồng thanh khuyến thỉnh đức Phật đừng nhập Niết-bàn.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn bảo Thuần-đà: “[Các ông] chớ nên kêu khóc lớn tiếng chỉ khiến lòng buồn khổ
yếu ớt.[87] [Các ông] nên
quán thân này [không rắn chắc], chỉ như thân cây chuối; [
không thật có], chỉ như [
ảo ảnh] khi trời nắng nóng,[88] [không
bền lâu], chỉ như bọt nước hiện; lại chỉ như trò
ảo thuật, như thành càn-thát-bà,[89] như món đồ gốm chưa nung, như lằn điện chớp, hình vẽ
lên mặt nước, như kẻ tử tù sắp chết, như trái cây
chín muồi [sắp rụng], như miếng thịt cắt ra [sắp phải hư thối], như sợi chỉ dệt đã đến cuối khổ vải [không còn kéo dài được nữa]; [không có
bản ngã,] chỉ như cái chày giở lên, giã xuống.[90]
“[Các ông] nên quán các hành như
thức ăn có độc [và quán] các
pháp hữu vi đều có nhiều
lỗi lầm,
tai hại.”
Liền đó, Thuần-đà lại
bạch Phật: “Như Lai không muốn trụ lâu ở thế, con làm sao có
thể không than khóc? Khổ thay! Khổ thay!
Thế gian sắp trống rỗng! Nguyện
đức Thế Tôn vì lòng
thương xót chúng con và hết thảy
chúng sanh nên trụ lâu ở thế, đừng nhập Niết-bàn.”
Phật dạy Thuần-đà: “Nay ông không nên nói rằng: ‘Vì lòng
thương xót chúng con nên trụ lâu ở thế.’ Ta chính vì
thương xót ông và tất cả
chúng sanh nên nay mới nhập Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì pháp của chư Phật là như thế; các
pháp hữu vi cũng vậy. Vì thế chư Phật từng thuyết kệ rằng:
Các
pháp hữu vi,
Vốn tánh
vô thường,
Sanh rồi chẳng trụ.
Tịch diệt là vui.
“Thuần-đà! Ông nên quán xét rằng: Tất cả các hành cùng với các pháp đều là
vô ngã,
vô thường, chẳng trụ. Thân này
thường có vô số lỗi lầm tai hại,
mong manh như bọt nước.
Vì vậy, nay ông chẳng nên than khóc.”
Lúc ấy, Thuần-đà
bạch Phật: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như
lời Phật dạy. Tuy biết rằng
Như Lai phương tiện thị hiện Niết-bàn, nhưng con chẳng thể ngăn lòng
sầu não. Nay con
suy xét kỹ, lại sanh lòng
vui mừng.”
Phật khen Thuần-đà: “Lành thay,
lành thay! Ông đã biết được
Như Lai thị hiện [
hình tướng] giống như
chúng sanh,
phương tiện nhập Niết-bàn.
“Thuần-đà! Ông hãy nghe đây. Như chim ta-la-ta, trong mấy tháng
mùa xuân đều
tụ họp tại ao A-nậu-đạt. Chư Phật
cũng thế, đều đến chỗ [Niết-bàn] này.
“Thuần-đà! Nay ông không nên nghĩ rằng
đời sống chư Phật là dài lâu hay ngắn ngủi. Tất cả các pháp đều như tướng
ảo hóa. Khi ở trong [sự
ảo hóa] đó,
Như Lai dùng sức phương tiện nên không bị vướng nhiễm. Vì sao vậy? Vì Pháp của chư Phật là như thế.
“Thuần-đà! Nay ta thọ nhận sự dâng hiến
cúng dường của ông là muốn giúp ông vượt thoát mọi
cảnh giới hiện hữu, ra khỏi dòng
sanh tử. Trong hàng trời, người, những ai có mặt tại lần
cúng dường cuối cùng này đều sẽ được
quả báo không lay chuyển, thường hưởng sự an vui. Vì sao vậy? Vì
Như Lai là
ruộng phước của
chúng sanh. Nếu ông cũng muốn vì
chúng sanh mà làm
ruộng phước thì hãy mau chuẩn bị các thức
cúng dường, đừng chần chờ nữa.”
Lúc ấy, Thuần-đà vì [nghĩ đến]
sự độ thoát cho các
chúng sanh nên cúi đầu gạt lệ
bạch Phật: “Lành thay, bạch Thế Tôn! Như con có thể
trở thành ruộng phước của
chúng sanh, ắt con có thể biết được
Như Lai có vào Niết-bàn hay không vào Niết-bàn. Hiện nay, chúng con và hàng
Thanh văn,
Duyên giác đều chỉ có
trí tuệ nhỏ nhoi như loài muỗi, loài kiến... thật chẳng thể
lượng xét nổi
Như Lai có vào Niết-bàn hay không vào Niết-bàn.”
Lúc ấy, Thuần-đà cùng với
quyến thuộc của ông, thảy đều
ưu sầu, khóc lóc, đi quanh
Như Lai,
đốt hương, rảy hoa,
hết lòng kính phụng; rồi cùng với
Bồ Tát Văn-thù từ tòa ngồi
đứng dậy, đi lo chuẩn bị các thức
cúng dường.[91]
Các vị đi chưa bao lâu thì mặt đất nơi ấy bỗng xảy ra
sáu cách chấn động. Lên đến cõi
Phạm thiên cũng
chấn động như vậy.
Nói về mặt đất
chấn động, có hai
trường hợp. Một là
địa động, hai là
đại địa động.
Chấn động nhỏ gọi là
địa động,
chấn động lớn gọi là
đại địa động.
Chấn động phát ra tiếng nhỏ gọi là
địa động,
chấn động phát ra tiếng lớn gọi là
đại địa động. Chỉ có đất động mà thôi gọi là
địa động, núi, sông, cây cối, nước ở biển cả, tất cả đều động, gọi là
đại địa động.
Chấn động một hướng gọi là
địa động,
chấn động xoay quanh và lần ra khắp các nơi đều động gọi là
đại địa động. Chỉ
chấn động mặt đất gọi là
địa động, cơn
chấn động làm cho trong lòng
chúng sanh đều
xúc động gọi là
đại địa động.
Lúc
ban sơ,
Bồ Tát từ cung trời Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề [xảy ra
chấn động lớn] gọi là
đại địa động. Khi đản sanh, lúc
xuất gia, khi
thành Phật, lúc
chuyển pháp luân[92] và khi nhập Niết-bàn [đều có
chấn động lớn], gọi là
đại địa động. Hôm nay
Như Lai sắp nhập Niết-bàn, cho nên ở cõi đất này có sự
chấn động lớn như vậy.
Khi ấy, các hàng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già,
loài người và loài
phi nhân nghe biết việc ấy rồi đều thấy
rùng mình rởn ốc, cùng khóc kể bi ai và đọc kệ rằng:
Cúi lạy bậc Điều ngự!
Nay chúng con
khuyến thỉnh.
Rời xa
đấng Pháp vương,
Chẳng còn ai
cứu hộ.
Nay thấy Phật Niết-bàn,
Chúng con chìm biển khổ,
Buồn lo và
đau đớn,
Như bò con mất mẹ.
Bần cùng, không ai cứu,
Như người bệnh khốn nguy,
Không thầy thuốc
chỉ dẫn,
Ăn đồ chẳng nên ăn.
Bệnh
phiền não chúng sanh,
Thường bị
tà kiến hại,[93]
Rời xa đấng
Y vương,
Dùng ngay loại thuốc độc.
Vì vậy Phật Thế Tôn,
Chẳng nên bỏ chúng con.
Như nước không vua trị,
Nhân dân đều
nghèo đói,
Chúng con mất phúc lành,
Mất vị pháp, cũng vậy.
Nay nghe Phật Niết-bàn,
Chúng con lòng
rối loạn.
Như đất đai
chấn động,
Làm
tán loạn các phương.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Mặt trời Phật
sa xuống,
Nước Pháp ắt cạn khô,
Chúng con chắc sẽ chết.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Chúng sanh rất
khổ não.
Như con vị
trưởng giả,
Mới mất mẹ và cha.
Như Lai nhập Niết-bàn,
Như
cha mẹ chẳng về.
Chúng con và
chúng sanh,
Đều không người
cứu hộ,
Như Lai nhập Niết-bàn,
Cho đến loài
súc sanh,
Hết thảy đều
sầu khổ,
Khổ não đốt
tâm can.
Chúng con hôm nay đây,
Làm sao không sầu não?
Như Lai xả bỏ hết,
Như khạc bỏ đàm nhớt.
Như
mặt trời mới mọc,
Ánh sáng rất huy hoàng,
Tự chiếu sáng trên không,
Lại trừ hết tăm tối.
Hào quang thần thông Phật,
Trừ được khổ chúng con.
Phật ở trong
đại chúng,
Như núi lớn Tu-di.
“Thế Tôn!
Ví như có vị
quốc vương sanh được nhiều con, thảy đều có
tướng mạo đoan chánh. Vua thường
thương yêu con, trước dạy các nghề tinh xảo cho được
thông thạo, rồi sau lại giao cho bọn đao phủ giết đi.[94]
“Bạch Thế Tôn! Nay chúng con là con của
đấng Pháp vương, nhờ ơn Phật dạy dỗ, đã có đủ
Chánh kiến, xin Phật đừng bỏ chúng con. Nếu ngài
buông bỏ, thì chúng con có khác nào những đứa con [bị đưa đi giết bỏ] của vị vua kia!
Nguyện Phật trụ thế
lâu dài, đừng vào Niết-bàn.
“Thế Tôn!
Ví như có người học
thông thạo các bộ luận, nhưng đối với các bộ luận ấy lại sanh tâm sợ sệt, [
thật không có lý].
Như Lai cũng thế, ngài đã
thông đạt các pháp [có lẽ nào] đối với các pháp lại sanh tâm sợ sệt? Nếu
đức Như Lai trụ thế dài lâu, thuyết dạy
Chánh pháp cam lộ khiến cho
ai nấy đều được đầy đủ thì
chúng sanh chẳng còn phải lo sợ đọa vào
địa ngục.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như có người mới tập sự [do sai sót nên] bị quan bắt giam vào ngục. Có người hỏi: “Ông thấy thế nào?” Đáp rằng: “Nay tôi thấy
hết sức lo lắng khổ sở.” Nếu người ấy được ra [khỏi cảnh giam cầm] ắt sẽ rất an vui.
Như Lai cũng thế, ngài vì chúng con
tu hành mọi hạnh khổ, nay chúng con chưa được ra khỏi
khổ não sanh tử, làm sao
Như Lai có thể được hưởng an vui?
“Thế Tôn!
Ví như người thầy thuốc rất giỏi,
thông thạo các phương thuốc, chỉ truyền riêng những phương thuốc
bí truyền cho con mà thôi, không truyền cho những người ngoài đến học.
Như Lai cũng thế, ngài chỉ đem
giáo pháp uyên áo sâu kín nhất dạy riêng cho ngài Văn-thù, đành
bỏ rơi không
đoái hoài thương xót đến tất cả chúng con.
“Như Lai đối với
Chánh pháp lẽ ra không có lòng
tham tiếc che giấu như người thầy thuốc kia, chỉ dạy riêng con mình, chẳng dạy cho người ngoài đến học.
Sở dĩ thầy thuốc kia không thể truyền rộng nghề thuốc cho đời là vì còn có lòng so đo hơn kém, nên mới
tham tiếc che giấu. Trong lòng
Như Lai không hề có sự so đo hơn kém, vì sao không dạy dỗ chúng con? Nguyện
Như Lai trụ thế dài lâu [
giáo hóa chúng con], đừng nhập Niết-bàn.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như có những người già, trẻ con, người bệnh cùng rời khỏi
con đường bằng phẳng
thẳng tắp để
đi theo con đường hiểm trở. Đường ấy thật
gian nan khó đi, họ phải chịu nhiều
khổ não. Có một người lạ thấy vậy
thương xót, liền chỉ cho
con đường thẳng bằng phẳng.
“Thế Tôn! Chúng con cũng giống như những người ấy. Người trẻ
ví như chưa
tăng trưởng pháp thân, người già
ví như phiền não nặng nề, người bệnh
ví như chưa
thoát khỏi sanh tử, đường
hiểm trở ví như hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu trong
Ba cõi. Nguyện
đức Như Lai chỉ cho chúng
con đường Chánh đạo cam lộ. Xin
Như Lai trụ thế dài lâu, đừng nhập Niết-bàn.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo chư tỳ-kheo: “Tỳ-kheo các ông chớ sầu than khóc lóc như hạng
phàm phu trong
cõi trời, người. Phải
chuyên cần tinh tấn, giữ tâm
chánh niệm.”
Lúc ấy,
nghe lời Phật khuyên dạy, các hàng trời, người, a-tu-la đều ngưng khóc kể, giống như người chôn cất đứa con yêu, việc
mai táng đã xong liền thôi khóc kể.
Bấy giờ,
đức Thế Tôn liền vì
đại chúng mà thuyết kệ rằng:
Các ông phải hiểu ra,
Chớ nên
sầu khổ lắm.
Pháp chư Phật đều thế,
Nên
chấp nhận an nhiên.
Vui hạnh không
biếng nhác,
Giữ tâm thường
chánh niệm.
Lìa xa điều
phi pháp,
Tâm an, lòng được vui.
“Lại nữa, chư tỳ-kheo! Như có
điều chi nghi hoặc, nay nên thưa hỏi. Chẳng hạn như hỏi về những lẽ không và chẳng không; thường và
vô thường; khổ và không khổ;
y theo và chẳng
y theo; đi và chẳng đi; về và chẳng về;
thường hằng và không
thường hằng;
đoạn diệt và không
đoạn diệt;
chúng sanh và chẳng phải
chúng sanh; có và không; thật và chẳng thật;
chân thật và không
chân thật; diệt và chẳng diệt;
bí mật và chẳng
bí mật; phân hai và chẳng phân hai...
“Trong tất cả các
pháp như vậy, ai còn có chỗ nghi, hôm nay nên thưa hỏi. Ta sẽ
tùy thuận dứt nghi cho, lại cũng vì các ông mà
giảng thuyết Chánh pháp cam lộ, rồi sau đó mới nhập Niết-bàn.
“Này chư tỳ-kheo! Phật ra đời hiếm có, thân người là khó được. Được gặp Phật, tin Phật lại càng rất khó. Có thể nhẫn chịu được điều khó nhẫn, lại cũng rất khó.
Thành tựu giới cấm, chẳng có chi lầm lỗi,
đắc quả A-la-hán, việc ấy cũng rất khó, như tìm vàng trong cát hay cầu được hoa ưu-đàm. Này chư tỳ-kheo! Lìa khỏi
tám nạn[95] và được thân người là khó lắm. Các ông nay được gặp Phật, đừng để luống qua!
“Từ thuở xa xưa Phật đã tu biết bao hạnh khổ, nay mới được phép
phương tiện cao trổi
nhất như thế này. Vì các ông mà trong
vô lượng kiếp xưa ta đã từng xả bỏ
thân thể, tay chân, đầu mắt, tủy não... Vậy các ông chớ nên
lơ là,
biếng nhác.
“Này chư tỳ-kheo! Thế nào gọi là
trang nghiêm thành báu Chánh pháp?[96] Đầy đủ hết thảy mọi
công đức, đó là
trân bảo. Giới, định, huệ, đó là những tường cao, hào sâu. Nay các ông gặp được thành quách
quý báu là
Phật pháp, chẳng nên nhận lấy những vật
hư giả.
Ví như người chủ đoàn buôn kia, gặp được cảnh thành đầy
trân bảo, lại nhặt lấy những gạch ngói để mang về nhà! Các ông
cũng thế, đã gặp được cảnh thành
quý báu, lại nhặt lấy những vật hư giả!
“Này chư tỳ-kheo! Đừng lấy tâm nhỏ nhoi mà tự cho là đầy đủ. Các ông nay tuy đã được
xuất gia, nhưng chẳng có lòng
hâm mộ đối với Đại thừa! Này chư tỳ-kheo! Các ông thân dù được mặc áo cà-sa nhuộm màu,[97] nhưng tâm còn chưa được nhuộm pháp
Đại thừa trong sạch. Các ông tuy
thực hành pháp khất thực,
xin ăn trải qua nhiều xứ, nhưng chưa từng xin món ăn
Chánh pháp Đại thừa. Các ông tuy cạo bỏ râu tóc, nhưng chưa vì
Chánh pháp mà trừ bỏ mọi sự
trói buộc và
sai khiến.[98]
“Này chư tỳ-kheo! Hôm nay ta sẽ đem
pháp chân thật mà dạy các ông.
Hiện tại Như Lai đang ở giữa
đại chúng hòa hợp này,
pháp tánh của
Như Lai là
chân thật, không
điên đảo.
Vì vậy, các ông nên
tinh tấn,
duy trì tâm
dũng mãnh phá trừ, dứt sạch mọi sự
trói buộc và
sai khiến. Nếu đợi khi
mặt trời trí tuệ có đủ mười sức[99] đã lặn khuất, các ông sẽ bị
vô minh che lấp.
“Này chư tỳ-kheo!
Ví như các loại cỏ thuốc trên khắp mặt đất, núi non đều là để cho
chúng sanh dùng. Pháp Phật
cũng thế, sanh ra vị pháp
cam lộ linh diệu, là liều thuốc hay để trị mọi thứ bệnh
phiền não cho
chúng sanh. Nay ta sẽ làm cho tất cả
chúng sanh và
Bốn chúng đệ tử[100] của ta đều trụ yên trong tạng
bí mật. Ta cũng sẽ trụ yên trong đó mà vào Niết-bàn.
“Sao gọi là tạng bí mật?
Ví như chữ Y,[101] nếu viết ba chấm theo hàng ngang hay theo hàng dọc thì đều chẳng thành chữ Y. Phải như ba con mắt nơi gương mặt của thần Ma-hê-thủ-la mới
thành hình dạng chữ Y. Nếu tách riêng biệt ba chấm cũng chẳng thành chữ Y.
“Như Lai
cũng thế. Pháp
giải thoát chẳng phải Niết-bàn. Thân
Như Lai cũng chẳng phải Niết-bàn.
Đại trí tuệ Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Ba pháp ấy riêng biệt cũng chẳng phải Niết-bàn. Nay ta vì
chúng sanh, trụ yên [đầy đủ] trong ba pháp ấy, gọi là nhập Niết-bàn, cũng như [hình dạng] chữ Y của
thế gian.”
Lúc ấy, chư tỳ-kheo nghe Phật
quyết định nhập Niết-bàn, thảy đều
ưu sầu,
rùng mình rởn ốc, nước mắt đượm tròng, cúi đầu lạy sát
chân Phật, đi quanh Phật
vô số vòng
cung kính, rồi
bạch Phật rằng:
“Thế Tôn thuyết dạy [cho chúng con] những
lý vô thường, khổ, không,
vô ngã thật đáng mừng thay!
“Bạch Thế Tôn!
Ví như trong
dấu chân của muôn loài thì
dấu chân voi là to nhất. Phép
quán tưởng vô thường cũng thế, là bậc nhất trong các phép
quán tưởng. Như ai
tinh cần tu tập phép
quán tưởng ấy, có thể
trừ diệt tất cả tâm
tham dục và
ái luyến trong
Dục giới, tâm
ái luyến trong cõi
Sắc giới và
Vô sắc giới, cũng như trừ được
vô minh,
kiêu mạn cùng với những
tư tưởng vô thường.
“Bạch Thế Tôn! Nếu
đức Như Lai lìa bỏ những
tư tưởng vô thường thì hôm nay chẳng nên nhập Niết-bàn. Nếu chẳng
lìa bỏ những
tư tưởng vô thường, sao lại dạy rằng: tu phép
quán tưởng vô thường sẽ trừ dứt được sự
ái luyến trong
Ba cõi, trừ được
vô minh,
kiêu mạn và những
tư tưởng vô thường?
“Bạch Thế Tôn!
Ví như người làm ruộng kia, trong
mùa thu có cày sâu đất ruộng mới trừ được cỏ dại. Phép
quán tưởng vô thường này cũng vậy, trừ được tất cả tâm
tham dục và
ái luyến trong
Dục giới, tâm
ái luyến trong cõi
Sắc giới và
Vô sắc giới, cũng như trừ được
vô minh,
kiêu mạn cùng với những
tư tưởng vô thường.
“Thế Tôn!
Ví như việc cày ruộng vào
mùa thu là tốt nhất, trong các
dấu chân thì
dấu chân voi là lớn nhất, trong các phép
quán tưởng thì phép
quán tưởng vô thường là bậc nhất.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như vị đế vương kia,
biết mình sắp
mạng chung bèn
đại xá cho khắp
thiên hạ, thả hết những kẻ
bị giam cầm trong tù ngục, rồi sau đó mới băng hà. Hiện nay,
Như Lai cũng nên như thế,
độ thoát cho hết thảy
chúng sanh trong chốn tù ngục
vô minh,
ngu si tăm tối, rồi sau đó mới nhập Niết-bàn. Nay chúng con đều chưa được
độ thoát, sao
đức Như Lai lại định
bỏ rơi mà nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn!
Ví như có người kia bị quỷ nhập, may gặp ông thầy giỏi về
chú thuật,
dùng sức thần chú trừ dứt nạn cho người kia.
Như Lai cũng thế, vì hàng
Thanh văn mà trừ con quỷ
vô minh, khiến họ được trụ yên nơi
Đại trí tuệ Bát-nhã và các pháp
giải thoát, cũng như chữ Y của
thế gian.
“Thế Tôn!
Ví như con voi kia bị người ta trói. Dù cho có thầy giỏi cũng không thể ngăn giữ được, liền phá mở xiềng khóa, tự mình thoát đi. Chúng con chưa được như vậy, chưa thoát ra khỏi sự
trói buộc của các
phiền não là Năm sự ngăn che, Mười
triền phược,
Bảy lậu hoặc,[102] sao
đức Như Lai lại định
bỏ rơi [chúng con] mà vào Niết-bàn?
“Bạch Thế Tôn!
Ví như người mắc bệnh sốt rét, gặp được
lương y nên dứt được
bệnh khổ. Chúng con cũng như người bệnh ấy, chịu nhiều nạn khổ,
tà mạng nóng nảy. Mặc dù được gặp
Như Lai, nhưng bệnh còn chưa dứt, chưa được sự an vui
mãi mãi cao trổi nhất. Sao
đức Như Lai lại định
bỏ rơi [chúng con] mà nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn!
Ví như người say rượu chẳng còn biết gì, chẳng còn
nhận ra kẻ thân người sơ, chẳng
phân biệt được mẹ, con gái, chị, em gái... Người ấy
mê muội, hoang dâm,
hỗn loạn, nói năng bậy bạ, nằm trong đống phân nhơ nhớp. Lúc đó, có một vị
lương y đem thuốc cho uống. Người ấy uống xong liền nôn hết rượu ra,
tỉnh táo trở lại, lấy làm
hổ thẹn, tự trách mình: ‘Rượu là thứ không tốt, là gốc rễ của mọi điều ác. Nếu ta trừ được nó, ắt sẽ tránh xa được mọi
tội lỗi.’
“Thế Tôn! Chúng con cũng vậy. Từ xưa tới nay trôi lăn
trong vòng sanh tử, mê say vì tình sắc, tham đắm
năm dục.[103] Chẳng phải mẹ mà tưởng là mẹ, chẳng phải chị mà tưởng là chị, chẳng phải con gái mà tưởng là con gái, chẳng phải
chúng sanh mà tưởng là
chúng sanh...
Vì vậy mà phải trôi lăn chịu khổ
sanh tử, như người say rượu kia nằm trong đống phân nhơ nhớp. Nay
đức Như Lai ban cho chúng con thuốc pháp, giúp chúng con nôn ra hết rượu độc
phiền não. Nhưng chúng con vẫn chưa được
hoàn toàn tỉnh táo. Sao
đức Như Lai lại định
bỏ rơi [chúng con] mà nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn!
Ví như có người khen rằng cây chuối là cứng chắc, thật là
vô lý. Thế Tôn!
Chúng sanh cũng thế, nếu có ai khen các
pháp ngã, nhân,
chúng sanh,
thọ mạng, sự
nuôi dưỡng, sự thấy biết,[104] kẻ tạo tác, người nhận chịu[105] mà cho là
chân thật, cũng thật
vô lý như vậy. Chúng con theo đó mà tu phép
quán tưởng vô ngã.
“Thế Tôn!
Ví như cặn bẩn của nước không dùng làm gì được. Thân này cũng vậy, vốn là
vô ngã, không có [một
thực thể nào là]
chủ tể.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như hoa thất diệp không
có mùi thơm. Thân này cũng vậy, vốn là
vô ngã,
thật không có
chủ tể.
“Chúng con theo đó thường
tu tập trong tâm phép
quán tưởng vô ngã. Như Phật có dạy: ‘Hết thảy các pháp vốn không có cái ta, không có vật của ta, các tỳ-kheo nên
tu tập theo lẽ ấy.
Tu tập như vậy rồi có thể trừ được tâm
ngã mạn,[106] lìa được tâm
ngã mạn liền nhập Niết-bàn.’
“Thế Tôn!
Ví như chim bay trên không trung mà để lại
dấu chân,
thật không có lý như vậy. Người thường
tu tập phép
quán tưởng vô ngã mà có các
kiến chấp, cũng
không có lý như vậy.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn ngợi khen chư tỳ-kheo rằng: “Lành thay,
lành thay! Các ông thật khéo
tu tập phép
quán tưởng vô ngã.”
Liền đó, chư tỳ-kheo
bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng con không chỉ tu phép
quán tưởng vô ngã mà còn
tu tập các phép
quán tưởng khác nữa. Kể đủ ra là các phép
quán tưởng: khổ,
vô thường và
vô ngã.”
“Thế Tôn!
Ví như người say rượu,
tâm trí mờ ám, thấy các cảnh núi sông, vách đá, cỏ cây, cung điện, nhà cửa,
mặt trời,
mặt trăng,
tinh tú đều
quay cuồng.
“Thế Tôn! Những ai không
tu tập các phép
quán tưởng: khổ,
vô thường,
vô ngã thì chẳng đáng gọi là bậc thánh. Những người ấy thường buông thả,
biếng nhác, trôi lăn trong
sanh tử. Thế Tôn! Bởi
nhân duyên ấy, chúng con phải khéo
tu tập những phép
quán tưởng như vậy.”
Lúc ấy, Phật dạy chư tỳ-kheo rằng: “Các ông hãy nghe cho kỹ! Các ông vừa đưa ra
thí dụ về người say rượu, ấy cũng là chỉ hiểu được
văn tự mà chưa thấu đạt
nghĩa lý. Thế nào là nghĩa lý? Như người say kia nhìn lên thấy
mặt trời,
mặt trăng,
thật không quay cuồng mà tưởng như
quay cuồng.
Chúng sanh cũng thế, do các
phiền não,
vô minh che lấp, nên sanh tâm
điên đảo: ngã cho là
vô ngã; thường cho là
vô thường; tịnh cho là
bất tịnh; lạc cho là khổ.
“Đó là do
phiền não che lấp, tuy sanh ra những
tư tưởng ấy, nhưng chẳng thấu đạt
nghĩa lý của chúng. Cũng như người say rượu kia, đối với vật không
quay cuồng mà tưởng là
quay cuồng. Ngã là nghĩa Phật; thường là nghĩa
Pháp thân, lạc là nghĩa Niết-bàn, tịnh là nghĩa pháp.
“Này chư tỳ-kheo! Sao lại nói rằng người có
ngã tưởng là
kiêu mạn cống cao, trôi lăn mãi trong sanh tử? Như các ông nói rằng: ‘Chúng con cũng
tu tập các phép
quán tưởng vô thường, khổ,
vô ngã.’ Ba phép tu ấy chẳng có nghĩa thật. Nay ta sẽ thuyết dạy ba phép
vượt trội thù thắng hơn.
“Khổ cho là vui, vui cho là khổ, đó là pháp
điên đảo.
“Vô thường cho là thường, thường cho là
vô thường, đó là pháp
điên đảo.
“Vô ngã cho là ngã, ngã cho là
vô ngã, đó là pháp
điên đảo.
“Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là
bất tịnh, đó là pháp
điên đảo.
“Người nào có bốn pháp
điên đảo như vậy là không biết
tu tập các pháp một cách chân chánh.
“Này chư tỳ-kheo! Ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong
vô thường mà tưởng là thường, ở trong
vô ngã mà tưởng là hữu ngã, ở trong
bất tịnh mà tưởng là tịnh.
Thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh.
Xuất thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh.
“Pháp
thế gian chỉ là
văn tự mà không có
nghĩa chân thật. Pháp
xuất thế gian có cả
văn tự và
nghĩa chân thật. Vì sao vậy? Vì
thế gian có
bốn điên đảo, cho nên chẳng biết được
nghĩa chân thật. Vì sao như thế? Vì có
tư tưởng điên đảo, tâm ý
điên đảo, thấy biết
điên đảo. Bởi có
ba sự điên đảo này nên người
thế gian ở chỗ vui mà cho là khổ, ở chỗ thường mà cho là
vô thường, ở chỗ hữu ngã mà cho là
vô ngã, ở chỗ tịnh mà cho là
bất tịnh. Đó gọi là
điên đảo.
“Vì
điên đảo nên người
thế gian biết
văn tự mà không biết
nghĩa chân thật. Thế nào là
nghĩa chân thật?
Vô ngã là
sanh tử, ngã tức là
Như Lai;
vô thường là hàng
Thanh văn và
Duyên giác, thường tức là
pháp thân Như Lai; khổ là tất cả
ngoại đạo, lạc tức là Niết-bàn;
bất tịnh là
pháp hữu vi, tịnh tức là
Chánh pháp của chư Phật,
Bồ Tát. Đó gọi là không
điên đảo.
“Vì không
điên đảo nên biết được cả
văn tự và
nghĩa chân thật. Nếu muốn lìa xa bốn pháp
điên đảo,
cần phải biết rõ
nghĩa chân thật thường, lạc, ngã, tịnh như vậy.”
Bấy giờ, các vị tỳ-kheo
bạch Phật rằng: “Thế Tôn!
Theo như Phật vừa dạy, lìa khỏi bốn pháp
điên đảo thì biết rõ
nghĩa chân thật thường, lạc, ngã, tịnh. Nay
Như Lai vĩnh viễn dứt trừ bốn pháp
điên đảo, ắt đã biết rõ thường, lạc, ngã, tịnh, vậy tại sao không trụ thế trọn một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy dỗ, dắt dẫn chúng con, khiến chúng con lìa khỏi bốn pháp
điên đảo, lại đành
bỏ rơi chúng con mà nhập Niết-bàn?
“Ví như
đức Như Lai thương tưởng ở lại mà dạy dỗ, chúng con sẽ
hết lòng lãnh thọ và
tu tập. Bằng như
đức Như Lai nhập Niết-bàn, chúng con làm sao có thể cùng
tồn tại với cái
thân độc hại này mà tu hạnh trong sạch? Chúng con cũng sẽ theo
Phật Thế Tôn mà vào Niết-bàn.”
Lúc ấy, Phật dạy chư tỳ-kheo rằng: “Các ông chẳng nên nói như vậy.
Chánh pháp vô thượng của ta đã
phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp sẽ làm bậc
Đại Y chỉ[107] cho các ông. Cũng như
đức Như Lai là chỗ nương theo của tất cả
chúng sanh, Ma-ha Ca-diếp cũng vậy, sẽ là chỗ nương theo cho tất cả các ông.
“Ví như vị
đại vương kia, thống lãnh nhiều xứ. Mỗi khi đi tuần du bên ngoài, liền đem việc nước mà
giao phó cho vị đại thần.
Như Lai cũng thế, đem
Chánh pháp mà
phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp.
“Các ông nên biết rằng, trước đây [các ông]
tu tập những phép
quán tưởng vô thường và khổ là những
pháp không chân thật.
“Ví như vào
mùa xuân, có nhiều người đến một cái ao lớn thả thuyền
rong chơi, làm rớt một hạt
bảo châu lưu ly chìm xuống nước sâu. Liền đó,
mọi người đều lặn xuống đáy nước để tìm
bảo châu. Họ đua nhau hốt lấy những gạch, đá, cỏ, cây, cát, sỏi...
Ai nấy đều cho rằng mình đã được hạt châu
lưu ly, mừng rỡ mà nổi lên khỏi mặt nước, mới biết là không phải.
“Lúc đó, hạt châu vẫn còn ở
dưới nước. Do
tính chất của hạt châu, nên nước cả vùng ấy được lắng trong. Bấy giờ,
mọi người nhìn xuống đáy nước đều thấy hạt
bảo châu, cũng như người ta ngẩng lên
hư không nhìn thấy
mặt trăng vậy. Ngay lúc đó, trong đám đông ấy có một người có trí,
dùng sức phương tiện, từ từ lặn xuống nước và nhặt được hạt châu.
“Này chư tỳ-kheo! Chớ nên
tu tập những phép
quán tưởng vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh theo cách như
vậy mà cho là
nghĩa chân thật, khác nào những người kia hốt lấy gạch, đá, cỏ, cây, cát, sỏi... mà cho là bảo châu!
“Các ông nên khéo học
phương tiện. Bất kỳ lúc nào và ở đâu cũng thường tu những pháp
quán tưởng thường, lạc, ngã, tịnh. Lại nên biết rằng, bốn phép
quán tưởng vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh mà các ông đã
tu tập trước kia đều là
điên đảo cả. Muốn tu các pháp
quán tưởng cho đúng lẽ
chân thật, phải như người có trí kia, biết dùng phép khéo léo để lấy hạt
bảo châu ra khỏi nước. Ấy là các pháp
quán tưởng thường, lạc, ngã, tịnh.”
Lúc ấy, chư tỳ-kheo
bạch Phật: “Thế Tôn! Trước đây, Phật có dạy: ‘Các pháp đều là
vô ngã, các ông nên
tu học lẽ ấy.
Tu học như vậy rồi thì lìa được
tư tưởng chấp ngã. Khi lìa khỏi
tư tưởng chấp ngã, ắt lìa khỏi
kiêu mạn. Lìa khỏi
kiêu mạn liền được nhập Niết-bàn.’ Vậy nghĩa ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Nay các ông khéo hỏi nghĩa ấy, đó là tự mình dứt nghi.
Ví như một vị vua kia
ngu si, kém trí. Vua có một người thầy thuốc tánh tình
ngoan cố,
ngu dại. Nhưng vua chẳng biết
phân biệt, ban cấp bổng lộc [cho ông ta] một cách
rộng rãi. Thầy thuốc ấy liệu trị các bệnh chỉ dùng
duy nhất một món sữa làm thuốc mà thôi, lại chẳng biết
nguyên nhân gây bệnh. Tuy biết dùng sữa làm thuốc, nhưng lại chẳng biết cách dùng, nên cho dù là trúng gió, cảm lạnh hay nóng sốt... đối với hết thảy các bệnh đều bảo uống sữa. Nhưng ông vua ấy không
phân biệt được là người thầy thuốc kia có hiểu được chỗ
lành dữ, tốt xấu của sữa hay không.
“Lại có một thầy thuốc
sáng suốt từ phương xa đến. Vị này hiểu rành tám môn y thuật, khéo liệu trị các bệnh,
thông thạo các phương thuốc. Bấy giờ, người thầy thuốc của vua chẳng những không chịu
học hỏi, lại sanh lòng cao ngạo, khinh dễ. Người thầy thuốc
sáng suốt kia liền mặc
y phục chỉnh tề đến xin thỉnh ông ấy làm thầy để học những
phương pháp sâu kín trong nghề thuốc, thưa rằng: ‘Nay tôi nhận ông làm thầy, xin vì tôi mà giảng dạy.’
“Người thầy thuốc của vua đáp rằng: ‘Như ông chịu hầu hạ ta trong bốn mươi tám năm, ta sẽ dạy nghề thuốc cho ông.’
“Liền đó, người thầy thuốc kia nhận lời và thưa rằng: ‘Tôi sẽ làm như vậy.
Tùy theo sức mình, tôi sẽ làm người hầu hạ để thầy
sai khiến.’
“Thế rồi, người thầy thuốc của vua liền đưa người thầy thuốc mới này vào
bái kiến đức vua.
Lúc ấy, vị thầy thuốc giỏi liền đem mọi
phương pháp trị bệnh và đủ các tài nghề khéo léo mà
giảng giải cho vua nghe. Ông nói: ‘Đại vương nên biết, phải khéo
phân biệt. Những
phương pháp như thế này nên dùng để trị nước... Những
phương pháp như thế này nên dùng để trị bệnh...’
“Bấy giờ, vua nghe qua rồi mới biết rằng người thầy thuốc của mình là một kẻ khờ khạo,
vô trí, liền đuổi ông
ta ra khỏi nước. Sau đó, vua lại càng thêm
cung kính vị thầy thuốc giỏi. Nhân khi ấy, vị này nghĩ rằng: ‘Đây chính là lúc có thể bảo vua nghe theo.’ Bèn tâu vua rằng: ‘Như
đại vương thật có lòng thương tưởng, xin cho tôi
cầu xin một điều.’
“Vua đáp: ‘Từ cánh tay mặt của trẫm đây
cho đến các bộ phận khác trong
thân thể,
tùy ý khanh muốn những gì, trẫm đều thuận cho.’
“Vị thầy thuốc giỏi liền tâu rằng: ‘Tuy
đại vương hứa cho tôi mọi bộ phận trong
thân thể, nhưng tôi đâu dám
cầu xin thái quá như vậy. Nay chỉ xin vua ra lệnh này: Từ nay về sau, khắp trong nước chẳng ai được dùng sữa làm thuốc
theo như lời dạy của người thầy thuốc cũ. Vì sao vậy? Món thuốc ấy
độc hại, gây nhiều
thương tổn. Nếu ai còn dùng sẽ bị chém đầu. Trừ bỏ được món thuốc sữa ấy thì chẳng còn ai phải
chết oan uổng,
mọi người thường được an vui.
Vì vậy nên tôi
thỉnh cầu điều ấy.’
“Vua liền đáp rằng: ‘Việc khanh
thỉnh cầu đó [ta
chấp thuận ngay] chẳng
cần phải bàn nữa!’ Vua bèn truyền lệnh đi khắp nơi rằng: ‘Khắp trong nước, những ai có bệnh đều không được dùng sữa làm thuốc. Nếu ai dùng sẽ bị chém đầu.’
“Bấy giờ, vị thầy thuốc giỏi dùng đủ các vị như: cay, đắng, mặn, ngọt, chua... mà bào chế thành nhiều loại thuốc, dùng trị các chứng bệnh, bệnh nào cũng được khỏi cả.
“Chẳng bao lâu sau, nhà vua lại mắc bệnh, liền triệu ông vào hỏi rằng: ‘Nay trẫm có bệnh nặng, khốn khổ muốn chết. Vậy nên trị cách nào?’
“Vị thầy thuốc giỏi xem bệnh cho vua xong, thấy nên dùng sữa làm thuốc, bèn tâu rằng: ‘Như bệnh của vua đây
cần phải uống sữa. Trước đây tôi bảo dứt hẳn món sữa làm thuốc, thật là
lời nói dối. Nay nếu vua uống sữa vào, có thể trừ được bệnh. Vua đang bị nóng nhiệt, đúng là phải uống sữa vậy.’
“Lúc ấy, vua nói rằng: ‘Nay khanh điên rồi hay sao lại cho là uống sữa có thể trừ được bệnh nóng? Trước kia khanh nói là [sữa] độc, nay sao lại bảo [ta] uống? Khanh muốn khinh thường trẫm đó sao? Món thuốc mà thầy thuốc trước đây khen, khanh bảo là độc, bảo
ta ra lệnh cấm. Nay khanh lại nói rằng tốt, có thể trừ bệnh. Như lời khanh nói, thì thầy thuốc trước đây của ta ắt là giỏi hơn khanh vậy.’
“Bấy giờ, vị thầy thuốc giỏi tâu vua rằng: ‘Nay
đại vương không nên nói vậy.
Ví như loài mối ăn cây, có khi
thành hình chữ viết. Nhưng những con mối ấy chẳng biết đó là chữ hay không phải là chữ. Người có trí thấy vậy, chẳng hề nói rằng con mối biết chữ, và cũng chẳng lấy làm lạ lùng, kinh sợ.
Đại vương nên biết, người thầy thuốc trước cũng như vậy đó, chẳng biết
phân biệt các bệnh, tất cả đều cho uống sữa làm thuốc, cũng như những con mối ăn cây,
ngẫu nhiên mà
thành hình chữ viết. Ông ấy thật ra chẳng hiểu được những chỗ tốt xấu,
lành dữ của món sữa làm thuốc.’
“Lúc ấy, vua liền hỏi: ‘Thế nào là chẳng hiểu?’
“Vị thầy thuốc giỏi đáp: ‘Món sữa thuốc ấy là thứ
độc hại, mà cũng là chất
cam lộ. Sữa như thế nào gọi là cam lộ? Như con bò cái chẳng ăn hèm rượu,
các loại cỏ trơn nhớt, cám, và con bò con thì
hiền hòa. Khi người chăn bò dắt đi ăn, không chọn những vùng cao, cũng không đưa xuống những nơi
ẩm thấp; khi cho bò uống nước, liền dắt đến dòng nước trong; chẳng cho bò chạy nhanh, chẳng cho
ở chung bầy với bò đực; giữ cho bò con bú sữa mẹ
điều độ, đi đứng đều đúng chỗ, đúng nơi. Được như
vậy thì sữa bò ấy có thể trừ các bệnh. Đó gọi là món thuốc
cam lộ linh diệu. Ngoài thứ sữa ấy ra, các thứ sữa khác đều là
độc hại.’
“Lúc ấy, vua nghe xong mấy lời ấy liền khen rằng: ‘Lành thay,
lành thay! Từ nay trẫm mới biết được những lẽ tốt xấu,
lành dữ của món sữa thuốc.’ Vua liền uống sữa và được khỏi bệnh.
“Sau đó, vua truyền lệnh rằng: ‘Từ nay trở đi, khắp trong nước đều phải dùng món sữa làm thuốc.’
“Nghe lệnh truyền ấy, người trong nước đều lấy làm tức giận, bảo nhau rằng: ‘Đại vương nay hẳn đã bị
quỷ ám hay
điên cuồng rồi nên mới dối gạt
chúng ta, bảo
chúng ta phải uống sữa trở lại?’
“Tất cả
nhân dân đều ôm lòng giận tức, kéo nhau đến chỗ cung vua. Vua liền bảo rằng: ‘Các người chẳng nên sanh lòng tức giận với ta. Đối với loại sữa dùng làm thuốc, dù uống hay không uống đều theo lời thầy thuốc, chẳng phải lỗi nơi ta.’ [Rồi vua đem lời thầy thuốc đã
nói trước đây mà
giải thích với tất cả
mọi người.]
“Lúc ấy, vua và
nhân dân đều lấy làm
vui mừng phấn chấn, càng thêm
cung kính cúng dường vị thầy thuốc ấy. Tất cả những người bệnh được uống món sữa thuốc đều khỏi bệnh.
“Này chư tỳ-kheo! Nên biết rằng
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn cũng như vậy đó. Ngài là bậc
Đại y vương xuất hiện ở
thế gian,
hàng phục tất cả những tà y
ngoại đạo, ở giữa các vị vua và dân chúng[108] tự xưng rằng: ‘Ta là bậc
y vương.’ Vì muốn
hàng phục ngoại đạo, nên ta lại nói rằng: ‘Không có ngã, nhân,
chúng sanh,
thọ mạng, sự
nuôi dưỡng, sự thấy biết, kẻ tạo tác, người nhận chịu.’
“Này chư tỳ-kheo! Nên biết rằng kẻ
ngoại đạo nói có ngã cũng chỉ giống như con mối ăn cây,
ngẫu nhiên mà
thành hình chữ viết.
Vì vậy,
đức Như Lai ở trong pháp Phật mà thuyết dạy là
vô ngã. Vì
điều phục chúng sanh, vì biết lúc
thích hợp, nên nói
pháp vô ngã như vậy.
“Khi đủ
nhân duyên lại
thuyết pháp hữu ngã. Như vị
lương y kia, biết rành
tính chất của sữa, cũng là thuốc mà cũng không phải là thuốc, không giống như chỗ những kẻ
phàm phu suy lường cái ngã mà ta thuyết dạy.
“Kẻ
phàm phu ngu si chấp lấy cái ngã [
của riêng mình], hoặc nói là nó lớn như ngón tay cái, hoặc nhỏ bằng hạt cải, hoặc như
hạt bụi rất nhỏ.
Đức Như Lai thuyết cái ngã [
chân thật] chẳng phải như vậy.
“Cho nên Phật dạy rằng: ‘Các pháp là
vô ngã, nhưng thật chẳng phải
vô ngã.’ Thế nào là thật? Nếu như có pháp là
chân thật, là thường tồn, là
chủ tể, là chỗ nương theo,
bản tánh không thay đổi, đó gọi là ngã.
“Ví như vị
lương y đại tài kia hiểu rành về món thuốc sữa;
Như Lai cũng thế, vì
chúng sanh mà thuyết dạy rằng: ở trong các pháp đúng thật là có ngã.
“Nay
bốn chúng[109] các ông nên
tu tập pháp này theo đúng như vậy.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI
[1] Trong Nam bản thì phẩm này được gọi là phẩm Tựa (Tự phẩm).
[2] Tất cả các bản Việt dịch kinh điển từ trước đến nay đều mặc nhiên xem đây là lời ngài A-nan thuật lại để xác tín rằng kinh này do Phật thuyết và chính ngài được nghe. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cách hiểu như thế chưa hoàn toàn chuẩn xác vì mấy lý do sau đây. Thứ nhất, chính trong kinh này có thuật lại đoạn di ngôn của đức Phật về việc đặt câu “như thị ngã văn” ở đầu tất cả các kinh điển, nhưng đó là sự dặn dò chung cho tất cả đệ tử Phật chứ không phải riêng ngài A-nan, mặc dù ngài là người thưa hỏi. Vì thế, đại từ “tôi” ở đây phải được hiểu là người nói lại hoặc ghi chép lại kinh Phật, cho dù người đó là bất cứ ai trong số các đệ tử của Phật. Thứ hai, tuy ngài A-nan là bậc Đa văn đệ nhất, nhưng Đại hội kết tập kinh điển không chỉ duy nhất có mình ngài. Ngược lại, ngài Ca-diếp mới là chủ trì đại hội và có sự tham dự của 500 vị A-la-hán, trong đó ngài A-nan là người chứng quả sau cùng. Như vậy, ngoài yếu tố đa văn ra thì tất cả các vị khác đều là những người có sự tu tập và chứng ngộ trước ngài A-nan. Do đó các vị không đến Đại hội chỉ để nghe ngài A-nan tuyên thuyết lại kinh điển, mà còn giữ vai trò xác nhận và bổ sung những chỗ thiếu sót. Điều này có thể được chứng minh ngay trong kinh này, vì từ đầu kinh đã có đoạn nói rõ là ngài A-nan và ngài Ca-diếp đều không có mặt. Vậy “tôi” ở đây không thể là ngài A-nan. Trong kinh Lăng nghiêm cũng có trường hợp tương tự, khi ngài A-nan gặp nạn Ma-đăng-già nữ, không có mặt tại Pháp hội, nhưng mọi chi tiết vẫn được kể rõ trong kinh, vậy chắc chắn phải là do những vị khác bổ sung vào. Thứ ba, kinh điển sau khi Phật nhập diệt chỉ được truyền lại bằng cách trực tiếp, người này đọc cho người kia nghe, vì chưa được ghi chép thành văn tự. Như vậy, đại từ “tôi” buộc phải được dùng bởi tất cả những ai đứng ra truyền lại kinh điển cho người khác, và điều này còn trải qua nhiều thế kỷ trước khi chính thức có sự ghi chép kinh điển. Vì những lý do đó, chúng tôi cho rằng đại từ “tôi” không nhất thiết chỉ riêng ngài A-nan. Mặt khác, khi kinh điển đã chính thức được ghi chép lại, thì đây phải là kết quả việc làm của nhiều người trong Đại hội kết tập chứ không phải của riêng một người, nên việc sử dụng đại từ “chúng tôi” là thích hợp hơn. Ngoài ra, chữ “văn” cần phải dịch là “được nghe” để nhấn mạnh việc người nghe không chỉ tình cờ nghe được, mà là một sự tiếp nhận chính thức và đáng tin cậy; chữ “như thị” phải dịch là “đúng như thế này” mới hợp với ý nghĩa của nó thường được dùng trong kinh Phật. Chúng ta đều biết, đức Phật thường dùng chữ “như thị” mỗi khi xác nhận một sự việc hay một câu nói nào đó là hoàn toàn đúng thật.
[3] Thành Câu-thi-na (Kusinagara), gọi tắt là Câu-thi, Câu-na; dịch nghĩa là Giác thành, vì thành này có ba góc. Đức Phật nhập Niết-bàn tại thành này vào ngày rằm tháng hai. Lực-sĩ (Liçavi), cũng đọc là Lê-xa, Ly-xa, là tộc họ có quyền thế nhất ở thành Câu-thi-na và thành Duy-da-ly vào thời bấy giờ. Xin lưu ý đây là từ phiên âm nên không có nghĩa liên quan đến từ “lực sĩ” trong tiếng Hán Việt.
[4] A-lỵ-la-bạt-đề (Ajitavatỵ, Hyranyavati): một con sông ở Ấn Độ, gần thành Câu-thi-na, gần bờ sông có mọc rất nhiều cây sa-la. Cũng gọi là sông Hy-liên.
[5] Sa-la (sla), dịch nghĩa là kiên cố, bền chắc. Gần thành Câu-thi-na có rừng cây sa-la, mỗi cây đều có hai thân sóng đôi, nên gọi là rừng Sa-la Song thọ.
[6] Niết-bàn: dịch nghĩa là tịch diệt, an lạc, giải thoát. Đây là mục đích cuối cùng của người tu học Phật. Tuy nhiên, mỗi tông phái trong đạo Phật hiểu Niết-bàn theo một cách không hoàn toàn giống nhau. Nhưng nói chung đều nhìn nhận đây là kết quả cao nhất của việc tu tập. Không nên hiểu Niết-bàn theo nghĩa hư vô, trống rỗng như nhiều người vẫn thường lầm tưởng. Cũng không nên hiểu đây chỉ là từ đơn giản thay cho các từ khác như chết, viên tịch... Thật ra, Niết-bàn là một cảnh giới rốt ráo được Phật miêu tả trong rất nhiều kinh điển Đại thừa, mà qua đó có thể hiểu là cảnh giới giải thoát tuyệt đối, dứt sạch mọi triền phược và chứng đắc thể tánh thường tồn của vạn hữu.
[7] Cõi trời Hữu dỉnh (Hữu đỉnh thiên): Cõi trời cao nhất, cũng gọi là Sắc cứu cánh thiên.
[8] Thế giới Tam thiên đại thiên: Một cõi đại thiên thế giới do một vị Phật xuất thế giáo hóa. Cứ một ngàn cõi thế giới hợp thành một tiểu thiên thế giới, một ngàn cõi tiểu thiên thế giới hợp thành một trung thiên thế giới, lại một ngàn cõi trung thiên thế giới hợp thành một đại thiên thế giới. Vì tính lên đến ba lần một ngàn, nên quen gọi là tam thiên, nhưng đúng ra chỉ nên gọi là đại thiên thế giới.
[9] Lục thú, cũng gọi là lục đạo: sáu đường luân hồi, bao trùm tất cả mọi loài chúng sanh. Đó là: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[10] Kiếp hay kiếp-ba, phiên âm từ Phạn ngữ kalpa, chỉ một quãng thời gian rất dài, hầu như không thể tính đếm. Trong kinh luận có nhiều chỗ giải thích khác nhau về thời gian này. Như có lần Phật dạy: “Như có quả núi lớn ở gần thành ấp, người dân ở đó cứ một trăm năm lại đến dùng một tấm vải quất vào quả núi, cho đến khi quả núi ấy mòn sạch đi vẫn chưa hết một kiếp.” Như vậy có thể hình dung thời gian một kiếp là rất lâu. Kiếp giảm thường được giải thích là từ khi tuổi thọ con người được 84.000 năm, cứ qua một trăm năm thì giảm đi một tuổi, cho đến lúc chỉ còn là 10 tuổi thì gọi là một kiếp giảm.
[11] Trí tuệ Không (Không huệ): trí tuệ có được do tu tập pháp quán Không, thấy được thật tánh của tất cả các pháp chính là tánh Không.
[12]Thành tựu hạnh Không: chỉ sự tu chứng Tánh Không, tức thật tánh của các pháp, vì tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh, không hề có một thực thể nào tồn tại độc lập.
[13] Theo phong tục thời cổ Ấn Độ, người ta đi vòng quanh theo chiều bên phải để tỏ lòng cung kính. Đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng là muốn tỏ ý hết sức cung kính. Khi viếng các tháp Phật, người ta cũng đi quanh như vậy, gọi là nhiễu tháp.
[14] Lậu: dịch từ tiếng Sanskrit là rava, (Pli: sava) chỉ sự rỉ chảy làm cho ô nhiễm. Chính do các phiền não phát sanh từ tham, sân, si, khiến sáu căn chạy theo sáu trần làm thân tâm ô nhiễm, giống như vật chứa bị rỉ chảy. Vì thế, đây cũng được xem là tên khác của phiền não. Khi chứng đắc quả A-la-hán thì các lậu (hay phiền não) đều dứt sạch nên gọi là vô lậu.
[15] Rồng giữa loài người: (nhân trung chi long): chỉ những bậc kiệt xuất, phi thường, nổi bật giữa những người tầm thường. Vì quan niệm ngày xưa cho rồng là loài cao quý, linh diệu.
[16] Địa vị thứ mười, tức là Pháp vân địa trong Thập địa. Bồ Tát tu tập, lần lượt chứng đủ 10 địa vị từ thấp đến cao gọi là Thập địa, được kể như sau:
1. Hoan hỷ địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát hoan hỷ trên đường tu học, phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh thoát khỏi luân hồi, không còn nghĩ đến bản thân mình nữa. Bồ Tát vì thế thực hiện hạnh bố thí không cầu phước đức, chứng được thực tính vô ngã của tất cả các pháp.
2. Ly cấu địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát nghiêm trì giới luật và thực hành thiền định, lìa xa cấu nhiễm.
3. Phát quang địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát chứng được luật vô thường, tu trì tâm mình, thực hành nhẫn nhục khi gặp chướng ngại trên đường hóa độ chúng sanh. Ở địa vị này, Bồ Tát trừ được ba độc là tham, sân, si và được bốn cấp định an chỉ của bốn xứ, chứng đạt năm phần trong lục thông.
4. Diệm huệ địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát trừ dứt mọi quan niệm sai lầm, tu tập trí tuệ và 37 pháp Bồ-đề phần, cũng gọi là 37 phẩm trợ đạo.
5. Cực nan thắng địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát nhập định, đạt được trí tuệ, từ đó liễu ngộ được Tứ diệu đế và chân như, diệt hết các mối nghi ngờ và phân biệt, lại tiếp tục hành trì 37 giác chi.
6. Hiện tiền địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát liễu ngộ tất cả pháp là vô ngã, chứng được lý Mười hai nhân duyên và chuyển hóa trí phân biệt thành trí bát-nhã, nhận thức được tánh Không. Bồ Tát ở địa vị này đã đạt trí tuệ Bồ-đề, nhờ đó có thể nhập Niết-bàn thường trụ, vì lòng từ bi thương xót chúng sanh mà trụ lại thế gian, nhưng không bị sanh tử ràng buộc. Cảnh giới này gọi là Niết-bàn vô trụ.
7. Viễn hành địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát có đầy đủ mọi khả năng, phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Ở địa vị này, Bồ Tát có thể tùy nguyện lực hóa thân ở bất kỳ hình tướng nào.
8. Bất động địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát không còn bị dao động bởi bất kỳ một cảnh ngộ nào, và biết chắc khi nào mình sẽ đạt quả vị Phật.
9. Thiện huệ địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát đạt trí tuệ viên mãn, có đủ Thập lực, Lục thông, Bốn tự tín và Tám giải thoát, thông đạt mọi giáo pháp và giảng dạy cho chúng sanh.
10. Pháp vân địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát chứng đạt nhất thiết trí, đại hạnh. Ở địa vị này, Bồ Tát có Pháp thân viên mãn, ngự trên tòa sen với vô số Bồ Tát chung quanh trên cung trời Đâu-suất. Quả vị Phật lúc này đã được chư Phật ấn chứng. Kinh điển có nói đến các vị Bồ Tát đã đạt đến địa vị này là Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.
[17] Bất động: Không còn bị lay động, lôi cuốn bởi các trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
[18] Bốn tâm vô lượng (Tứ vô lượng tâm): là bốn tâm nguyện rộng lớn không có giới hạn của Phật và các vị Bồ Tát. Bốn tâm này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn, lại làm lợi ích cho vô lượng vô số chúng sanh, nên gọi là bốn tâm vô lượng, đó là:
1. Từ vô lượng.
2. Bi vô lượng
3. Hỉ vô lượng
4. Xả vô lượng
[19] Số cát sông Hằng (Hằng hà sa số): số lượng rất lớn, không thể tính đếm, cũng như số cát của con sông Hằng. Trong kinh Phật thường dùng cách nói này để diễn đạt những số lượng rất lớn.
[20] Ưu-bà-tắc: cư sĩ nam, người Phật tử tu tại gia thuộc phái nam. Người phái nữ gọi là ưu-bà-di (cư sĩ nữ).
[21] Năm giới (Ngũ giới): là giới luật của người Phật tử tại gia, bao gồm: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.
[22] Bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly và pha lê.
[23] Bát công đức thủy: Nước có tám công đức. Đó là loại nước có đủ tám tính chất như sau:
1. Trừng tịnh: lắng gạn trong sạch
2. Thanh lãnh: trong trẻo mát lạnh
3. Cam mỹ: mùi vị ngon ngọt
4. Khinh nhuyễn: nhẹ nhàng mềm mại
5. Nhuận trạch: thấm nhuần tươi mát
6. An hòa: yên ổn hòa nhã
7. Trừ được đói khát và vô số khổ não
8. Trưởng dưỡng thân tứ đại, tăng trưởng các thiện căn
[24] Đúng theo pháp (như pháp), nghĩa là món ăn mà các vị tỳ-kheo có thể thọ dụng đúng như giới luật chế định.
[25]Do-tuần (yojana), cũng đọc là do-diên hay du-thiện-na, là đơn vị đo chiều dài của Ấn Độ cổ xưa. Có nhiều thuyết nói khác nhau, xưa kia được dùng chỉ quãng đường trung bình một vị vua có thể dẫn quân đi qua trong một ngày. Theo các nhà nghiên cứu cận đại như J. Flect và Major Vost thì một do-tuần có chiều dài khoảng từ 7.300 đến 8.500 mét. Ở đây nói rộng 12 do-tuần có nghĩa là mỗi bề ngang dọc đều 12 do-tuần.
[26] Bảy thứ báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
[27] Ưu-bà-di: cư sĩ nữ, người đệ tử Phật tu tại gia thuộc phái nữ.
[28] Loài rắn có bốn thứ độc (Tứ độc xà) là loài rắn độc hại nhất. Bốn thứ độc của chúng là: 1. Chỉ nhìn cũng đủ hại người (kiến độc) 2. Chỉ chạm vào cũng đủ hại người (xúc độc) 3. Cắn người có thể hại người (khiết độc) 4. Hơi gió phát ra cũng có thể hại người (hư độc).
[29] Chín lỗ (cửu khổng): hai tai, hai mũi, hai mắt, một miệng và hai đường đại tiểu tiện.
[30] Một loại cây nở hoa màu hồng rất đẹp nhưng có mùi hôi lan xa đến hàng mấy chục dặm. Đây dùng hoa y-lan để so sánh với những phiền não tụ tập trong thân.
[31] Cây lớn mọc sát ven sông: chỉ sự không bền chắc, vì có thể ngã đổ bất cứ lúc nào. Trong Quy Sơn cảnh sách văn có ví dụ “ngạn thọ, tỉnh đằng” (cây ven bờ vực, dây leo vách giếng) có lẽ cũng xuất phát từ đây.
[32] Một loại hạt rất nhỏ màu vàng đen, dùng làm vị thuốc. Có người nói là hạt của cây rau đay.
[33] Ly-xa tộc họ có quyền thế nhất ở thành Tỳ-da-li, cũng là họ Lực-sĩ đã nói ở trước.
[34] Tỳ-da-li Cũng viết là Tỳ-xá-li, Di-da-li, một đô thành lớn ở miền Trung Ấn Độ, dịch nghĩa là Quảng Nghiêm. Đây là nơi cư trú của Bồ Tát Duy-ma-cật, vị cư sĩ hiện thân thuyết pháp trong kinh Duy-ma-cật.
[35] Đa-la: tên cây phiên âm từ Phạn ngữ là tla,tên khoa học là borassus flabelliformis, mọc phổ biến ở Ấn Độ, Myanma, Śrỵ Lanka và một số vùng nhiệt đới thuộc châu Phi. Cây cao to, mọc thẳng, hoa trắng lớn, trái chín màu đỏ, ăn được. Lá cây có phiến lớn, rộng, xưa dùng để viết chữ lên và lưu giữ được, gọi là lá bối-đa-la, hay lá bối, đặc biệt là giai đoạn đầu tiên của việc ghi chép kinh điển chủ yếu dùng loại lá bối này, nên gọi là bối diệp kinh. Chiều cao cây trung bình khoảng bảy, tám mươi thước cổ (mỗi thước cổ khoảng 0,33 mét), nhưng trong Huệ uyển âm nghĩa nói rằng người xưa ước lệ chiều cao cây này là 10 trượng (tức 100 thước cổ) để làm đơn vị đo chiều cao. Nếu vậy thì ngang tầm một cây đa-la tức là khoảng hơn 30 mét, bảy cây là khoảng hơn 200 mét.
[36] Bốn hạng quân (Tứ binh) khác nhau hợp thành quân đội, đó là: 1. Tượng binh (quân cưỡi voi), 2. Kỵ binh (quân cưỡi ngựa), 3. Xa binh (quân đi xe) và 4. Bộ binh (quân đi bộ).
[37] Kim sí điểu: loài chim rất lớn, cánh màu vàng.
[38] Là những vị ẩn tu nơi các vùng rừng núi, chứng đắc thần thông, được trường thọ.
[39] Tức là Tứ thần túc, cũng gọi là Tứ như ý túc, bao gồm: 1. Dục thần túc, sự tập trung ý chí mạnh mẽ; 2. Tinh tấn thần túc, nghị lực mạnh mẽ; 3. Tâm thần túc, sự chú tâm; 4. Trạch pháp thần túc, chú tâm vào sự tra xét, tìm tòi.
[40] Tức là cõi trời Tha hóa tự tại, là cõi trời cao nhất trong Lục dục thiên, cũng gọi là cõi trời Tự tại.
[41] Bốn cõi thiên hạ (Tứ thiên hạ): mỗi thế giới được chia theo bốn phương của núi Tu-di, gọi là Bốn châu hay Bốn cõi thiên hạ, gồm có: Phương bắc là Câu-lô châu, hay Uất-đan-việt châu, phương nam là Thiệm-bộ châu, hay Diêm-phù-đề châu, phương tây là Ngưu-hóa châu hay Cồ-da-ni châu, phương đông là Thắng-thần châu hay Phất-bà-đề châu.
[42] Hữu đỉnh thiên: tức là Sắc cứu cánh thiên, cảnh trời cao nhất trong ba Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới
[43] Ngàn thế giới: tức là một tiểu thiên thế giới.
[44] Trung thiên thế giới: tức là một ngàn tiểu thiên thế giới.
[45] Bốn bộ chúng: Hai chúng xuất gia là tỳ-kheo và tỳ-kheo ni, và hai chúng tại gia là cư sĩ nam (ưu-bà-tắc) và cư sĩ nữ (ưu-bà-di).
[46] Bốn Thiên Vương hộ thế: Bốn vị vua trời có trách nhiệm thủ hộ bốn phương trong thế gian này. Bốn ngài ở lưng chừng theo bốn phía núi Tu-di, gồm có: 1. Trì Quốc Thiên Vương, cai quản phương đông; 2. Quảng Mục Thiên Vương, cai quản phương tây; 3. Tăng Trưởng Thiên Vương, cai quản phương nam; 4. Đa Văn Thiên Vương, cai quản phương bắc.
[47] Tám bộ trời người: Tám loài chúng sanh thường dự nghe và ủng hộ Phật mỗi khi Phật giảng kinh Đại thừa. Cũng gọi là Tám bộ chúng: 1. Thiên (chư thiên, các vị cư trú từ các cõi trời Dục giới trở lên) 2. Long (loài rồng) 3. Dạ-xoa (loài quỷ Dạ-xoa biết tu hành, hộ pháp) 4. Càn-thát-bà (thần âm nhạc) 5. A-tu-la (loài có thần lực như chư thiên nhưng oai nghi, hình sắc thua kém hơn nhiều, cũng gọi là loài phi thiên) 6. Ca-lâu-la (thần chim cánh vàng) 7. Khẩn-na-la (loài đầu người mà có sừng) 8. Ma-hầu-la-già (loài rắn lớn).
[48] Hàng phi nhân: hạng chúng sanh không phải người, không có thể xác như loài người. Tuy có thể biến hóa ra hình người nhưng không phải người nên gọi là phi nhân.
[49] Tức là vị đại đệ tử lớn nhất của đức Phật Hư Không Đẳng vừa nói trên.
[50] Chấn động sáu cách (Lục chủng chấn động): Theo kinh Đại phẩm Bát-nhã, quyển 1, thì 6 cách chấn động này là:
1. Phương đông vọt lên, phương tây chìm xuống.
2. Phương tây vọt lên, phương đông chìm xuống.
3. Phương nam vọt lên, phương bắc chìm xuống.
4. Phương bắc vọt lên, phương nam chìm xuống.
5. Bốn phương vọt lên, ở giữa chìm xuống.
6. Ở giữa vọt lên, bốn phương chìm xuống.
[51] Phương đông và chín phương kia, tức là mười phương. Trong kinh Phật thường dùng khái niệm mười phương (thập phương), bao gồm các phương đông, tây, nam, bắc, đông bắc, tây bắc, đông nam, tây nam, cùng với phương trên (thượng phương) và phương dưới (hạ phương). Điều này cũng có nghĩa là đức Phật đã thấy biết được trái đất của chúng ta là một thế giới treo lơ lửng giữa hư không, và về cả hai phía trên dưới còn có vô số thế giới khác. Cách hiểu này, cho đến nay khoa học vẫn chỉ xác định được một phần, đó là việc trái đất “lơ lửng” giữa khoảng không. Còn về những thế giới khác, điều thú vị là mặc dù chưa có được bằng chứng khoa học nào, nhưng cũng chưa từng có nhà khoa học nào phủ nhận. Tất cả đều mặc nhiên tin rằng đây là một điều rất có thể có, mặc dù vẫn còn nằm ngoài những hiểu biết hiện tại của con người. Nếu so với những hiểu biết của khoa học phương Tây trước thời Galileo Galilei (1564 – 1642) và những khám phá gây chấn động giới khoa học của ông này, chúng ta hoàn toàn có thể tin được là trong tương lai con người sẽ còn có thể hiểu thêm rất nhiều điều mới lạ về vũ trụ và các thế giới khác. Một số người thời nay, khi đọc kinh điển Đại thừa không tin nổi những điều mầu nhiệm, vi diệu mô tả trong kinh, cụ thể như những gì được mô tả trong phẩm kinh này. Điều đó có khác gì những kẻ đương thời với Galileo đã buộc tội ông chỉ vì không hiểu nổi những điều ông đã khám phá về vũ trụ. Lấy cái biết hạn hẹp của chúng ta mà đo lường trí tuệ của chư Phật thì khác nào như ếch ngồi đáy giếng bàn chuyện trời cao?
[52] Quyến thuộc: Trong kinh này cũng như nhiều kinh điển khác, từ quyến thuộc của một vị nào đó nên được hiểu theo nghĩa rộng là chỉ tất cả những người thường quy tụ chung quanh vị ấy, là những người có cùng khuynh hướng, sở thích và cung cách hành xử. Khi nói quyến thuộc của ma cũng là với nghĩa này.
[53] Đây là 4 loại hoa sen có 4 màu: hoa ưu-bát-la màu xanh, hoa câu-vật-đầu màu vàng, hoa ba-đầu-ma màu đỏ, hoa phân-đà-lỵ màu trắng.
[54] Ao năm suối: tức là có 5 con suối cùng chảy vào một cái ao.
[55]Vàng diêm-phù-đàn: Phạn ngữ Jambunadasuvarṇa, tên loại vàng quý nhất có màu vàng tía, có xuất xứ từ đáy một con sông chảy dưới rừng cây diêm-phù, nên gọi tên là diêm-phù-đàn.
[56]Vườn Hoan Hỷ, cũng gọi là Hoan Lạc, vườn Hỷ Lâm, là một trong bốn khu vườn của cõi trời Đao-lợi. Vườn này nằm ở phía bắc, bên ngoài thành Hỷ Kiến. Khi chư thiên vào vườn thì tự nhiên sanh tâm hoan hỷ, nên gọi tên là vườn Hoan Hỷ.
[57] Ba cõi (Tam giới), bao gồm: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
[58] Kể từ đoạn nói về chư đại tỳ-kheo chúng cho đến đoạn này nói về chư Bồ Tát Vô Biên Thân, cả thảy đã có 52 hội chúng tuần tự kéo đến rừng Sa-la nơi đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Các bản luận giải thường gọi đây là “ngũ thập nhị chúng” để chỉ chung tất cả các loài chúng sanh trong Ba cõi. Đây là số hội chúng đông đảo nhất trong suốt cuộc đời hoằng hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vì bao gồm tất cả các loài chúng sanh khác nhau, với căn cơ và nghiệp quả khác nhau, không giống như đa số các Pháp hội khác thường chỉ dành cho một số thành phần thích hợp nhất định.
[59] Nhất-xiển-đe là hạng người mất hẳn niềm tin nơi Tam bảo.
[60] Bốn tâm vô lượng tức Tứ vô lượng tâm, cũng còn gọi là Tứ phạm trú, gồm có: Từ, Bi, Hỷ, và Xả. Chư Phật và Bồ Tát đều đã thành tựu bốn tâm này. Vì những tâm này rộng lớn vô biên, không thể đo lường nên gọi là tâm vô lượng. Bốn tâm vô lượng này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn.
[61] Trong Nam bản là phẩm thứ hai: Thuần-đà.
[62] Theo phong tục Ấn Độ, khi một người tự vạch áo để trần vai bên phải lộ ra có ý nghĩa là tự hạ mình hết sức, để tỏ lòng tôn kính với người đối diện. Vì hạ mình hết mức, nên ở trên có nói là “dẹp bỏ oai nghi của thân”.
[63] Bà-la-môn, sát-lỵ, tỳ-xá, thủ-đà là bốn giai cấp của xã hội Ấn Độ thời xưa.
[64] Bảy nghiệp lành của thân và khẩu (Thân khẩu thất) Thân có ba nghiệp, khẩu có bốn nghiệp.
Ba nghiệp lành của thân là:
1. Không giết hại, thường phóng sanh, cứu vớt mạng sống cho muôn loài.
2. Không trộm cắp, thường cứu giúp, bố thí những gì mình có cho tất cả chúng sanh.
3. Không tà dâm, thường tôn trọng, bảo vệ hạnh phúc gia đình của mình và người khác.
Bốn nghiệp lành của miệng:
4. Không nói dối, thường nói lời chân thật, xây dựng, tạo sự đoàn kết gắn bó và hòa hợp cho mọi người.
5. Không nói trau chuốt, không nói thô tục, thường nói những lời thuận theo đạo lý, có ích.
6. Không nói hai lưỡi, đâm thọc, gây bất hòa, chia rẽ, thường nói lời hòa nhã, yêu thương.
7. Không nói lời độc ác, thường nói những lời tốt lành.
[65] Cam lộ: Chất nước ngon ngọt, được tin là uống vào sẽ được khỏe mạnh và sống lâu. Pháp của Phật làm lợi ích thân tâm cho tất cả chúng sanh, nên ví như nước cam lộ.
[66] Nhất thiết chủng trí: Trí tuệ biết được tất cả mọi sự việc, trí tuệ bao trùm tất cả, được dùng để chỉ trí tuệ giác ngộ hoàn toàn của Phật.
[67] A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề:, Hán dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng tức là quả vị Phật.
[68] Thiên Trung Thiên: Một tôn hiệu của Phật, xưng tụng Phật là vị chẳng những được loài người lễ bái, lại được tất cả chư thiên trong Ba cõi đều tôn trọng hơn hết, là bậc cao trổi nhất trong hàng chư thiên.
[69] Tức là Sáu pháp ba-la-mật, ở đây lược nói. Kể đủ là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
[70] Nhục nhãn: mắt thịt, mắt của người thường, chỉ thấy được trong giới hạn nhất định của mắt. Huệ nhãn là khả năng nhìn thấy do sự khai mở trí tuệ, nên sáng suốt và không bị giới hạn như mắt thường. Phật nhãn là khả năng nhìn thấy sau khi chứng quả Vô thượng Bồ-đề, thành Phật, nghĩa là chỉ có chư Phật Thế Tôn mới có mà thôi.
[71] Tức là thọ mạng, sắc tướng, sức lực, an lạc, biện tài vô ngại.
[72] Bốn thứ ma (Tứ ma): 1. Phiền não ma, 2. Ấm ma (Ma ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 3. Tử ma (Ma chết), 4. Tha hóa tự tại thiên tử ma (Ma vương và thuộc hạ của ma vương ở cõi trời Tha hóa tự tại hiện đến).
[73] Mười hai bộ kinh (Thập nhị bộ kinh):
1. Tu-đa-la, dịch nghĩa: khế kinh, pháp bổn.
2. Kỳ-dạ dịch nghĩa: ứng tụng, trùng tụng.
3. Hòa-ca-la-na: Vyakarana), dịch nghĩa: thọ ký.
4. Già-đà dịch nghĩa: phúng tụng, cô khởi tụng.
5. Ưu-đà-na dịch nghĩa: tự thuyết.
6. Ni-đà-na dịch nghĩa: nhân duyên.
7. A-ba-đà-na dịch nghĩa: thí dụ.
8. Y-đế-mục-đa-già dịch nghĩa: bổn sự.
9. Xà-đà-già dịch nghĩa: bổn sanh.
10. Tỳ -phật-lược dịch nghĩa: Phương quảng.
11. A-phù-đà-đạt-ma dịch nghĩa: Vị tằng hữu.
12. Ưu-ba-đề-xá dịch nghĩa: Luận nghi.
[74] Thuần-đà: phiên âm từ tiếng Phạn là Cunda, Hán dịch là “giải diệu nghĩa”, nghĩa là hiểu được nghĩa lý vi diệu.
[75] Ba nẻo dữ (Tam ác đạo): 1. Ngạ quỷ, 2. Địa ngục, 3. Súc sanh.
[76] Hạt cải đầu kim: điều khó khăn, rất khó xảy ra, ví như khó gieo cho hạt cải nằm ngay trên đầu cây kim. Sanh ra được gặp Phật cũng rất khó như vậy.
[77] Rùa mù gặp bộng nổi: Ví như giữa biển cả có con rùa mù, một trăm năm mới nổi lên một lần. Lại có một khúc cây bộng, một trăm năm mới trôi qua chỗ con rùa một lần. Như vậy, để cho con rùa nổi lên gặp được và chui vào bộng cây thật khó lắm thay! Trong kinh Phật, ví dụ này thường được dùng để nói đến những điều rất ít có.
[78] Hoa y-lan màu hồng rất đẹp nhưng có mùi hôi lan xa đến hàng bốn chục dặm.
[79] Hoa y-lan (rất hôi hám) mà có thể tỏa được mùi thơm như chiên-đàn, cũng ví như thân mình hèn mọn, nhỏ nhoi mà được Như Lai thọ nhận cúng dường nên có thể thành tựu công đức lớn lao.
[80] Các hành (chư hành): Hành nghĩa là dời chuyển (thiên lưu). Các pháp hữu vi do nhân duyên mà sanh ra, dời chuyển trong ba đời, từ quá khứ, đến hiện tại, sang vị lai. Các pháp hữu vi ấy rất nhiều, hoặc ở nơi tâm, hoặc ở nơi cảnh, gọi chung là các hành.
[81] Bài kệ này trong Nam bản chỉ đến đây là hết, không có những câu tiếp theo.
[82] Long tượng: rồng và voi, chỉ bậc kiệt xuất, vượt trội hơn cả. Chữ này đôi khi cũng được dịch riêng là long hoặc là tượng. Vì sức của loài rồng thì dưới biển cả không loài nào qua được, sức của loài voi thì trên đất liền đứng đầu muôn thú, nên trong kinh Phật thường ví các vị Bồ Tát, A-la-hán là bậc long tượng, vì các vị là kiệt xuất, vượt trội hơn cả trong muôn loài chúng sanh.
[83] Nguyên văn là: Thí như cơ nhân, chung vô biến thổ. Ví như người đói, hoàn toàn không có gì để nôn ra. Hai chữ “biến thổ”, tuy nghĩa đen là nôn mửa ra, nhưng tham khảo Đại Bát Niết-bàn Kinh Sớ của ngài Quán Đảnh (đời Tùy) thấy giải thích rằng: Thí đại chúng luyến mộ cơ khát, nguyện Như Lai trụ, chung vô biến thổ. Có thể hiểu là: Ví sự lưu luyến, ngưỡng mộ của đại chúng như người đói khát, nguyện đức Như Lai thường trụ thế gian, rốt cùng không xả bỏ. Cũng theo văn kinh mà hiểu, thì ý nguyện của ông Thuần-đà là muốn thỉnh Phật trụ thế, không nhập Niết-bàn, nên ông dùng ví dụ như người đang đói, trong bụng không có gì để nôn ra, và nguyện cho đức Như Lai cũng như người ấy, rốt cùng cũng không xả bỏ đại chúng mà nhập Niết-bàn.
[84] Tam giới tôn: bậc cao quý trong ba cõi, tức là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
[85] Mười tám pháp không cùng chung với hai thừa (thập bát bất cộng pháp): là mười tám pháp chỉ đấng Như Lai mới có, A-la-hán và Duyên giác không có, cũng gọi là Thập bát bất cụ pháp, gồm: 1. Thân vô thất (Thân không có lỗi); 2. Khẩu vô thất (Lời nói không có lỗi); 3. Niệm vô thất (Ý tưởng không có lỗi); 4. Vô dị tưởng (Không có tư tưởng khác biệt, tâm luôn bình đẳng không phân biệt); 5. Vô bất định tâm (Tâm thường an định); 6. Vô bất tri dĩ xả (Rõ biết tất cả mọi chuyện nhưng đều buông bỏ); 7. Dục vô diệt (Lòng mong muốn cứu độ chúng sanh không dứt mất); 8. Tinh tấn vô diệt (Sự tinh tấn cứu độ chúng sanh không dứt mất); 9. Niệm vô diệt (Đối với Chánh pháp của ba đời chư Phật, tất cả trí tuệ đều đầy đủ, không có sự thối chuyển); 10. Huệ vô diệt (Trí tuệ đầy đủ không cùng tận); 11. Giải thoát vô diệt (Có đủ hai loại giải thoát là giải thoát hữu vi và giải thoát vô vi, dứt trừ hoàn toàn mọi phiền não); 12. Giải thoát tri kiến vô diệt (Đối với Giải thoát tri kiến trí tuệ sáng suốt, phân biệt vô ngại); 13. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của thân được thực hành theo trí tuệ); 14. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy Trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của lời nói được thực hành theo trí tuệ); 15. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của ý được thực hành theo trí tuệ); 16. Trí tuệ tri quá khứ thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời quá khứ không ngăn ngại); 17. Trí tuệ tri vị lai thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời vị lai không ngăn ngại); 18. Trí tuệ tri hiện tại thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời hiện tại không ngăn ngại).
[86] Chim cánh vàng, tức là Kim sí điểu, một loài chim rất lớn.
[87] Nguyên bản Hán văn là “linh tâm tiều tụy”, nhưng theo Nam bản thì câu này là: “chỉ tự loạn tâm” (chỉ tự làm cho tâm mình tán loạn). Cả hai nghĩa đều hợp lý.
[88] Nguyên bản dùng “như nhiệt thời viêm”, chỉ hơi nắng nóng lung linh lúc giữa trưa, tạo thành ảo giác như trên vùng sa mạc hoặc trên mặt đường, khiến người đi đường lầm tưởng như phía trước có mặt nước.
[89] Cũng gọi là càn thành, là thành quách do loài càn-thát-bà dùng ảo thuật mà tạo ra, không hề có thật, chỉ hiện trong chốc lát rồi biến mất.
[90] Các ví dụ nêu ra ở đây đều nhằm chỉ rõ bản chất thật sự của thân xác thịt này chỉ là bất tịnh, là giả tạm, là vô ngã, là không thật.
[91] Theo Nam bản thì từ đây chấm dứt phẩm Thuần-đà, bắt đầu phẩm Ai thán (phẩm thứ ba), nhưng vẫn còn trong quyển 2.
[92] Tức là lần thuyết pháp đầu tiên, tại thành Ba-la-nại, trong vườn Lộc uyển với 5 anh em ông Kiều-trần-như.
[93] Tà kiến: kiến giải, quan điểm của những kẻ còn phiền não, mê lầm. Tất cả có sáu mươi hai tà kiến.
[94] Chỗ này theo Nam bản là “giao phó cho bọn chiên-đà-la”.
[95]Tám nạn (Bát nạn): là tám điều kiện bất lợi, tám trường hợp không may có thể xảy ra trên con đường tu học. Tám nạn bao gồm:
1. Địa ngục.
2. Súc sanh.
3. Ngạ quỉ;
4. Trường thọ thiên, là cõi trời thuộc Sắc giới với thọ mạng cao. Thọ mạng cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc người tu, làm cho dễ quên những nỗi khổ của sanh lão bệnh tử trong luân hồi.
5. Biên địa, là những vùng không nằm nơi trung tâm, không thuận tiện cho việc tu học Chánh pháp.
6. Căn khuyết, không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, câm, điếc...
7. Tà kiến: những kiến giải sai lệch, bất thiện.
8. Như Lai bất xuất sanh nghĩa là sanh sống trong thời gian không có Phật hoặc giáo pháp của Phật xuất hiện.
[96] Thành báu Chánh pháp (Chánh pháp bảo thành): Chánh pháp do Phật thuyết dạy ví như thành quách bằng các món báu.
[97] Áo cà-sa của chư tỳ-kheo được nhuộm các màu nâu hoặc vàng để xóa đi các màu khác trước khi mặc, cũng gọi là hoại sắc (làm cho mất màu).
[98] Trói buộc và sai khiến, tức các Kết sử, là những trói buộc, ngăn trở người tu tập trên đường đạt đến sự giải thoát. Vì có sức trói buộc thân tâm, nên gọi là kết (thắt buộc, trói buộc). Vì có sức sai khiến, xúi giục người ta hành động sai trái, nên gọi là sử (sai khiến). Có 10 kết sử được kể ra là:
1. Thân kiến, chấp rằng có một bản ngã hình thành nơi thân thể.
2. Nghi;
3. Chấp đắm vào giới luật; giới cấm thủ;
4. Dục tham;
5. Sân khuể (sân hận);
6. Sắc tham;
7. Vô sắc tham;
8. Mạn (kiêu mạn);
9. Trạo cử (hồi hộp không yên);
10. Vô minh.
Theo cách phân chia trên đây, hành giả tu chứng nhờ đoạn trừ dần các mối trói buộc, theo trình tự như chúng được kể ra ở trên. Tuy nhiên, trong kinh luận cũng đề cập đến Thập sử theo cách khác, phân chia thành hai loại gồm 5 độn sử và 5 lợi sử. Năm độn sử là: tham, sân, si, mạn và nghi. Năm lợi sử là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến.
[99] Mặt trời trí tuệ có đủ mười sức (Thập lực huệ nhật): chỉ đức Phật.
[100] Tứ bộ chúng, hay tứ chúng, đó là: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di. Nói cách khác, đó là tăng ni và nam nữ cư sĩ.
[101] Đây là mô tả chữ Y trong Phạn ngữ, có dạng ba dấu chấm hợp lại: 乊
[102] Nguyên bản dùng “ngũ thập thất phiền não”, các bản trước đây (kể cả các bản Anh ngữ) đều dịch là “năm mươi bảy phiền não”. Tuy nhiên, ở đây chính là đang đề cập đến “ngũ, thập và thất” phiền não, bao gồm Ngũ cái (Năm sự ngăn che, gồm tham, sân, si, trạo hối và thụy miên), Thập triền (Mười triền phược, gồm 1. vô tàm, không tự biết hổ thẹn; 2. vô quý, không biết xấu hổ với người khác khi làm việc xấu; 3. tật đố, ganh ghét, đố kỵ với thành tựu của người khác; 4. khan tham, tham lam, tiếc rẻ tài vật sở hữu; 5. hối, hối tiếc, đối với việc đã qua lòng thường nhớ nghĩ đến, lòng không an ổn; 6. thụy miên, buồn ngủ, mê ngủ; 7. trạo cử, tâm không an định, thường xôn xao, loạn động; 8. hôn trầm, tâm thức mê muội, không tỉnh táo; 9. phẫn hận, nóng giận, sân hận, để mất chánh niệm; 10. phú tàng, cố ý che giấu việc xấu đã làm, không cho người khác biết mà tự mình cũng không sửa đổi) và Thất lậu (gồm kiến lậu, tư lậu, căn lậu, ác lậu, thân cận lậu, thọ lậu và niệm lậu). Chúng tôi cũng tìm thấy một số cách giải thích khác, nhưng đều mang tính võ đoán, không thuyết phục.
[103] Ngũ dục: Năm sự ham muốn, khi được thỏa mãn thì làm cho người ta cảm thấy vui thích, nên gọi là dục lạc.
1. Sắc dục: Ham muốn sắc đẹp.
2. Thanh dục: Ham muốn âm thanh êm dịu, thích tai.
3. Hương dục: Ham muốn mùi thơm.
4. Vị dục: Ham muốn vị ngon ngọt.
5. Xúc dục: Ham muốn sự đụng chạm êm ái.
[104] Sự nuôi dưỡng, sự thấy biết: chỉ chung các tiến trình phát triển của thể xác và tinh thần theo sự nhận thức sai lầm của phàm phu, xét về bản chất rốt ráo là không có thật.
[105] Các pháp do nhân duyên mà sanh, lại do nhân duyên mà diệt, nên vốn thật không có người làm (tác giả), người nhận chịu (thọ giả). Y theo phép quán vô ngã thì đạt được chỗ thấy biết chân thật như vậy.
[106] Ngã mạn: tự cao, cho mình là hay, giỏi mà chê khinh người khác.
[107] Đại y chỉ: bậc có đức hạnh và trí tuệ đủ để cho tất cả mọi người nương theo.
[108] Nguyên bản dùng “chư vương chúng trung”, các bản trước dịch là “ở giữa các vị vua”. Có lẽ Nam bản cũng hiểu như vậy và thấy là không hợp lý nên đã sửa lại là “chư tứ chúng trung”. Chúng tôi giữ nguyên theo Bắc bản (là bản có trước) nhưng hiểu khác hơn là “chư vương, chúng trung”. Như vậy chỉ đến tất cả các vị vua và dân chúng của họ. Cách dùng “chư tứ chúng” là không thích hợp, ý nghĩa của “bốn chúng” lại hạn hẹp hơn trong ngữ cảnh này, dường như không hợp nghĩa kinh văn muốn nói.
[109] Bốn chúng, Tứ chúng: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tức là tăng, ni, hàng cư sĩ nam và cư sĩ nữ.QUYỂN BA
PHẨM THỌ MẠNG
Phẩm thứ nhất – Phần ba[110]
Phật dạy các tỳ-kheo: “Đối với
giới luật, nếu còn có chỗ nghi, nay các ông cứ hỏi. Ta sẽ
giảng giải khiến các ông được
vui lòng. Ta đã
tu học tất cả [các
pháp môn] nên
thông đạt sáng suốt bản tánh rỗng không
vắng lặng của các pháp. Nhưng này chư tỳ-kheo! Các ông chớ tưởng rằng
Như Lai chỉ
tu học riêng về
bản tánh rỗng không
vắng lặng của các pháp mà thôi.”
Phật lại dạy các vị tỳ-kheo lần nữa: “Đối với
giới luật, như có chỗ nghi, nay các ông nên hỏi cho
cặn kẽ.”
Lúc ấy, các vị tỳ-kheo liền
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chúng con không có đủ
trí tuệ để thưa hỏi
đức Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri. Vì sao vậy? Vì
cảnh giới của
Như Lai không thể nghĩ bàn, các phép
thiền định của
Như Lai không thể nghĩ bàn, những điều khuyên dạy của
Như Lai không thể nghĩ bàn. Nên chúng con không đủ
trí tuệ để thưa hỏi
Như Lai.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như có người già đến một trăm hai mươi tuổi, thân thường mang bệnh, nằm mãi trên giường, không thể ngồi dậy, khí lực hư yếu, mạng sống chẳng còn bao lâu. Có một người giàu gặp
việc phải ra đi đến xứ khác, liền đem một trăm cân vàng đến gửi cho ông lão ấy và nói rằng: ‘Nay con đi xứ khác, con đem
của quý này đến gửi nơi cụ. Hoặc mười năm, hoặc hai mươi năm nữa con sẽ
trở về. Khi ấy, cụ sẽ trả lại cho con.’ Ông lão liền nhận lãnh số vàng. Nhưng ông lại chẳng có con cháu
nối dòng. Chẳng bao lâu sau, ông bệnh nặng phải bỏ mình. Những vật gửi cho ông đều phải mất hết. Khi người chủ vàng
trở về, chẳng biết đâu mà đòi. Như người ấy thật
ngu si, chẳng biết
suy tính chỗ đáng gửi hoặc không đáng gửi.
Vì vậy nên khi
trở về chẳng biết đâu mà đòi. Bởi
duyên cớ ấy mà mất hết
của cải quý giá.
“Thế Tôn! Hàng
Thanh văn chúng con lại cũng như thế. Tuy nghe
Như Lai ân cần truyền dạy
giới luật, nhưng chúng con chẳng
đủ sức thọ trì để làm cho
Phật pháp trụ thế
lâu dài, cũng như ông lão kia nhận vàng người ta trao gửi. Nay chúng con không có
trí tuệ, đối với
giới luật, biết thưa hỏi gì đây?”
Phật dạy chư tỳ-kheo: “Nay nếu các ông hỏi ta, ắt có
lợi ích cho tất cả
chúng sanh. Vậy nên ta bảo các ông:
tùy theo chỗ nghi của mình, cứ
tùy ý mà thưa hỏi.”
Lúc ấy, chư tỳ-kheo
bạch Phật: “Thế Tôn!
Ví như người kia, tuổi vừa hai mươi lăm, khỏe mạnh,
tráng kiện và là người ngay thẳng,
chính trực. Người ấy có nhiều
của báu, như: vàng, bạc,
lưu ly...
Cha mẹ vợ con,
quyến thuộc,
dòng họ thảy đều còn đủ. Lại có kẻ đem
vật báu đến gửi cho người ấy, nói rằng: ‘Nay tôi có
việc phải đi đến xứ khác, khi nào xong việc tôi sẽ
trở về. Khi ấy, ông sẽ trả lại cho tôi.’
“Rồi người ấy
giữ gìn của cải quý giá đó cũng như của mình. Khi có bệnh, người ấy bèn dặn người nhà rằng: ‘Số vàng này của người ta gửi. Khi nào chủ vàng đến nhận, hãy trả đủ cho người ta.’
“Người có trí là như vậy, khéo biết suy lường. Khi
trở về nhận vàng được đầy đủ, không mất mát chi cả.
“Đức
Thế Tôn cũng vậy. Nếu đem
Pháp bảo mà
phó chúc cho A-nan cùng chư tỳ-kheo thì chẳng thể giữ được
lâu dài. Vì sao vậy? Tất cả chư
Thanh văn và
Đại Ca-diếp đều là
vô thường, như ông lão kia nhận vật do người khác gửi [mà không có khả năng
giữ gìn].
“Vì vậy,
Thế Tôn nên đem
Phật pháp vô thượng mà
giao phó cho chư
Bồ Tát. Bởi chư
Bồ Tát có thể khéo hỏi, khéo đáp, nên
Pháp bảo sẽ được trụ lâu ngàn đời, tăng triển lớn lao và hưng thạnh, mang lại
lợi ích,
an lạc cho
chúng sanh, như người trẻ tuổi
tráng kiện kia nhận vật do người khác gửi [rồi
đủ sức giữ gìn cẩn thận không để mất].
“Vì lẽ đó,
chư Đại Bồ Tát mới có thể thưa hỏi
Như Lai.
Trí tuệ của chúng con nhỏ nhoi như muỗi mòng, làm sao
đủ sức thưa thỉnh pháp
sâu xa của Như Lai?”
Bạch Phật rồi, chư
Thanh văn lặng thinh
đứng yên.
Lúc ấy, Phật khen chư tỳ-kheo rằng: “Lành thay,
lành thay! Các ông khéo được tâm
vô lậu, tâm A-la-hán. Ta đã từng nghĩ, vì phải có hai duyên như trên,[111] nên đem
Đại thừa mà
phó chúc cho chư
Bồ Tát, khiến cho
diệu pháp này được trụ
lâu dài ở
thế gian.”
Bấy giờ,
Phật bảo tất cả
đại chúng rằng: “Thiện nam tử!
Thiện nữ nhân!
Thọ mạng của
Như Lai không thể đo lường cho xiết, tài biện thuyết của
Như Lai cũng không thể
cùng tận. Các ông nên
tùy ý hỏi ta, hoặc hỏi
giới luật, hoặc hỏi chỗ nương dựa
y theo.”
Phật dạy như vậy đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
Lúc ấy, trong
đại chúng có một vị
đại Bồ Tát tuổi còn rất trẻ, gốc người bộ tộc Đa-la, họ
Đại Ca-diếp, thuộc dòng bà-la-môn. Nương sức thần của Phật, vị này
đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén trần vai áo bên tay mặt, nhiễu quanh Phật cả trăm ngàn vòng
cung kính rồi quỳ gối bên mặt
sát đất,
chắp tay hướng về
đức Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Con nay có chút việc muốn thưa hỏi. Nếu Phật
cho phép, con mới dám nói.”
Phật bảo Ca-diếp rằng: “Đức
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri cho phép ông
tùy ý hỏi. Ta sẽ vì ông
giảng thuyết, dứt chỗ nghi cho ông, làm cho ông được
vui vẻ.”
Liền đó,
Đại Bồ Tát Ca-diếp[112]
bạch Phật rằng: “Thế Tôn!
Như Lai thương xót, đã hứa với con, nay con sắp hỏi.
Tuy nhiên,
trí tuệ của con nhỏ hẹp như muỗi mòng,
đạo đức của
Như Lai Thế Tôn thì cao
vòi vọi, vây quanh ngài là
đại chúng thảy đều như hương thơm chiên-đàn, như
sư tử dũng mãnh khó mà
chế phục, không thể
hoại diệt. Thân
Như Lai bền chắc như
kim cang, màu sắc như ngọc
lưu ly chân thật khó
hoại diệt, lại có các vị đây hợp thành biển
đại trí tuệ vây quanh. Trong
hội chúng này, các vị
Đại Bồ Tát đều
thành tựu những
công đức sâu xa vi diệu vô lượng vô biên, như những con voi đang sức
tráng kiện. Ở trước
đại chúng như vậy, con dám đâu thưa hỏi sao? Nhưng nay nhờ sức
thần thông của Phật và
oai đức căn lành của
đại chúng, con sẽ đem ít việc mà thưa hỏi Phật.”
Liền đó,
Bồ Tát Ca-diếp đối trước Phật đọc kệ thưa hỏi rằng:
Làm sao được
trường thọ,
Thân kim cang chẳng hoại?
Lại do
nhân duyên nào,
Được sức
kiên cố lớn?
Làm sao nhờ kinh này,
Cứu cánh được giải thoát?[113]
Nguyện đem pháp sâu kín,
Thuyết rộng với
chúng sanh.
Làm sao được rộng lớn,
Làm
y chỉ[114]
chúng sanh,
Thật chẳng phải La-hán,
Nhưng dự hàng La-hán?
Làm sao biết
thiên ma,
Làm trở ngại chúng tu?
Phật thuyết, Ba-tuần thuyết,
Làm sao
phân biệt rõ?
Làm sao chư
Điều ngự,
Vui lòng thuyết
chân đế,
Thành tựu đủ chánh thiện,
Diễn thuyết bốn điên đảo.
Làm sao tạo nghiệp lành?
Nay
Như Lai nên thuyết.
Làm sao chư
Bồ Tát,
Thấy tánh rất khó thấy?
Làm sao hiểu trọn chữ,
Hoặc
nghĩa lý nửa chữ?
Làm sao chung
Thánh hạnh,
Như chim ta-la-ta,
Ca-lân-đề,
nhật nguyệt,
Thái bạch với tuế tinh?
Làm sao chưa
phát tâm,
Cũng được xưng Bồ Tát?
Làm sao giữa
Đại chúng,
Được đức chẳng
run sợ,
Ví như vàng diêm-phù,
Không ai chỉ được lỗi?
Làm sao giữa bùn nhơ,
Không nhiễm, như hoa sen?
Làm sao giữa
phiền não,
Phiền não chẳng
nhiễm ô.
Như
lương y trị bệnh,
Chẳng bị bệnh lây truyền?
Làm sao như thuyền trưởng,
Vượt biển lớn sanh tử?
Làm sao lìa
sanh tử,
Như rắn lột bỏ da?
Làm sao quán
Tam bảo,
Giống như cây thiên ý?[115]
Ba thừa nếu không tánh,
Làm sao thuyết diễn ra?
Như niềm vui chưa sanh,
Sao gọi là thọ lạc?
Làm sao chư
Bồ Tát,
Được chúng chẳng hư hoại?
Làm sao vì người mù,
Dẫn đường làm mắt sáng?
Làm sao hiện nhiều đầu?
Xin
Như Lai giảng thuyết.
Làm sao người
thuyết pháp,
Tăng trưởng như trăng non?[116]
Vì sao lại
thị hiện,
Rốt cuộc vào Niết-bàn?
Làm sao bậc
dũng kiện,
Dẫn lối trời, người, ma?
Làm sao hiểu tánh pháp,
Mà thường hưởng pháp lạc?
Làm sao chư
Bồ TátLìa xa tất cả bệnh?
Làm sao vì
chúng sanh,
Diễn thuyết pháp bí mật?
Làm sao giảng
rốt ráo,
Cùng pháp chẳng rốt ráo?
Như vì dứt lưới nghi,
Sao không thuyết xác định?
Làm sao được
đến gần,
Đạo cao trổi hơn hết?
Con nay thỉnh
Như Lai,
Vì thương chư
Bồ Tát,
Xin thuyết lẽ
thâm sâu,
Của các hạnh
vi diệu.
Trong tất cả các pháp,
Ắt có tánh an vui.
Nguyện
Như Lai Thế Tôn,
Vì chúng con giảng rõ.
Đại y chỉ chúng sanh!
Bậc đầy đủ phước trí![117]
Nay muốn hỏi các ấm,[118]
Nhưng con không
trí tuệ.
Chư
Bồ Tát tinh tấn,
Cũng không thể biết rõ,
Cảnh giới rất
sâu xa,
Của
chư Phật Như Lai.
Lúc ấy, Phật khen
Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông chưa được
trí tuệ rõ biết tất cả, còn ta đã được rồi, nhưng chỗ thưa hỏi của ông về tạng
bí mật sâu xa đó cũng giống như chỗ thưa hỏi của bậc có
trí tuệ rõ biết tất cả, chẳng khác gì nhau.
“Thiện nam tử! Khi ta mới
thành Chánh giác, còn ngồi tại
đạo tràng nơi gốc cây bồ-đề, bấy giờ có
vô số chư
Bồ Tát từ các
cõi Phật nhiều như số cát của
vô số con
sông Hằng, cũng từng đến hỏi ta về nghĩa
sâu xa ấy. Những chỗ thưa hỏi ấy, từ câu văn,
nghĩa lý và
công đức cũng
y như những chỗ hỏi của ông, chẳng khác chi cả. Thưa hỏi được như vậy có thể làm
lợi ích cho
vô lượng chúng sanh.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Con chẳng có
đủ sức trí tuệ để hỏi
Như Lai về nghĩa rất
sâu xa ấy. Thế Tôn!
Ví như con muỗi, con mòng chẳng thể bay qua tới
bờ bên kia biển cả, hoặc bay khắp
hư không. Con đây cũng vậy, chẳng thể hỏi
đức Như Lai về
nghĩa lý thăm thẳm của biển cả
trí tuệ, của
hư không pháp tánh như vậy.
“Thế Tôn!
Ví như một vị vua, gỡ ra hạt
minh châu từ nơi búi tóc của mình, giao cho quan giữ kho. Quan giữ kho nhận rồi,
cung kính đội đầu,
gắng sức gìn giữ. Con đây
cũng thế,
cung kính đội đầu,
gắng sức gìn giữ nghĩa sâu các
kinh Phương đẳng[119] mà
Như Lai giảng thuyết. Vì sao vậy? Vì có thể giúp cho con
mở rộng trí tuệ sâu thẳm.”
Lúc ấy, Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Thiện nam tử! Hãy lắng nghe kỹ! Ta sẽ vì ông mà
giảng thuyết về nghiệp
trường thọ mà
Như Lai đã được.
Bồ Tát nhờ
nhân duyên nghiệp này mà được
thọ mạng lâu dài. Vậy ông nên
hết lòng nghe và
thọ lãnh. Như nghiệp này có thể là nhân của bồ-đề, ông nên
thành tâm lắng nghe và nhận lấy
nghĩa lý. Đã nghe nhận rồi, lại nên vì người khác mà
giảng thuyết nghĩa ấy.
“Thiện nam tử! Nhờ
tu tập nghiệp ấy nên ta đã được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nay ta lại vì người mà thuyết rộng nghĩa ấy.
“Thiện nam tử!
Ví như một người con của vua,
phạm tội nên
bị giam trong ngục. Vua rất xót xa,
thương nhớ con, bèn tự mình ngồi xe đến tận nơi giam giữ.
Bồ Tát cũng như thế, muốn được
trường thọ nên
hộ niệm tất cả
chúng sanh, giống như người đời
thương yêu đứa con
duy nhất của mình.
Bồ Tát sanh lòng
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, truyền
thọ giới chẳng
sát sanh, dạy
tu pháp lành, lại nên làm cho tất cả
chúng sanh được
vững vàng trong
Năm giới,[120]
Mười điều lành.[121]
“Bồ Tát lại vào các
cảnh địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, a-tu-la, hết thảy các
cảnh giới, cứu vớt những
chúng sanh khổ não đang ở trong ấy.
Bồ Tát giải thoát cho những
chúng sanh chưa
được giải thoát,
hóa độ cho những
chúng sanh chưa được
hóa độ. Những
chúng sanh chưa được Niết-bàn,
Bồ Tát đều khiến cho
đạt được Niết-bàn. Người
an ủi tất cả những kẻ đang sợ sệt. Nhờ các
nhân duyên của nghiệp như vậy,
Bồ Tát được
thọ mạng lâu dài, đối với các phép
trí tuệ đều được
tự tại; đến lúc
mạng chung lại sanh về
cõi trời.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn!
Đại Bồ Tát đối với
chúng sanh bình đẳng như nhau, đều như người đời
thương yêu đứa con
duy nhất của mình, nghĩa ấy sâu kín quá, con chưa hiểu nổi. Bạch Thế Tôn!
Như Lai chẳng nên nói rằng: ‘Bồ Tát tu lòng
bình đẳng đối với các
chúng sanh, đều như người đời
thương yêu đứa con
duy nhất của mình.’ Vì sao vậy? Vì trong
Phật pháp cũng có những kẻ
phá giới, những kẻ
phạm tội nghịch,[122] những kẻ hủy báng
Chánh pháp. Đối với những kẻ ấy, lẽ nào có thể
yêu thương như con một của mình hay sao?”
Phật bảo Ca-diếp: “Đúng vậy, đúng vậy! Đối với
chúng sanh ta
quả thật đều xem đồng như con một của ta là La-hầu-la.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Lúc trước, nhằm ngày rằm,
đang khi chư tăng tụng bố-tát,[123]
chúng hội đều là những vị
thanh tịnh, đã từng
thọ giới cụ túc của bậc tỳ-kheo.
Lúc ấy, có một
đồng tử chẳng khéo
tu tập ba nghiệp thân, khẩu và ý, núp tại một góc tấm bình phong để lén nghe tụng giới. Vị
lực sĩ Mật Tích liền nương sức thần của Phật, dùng chày
kim cang đập
đồng tử ấy nát ra như bụi.
“Bạch Thế Tôn! Thần
Kim cang ấy phải rất là
bạo ác mới có thể lấy mạng của
đồng tử kia như vậy. Làm sao
Như Lai bảo là đối với các
chúng sanh đều
xem như nhau, đồng như con một của ngài là La-hầu-la?”
Phật bảo Ca-diếp: “Nay ông chớ nên nói như vậy.
Đồng tử kia chỉ là người
hóa hiện, chẳng phải thật có, vì muốn
xua đuổi những kẻ
phá giới hủy pháp, khiến họ ra khỏi
chúng tăng. Vị
Kim cang Mật Tích ấy cũng là
hóa hiện.
“Ca-diếp! Những kẻ hủy báng
Chánh pháp, cùng những kẻ nhất-xiển-đề,[124] những kẻ
sát sanh,
cho đến bọn
tà kiến cùng những kẻ cố
phạm giới cấm, ta đều
thương xót họ tất cả, đều
xem như con ta là La-hầu-la.
“Thiện nam tử!
Ví như vị vua, nếu trong các quan có người
phạm luật nước thì vua chiếu theo tội mà giết phạt chẳng tha.
Như Lai Thế Tôn chẳng làm như vậy. Đối với kẻ hủy báng
Chánh pháp, ngài dạy các phép yết-ma,[125] như yết-ma
quở trách, yết-ma trục xuất, yết-ma khu biệt, yết-ma trách tội, yết-ma không ai được gặp, yết-ma dứt tuyệt, yết-ma chưa bỏ
tà kiến xấu ác.[126]
“Thiện nam tử! Đối với kẻ hủy báng
Chánh pháp,
sở dĩ Như Lai dùng nhiều phép yết-ma
hàng phục như vậy là muốn chỉ rõ cho những kẻ làm việc ác biết rằng thật có
quả báo.
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết: đối với những
chúng sanh làm điều xấu ác,
Như Lai là bậc
bố thí cho họ sự
an ổn chẳng sợ. Trong khi ngài phóng ra một luồng
hào quang, hai luồng, hoặc năm luồng, nếu có những ai gặp được
hào quang ấy sẽ lìa khỏi các điều xấu ác. Hiện nay,
Như Lai có đủ
vô lượng thế lực như vậy.
“Thiện nam tử! Với pháp chưa thể thấy, nếu ông muốn thấy thì nay ta sẽ vì ông
giảng thuyết tướng mạo của pháp ấy. Sau khi ta nhập Niết-bàn, bất cứ nơi nào có tỳ-kheo
trì giới, đầy đủ
oai nghi,
hộ trì Chánh pháp, nếu thấy kẻ
phá hoại Chánh pháp thì có thể
xua đuổi,
quở trách,
trừng trị. Nên biết rằng vị ấy sẽ được
phước đức vô lượng, không thể kể xiết.
“Thiện nam tử!
Ví như một vị vua chuyên làm việc
bạo ác, rồi bị bệnh nặng. Có một vị vua nước láng giềng, nghe
tiếng ác của vua ấy, bèn kéo binh đến định
tiêu diệt.
Lúc ấy, vị vua đang bệnh vì không có
sức lực nên trong lòng kinh sợ, liền thay đổi
tâm tánh mà
tu tập việc lành. Vị vua láng giềng như vậy sẽ được
phước đức vô lượng. Vị tỳ-kheo
bảo vệ Chánh pháp cũng giống như thế, dùng việc
xua đuổi,
quở trách,
trừng trị những kẻ
phá hoại Chánh pháp, khiến cho họ tu các pháp lành, sẽ được
phước đức vô lượng.
“Thiện nam tử!
Ví như một vị
trưởng giả, ở nơi xứ sở mình, vườn ruộng, nhà cửa, phòng xá bỗng sanh ra những cây độc.
Trưởng giả biết vậy rồi liền đốn sạch, khiến những cây ấy đều dứt tuyệt.
“Lại cũng như một người
tráng kiện mà trên đầu sanh
tóc bạc, lấy làm
hổ thẹn, bèn dùng cái nhiếp mà nhổ hết, chẳng để cho sanh trưởng.
“Vị tỳ-kheo
bảo vệ Chánh pháp lại cũng như vậy, thấy có những kẻ
phá giới luật,
phá hoại Chánh pháp, liền nên
xua đuổi,
quở trách, nêu lỗi của họ ra mà phán xử.
“Như vị tỳ-kheo làm điều lành nhưng thấy kẻ
phá hoại Chánh pháp mà vẫn
để yên, chẳng
xua đuổi,
quở trách, chẳng nêu lỗi của họ ra mà phán xử, nên biết rằng người như vậy là kẻ
oán tặc trong
Phật pháp.
“Như có thể
xua đuổi,
quở trách, nêu lỗi của kẻ
phá hoại Chánh pháp ra mà phán xử thì người ấy là
đệ tử của ta, là bậc
Thanh văn chân chính.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn!
Theo như lời Phật vừa dạy thì chẳng phải đối với tất cả
chúng sanh bình đẳng như nhau, đều như con một của ngài là La-hầu-la!
“Thế Tôn! Như có một người dùng dao hại Phật, lại có người khác dùng hương thơm chiên-đàn mà tô điểm thân Phật. Nếu Phật có lòng
bình đẳng đối với hai người ấy, sao lại dạy rằng nên
trừng trị kẻ
phá hủy giới cấm? Nếu trị kẻ hủy cấm, thì
lời nói xem
chúng sanh bình đẳng như con một của mình là chẳng đúng.”
Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử!
Ví như một vị
quốc vương, đại thần hay tể tướng, sanh dưỡng được nhiều đứa con,
tướng mạo đoan chánh,
thông minh trí tuệ. Những trẻ ấy, hoặc hai đứa, ba đứa hay bốn đứa đều được người cha
giao phó cho một vị thầy rất
nghiêm khắc và dặn rằng: ‘Thầy nên vì ta
dạy bảo chúng nó cho
thông thuộc các môn phong hóa,
lễ nghi, kỹ nghệ, văn thơ, toán số... Bốn đứa con ta đây, từ nay theo thầy học tập.
Giả như có ba đứa bị thầy đánh bằng gậy, mang bệnh mà chết. Chỉ còn một đứa, phải dạy răn nó một cách khổ nhọc lắm mới được
thành tựu. Dẫu cho mất ba đứa con, ta cũng chẳng hề
oán hận thầy.
“Ca-diếp! Như vậy, người cha và người thầy có mắc tội
sát hại chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không. Tại sao vậy? Chỉ vì thương con, muốn cho chúng được thành người, chứ chẳng có lòng ác. Dạy dỗ như
vậy thì được phước
vô lượng.”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế. Ngài coi những kẻ
phá hoại Chánh pháp cũng đồng như con một của ngài. Nay
Như Lai đem
Chánh pháp vô thượng mà
phó chúc cho các
quốc vương, đại thần, tể tướng, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Các vua, quan và
Bốn bộ chúng ấy nên khuyến khích những ai
tu học, khiến họ được
tiến bộ và
tăng trưởng giới, định, huệ. Nhưng có ai chẳng
tu học ba pháp ấy,
biếng nhác,
phá giới, hủy hoại
Chánh pháp, thì các vị
quốc vương, đại thần và
Bốn bộ chúng nên
trừng trị họ một cách
nghiêm khắc.
“Thiện nam tử! Như vậy các
quốc vương và
Bốn bộ chúng ấy có
phạm tội chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không.”
“Thiện nam tử! Các
quốc vương và
Bốn bộ chúng ấy còn chẳng có tội, huống chi Như Lai?
“Thiện nam tử!
Như Lai khéo tu phép
bình đẳng ấy, đối với
chúng sanh đều xem đồng như con một của mình.
“Tu tập như vậy, gọi là
Bồ Tát tu tâm bình đẳng, đối với
chúng sanh đều xem đồng như con một của mình.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát nhờ
tu tập nghiệp ấy, được
thọ mạng lâu dài, lại có thể biết được
mọi việc trong những đời trước của mình và của người.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Phật vừa dạy, nếu
Bồ Tát tu tâm bình đẳng, đối với
chúng sanh đều xem đồng như con mình thì được
thọ mạng lâu dài.
“Như Lai chẳng nên thuyết dạy như thế. Tại sao vậy? Như một người
hiểu biết đạo lý, hay thuyết dạy mọi điều
hiếu thuận. Khi về nhà, người ấy lấy những gạch đá mà đánh ném
cha mẹ. Nhưng
cha mẹ vốn là
ruộng phước, có nhiều
lợi ích, khó được gần gũi,
đáng lẽ người con phải
cúng dường món ngon vật lạ, lại gây ra những việc
sầu não tai hại. Như người
hiểu biết đạo lý ấy,
lời nói và
việc làm trái nghịch
với nhau.
“Lời nói của
Như Lai cũng vậy.
Bồ Tát đã
tu tập tâm bình đẳng, đối với
chúng sanh đều xem đồng như con mình,
đáng lẽ phải được
trường thọ, biết rành chuyện đã qua,
thường trụ ở thế, không hề có chuyện
biến đổi. Nay vì
nhân duyên gì mà
đời sống của
Thế Tôn rất ngắn, chẳng khác chi
thọ mạng của người thế gian? Như vậy lẽ nào
đức Như Lai không có đem lòng oán ghét chúng sanh?
Ngày xưa,
Thế Tôn đã làm các
nghiệp ác gì, giết chết bao nhiêu sanh mạng, mà nay ngài phải chịu đoản thọ, sống chẳng được trăm năm?”
Phật bảo Ca-diếp rằng: “Thiện nam tử! Nay có
duyên cớ gì mà đối trước
Như Lai ông nói ra lời
vụng về như thế? Sự
trường thọ của
Như Lai vẫn cao hơn, trội hơn tất cả mọi sự
trường thọ.
Pháp thường tồn mà
Như Lai đã được là bậc nhất trong các
pháp thường tồn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai được
thọ mạng lâu dài như thế nào?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Như có tám con sông lớn là
Hằng hà, Diêm-ma-la, Tát-la, A-lỵ-la-bạt-đề, Ma-ha, Tân-đầu, Bác-xoa và Tất-đà. Tám con sông lớn ấy với các sông con, thảy đều chảy vào biển cả.
“Ca-diếp! Những sông lớn là
thọ mạng của tất cả
chúng sanh trong khắp
cõi trời, người, trên mặt đất, giữa
hư không, thảy đều nhập vào biển cả là
thọ mạng của
Như Lai.
Vì vậy,
thọ mạng của
Như Lai là
vô lượng.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như từ ao A-nậu-đạt có
bốn con sông lớn chảy ra.
Như Lai cũng thế, từ nơi
Như Lai mà
xuất hiện tất cả các sanh mạng.
“Ca-diếp!
Ví như trong tất cả mọi
pháp thường tồn,
hư không là hơn hết.
Như Lai cũng thế, là hơn hết trong mọi
pháp thường tồn.
“Ca-diếp, như trong
các loại thuốc, món đề-hồ là hơn hết.
Như Lai cũng thế, đối với tất cả
chúng sanh,
thọ mạng của
Như Lai là hơn hết.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu
thọ mạng Như Lai là như vậy, ngài nên trụ
thế cho trọn một kiếp hoặc một
kiếp giảm, thường
tuyên thuyết pháp nhiệm mầu như trời đổ mưa to.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nay ở chỗ
Như Lai ông không nên phát sanh
tư tưởng [cho rằng
Như Lai là] diệt tận.
“Ca-diếp! Như có tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
cho đến những người
tu hành ngoại đạo,
thần tiên ngũ thông[127]
đạt đến mức
tự tại, nếu muốn trụ ở thế trọn một kiếp hay một
kiếp giảm, đi lại trên không, ngồi và nằm trên ấy một cách
tự tại, cho lửa phóng ra từ nơi hông trái, cho nước tuôn ra từ nơi hông mặt, từ nơi thân
xuất hiện khói lửa, dường như có một đám lửa, hoặc muốn sống lâu, cũng đều được
như ý. Các vị ấy muốn cho
đời sống của mình dài hay ngắn cũng đều được cả. Những vị
ngũ thông ấy còn được sức thần
tùy ý như vậy, huống chi
Như Lai đối với tất cả pháp, đã được sức
tự tại, lại chẳng trụ được ở thế trong nửa kiếp, một kiếp, trăm kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp hay
vô lượng kiếp hay sao?
“Bởi nghĩa ấy nên phải biết rằng
Như Lai là
pháp thường trụ,
pháp không biến đổi. Thân này của
Như Lai là thân
biến hóa, chẳng phải thân do sự
ăn uống mà thành, chẳng qua vì
hóa độ chúng sanh nên
thị hiện giống như loài cây độc.
Vì vậy ta mới hiện cách bỏ thân là nhập Niết-bàn.
“Ca-diếp! Nên biết rằng Phật là
pháp thường tồn,
pháp không biến đổi. Các ông nên ra sức
tinh tấn, một lòng
tu tập nghĩa đệ nhất ấy.
Tu tập rồi, sẽ rộng vì người khác mà
giảng thuyết.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Pháp
xuất thế và pháp
thế gian khác nhau như thế nào? Như Phật nói rằng: Phật là
pháp thường tồn,
pháp không biến đổi;
thế gian cũng nói rằng:
Phạm thiên là thường tồn,
Tự tại thiên là thường tồn, không có
biến đổi, ngã là thường tồn, tánh là thường tồn,
vi trần cũng là thường tồn. Nếu nói
Như Lai là
pháp thường tồn, tại sao
Như Lai chẳng thường hiện? Nếu chẳng thường hiện, thì có khác gì với [các pháp] thế gian? Vì sao vậy? Vì
Phạm thiên...
cho đến vi trần ở
thế gian, vốn cũng chẳng thường hiện.”
Phật bảo Ca-diếp: “Ví như một
trưởng giả có nhiều bò, màu sắc tuy khác nhau nhưng hợp thành một bầy. Ông giao bầy bò ấy cho một người chăn, dắt đi ăn cỏ, uống nước. Ông chỉ cần món đề-hồ mà thôi, chẳng cần món bơ sữa. Người chăn dắt bò đi, để cho chúng
tự do ăn cỏ. Đến khi
trưởng giả ấy qua đời, tất cả những con bò của ông đều bị bọn cướp thâu đoạt. Bọn cướp ấy được bò rồi, không có
phụ nữ để
trông nom, chăn dắt, thả bầy bò tự kéo nhau đi, gặp gì ăn nấy.
“Lúc ấy, bọn cướp nói
với nhau rằng: ‘Ông đại
trưởng giả kia nuôi bò, chẳng cần món bơ sữa, chỉ cần món đề-hồ mà thôi. Bây giờ
chúng ta nên làm thế nào để có món đề-hồ ấy? Vì trong
thế gian, đề-hồ là món
ăn ngon nhất.
Chúng ta không có bồn chậu, như có được sữa cũng chẳng có chi mà đựng.’ Rồi họ lại bảo nhau: ‘Chúng ta chỉ có bao bằng da mà thôi, bao ấy đựng sữa cũng được. Nhưng dù có đồ đựng,
chúng ta cũng không biết phải
để yên hay khuấy cho đúng cách. Sữa đặc còn khó được, huống chi là bơ tươi!’
Lúc ấy, những tên cướp vì muốn có đề-hồ, bèn đổ thêm nước vào. Vì thêm nước nhiều nên sữa, bơ, đề-hồ... chẳng có được món nào cả.
“Những kẻ
phàm phu cũng vậy đó. Tuy họ có pháp lành, nhưng pháp lành ấy chẳng qua là món đồ thừa của
Chánh pháp Như Lai. Vì sao vậy? Sau khi
Như Lai Thế Tôn vào Niết-bàn, những
kẻ trộm cắp pháp lành thừa thãi của
Như Lai như: giới, định, huệ, cũng giống như những
kẻ cướp đoạt lấy đàn bò kia vậy. Những kẻ
phàm phu tuy họ cũng được giới, định và
trí tuệ này, nhưng họ không biết
phương tiện, không thể
hiểu biết, giảng rõ.
Vì lẽ ấy, họ không
thể đạt được thường giới, thường định, thường huệ,
giải thoát. Cũng như bọn cướp kia, chẳng biết
phương cách nên làm hư hỏng món đề-hồ. Cũng như bọn cướp kia, vì muốn có đề-hồ bèn đổ thêm nước vào. Những kẻ
phàm phu cũng vậy. Vì muốn
giải thoát, bèn nói những pháp: ngã,
chúng sanh,
thọ mạng,
linh hồn,
Phạm thiên,
Tự tại thiên,
vi trần, thế tánh, giới, định,
trí tuệ, với
giải thoát, [tin rằng]
cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng tức là Niết-bàn. Thật ra họ chẳng
được giải thoát, Niết-bàn, cũng như bọn cướp kia chẳng được đề-hồ.
“Những kẻ
phàm phu ấy có chút ít
Phạm hạnh,[128] phụng dưỡng
cha mẹ. Nhờ
nhân duyên ấy, họ sanh lên các
cõi trời, hưởng thọ chút ít
an lạc. Cũng như bọn cướp kia thêm nước vào sữa. Những
phàm phu ấy thật chẳng biết rằng nhân họ có tu chút ít
Phạm hạnh và nhờ phụng dưỡng
cha mẹ, nên được sanh lên các
cõi trời. Họ lại cũng chẳng biết giới, định,
trí tuệ,
quy y Tam bảo. Vì họ chẳng biết, nên họ thuyết thường, lạc, ngã, tịnh. Tuy họ thuyết những lẽ ấy nhưng
thật không hiểu. Vậy nên sau khi
Như Lai xuất hiện ở đời, ngài mới
diễn thuyết thường, lạc, ngã, tịnh.
“Ví như khi có
Chuyển luân vương ra đời, nhờ sức
phước đức của người, bọn cướp liền rút lui và tan rã, những con bò khỏi
mất mạng. Rồi đó, vị
Chuyển luân vương đem bò mà
giao phó cho một người chăn, người này có nhiều
phương tiện hay, khéo léo, liền tạo ra được được món đề-hồ. Nhờ đề-hồ ấy, tất cả
chúng sanh không có
bệnh khổ. Cũng như thế, khi đức
Pháp Luân Thánh vương[129] ra đời, những kẻ
phàm phu không
diễn thuyết được giới, định, huệ. Họ rút lui và tan rã như bọn cướp đã rút lui và tan rã do sức
phước đức của vị
Chuyển luân Thánh vương.
“Lúc ấy,
Như Lai khéo thuyết những pháp
thế gian và
xuất thế gian. Ngài vì
chúng sanh, khiến chư
Bồ Tát diễn thuyết thích hợp. Hàng
Đại Bồ Tát đã được món đề-hồ, lại khiến cho
vô lượng vô biên chúng sanh cũng được món pháp
cam lộ cao trổi hơn hết, đó là thường, lạc, ngã, tịnh của
Như Lai.
“Thiện nam tử! Bởi nghĩa ấy,
Như Lai là
pháp thường, chẳng
biến đổi, chẳng phải như những kẻ
phàm phu ngu si trong
thế gian gọi
Phạm thiên.v.v... là
pháp thường. Chỉ có
Như Lai mới đáng xưng là
pháp thường tồn mà thôi,
ngoài ra không còn pháp nào khác nữa.
“Ca-diếp! Nên
biết thân Như Lai là như vậy đó. Ca-diếp! Các
thiện nam tử,
thiện nữ nhân thường nên
lưu tâm tu tập hai chữ: Phật là
thường trụ. Ca-diếp! Như có
thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào
tu tập hai chữ [
thường trụ], nên biết rằng người ấy đã
đi theo đường của ta đi và sẽ đến chỗ mà ta đã đến.
Thiện nam tử! Như có ai
tu tập hai chữ ấy để dứt tướng, nên biết rằng
Như Lai ắt sẽ ở
trước mặt người ấy
thị hiện nhập Niết-bàn.
Thiện nam tử! Nghĩa của Niết-bàn, tức là tánh pháp của chư Phật vậy.
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Tánh pháp của Phật
ý nghĩa như thế nào? Thế Tôn! Nay con muốn biết nghĩa của tánh pháp, xin
Như Lai đem lòng
thương xót, thuyết rộng cho nghe.
“Bạch Thế Tôn! Nói tánh pháp tức là
buông xả thân.
Xả thân, tức không có món gì của mình.
Nếu không có món gì của mình, làm sao còn có cái thân? Nếu thân vẫn còn, làm sao nói rằng: thân có tánh pháp? Thân có tánh pháp thì làm sao còn
tồn tại được? Nay con nên hiểu nghĩa ấy như thế nào?”
Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông không nên nói rằng diệt mất là tánh pháp. Nói tánh pháp là không có sự diệt mất.
“Thiện nam tử!
Ví như chư thiên ở
cõi trời Vô tưởng, có đủ
hình sắc nhưng không có
tư tưởng về
hình sắc. Chớ nên hỏi rằng: ‘Chư thiên ấy hưởng sự
vui vẻ khoái lạc như thế nào? Các Ngài
nghĩ tưởng như thế nào? Thấy, nghe như thế nào?’
“Thiện nam tử!
Cảnh giới của
Như Lai, hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể hiểu nổi.
Thiện nam tử! Không nên nói rằng thân
Như Lai là
pháp diệt mất.
“Thiện nam tử!
Pháp diệt mất của
Như Lai là
cảnh giới Phật, hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể hiểu thấu.
Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên xét nghĩ rằng: ‘Như Lai trụ ở đâu?
Như Lai đi về đâu? Ở đâu thấy được Như Lai?
Như Lai vui thích ở chốn nào?’
“Thiện nam tử! Những nghĩa như thế cũng là ngoài sự
hiểu biết của các ông. Cũng
như Pháp thân của chư Phật cùng đủ mọi
phương tiện [của các ngài] đều không thể nghĩ bàn!
“Lại nữa,
thiện nam tử! Đối với Phật,
Pháp,Tăng đều nên khởi
tư tưởng là thường tồn. Đối với ba pháp ấy, không nên khởi
tư tưởng cho là khác nhau, là
vô thường, là
biến đổi. Như ai thường giữ
tư tưởng cho rằng ba pháp ấy là khác biệt nhau, nên biết rằng những người ấy không thể nương theo Ba chỗ
quy y trong sạch.
Giới cấm mà họ
thọ trì chẳng được đầy đủ.
Rốt cuộc, họ không thể chứng các quả
Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-đề.
Nếu có thể đối với ba
pháp không thể nghĩ bàn ấy
tu tập tư tưởng là thường tồn, ắt sẽ có chỗ
quay về nương tựa và noi theo.
“Thiện nam tử!
Ví như nhân có cây mới có bóng cây.
Như Lai cũng thế, bởi ngài có thường pháp nên mới có chỗ [để
chúng sanh]
quay về nương tựa và noi theo, không phải là
vô thường. Nếu nói
Như Lai là
vô thường, ắt
Như Lai không phải là chỗ
quay về nương tựa và noi theo của
chư thiên,
loài người.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như trong bóng tối thì có cây mà chẳng có bóng.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Ông không nên nói: ‘Có cây mà chẳng có bóng.’ Chẳng qua
mắt thường chẳng thấy được bóng đó thôi.
Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, tánh vốn
thường trụ, không
biến đổi. Những con mắt không có
trí tuệ chẳng thấy được tánh
thường trụ ấy, cũng như trong bóng tối, người ta chẳng thấy được bóng cây. Cũng vậy, khi Phật
nhập diệt rồi, những kẻ
phàm phu sẽ nói rằng:
Như Lai là pháp
vô thường.
“Nếu nói
Như Lai khác với Pháp, khác với Tăng, tức không thành Ba chỗ
quy y, cũng như
cha mẹ các ông vốn là khác nhau, nên là vô thường!”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Từ nay con sẽ đem việc Phật, Pháp, Tăng là
thường trụ giảng giải rõ cho
cha mẹ đời này
cho đến bảy đời trước, khiến tất cả đều kính vâng giữ theo lẽ ấy. Hay thay! Thế Tôn! Từ nay con phải học theo chỗ không thể nghĩ bàn của
Như Lai, Pháp, Tăng. Đã tự mình học rồi, lại còn sẽ vì người khác mà giảng rộng nghĩa ấy. Như ai không thể tin nhận, nên biết rằng hạng người ấy theo pháp
vô thường đã quá lâu. Đối với những người như thế, con sẽ vì họ [mà phá tan mọi
kiến chấp sai lầm, như] sương và mưa đá [làm dập nát mọi thứ cây cỏ].”
Lúc ấy, Phật
ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Nay ông có thể khéo
hộ trì Chánh pháp.
Hộ trì Chánh pháp như vậy là không lừa dối người khác. Nhờ
nghiệp duyên lành không lừa dối như thế, ông sẽ được
trường thọ, khéo rõ biết được những việc từ đời trước.[130]
[110] Theo Nam bản thì phẩm này là phẩm thứ tư, có tựa là Trường thọ (Trường thọ phẩm, đệ tứ)
[111] Hai duyên ấy là: 1. Phải có đời sống lâu dài, đủ để gìn giữ và lưu truyền Chánh pháp. 2. Phải có trí tuệ lớn lao, đủ để nắm hiểu Chánh pháp và giảng giải, tuyên thuyết với tất cả chúng sanh.
[112] Xin lưu ý phân biệt vị Đại Bồ Tát Ca-diếp này với Đại Ca-diếp là vị đứng đầu chúng tỳ-kheo.
[113] Cứu cánh đáo bỉ ngạn: Bờ bên kia (bỉ ngạn) chỉ Niết-bàn, khi đã dứt phiền não và thành Phật. Đối nghĩa với bờ bên này (thử ngạn) tức là luân hồi, còn phiền não, là chúng sanh. Kinh Phật dùng cụm từ đáo bỉ ngạn (đến bờ bên kia) theo tiếng Phạn là ba-la-mật-đa, hay nói gọn là ba-la-mật, Hán ngữ dịch nghĩa là độ, là đưa qua, vượt qua, có nghĩa là pháp môn giúp “đưa qua bờ bên kia”, đạt đến sự giải thoát. Đó là sáu pháp ba-la-mật hay còn gọi là Lục độ, bao gồm: Bố thí độ, Trì giới độ, Nhẫn nhục độ, Tinh tấn độ, Thiền định độ và Trí tuệ độ.
[114] Y chỉ: Y là nương dựa, chỉ là dừng lại, ở yên. Y chỉ là chỗ để cho người ta nương dựa và dừng yên ở đó, tức là bậc có đủ phước đức và trí tuệ, đủ sức dìu dắt người khác, như Phật là bậc Y chỉ của tất cả chúng sanh.
[115] Thiên ý thụ: cây thiên ý, một loại cây hiện theo chư thiên, do công đức mà ứng hiện. Mỗi khi chư thiên đi đến đâu thì đều tùy ý hiện theo, lại muốn cầu điều gì cũng được toại ý, nên gọi là cây thiên ý. (Huệ Lâm âm nghĩa, quyển 25) Người quy y Tam bảo, xem Tam bảo cũng như cây thiên ý của mình, dù đi đến đâu cũng đều được cây ấy che chở. Hơn nữa, nương theo Tam bảo thì được sự lợi lạc, an vui, nên có thể gọi là cầu điều gì cũng được toại nguyện.
[116] Trăng non đầu tháng mỗi ngày đều lớn dần, tròn đầy hơn đêm trước, cho đến khi tròn đầy hoàn toàn vào giữa tháng. Đây ví sự tăng trưởng đều đặn của người thuyết giảng Chánh pháp, mỗi ngày một lớn mạnh hơn.
[117] Lưỡng túc tôn: Bậc đáng tôn kính có đủ phước đức và trí tuệ. Đây là một trong các danh xưng, tôn hiệu của Phật.
[118] Các ấm (chư ấm): Bao gồm năm ấm là: 1. Sắc, 2. Thọ, 3. Tưởng, 4. Hành, 5. Thức. Năm ấm cũng được gọi là Năm uẩn (Ngũ uẩn).
[119] Phương đẳng, chỉ chung các kinh điển Đại thừa. Phương: hay phương quảng, nghĩa là vuông vức và rộng rãi, chứa đủ các pháp, từ nhỏ tới lớn, từ thấp tới cao. Đẳng: Bình đẳng, như nhau. Các kinh Đại thừa do Phật thuyết đều như nhau cả, chứa đủ diệu lý, thật tướng, bất cứ ai tu hành rốt ráo theo một bộ kinh Đại thừa nào, cũng có thể thành tựu trí tuệ Phật. Vì vậy nên gọi chung là Phương đẳng.
[120] Năm giới (Ngũ giới): Năm giới của người Phật tử tại gia, bao gồm: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.
[121] Mười điều lành (Thập thiện): 1. Không sát sanh, thường làm việc tha thứ và phóng sanh. 2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người. 3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng. 4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật. 5. Không nói lời trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi. 6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau. 7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận. 8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn. 9. Không sân khuể, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục. 10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến.
[122] Tội nghịch (Ngịch tội): Tội phản nghịch. Đối với người ân, thay vì phụng kính, trở đi làm hại. Tội nghịch thường là năm thứ (ngũ nghịch tội): 1. Giết cha, 2. Giết mẹ, 3. Giết A-la-hán, 4. Phá hòa hiệp tăng, 5. Làm thân Phật chảy máu, khởi ác ý đối với sở hành của đức Như-lai. Trong Bồ Tát giới kinh có ghi chép bảy thứ tội nghịch (Thất nghịch tội): 1. Làm cho thân Phật ra máu, như, chém đánh; ném đá...; 2. Giết cha; 3. Giết mẹ; 4. Giết hòa thượng; 5. Giết A-xà-lê; 6. Phá yết ma chuyển Pháp luân tăng; 7. Giết thánh nhân.
[123] Bố-tát nghĩa là: đoạn diệt đều ác, tăng trưởng điều thiện. Tụng bố-tát là tụng Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, hay giới luật. Theo quy định thông thường là mỗi tháng hai lần, vào các ngày sóc (mồng một) và ngày vọng (ngày rằm). Tuy nhiên, một số nơi cũng quy định vào các ngày 14 và cuối tháng.
[124] Nhất-xiển-đề kẻ chẳng có lòng tin nơi Tam Bảo.
[125] Phép yết-ma, dịch là Tác pháp, là hình thức phán xét tập thể, do chúng tăng nhóm họp (thường ít nhất cũng phải từ 4 vị trở lên) mà xem xét đưa ra quyết định tùy theo từng trường hợp.
[126] Kinh văn ở đây chỉ nhắc sơ lược về 7 pháp yết-ma này, và tên gọi nêu ra cũng không hoàn toàn trùng khớp với các tên được dùng trong Luật bộ. Chúng tôi tham khảo các bản văn khác nhau trong Hán tạng, xin cung cấp thêm một vài ý nghĩa về các phép yết-ma này như sau: 1. Ha trách yết-ma: vị tỳ-kheo có tội phải chịu sự quở trách công khai trước chúng tăng; 2. Khu khiển yết-ma, cũng gọi là khu xuất yết-ma: vị tỳ-kheo có tội (thường là hình thức quở trách không có tác dụng) phải chịu sự trục xuất ra khỏi nơi ở; 3. Trí yết-ma, cũng gọi là bất ngữ yết-ma, y chỉ yết-ma, vị tỳ-kheo có tội chịu sự khu biệt và giám sát, không ai trong tăng chúng được trò chuyện với vị ấy, và trong thời gian ấy phải chuyên tâm học luật, suy gẫm tự hối; 4. Cử tội yết-ma, cũng gọi là già bất chí bạch y gia yết-ma, vị tỳ-kheo có tội bị nghiêm cấm không được đến nhà cư sĩ; 5. Bất khả kiến yết-ma, cũng gọi là bất kiến cử tội yết-ma, bất kiến tẫn yết-ma, vị tỳ-kheo có tội do không tự nhận biết, không thấy nhân quả, nên phải chịu phép yết-ma này, không được sống chung trong tăng chúng; 6. Diệt yết-ma, cũng gọi là diệt tẫn yết-ma, bất sám tội yết-ma, vị tỳ-kheo có tội nhưng không tin rằng nghiệp ác có chiêu cảm quả báo, không sanh tâm sám hối, nên phải chịu phép yết-ma này, không được sống chung trong tăng chúng; 7. Vị xả ác kiến yết-ma, cũng gọi là ác kiến bất xả yết-ma, vị tỳ-kheo có tội vì không dứt bỏ được tà kiến, tin rằng ái dục không ngăn cản sự tu đạo (thuyết dục bất chướng đạo), nên phải chịu phép yết-ma này, không được sống chung trong tăng chúng.
Bảy hình thức yết-ma này dùng để sửa trị tỳ-kheo phạm tội, được gọi chung là Thất yết ma, cũng gọi là Thất chủng tác pháp hay Thất trị pháp. Bốn hình thức đầu tiên áp dụng đối với những người có sai phạm về hành vi, phải chịu sự trách phạt, kiểm chế hoặc khu biệt trong phạm vi tăng đoàn. Ba hình thức sau áp dụng với những người không đủ tín tâm, không tin theo Chánh pháp, phải chịu sự trục xuất hẳn ra khỏi tăng đoàn.
[127] Thần tiên ngũ thông: Tức là những vị tiên nhân lánh mình vào núi, tu thiền định, được trường thọ và đạt được năm phép thần thông: 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Túc mạng thông, 4. Tha tâm thông, 5. Thần túc thông. Tuy nhiên, Ngũ thông này không đồng với Ngũ thông của Phật và Bồ Tát.
[128] Phạm hạnh, cũng gọi là tịnh hạnh, là phép tu hành thanh tịnh của hàng xuất gia, đoạn tuyệt sự dâm dục.
[129]Pháp luân Thánh vương: cũng gọi: Pháp luân vương, vị vua chuyển bánh xe Pháp, tức là Phật Như Lai. Còn vị vua trị đời, gọi là Chuyển luân vương.
[130] Tri túc mạng: Biết được những đời trước, cũng gọi là Túc mạng thông, là một trong Ngũ thông. Người có tri túc mạng chẳng những biết những việc đời trước của mình và của người khác, còn có thể biết các việc đời này và đời sau nữa.
[131]Theo Nam bản thì đây là phẩm thứ năm (Kim cang thân phẩm, đệ ngũ).
[132] Theo nguyên bản “phi tâm phi số” thì phải hiểu ở đây là tâm số, nhưng tâm số cũng chính là cách dùng cũng của tâm sở, chỉ các tâm hành khác nhau khởi sanh trong tâm.
[133] Nguyên bản dùng “vô giác vô quán”, nhưng giác quán chính là cách dùng cũ của tầm tứ. Tầm chỉ các niệm tưởng thô; tứ chỉ các niệm tưởng tinh tế. Tâm vọng động chính là do tầm tứ, nên tùy theo mức độ dứt trừ được tầm tứ mà đánh giá được sự định tâm của hành giả.
[134] Niệm ở đây nên được hiểu theo cả hai ý nghĩa thông thường của nó. Một là ý niệm, hai là chỉ một quãng thời gian cực ngắn (như sự sanh khởi và diệt mất của một ý niệm).
[135] Nguyên bản dùng Vô đẳng đẳng, dịch từ tiếng Sanskrit là Asamasama, là một trong các tôn hiệu của Phật. Vì Phật là bậc tối cao tôn quý thế gian không ai sánh bằng nên gọi là “vô đẳng”, lại vì chư Phật mười phương ba đời đều bình đẳng như nhau nên tôn xưng là “vô đẳng đẳng”, cũng đồng với nghĩa thường dùng hơn là Vô thượng (không còn ai hơn được).
[136] Một thừa duy nhất (Nhất thừa), chỉ Phật thừa, cũng gọi là Như Lai thừa.
[137] Ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa.
[138] Ấm, nhập, giới: Ba thành phần cấu tạo nên sự hiện hữu của con người và của mọi chúng sanh. Ấm là Năm ấm (hay Năm uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là mười hai nhập: sáu căn nhập với sáu trần, sáu trần nhập với sáu căn. Giới là mười tám giới: sáu căn, sáu trần và sáu thức.
[139] Theo bản khắc gỗ đời Minh thì câu này phải dịch là: “Thân ấy là sư tử mà chẳng phải sư tử”(Thị sư tử phi sư tử).
[140] Câu này dịch sát theo bản Hán văn: “Hộ trì Chánh pháp giả, bất thọ ngũ giới, bất tu oai nghi”. Nhưng chúng tôi xét thấy ý nghĩa có phần không rõ ràng, hơi khó hiểu. Tham khảo trong kinh Đại Bát Nê-hoàn, ở phần tương đương với câu này thì thấy ngài Pháp Hiển dịch như sau: "Kỳ hộ pháp giả, phi vi ngũ giới, diệc phi tập hành hiền giả luật nghi. Ư ác thế trung bất tích thân mạng, chấp trì lợi khí phòng hộ pháp sư, chư trì giới giả, thị vi hộ pháp.” Ý kinh trong câu này dịch ra như sau: “Người hộ pháp không chỉ là kẻ thọ trì Năm giới, cũng không chỉ là học làm theo những oai nghi của bậc hiền giả. Nếu trong đời xấu ác, không tiếc thân mạng, cầm khí giới đi theo bảo vệ các vị pháp sư, những người trì giới, đó mới gọi là hộ pháp.” So sánh hai bản thì thấy câu này trong kinh Đại Bát Nê-hoàn thật rõ nghĩa hơn. So sánh thêm đoạn cuối trang 361 của tập này.
[141] Chín bộ kinh: 1. Tu-đa-la, dịch nghĩa là Khế kinh. 2. Kỳ-dạ dịch nghĩa là Ứng tụng, hay Trùng tụng, 3. Hòa-ca-la-na, cũng đọc là Hoa-già-la-na, dịch nghĩa là Thọ ký. 4. Già-đà, dịch nghĩa là Phúng tụng, Cô khởi tụng. 5. Ưu-đà-na, dịch nghĩa là Tự thuyết. 6. Y-đế-mục-đa-già dịch nghĩa là Bổn sự. 7. Xà-đà-già, dịch nghĩa là Bổn sanh. 8. Tỳ-phật-lược, dịch nghĩa là Phương quảng. 9. A-phù-đà-đạt-ma, dịch nghĩa là Vị tằng hữu. Đây là 9 bộ trong tổng số 12 bộ kinh do Phật thuyết dạy. Tuy nhiên, sự phân loại này mang tính tổng quát về nội dung, không phải dựa theo số lượng.
[142] Phật A-súc, tức là Phật Bất Động, cũng dịch là Phật Vô Động, được xem là cõi tịnh độ phương Đông, như cõi Phật A-di-đà là tịnh độ phương Tây. Xem thêm phẩm Phật A-súc trong kinh Duy-ma-cật.
[143] Theo kinh Đại Bát Nê-hoàn, bản Hán dịch của ngài Pháp Hiển, thì tỳ-kheo Giác Đức (Phật-độ-đạt-đa) sanh về làm đệ tử bậc nhất của Phật A-súc; vị quốc vương hộ pháp Hữu Đức (Bà-già-đạt-đa) làm đệ tử đứng hàng thứ nhì.
[144] Phật Ca-diếp (Kayapa), tức là vị Phật thứ ba trong Hiền kiếp, ra đời sau Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (Kanakamouni) và ngay trước Phật Thích-ca Mâu-ni.
[145] Câu này xét theo ý kinh có phần hơi khiên cưỡng. Chúng tôi tham khảo kinh Đại Bát Nê-hoàn, bản Hán dịch của ngài Pháp Hiển thì thấy câu nói này của ngài Ca-diếp được ghi lại là: Như Lai pháp thân chân hật thường trụ, phi ma diệt pháp, ngã ý đế tín do như hoạch thạch. Nghĩa là: “Pháp thân Như Lai chân thật thường trụ, không phải pháp hoại diệt, lòng con đã tin chắc điều đó như khắc sâu vào đá.” Theo đây mà suy đoán thì có lẽ bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm vì một lý do nào đó đã mất đi mấy chữ, tương đương với 8 chữ Hán được chúng tôi gạch chân trong câu trên. Điều chúng tôi lấy làm lạ là ngài Huệ Nghiêm đời Tống khi thực hiện Nam bản đã nói là “y Nê-hoàn kinh gia chi” nhưng sao không thấy đề cập đên chỗ khác biệt đáng chú ý này.
[146] Bốn giới cấm hệ trọng: Người xuất gia phạm một trong bốn cấm giới này thì không còn được đứng vào hàng tỳ-kheo, sa-môn nữa. Bốn giới cấm đó là: 1. Sát giới (Không được giết hại chúng sanh). 2. Đạo giới (Không được trộm cắp). 3. Dâm giới (Không được phạm vào sự dâm dục) 4. Vọng ngữ giới (Không được nói dối).
[147] Phật vốn dòng họ Thích-ca, hàng đệ tử sau này đều lấy tên trong đạo theo họ Thích, gọi là Thích tử. Vậy nên Thích tử có nghĩa là đệ tử Phật.
[148] Nguyên bản dùng “nhất tự”, để ví với nghĩa lý rốt ráo chân thật của Đại thừa, khác với “bán tự” để chỉ giáo pháp quyền biến phương tiện thuộc Ba thừa.
[149] Theo Nam bản thì đây là phẩm thứ sáu (Danh tự công đức phẩm, đệ lục).
[150] Đó là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la.
[151] Vì đã nhận được đầy đủ mọi sự lợi ích, an lạc, giải thoát từ kinh này