PHẨM THÂN KIM CANG
Phẩm thứ nhì[131]
Lúc ấy,
đức Thế Tôn bảo
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Thân
Như Lai là thân
thường trụ, thân không thể hư hoại,
thân kim cang, chẳng phải thân do sự
ăn uống mà thành, chính là
Pháp thân.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Con chẳng thấy được những thân mà Phật vừa nói đó. Con chỉ thấy duy có cái thân
vô thường, cái thân hư hoại thành cát bụi, cái thân do
ăn uống các thứ vào mà có đó thôi. Vì sao vậy? Vì
Như Lai sắp nhập Niết-bàn.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nay ông không nên gọi thân
Như Lai là không bền bỉ, phải chịu hư hoại như thân
phàm phu.
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết: thân
Như Lai trải qua vô lượng ức kiếp vững bền, khó hoại, chẳng phải như thân của hàng trời người, chẳng phải là thân [
chất chứa sự] sợ sệt, chẳng phải là thân do sự
ăn uống các thứ vào mà tạo thành.
“Thân
Như Lai thật chẳng phải thân mà là thân, chẳng sanh chẳng diệt, không có sự
tu tập; là
vô lượng vô biên, không có dấu vết, không thể
nhận biết, nhìn thấy;
rốt ráo trong sạch, không có sự
dao động, không thọ nhận cũng không hành động; không chỗ trụ, không tạo tác, không
có mùi vị, không hỗn tạp; chẳng phải
hữu vi, chẳng phải
nghiệp quả; chẳng phải hành, chẳng phải [hành] diệt; chẳng phải tâm, chẳng phải [tâm] sở;[132] không thể nghĩ bàn. Sự thường tồn [của thân ấy] không thể nghĩ bàn, không [thuộc về ý] thức, vốn lìa khỏi tâm cũng chẳng lìa khỏi tâm.
“Tâm ấy
bình đẳng, không có mà cũng có, không đến đi mà cũng đến đi, chẳng phá, chẳng hoại, chẳng đoạn, chẳng dứt, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng phải chủ mà cũng là chủ, chẳng có chẳng không, dứt bặt mọi niệm tưởng thô tháo hay
tinh tế,[133] chẳng thuộc
văn tự cũng chẳng phải không thuộc
văn tự; chẳng phải định cũng chẳng phải
không định; không thể thấy mà thấy rất
rõ ràng minh bạch; không có nơi chốn mà cũng có nơi chốn, không có nhà mà cũng là có nhà, không
tối tăm, không
sáng suốt,
không tịch tĩnh mà cũng là
tịch tĩnh.
“Đó là không
sở hữu, không thọ nhận, không
bố thí,
trong sạch chẳng
nhiễm ô, không
tranh giành, dứt bỏ sự
tranh giành, trụ yên nơi không chỗ trụ, không nắm giữ, không buông rơi, không phải pháp, không phải
phi pháp, chẳng phải
ruộng phước cũng là
ruộng phước; không
cùng tận hay bất tận, lìa cả mọi sự
cùng tận.
“Đó là sự trống không lìa khỏi trống không; tuy chẳng
thường trụ cũng là
thường trụ, chẳng phải diệt mất trong từng niệm,[134] không có bụi dơ, không thuộc
văn tự, lìa cả
văn tự, chẳng phải
âm thanh, chẳng phải thuyết dạy, cũng chẳng phải sự
tu tập; không thể
cân nhắc đo lường, không
duy nhất cũng không khác biệt; chẳng phải
hình tượng, chẳng phải tướng trạng [mà đầy đủ] các tướng
trang nghiêm; chẳng phải
dũng cảm, chẳng phải sợ sệt; chẳng phải
vắng lặng hay không
vắng lặng; không có sự
nóng nảy hay không
nóng nảy; không thể nhìn thấy, không có tướng mạo!
“Như Lai không [khởi
ý niệm đang]
cứu độ bất cứ ai nên
cứu độ được tất cả
chúng sanh; không [khởi
ý niệm đang]
giải thoát bất cứ ai nên có thể
giải thoát chúng sanh; không [khởi
ý niệm đang] giúp cho bất cứ ai được
tỉnh giác liễu ngộ, nên có thể
khai ngộ cho
chúng sanh. Vì không
phân biệt, chia chẻ nên
thuyết pháp đúng lý
chân thật duy nhất. Vì là bậc
Vô thượng[135] nên không thể xét lường; đồng như
hư không chẳng có
hình mạo; đồng với tánh
vô sanh, không [nằm trong
ý nghĩa] đoạn dứt hay thường còn; thường làm theo một thừa
duy nhất,[136] [chỉ do]
chúng sanh thấy có
Ba thừa;[137] không có sự
thối chuyển, dứt sạch mọi sự
trói buộc; không đối nghịch, không xúc chạm; chẳng phải tánh trụ nơi tánh; không có những sự hợp tan, dài ngắn, vuông tròn... không phải các ấm, nhập, giới mà [
thị hiện] là các ấm, nhập, giới;[138] không tăng thêm, không
giảm bớt; không có sự hơn kém.
“Thân
Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy, không ai biết được mà không ai là không biết; không ai thấy được mà không ai là không thấy; chẳng phải
hữu vi, chẳng phải
vô vi; chẳng phải
thế gian, chẳng phải ngoài
thế gian; chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác; chẳng phải chỗ nương theo hay không nương theo; chẳng phải
bốn đại, chẳng ngoài
bốn đại; chẳng phải [do] nhân [tạo thành], cũng chẳng phải không [do] nhân [tạo thành]; chẳng phải
chúng sanh, chẳng ngoài
chúng sanh; chẳng phải sa-môn, chẳng phải bà-la-môn.
“[Thân] ấy là
sư tử,
đại sư tử;[139] là chẳng phải thân, chẳng phải không thân; là không thể
tuyên thuyết,
trừ ra một tướng của pháp; là không
thể tính đếm, khi nhập Niết-bàn cũng chẳng phải nhập Niết-bàn.
“Pháp thân
Như Lai thành tựu vô lượng công đức vi diệu như vậy!
“Ca-diếp! Chỉ có
Như Lai mới biết được tướng ấy, hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể biết được.
“Ca-diếp!
Công đức như vậy tạo
thành thân Như Lai, chẳng phải là cái thân nuôi lớn bởi sự
ăn uống các thứ.
“Ca-diếp! Thân
chân thật của
Như Lai có những
công đức như vậy, làm sao thân có thể có những sự
bệnh khổ,
suy yếu,
mong manh không bền chắc như món đồ gốm chưa nung?
“Này Ca-diếp!
Sở dĩ Như Lai thị hiện có
bệnh khổ, chỉ là vì muốn
điều phục chúng sanh.
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết, thân
Như Lai chính là
thân kim cang. Từ nay ông nên thường
chuyên tâm suy xét nghĩa ấy, đừng nghĩ đến cái thân do sự
ăn uống [tạo thành]. Ông cũng phải vì người khác mà
giảng thuyết rằng thân
Như Lai chính là
Pháp thân.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai thành tựu công đức như vậy, làm sao thân ngài có thể bị những sự
bệnh khổ,
vô thường phá hoại? Từ nay con sẽ thường
suy xét rằng thân
Như Lai là
pháp thân thường tồn, là thân
an lạc. Con cũng sẽ vì người khác mà giảng rộng nghĩa này.
“Kính bạch Thế Tôn!
Pháp thân Như Lai như
kim cang chẳng hề hư hoại, nhưng con chưa biết nhờ
nhân duyên gì có được thân ấy?”
Phật dạy: “Ca-diếp! Do
nhân duyên hộ trì Chánh pháp mới được
thành tựu thân kim cang như vậy!
“Ca-diếp! Thuở xưa, ta nhờ
nhân duyên hộ trì Chánh pháp mà nay
thành tựu thân kim cang này,
thường trụ chẳng hề hư hoại.
“Thiện nam tử! Người
hộ trì Chánh pháp chẳng
thọ trì Năm giới, chẳng tu chỉnh
oai nghi, [?][140] cầm đao kiếm, cung tên, mâu sóc... mà
đi theo che chở,
bảo vệ cho vị tỳ-kheo
trong sạch giữ gìn giới hạnh.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như có vị tỳ-kheo lìa khỏi những người
che chở bảo vệ, riêng ở chỗ vắng vẻ, nơi cội cây trong vùng tha ma hoang địa, nên xưng rằng đó là tỳ-kheo
chân chính. Còn như người
tu hành mà có người khác luôn
đi theo để
che chở bảo vệ thì nên biết rằng đó chỉ là hạng
cư sĩ trọc đầu mà thôi!”
Phật bảo Ca-diếp: “Không được nói rằng đó là hạng
cư sĩ trọc đầu! Như có vị tỳ-kheo dù đến ở nơi đâu cũng chỉ nuôi thân
vừa đủ, rồi lo
đọc tụng kinh điển,
suy gẫm,
ngồi thiền. Như có ai đến hỏi pháp, liền
giảng thuyết cho nghe, như giảng về
phước đức của việc
bố thí và việc
trì giới, biết đủ, ít
ham muốn... Tuy có thể
giảng thuyết đủ các
pháp như vậy, nhưng không
đủ sức làm hạnh
sư tử hống, không được các
sư tử hầu quanh, không
đủ sức hàng phục những kẻ ác
phi pháp. Vị tỳ-kheo như vậy không thể làm
lợi ích cho mình và
lợi ích cho
chúng sanh. Nên biết rằng đó là hạng người nhát gan, lười biếng. Tuy có thể
trì giới, giữ hạnh
trong sạch, nhưng nên biết rằng người ấy không làm nên việc gì.
“Như có vị tỳ-kheo, nuôi thân đầy đủ hoặc thường được
sung túc, lại có thể
hộ trì những
giới cấm mà mình đã thọ,
đủ sức làm hạnh
sư tử hống, thuyết rộng
diệu pháp, như
chín bộ kinh điển là: Tu-đa-la, Kỳ-dạ,
Thọ ký, Già-đà, Ưu-đà-na, Y-đế-mục-đa-già, Xà-đà-già, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma.[141] Vị ấy vì người khác mà giảng rộng những
kinh điển như vậy để làm
lợi ích,
an lạc cho
chúng sanh. Vị ấy lại lớn tiếng
tuyên thuyết rằng: ‘Trong kinh Niết-bàn ngăn cấm các tỳ-kheo không được
nuôi dưỡng tôi tớ, bò, dê... cùng chứa trữ những vật không đúng
Chánh pháp. Như tỳ-kheo nào chứa trữ những vật
bất tịnh như
vậy thì phải
nghiêm trị.’
“Trước đó, trong các
bộ kinh khác
Như Lai cũng có dạy rằng: Như có tỳ-kheo nào chứa trữ những vật
phi pháp như
vậy thì quốc vương nên
y theo pháp mà
nghiêm trị, buộc phải
hoàn tục.’
“Như vị tỳ-kheo trong khi
dũng mãnh tuyên thuyết Chánh pháp như vậy, lại có những kẻ
phá giới nghe được, cùng nhau
oán hận, hãm hại vị
pháp sư ấy. Vị
thuyết pháp ấy
ví như có bị hại chết, cũng được xưng là bậc
trì giới, làm lợi mình lợi người. Vì
nhân duyên ấy, ta
cho phép các vị quốc chủ, quần thần, tể tướng, các
vị cư sĩ
bảo vệ người
thuyết pháp. Như ai muốn
hộ trì Chánh pháp, nên học theo cách đó.
“Này Ca-diếp! Những kẻ [làm tỳ-kheo mà]
phá giới, không
hộ trì Chánh pháp, chỉ đáng gọi là
cư sĩ trọc đầu. Không được dùng cách ấy mà gọi người
trì giới.
“Thiện nam tử! Trong
quá khứ cách đây
vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, ở tại thành Câu-thi-na này, có Phật ra đời hiệu là
Hoan Hỷ Tăng Ích,
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn.
“Thuở ấy,
cảnh giới của
đức Phật này rộng lớn,
trang nghiêm,
thanh tịnh,
dồi dào,
an lạc.
Nhân dân phồn thạnh, không hề
bị nạn đói khát, đều giống như các vị
Bồ Tát ở cõi nước
An Lạc.
Đức Phật ấy trụ thế
giáo hoá chúng sanh đến
vô lượng kiếp. Sau cùng, ngài đến rừng cây sa-la có hai cây sa-la mọc sóng đôi mà nhập Niết-bàn.
“Sau khi Phật nhập Niết-bàn,
Chánh pháp trụ ở
thế gian vô lượng ức năm. Rồi đến khoảng hơn bốn mươi năm trước khi
Chánh pháp diệt, có một vị tỳ-kheo
trì giới tên là
Giác Đức. Vị này có nhiều
đồ đệ theo hầu chung quanh, có khả năng
tuyên dương Chánh pháp, giảng rộng được 9
bộ kinh điển,
nghiêm cấm các tỳ-kheo không được
nuôi dưỡng tôi tớ, bò, dê... cùng chứa trữ tài vật không đúng theo
giới luật.
“Khi ấy, có nhiều tỳ-kheo
phá giới nghe ngài
tuyên thuyết như vậy, thảy đều sanh lòng ác. Họ cầm dao, xách gậy, kéo nhau đến
bức bách vị
pháp sư chân chính ấy.
“Bấy giờ, vị vua trong nước tên là Hữu Đức nghe biết việc ấy, vì lòng
ủng hộ Chánh pháp liền ngự đến chỗ
pháp sư, chiến đấu mãnh liệt
chống lại những tỳ-kheo
độc ác phá giới kia để
bảo vệ pháp sư khỏi sự nguy hại.
“Khi ấy, thân vua phải chịu nhiều thương tích, khắp người không còn một chỗ nào lành lặn, dù là nhỏ như hạt cải.
“Tỳ-kheo
Giác Đức khi ấy khen ngợi đức vua rằng: ‘Lành thay!
Lành thay! Vua
quả thật là người
hộ trì Chánh pháp.
Đời sau thân vua ắt sẽ
trở thành vô lượng pháp khí.’
“Bấy giờ, vua được nghe
thuyết pháp xong, lòng rất
hoan hỷ, trút hơi
từ bỏ cõi trần, liền sanh về nước
Phật A-súc,[142] làm
đệ tử bậc nhất của
đức Phật ấy. Những
nhân dân và
quyến thuộc theo vua, hoặc có công chiến đấu hay có lòng tuỳ hỷ, tất cả đều được tâm Bồ-đề
không thối chuyển, khi
mạng chung đều được sanh về nuớc
Phật A-súc.
“Tỳ-kheo
Giác Đức sau khi
mạng chung cũng được sanh về nước
Phật A-súc, làm
đệ tử thứ nhì trong chúng
Thanh văn của
đức Phật ấy.[143]
“Như vào lúc
Chánh pháp sắp diệt tận, nên
thọ trì và
ủng hộ như vậy đó.
“Ca-diếp! Vị vua
thuở ấy, tức là ta đây. Vị tỳ-kheo
thuyết pháp chính là
Phật Ca-diếp.[144]
“Ca-diếp! Người
ủng hộ Chánh pháp được
vô lượng quả báo như vậy đó. Nhờ
nhân duyên ấy, nay ta được đủ các tướng tốt
trang nghiêm,
thành tựu Pháp thân, được thân không hư hoại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Thân
thường trụ của
Như Lai như hình khắc trên đá.”[?][145]
Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Bởi
nhân duyên ấy, các hàng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,
nam nữ cư sĩ đều nên
gắng sức hộ trì Chánh pháp.
Quả báo của việc
hộ trì Chánh pháp là rộng lớn khôn lường!
“Thiện nam tử!
Vì vậy nên những người
cư sĩ nam hộ pháp nên cầm dao, gậy mà
bảo vệ,
che chở vị tỳ-kheo giữ
Chánh pháp. Như có những ai
thọ trì Năm giới, cũng chưa được gọi là người
Đại thừa. Dù chẳng thọ
Năm giới, nhưng có công
hộ trì Chánh pháp, có thể gọi là
Đại thừa. Người
hộ trì Chánh pháp nên cầm đao kiếm, gậy gộc,
khí giới mà hầu bên người
thuyết pháp.”
Ca-diếp
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như những tỳ-kheo làm bạn với những
nam cư sĩ cầm dao gậy ấy, đó là có thầy dạy hay không có thầy? Đó là
trì giới hay phá giới?”
Phật dạy Ca-diếp: “Chớ nên bảo họ là những người
phá giới.
“Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn, đến đời trược ác, đất nước
loạn lạc, người ta sẽ cướp giật lẫn nhau,
nhân dân phải đói khổ. Khi ấy, sẽ có nhiều người vì đói khổ mà
phát tâm xuất gia. Những người như vậy gọi là người [
thế tục] trọc đầu, [chẳng phải tỳ-kheo]. Bọn trọc đầu ấy, nếu thấy các bậc tỳ-kheo
trong sạch,
giữ gìn giới luật, đầy đủ
oai nghi,
hộ trì Chánh pháp, họ liền
xua đuổi hoặc giết hại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Người
trì giới,
hộ trì Chánh pháp, làm sao có thể
đi vào những nơi làng xóm, thành ấp để giáo hóa?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Vì vậy nên nay ta
cho phép người
trì giới được nương cậy vào hàng
cư sĩ cầm dao gậy, làm bạn với họ. Như có những
quốc vương, đại thần,
trưởng giả,
nam cư sĩ lo việc
hộ trì Chánh pháp, tuy cầm dao gậy, ta cũng nói rằng những người ấy là bậc
trì giới. Tuy cầm dao gậy nhưng chẳng [có tâm]
sát hại. Nếu ai có thể làm như
vậy thì được gọi là người
trì giới bậc nhất.
“Ca-diếp! Người
hộ pháp, nghĩa là người có đủ
chánh kiến,
đủ sức giảng rộng
kinh điển Đại thừa, rốt cùng cũng chẳng cầm nắm lọng báu của vua, bình dầu, gạo thóc,
các loại trái cây... chẳng vì chỗ
lợi dưỡng mà gần gũi,
thân mật với
quốc vương, đại thần,
trưởng giả; đối với những kẻ
tín thí, giữ lòng ngay thẳng không
dua nịnh; đầy đủ
oai nghi, khuất phục những kẻ
phá giới và những kẻ xấu ác. Đó gọi là bậc thầy
trì giới và
hộ pháp, có thể làm
thiện tri thức chân thật của
chúng sanh. Người như vậy có tấm lòng
sâu rộng như biển cả.
“Ca-diếp! Như có tỳ-kheo nào vì
lợi dưỡng mà
thuyết pháp với người khác, lại có
đồ chúng quyến thuộc cũng xưng là thầy, tham
cầu lợi dưỡng, người như vậy tự làm hư hoại
chúng tăng.
“Ca-diếp!
Chúng tăng có ba hạng: một là hạng tăng tạp nhạp
phá giới, hai là hạng tăng
ngu si và ba là hàng tăng
thanh tịnh.
“Hạng tăng tạp nhạp
phá giới dễ bị hư hoại. Hàng tăng
thanh tịnh trì giới không thể do
nhân duyên lợi dưỡng mà bị
phá hoại được.
“Thế nào là hạng tăng tạp nhạp phá giới? Như có những tỳ-kheo tuy
giữ giới cấm, nhưng vì
cầu lợi dưỡng nên quan hệ đi lại, nằm ngồi thân cận với kẻ
phá giới, gần gũi và nhờ cậy họ, chung cùng
việc làm với họ. Đó gọi là
phá giới, cũng gọi là tăng tạp nhạp.
“Thế nào là tăng ngu si? Như có những tỳ-kheo ở nơi chỗ
tu hành vắng lặng,
căn tánh không
lanh lợi,
u ám,
mờ mịt, sống bằng phép
khất thực ít
ham muốn. Trong những ngày tụng giới và trong khi
tự tứ thì dạy
đệ tử phải
sám hối cho
trong sạch, còn khi thấy những kẻ chẳng phải
đệ tử mình phạm nhiều
giới cấm thì chẳng thể dạy họ
sám hối cho
trong sạch, lại chung cùng với họ mà tụng giới và
tự tứ. Đó gọi là tăng
ngu si.
“Thế nào là hàng tăng thanh tịnh? Như có những tỳ-kheo không bị chúng ma ngăn trở, làm cho hư hoại. Đó là hàng
chúng tăng Bồ Tát,
bản tánh thanh tịnh, có thể
điều phục hai hạng tăng nói trên, khiến họ được trụ yên trong
chúng tăng thanh tịnh. Đó gọi là các bậc
đại sư cao trổi hơn hết
ủng hộ Phật pháp. Khéo giữ theo
giới luật, vì muốn
điều phục chúng sanh, làm
lợi ích chúng sanh nên biết rõ các tướng của giới có quan trọng hoặc ít quan trọng.
Nếu không thuộc về
giới luật thì các vị ấy không cần chứng biết, còn như đúng là
giới luật thì các vị liền chứng biết [
phân biệt rõ ràng].
“Thế nào là
điều phục chúng sanh, làm
lợi ích cho chúng sanh? Nếu như các vị
Bồ Tát vì
giáo hóa chúng sanh, thường vào những nơi làng xóm thôn ấp, bất chấp
thời tiết [tốt xấu], hoặc đến nhà đàn bà góa, nhà của
dâm nữ,
ở chung với họ trong nhiều năm. Nếu là hàng
Thanh văn thì không nên làm như vậy. Đó gọi là
điều phục, làm
lợi ích chúng sanh.
“Thế nào là rõ biết phần quan trọng của giới? Như thấy
Như Lai nhân việc mà
chế giới, dạy rằng: ‘Từ nay các ông đừng
tái phạm.’ Như Bốn
trọng cấm[146] thì người
xuất gia không được phạm vào. Nếu cố phạm vào thì chẳng phải là sa-môn, chẳng phải là dòng
Thích tử.[147] Đó gọi là phần quan trọng.
“Thế nào là ít quan trọng? Nếu lỡ phạm vào các điều luật nhỏ nhặt, nghe người khác
can gián [từ một] đến ba lần bèn
từ bỏ việc đã phạm. Đó gọi là ít quan trọng. Việc không đúng
giới luật thì
không chấp nhận.
Ví như có người nói rằng những vật chẳng
thanh tịnh là đáng
thọ dụng thì không gần gũi chung cùng với người ấy. Việc đúng
giới luật thì nên
chấp nhận,
thuận theo. Người khéo
học giới luật chẳng gần với kẻ
phá giới; thấy ai làm theo đúng với
giới luật, liền sanh lòng
vui vẻ. Như vậy có thể biết được chỗ làm theo
Phật pháp, có thể
giảng thuyết. Đó gọi là
luật sư. Như có thể giải rộng
nghĩa chân thật của
Đại thừa,[148] có thể khéo
gìn giữ Khế kinh, cũng là như vậy.
“Thiện nam tử!
Phật pháp vô lượng, không thể nghĩ bàn như vậy.
Như Lai cũng thế, không thể nghĩ bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thật vậy, thật vậy! Đúng như
lời Phật dạy.
Phật pháp vô lượng, không thể nghĩ bàn.
Như Lai cũng thế, không thể nghĩ bàn! Vậy nên biết rằng
Như Lai là
thường trụ, chẳng hư hoại, chẳng
biến đổi. Nay con đã học hiểu được, rồi cũng sẽ vì người khác mà giảng rộng nghĩa ấy.”
Lúc ấy, Phật
ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thân
Như Lai tức là
thân kim cang chẳng hoại.
Bồ Tát nên học
thông suốt lẽ ấy, thấy biết chân chánh.
Nếu có thể thấy biết rành rẽ như vậy, tức là thấy được
thân kim cang của Phật, thân không thể hư hoại, cũng như nhìn vào tấm gương mà thấy được các màu sắc
hình ảnh vậy.”
[131]Theo Nam bản thì đây là phẩm thứ năm (Kim cang thân phẩm, đệ ngũ).
[132] Theo nguyên bản “phi tâm phi số” thì phải hiểu ở đây là tâm số, nhưng tâm số cũng chính là cách dùng cũng của tâm sở, chỉ các tâm hành khác nhau khởi sanh trong tâm.
[133] Nguyên bản dùng “vô giác vô quán”, nhưng giác quán chính là cách dùng cũ của tầm tứ. Tầm chỉ các niệm tưởng thô; tứ chỉ các niệm tưởng tinh tế. Tâm vọng động chính là do tầm tứ, nên tùy theo mức độ dứt trừ được tầm tứ mà đánh giá được sự định tâm của hành giả.
[134] Niệm ở đây nên được hiểu theo cả hai ý nghĩa thông thường của nó. Một là ý niệm, hai là chỉ một quãng thời gian cực ngắn (như sự sanh khởi và diệt mất của một ý niệm).
[135] Nguyên bản dùng Vô đẳng đẳng, dịch từ tiếng Sanskrit là Asamasama, là một trong các tôn hiệu của Phật. Vì Phật là bậc tối cao tôn quý thế gian không ai sánh bằng nên gọi là “vô đẳng”, lại vì chư Phật mười phương ba đời đều bình đẳng như nhau nên tôn xưng là “vô đẳng đẳng”, cũng đồng với nghĩa thường dùng hơn là Vô thượng (không còn ai hơn được).
[136] Một thừa duy nhất (Nhất thừa), chỉ Phật thừa, cũng gọi là Như Lai thừa.
[137] Ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa.
[138] Ấm, nhập, giới: Ba thành phần cấu tạo nên sự hiện hữu của con người và của mọi chúng sanh. Ấm là Năm ấm (hay Năm uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là mười hai nhập: sáu căn nhập với sáu trần, sáu trần nhập với sáu căn. Giới là mười tám giới: sáu căn, sáu trần và sáu thức.
[139] Theo bản khắc gỗ đời Minh thì câu này phải dịch là: “Thân ấy là sư tử mà chẳng phải sư tử”(Thị sư tử phi sư tử).
[140] Câu này dịch sát theo bản Hán văn: “Hộ trì Chánh pháp giả, bất thọ ngũ giới, bất tu oai nghi”. Nhưng chúng tôi xét thấy ý nghĩa có phần không rõ ràng, hơi khó hiểu. Tham khảo trong kinh Đại Bát Nê-hoàn, ở phần tương đương với câu này thì thấy ngài Pháp Hiển dịch như sau: "Kỳ hộ pháp giả, phi vi ngũ giới, diệc phi tập hành hiền giả luật nghi. Ư ác thế trung bất tích thân mạng, chấp trì lợi khí phòng hộ pháp sư, chư trì giới giả, thị vi hộ pháp.” Ý kinh trong câu này dịch ra như sau: “Người hộ pháp không chỉ là kẻ thọ trì Năm giới, cũng không chỉ là học làm theo những oai nghi của bậc hiền giả. Nếu trong đời xấu ác, không tiếc thân mạng, cầm khí giới đi theo bảo vệ các vị pháp sư, những người trì giới, đó mới gọi là hộ pháp.” So sánh hai bản thì thấy câu này trong kinh Đại Bát Nê-hoàn thật rõ nghĩa hơn. So sánh thêm đoạn cuối trang 361 của tập này.
[141] Chín bộ kinh: 1. Tu-đa-la, dịch nghĩa là Khế kinh. 2. Kỳ-dạ dịch nghĩa là Ứng tụng, hay Trùng tụng, 3. Hòa-ca-la-na, cũng đọc là Hoa-già-la-na, dịch nghĩa là Thọ ký. 4. Già-đà, dịch nghĩa là Phúng tụng, Cô khởi tụng. 5. Ưu-đà-na, dịch nghĩa là Tự thuyết. 6. Y-đế-mục-đa-già dịch nghĩa là Bổn sự. 7. Xà-đà-già, dịch nghĩa là Bổn sanh. 8. Tỳ-phật-lược, dịch nghĩa là Phương quảng. 9. A-phù-đà-đạt-ma, dịch nghĩa là Vị tằng hữu. Đây là 9 bộ trong tổng số 12 bộ kinh do Phật thuyết dạy. Tuy nhiên, sự phân loại này mang tính tổng quát về nội dung, không phải dựa theo số lượng.
[142] Phật A-súc, tức là Phật Bất Động, cũng dịch là Phật Vô Động, được xem là cõi tịnh độ phương Đông, như cõi Phật A-di-đà là tịnh độ phương Tây. Xem thêm phẩm Phật A-súc trong kinh Duy-ma-cật.
[143] Theo kinh Đại Bát Nê-hoàn, bản Hán dịch của ngài Pháp Hiển, thì tỳ-kheo Giác Đức (Phật-độ-đạt-đa) sanh về làm đệ tử bậc nhất của Phật A-súc; vị quốc vương hộ pháp Hữu Đức (Bà-già-đạt-đa) làm đệ tử đứng hàng thứ nhì.
[144] Phật Ca-diếp (Kayapa), tức là vị Phật thứ ba trong Hiền kiếp, ra đời sau Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (Kanakamouni) và ngay trước Phật Thích-ca Mâu-ni.
[145] Câu này xét theo ý kinh có phần hơi khiên cưỡng. Chúng tôi tham khảo kinh Đại Bát Nê-hoàn, bản Hán dịch của ngài Pháp Hiển thì thấy câu nói này của ngài Ca-diếp được ghi lại là: Như Lai pháp thân chân hật thường trụ, phi ma diệt pháp, ngã ý đế tín do như hoạch thạch. Nghĩa là: “Pháp thân Như Lai chân thật thường trụ, không phải pháp hoại diệt, lòng con đã tin chắc điều đó như khắc sâu vào đá.” Theo đây mà suy đoán thì có lẽ bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm vì một lý do nào đó đã mất đi mấy chữ, tương đương với 8 chữ Hán được chúng tôi gạch chân trong câu trên. Điều chúng tôi lấy làm lạ là ngài Huệ Nghiêm đời Tống khi thực hiện Nam bản đã nói là “y Nê-hoàn kinh gia chi” nhưng sao không thấy đề cập đên chỗ khác biệt đáng chú ý này.
[146] Bốn giới cấm hệ trọng: Người xuất gia phạm một trong bốn cấm giới này thì không còn được đứng vào hàng tỳ-kheo, sa-môn nữa. Bốn giới cấm đó là: 1. Sát giới (Không được giết hại chúng sanh). 2. Đạo giới (Không được trộm cắp). 3. Dâm giới (Không được phạm vào sự dâm dục) 4. Vọng ngữ giới (Không được nói dối).
[147] Phật vốn dòng họ Thích-ca, hàng đệ tử sau này đều lấy tên trong đạo theo họ Thích, gọi là Thích tử. Vậy nên Thích tử có nghĩa là đệ tử Phật.