KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ BA MƯƠI
PHẨM TÁT ĐÀ BA LUÂN
THỨ TÁM MƯƠI TÁM
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đại
Bồ Tát cầu
Bát nhã ba la mật phải như
Đại Bồ Tát Đàn Ba Luân.
Đại Bồ Tát ấy hiện nay ở chỗ Đại Lôi Âm Phật mà hành
Bồ Tát đạo”.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát Đàn Ba Luân cầu
Bát nhã ba la mật như thế nào?”.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát Đàn Ba Luân trước kia, lúc cầu
Bát nhã ba la mật chẳng tiếc
thân mạng, chẳng màng
danh lợi.
Ngài ở trong rừng vắng vẻ, nghe trên
hư không có tiếng bảo rằng:
Này
thiện nam tử! Người từ đây đi qua phương Đông chớ nhớ đến mỏi mệt, chớ nhớ đến ngủ nghỉ, chớ nhớ đến uống ăn, chớ nhớ đến ngày đêm, chớ nhớ đến lạnh nóng, chớ nhớ đến trong ngoài.
Khi đi người chớ nhìn hai bên. Khi đi người chớ
phá hoại tướng thân, chớ
phá hoại tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức.
Tại sao vậy?
Nếu
phá hoại các tướng ấy thì ở trong
Phật pháp có trở ngại.
Nếu ở
Phật pháp có trở ngại thì qua lại ở năm đường
sanh tử, cũng chẳng được
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát Đàn Ba Luân đáp:
Tôi sẽ Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý theo lời dạy. Tại sao vậy? Vì tôi muốn vì tất cả
chúng sanh mà làm ánh sáng lớn, tôi muốn tập
hợp pháp của tất cả chư Phật, tôi muốn được
Vô Thượng Bồ Đề.
Trên
hư không lại có tiếng nói:
Lành thay,
lành thay! Người nên có
lòng tin pháp không,
vô tướng,
vô tác.
Đem
tâm lý mà cầu
Bát nhã ba la mật:
ly tướng ngã, nhẫn đến
ly tướng tri giả,
kiến giả.
Người phải xa rời
ác tri thức, phải gần gũi
cúng dường thiện tri thức.
Ai là
thiện tri thức?
Là người có thể nói
pháp không,
vô tướng,
vô tác,
vô sanh, vô diệt và nhứt thiết
chủng trí, làm cho người nghe, tâm họ
thâm nhập vui mừng tin ưa. Đó là
thiện tri thức.
Nếu người đi như vậy không lâu sẽ được nghe
Bát nhã ba la mật. Hoặc được nghe từ trong quyển kinh. Hoặc được nghe từ nơi
Bồ Tát nói.
Chỗ mà người theo đó được nghe
Bát nhã ba la mật, người phải xem nơi ấy như
đức Phật. Người phải
tri ân, phải nghĩ rằng đây tức là
thiện tri thức của tôi. Do
nghe pháp Bát nhã ba la mật ấy, tôi sẽ chóng được chẳng
thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề, được ở gần chư Phật, thường sanh trong nước có Phật, xa rời các
chướng nạn, được đầy đủ chỗ không
chướng nạn.
Người phải suy lường
công đức ấy, phải ở chỗ được
nghe pháp xem như đức Phật.
Người chớ mong tâm về thế lợi mà theo bên
pháp sư, mà chỉ vì
ưa thích chánh pháp, chỉ vì
kính trọng chánh pháp nên theo bên
Bồ Tát pháp sư.
Lúc bấy giờ người phải
cảnh giác biết những
ma sự.
Nếu
ác ma giả vì pháp mà đem
ngũ dục đến dâng cho
Bồ Tát pháp sư.
Nếu
Bồ Tát pháp sư nhập thiệt
pháp minh vì
công đức lực nên nhận lấy, nhưng không hề nhiễm
ngũ dục ấy.
Bồ Tát pháp sư lại vì ba việc nên nhận lấy
ngũ dục ấy: một là vì sức
phương tiện, hai là vì muốn cho
chúng sanh gieo căn lành, ba là vì muốn cùng
chúng sanh đồng sự ấy.
Đối với sự ấy, người chớ sanh tâm chẳng kính tin mà phải sanh lòng kính tin, nghĩ rằng: Tôi chưa được
phương tiện trí.
Đại sư vì độ
chúng sanh nên dùng pháp
phương tiện cho họ được
phước đức, nên
đại sư mới nhận lấy
ngũ dục ấy, nơi
Bồ Tát trí huệ vẫn không trước, không ngại, chẳng bị
ngũ dục nhiễm ô.
Người liền phải quán
thiệt tướng các pháp, nghĩa là tất cả pháp chẳng cấu, chẳng tịnh. Tại sao vậy? Tất cả
pháp tự tánh rỗng không, không có
chúng sanh, không có ngã, không có nhơn. Tất cả
pháp như ảo, như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm,
như huyễn,
như hóa.
Người quán các
pháp thiệt tướng ấy rồi phải theo
pháp sư, không lậu người sẽ
thành tựu Bát nhã ba la mật.
Lại nữa, người phải
cảnh giác biết
ma sự.
Nếu
Bồ Tát pháp sư thấy người muốn học
Bát nhã ba la mật mà chẳng
để ý đến thì người chớ có sanh lòng
oán hận. Người chẳng phải nên vì pháp mà sanh lòng
cung kính, chớ có ý chán lười, phải thường theo bên
pháp sư.
Sau khi
nghe lời chỉ bảo từ trên
hư không, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát đi qua phương Đông không bao lâu chợt nghĩ rằng sao tôi không hỏi tiếng trên
hư không phải đi đến xứ nào, xa hay gần, sẽ phải theo ai để được nghe
Bát nhã ba la mật.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát liền đứng lại,
ưu sầu khóc than mà nghĩ rằng: Tôi ở lại đây chỉ nhớ đến mỏi nhọc nhẫn đến chẳng nhớ đến
đói khát, lạnh nóng, nếu chẳng được
nhơn duyên nghe học
Bát nhã ba la mật, tôi quyết chẳng rời khỏi nơi đây.
Này Tu Bồ Đề! Như người chỉ có một đứa con trai, đứa con ấy bỗng chết, người ấy
ưu sầu đau khổ, trong lòng chỉ có
sầu khổ chớ chẳng nghĩ gì khác.
Cũng vậy,
lúc ấy Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát không nghĩ gì khác ngoài sự mong muốn được biết bao giờ tôi được nghe
Bát nhã ba la mật, tai sao tôi không hỏi tiếng trên
hư không: tôi phải đến xứ nào, xa hay gần, sẽ theo ai để học
Bát nhã ba la mật.
Lúc Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát buồn nghĩ như vậy, trên
hư không có
đức Phật bảo rằng:
Lành thay,
lành thay! Này
thiện nam tử! Chư Phật
quá khứ lúc hành
Bồ Tát đạo, cầu
Bát nhã ba la mật cũng như người ngày nay vậy.
Người
giữ gìn tâm siêng năng
tinh tiến,
ưa thích chánh pháp ấy mà đi qua phương Đông cách đây năm trăm
do tuần có tòa thành tên Chúng Hương. Thành ấy có bảy lớp,
bảy báu trang nghiêm, nhà cửa bao lớn đều trang sức bằng
bảy báu, hào bằng
bảy báu, hàng cây
bảy báu vòng quanh bảy vòng. Tòa thành ấy ngang rộng mười hai
do tuần, giàu vui
an tịnh, nhơn dân đông đảo, có năm trăm thị xã, đường xá tương đương đẹp tốt như tranh vẽ. Cầu cống
rộng rãi sạch sẽ như đất bằng. Trên bảy lớp thành đều có lâu đài, cây
bảy báu hàng, nhánh lá bằng
hoàng kim, bạch ngân, ngọc
xa cừ,
mã não,
san hô,
lưu ly,
pha lê và chân châu màu hồng. giây báu kết giăng, linh lưới bằng vàng trùm lên thành. Gió thổi Linh khua vang tiếng
hòa nhã làm
vui lòng người nghe, như
ngũ nhạc khéo hòa tấu rất là
vui vẻ, tiếng lưới vàng và linh báu cũng như vậy. Bốn phía thành có ao nước chảy
trong sạch, lạnh ấm vừa thích. Trong ao có những chiếc thuyền bằng
bảy báu. Đó là do nghiệp đời trước của
chúng sanh nới ấy gây nên. Ngồi thuyền báu ấy qua lại
vui chơi. Trong nước ao có
các loại hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng và nhiều thứ hoa khác che khắp mặt ao. Bao nhiêu thứ hoa trong cõi
Đại Thiên đều có trong ấy. Bốn phía thành lại có năm trăm khu vườn nhà
bảy báu trang nghiêm rất đáng
ưa thích. Trong mỗi khu vườn ấy đều có năm trăm ao nước. Mỗi ao rộng mười dặm cũng bằng
bảy báu nhiều màu
trang nghiêm. Trong ao nước ấy cũng có
hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng chen đầy mặt nước.
Hoa sen ấy lớn như bánh xe: màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Mặt nước ao lại có nhiều loại chim: chim le, chim nhạn, chim uyên ương kêu tiếng hòa nhau. Các khu vườn nhà ấy không thuộc riêng ai. Đó là do nghiệp đời trước của
chúng sanh xứ ấy gây nên, họ luôn mãi tin ưa
chánh pháp sâu xa và thật
hành Bát nhã
ba la mật nên hưởng thọ
quả báo ấy.
Này
thiện nam tử! Trong thành Chúng Hương có tòa đài cao, cung điện của
Đại Bồ Tát Đàm Vô kiệt ở trên đài ấy. Cung ấy rộng một
do tuần, bằng
bảy báu nhiều màu
trang nghiêm rất đáng
ưa thích. Tường rào bảy lớp cũng bằng
bảy báu, bao lơn
bảy báu, lầu gác
bảy báu, hào báu bảy lớp cũng bằng
bảy báu chồng chất xây thành, bảy lớp hàng cây, nhánh lá
bảy báu, bảy lớp vườn bao quanh. Trong cung điện ấy có bốn khu vườn
vui chơi: một khu vườn tên Thường Hỉ, khu thứ hai tên Ly Ưu, khu thứ ba tên Hoa Sức, khu thứ tư tên Hương Sức. Trong mỗi khu vườn có tám ao: ao thứ nhất tên Hiền, ao thứ hai tên Hiền Thượng, ao thứ ba tên
Hoan Hỉ, ao thứ tư tên Hỉ Thượng, ao thứ năm tên
An Ổn, ao thứ sáu tên Đa
An Ổn, ao thứ bảy tên
Viễn Ly, ao thứ tám tên
Bất Thối Chuyển. Bốn bên ao, mỗi mặt riêng một thứ báu:
hoàng kim, bạch ngân,
lưu ly và
pha lê. Ngọc mai côi làm đáy ao, trên trải cát
hoàng kim. Cạnh mỗi ao đều có thềm bực bằng các thứ báu. Khoảng giữa thềm bực có hàng cây
ba tiêu bằng vàng
diêm phù đàn. Trong tất cả ao đều có
hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng che trùm mặt nước. Bốn bên các ao đều có cây hoa đẹp, gió thổi các hoa rơi vào trong nước ao. Nước ao có đủ
tám công đức, thơm như
chiên đàn, đầy đủ màu sắc và
mùi vị, vừa nhẹ vừa nhu nhuyễn.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát cùng sáu muôn tám ngàn thể nữ,
ngũ dục đầy đủ, chung vui cùng hưởng.
Nhơn dân trong thành cùng vào các vườn Thường Hỉ và ao Hiền v.v…,
ngũ dục đầy đủ, cũng chung vui cùng hưởng.
Này
thiện nam tử! Sau khi cùng các thể nữ dạo chơi vui thú xong, ngày ba thời,
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát giảng thuyết Bát nhã ba la mật.
Nam nữ lớn nhỏ trong thành Chúng Hương chọn nơi đông người
tụ họp,
thiết lập pháp tia lớn. Bốn chưn pháp tọa ấy hoặc bằng bạch ngân, hoặc bằng
lưu ly, hoặc bằng
pha lê, trên trải nệm êm dầy nhiều màu thòng những tua tụa, dùng bạch điệp đẹp trùm lên trên, rải những hoa đẹp hương thơm. Pháp tọa ấy cao năm dặm, giăng trướng bạch châu. Bốn phía khoảng đấy ấy
rải hoa năm màu, đốt những hương thơm,
nước thơm tưới trên đất. Đó là để
cúng dường Bát nhã ba la mật vậy.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ngồi trên
pháp tòa ấy
giảng thuyết Bát nhã ba la mật.
Nhơn chúng nơi thành ấy
cúng dường cung kính Đàm Vô kiệt Bồ Tát để nghe
Bát nhã ba la mật.
Đại hội ấy có trăm ngàn vạn chúng,
chư Thiên cùng người
thế gian hòa hiệp một chỗ. Trong đó có người lắng nghe, có người thọ, có người trì, có người tụng, có người biên, có người chánh quán, có người thật hành đúng theo lời dạy.
Bấy giờ do
nhơn duyên ấy nên
chúng sanh đều chẳng đọa
ác đạo, chẳng
thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề.
Này
thiện nam tử! Người qua đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát sẽ được nghe
Bát nhã ba la mật.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát là
thiện tri thức trong nhiều đời trước của người, hay dạy cho người
Vô Thượng Bồ Đề, chỉ dạy cho người được
lợi ích vui mừng.
Thuở trước, lúc
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát cầu
Bát nhã ba la mật cũng như người ngày nay.
Người đi chớ kể ngày đêm, chớ e ngại, không lâu người sẽ được nghe
Bát nhã ba la mật.
Khi
nghe lời chỉ bảo trên
hư không, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát lòng rất
vui mừng nghĩ rằng bao giờ tôi sẽ được thấy vị
thiện tri thức ấy để được nghe
Bát nhã ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Ví như có người trúng phải tên độc, trong lòng người ấy không nghĩ gì khác, chỉ nghĩ rằng lúc nào gặp được
lương y nhổ tên độc ra, chữa khỏi nạn khổ cho tôi.
Cũng vậy, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát không còn nghỉ gì khác, chỉ
tâm nguyện lúc nào tôi được thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, cho tôi được nghe
Bát nhã ba la mật, dứt hết tâm
chấp có.
Ở tại chỗ cũ ấy, Tát Đà Ba Luân
tâm tưởng niệm
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, ở trong tất cả pháp được
tri kiến vô ngại, liền được
vô lượng môn tam muội hiện tiền, đó là:
chư pháp tánh quán
tam muội,
chư pháp tánh
bất khả đắc tam muội, pháp
chư pháp vô minh tam muội,
chư pháp bất dị
tam muội,
chư pháp bất hoại tự tại tam muội,
chư pháp năng chiếu minh
tam muội,
chư pháp ly ám
tam muội,
chư pháp vô dị
tương tục tam muội,
chư pháp bất khả đắc tam muội,
tán hoa tam muội,
chư pháp vô ngã tam muội,
như huyễn oai thế
tam muội, đắc như
cảnh tượng tam muội, đắc
nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn tam muội,
nhứt thiết chúng sanh hoan hỷ tam muội, nhập
phân biệt âm thanh tam muội, đắc
chủng chủng ngữ ngôn tự cú
trang nghiêm tam muội,
vô úy tam muội, tánh thường
mặc nhiên tam muội, đắc
vô ngại giải thoát tam muội, ly
trần cấu tam muội,
danh tự ngữ cú
trang nghiêm tam muội, kiến
chư pháp tam muội,
chư pháp vô ngại đảnh
tam muội, như
hư không tam muội, như
kim cang tam muội, bất úy trước sắc
tam muội,
đắc thắng tam muội, chuyển nhãn
tam muội,
tất pháp tánh tam muội, năng giữ
an ổn tam muội,
sư tử hống tam muội, thắng
nhứt thiết chúng sanh tam muội, hoa
trang nghiêm tam muội, đoạn nghi
tam muội, đoạn nhứt thiết
kiên cố tam muội, xuất
chư pháp đắc
thần thông lực vô úy tam muội, năng đạt
chư pháp tam muội,
chư pháp tài ấn
tam muội,
chư pháp vô phân biệt kiến
tam muội, ly
chư kiến tam muội, ly nhứt thiết ám
tam muội,
giải thoát nhứt thiết tướng
tam muội, trừ nhứt thiết
giải đãi tam muội, đắc
thâm pháp minh
tam muội, bất khả đoạt
tam muội,
phá ma tam muội, bất trước
tam giới tam muội, khởi
quang minh tam muội, kiến chư Phật
tam muội.
An trụ trong các
tam muội ấy, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát liền thấy
mười phương vô lượng vô số chư Phật vì
chư Đại Bồ Tát mà nói
Bát nhã ba la mật.
Lúc ấy chư Phật mười phương an ủi Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát rằng:
Lành thay,
lành thay! Này
thiện nam tử! Lúc
chúng ta hành
Bồ Tát đạo thuở trước cầu
Bát nhã ba la mật được các
tam muội ấy cũng như chỗ được của người hiện nay vậy.
Được các
tam muội ấy rồi
chúng ta khéo vào
Bát nhã ba la mật,
thành tựu sức
phương tiện, trụ bực
bất thối chuyển.
Chúng ta quán tánh các
tam muội ấy chẳng thấy có pháp gì xuất
tam muội, nhập
tam muội, cũng chẳng thấy ai
hành Phật đạo, cũng chẳng thấy ai được
Vô Thượng Bồ Đề.
Này
thiện nam tử! Đó gọi là
Bát nhã ba la mật, nghĩa là chẳng
quan niệm có các pháp ấy.
Này
thiện nam tử!
Chúng ta an trụ trong pháp
vô sở niệm mà được thân màu
hoàng kim rất sáng chói này, có ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo,
trí huệ chẳng thể nghĩ bàn được, giới
vô thượng,
tam muội vô thượng, Phật
vô thượng trí huệ, tất cả
công đức thảy đều đầy đủ.
Đã đầy đủ tất cả
công đức mà
đức Phật còn chẳng thể lấy tướng nói hết được, huống là hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật và những người khác!
Này
thiện nam tử!
Vì lẽ ấy nên ở trong
Phật pháp này phải càng cung kinh mến nhớ, sanh
lòng tin thanh tịnh. Đối với
thiện tri thức phải
xem như đức Phật.
Tại sao vậy?
Vì nhờ
thiện tri thức thủ hộ mà
Bồ Tát mau được
Vô Thượng Bồ Đề.
Lúc ấy Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát bạch
chư Phật mười phương:
Ai là
thiện tri thức của tôi mà tôi phải thân cận cúng dường?
Chư Phật mười phương bảo Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát:
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát đã nhiều đời
giáo hóa Vô Thượng Bồ Đề cho người
thành tựu.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát cho người
thành tựu.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát thủ hộ người, dạy cho người sức
phương tiện Bát nhã ba la mật,
Bồ Tát ấy là
thiện tri thức của người.
Dầu người có
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát hoặc một kiếp, hai kiếp, ba kiếp nhẫn đến hơn trăm kiếp, dầu đội
cung kính, đem tất cả đồ sắc, thanh, hương, vị, xúc,
vui thích trong cõi
Đại Thiên cúng dường hết chưa đáp được ơn trong khoảnh khắc.
Tại sao vậy?
Vì do
nhơn duyên của
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát làm cho người được những
tam muội như vậy, được sức
phương tiện Bát nhã ba la mật như vậy.
Chư Phật
an ủi giáo hóa Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát như vậy, làm cho ngài
vui mừng xong, bỗng nhiên chẳng hiện.
Từ
tam muội dậy, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát chẳng còn thấy chư Phật bèn nghĩ rằng: Chư Phật ấy từ đâu đến, đi về đâu?
Vì chẳng thấy chư Phật nên Ngài lại
buồn rầu chẳng vui: Ai sẽ dứt hết chỗ
nghi ngờ của tôi?
Ngài lại nghĩ rằng
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát từ lâu đã
thường hành Bát nhã ba la mật, được sức
phương tiện và các
đà la ni, nơi pháp
Bồ Tát được
tự tại,
cúng dường nhiều chư Phật
quá khứ, nhiều đời làm thầy tôi, thường làm
lợi ích cho tôi. Tôi sẽ hỏi
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát : chư Phật từ đâu đến, đi đến đâu?
Lúc ấy đối với
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát sanh lòng
cung kính,
tôn trọng, mến ưa, nghĩ rằng: Tôi phải lấy gì
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát?
Hiện nay tôi nghèo cùng, không có hoa hương,
vàng bạc,
châu báu. Không có những vật khả dĩ
cúng dường Bát nhã ba la mật và
pháp sư Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Tôi không nên đi tay không để đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Nếu tôi đi không thì khó sanh lòng mừng rỡ. Vì
Bát nhã ba la mật, tôi phải bán thân để có tài vật
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Từ nhiều đời tôi đã mất
vô số thân. Trong vô thỉ
sanh tử hoặc chết, hoặc bán, hoặc vì
dục vọng mà nhiều đời chịu
vô lượng khổ não ở trong
địa ngục.
Chưa bao giờ vì
pháp thanh tịnh, vì
pháp sư mà mất thân.
Giữa đường, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát vào một thành, đến giữa chợ rao lớn rằng: Ai cần người! Ai cần người! Ai muốn mua người?
Bấy giờ
ác ma nghĩ rằng, vì mến
chánh pháp mà Tát Đà Ba Luân này tự bán thân, vì
Bát nhã ba la mật mà
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Ông ấy sẽ chánh vấn
Bát nhã ba la mật thế nào để chóng được
Vô Thượng Bồ Đề? Ông ấy sẽ được đầy đủ
đa văn như nước biển cả, lúc đó chẳng thể ngăn trở
phá hoại được. Ông ấy sẽ đầy đủ tất cả
công đức lợi ích chư Đại Bồ Tát nơi
Vô Thượng Bồ Đề, qua khỏi
cảnh giới của ta, và cũng dạy những người khác ra khỏi
cảnh giới của ta để được
Vô Thượng Bồ Đề. Ta phải
phá hoại công việc của ông ấy.
Bấy giờ
ác ma che các nhà
Bà La Môn,
Cư Sĩ chẳng nghe tiếng rao bán thân của Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát, chỉ trừ một
trưởng giả nữ, vì
nhơn duyên đời trước, nên
ác ma chẳng che được.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát rao bán thân chẳng ai hỏi mua, bèn
buồn rầu rồi khóc lóc, đứng lại một nơi,
rơi lệ tự nghĩ rằng vì tôi có một tội lớn nên bán thân mà chẳng ai mua, vì
Bát nhã ba la mật mà tôi tự bán thân để
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn nghĩ rằng Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát mến
chánh pháp mà tự bán thân, vì
Bát nhã ba la mật nên muốn
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, ta sẽ thử ông ấy coi có phải thiệt vì
thâm tâm mến pháp mà
xả thân chăng?
Thiên Đế Thích liền hóa làm người
Bà La Môn đi ngang qua chỗ Tát Đà Ba Luân đứng hỏi rằng: Cớ chi mà ngươi đứng nơi đây khóc than
buồn rầu,
nhan sắc tiều tụy như vậy?
Thưa
Bà La Môn! Tôi mến kính
chánh pháp. Vì
Bát nhã ba la mật nên tôi bán thân để
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát nhưng không ai mua. Tôi nghĩ mình phước bạc không có
của báu, muốn bán thân cũng chẳng ai mua. Tôi lấy gì
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Bà La Môn nói:
Tôi chẳng cần người. Hiện nay tôi muốn tế Trời, cần có tim, máu và tủy người. Ông có thể bán những vật ấy cho tôi không?
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát nghĩ rằng tôi được lợi lớn, được lợi
đệ nhứt. Nay tôi vì đầy đủ
Bát nhã ba la mật,
phương tiện lực nên được người mua tim, máu và tủy.
Nghĩ xong, Tát Đà Ba Luân trong lòng rất
vui mừng không còn
buồn rầu, bảo
Bà La Môn rằng:
Tôi bằng lòng trao cho ông tất cả những gì ông muốn dùng.
Bà La Môn hỏi:
Ông lấy giá bao nhiêu?
Tát Đà Ba Luân đáp:
Tùy ý ông cho bao nhiêu cũng được.
Liền đó, Tát Đà Ba Luân tay mặt cầm dao bén đâm vào cánh tay tả tuôn máu ra, rồi cắt thịt bắp vế bên mặt, muốn chặt xương để lấy tủy.
Khi ấy có một người
trưởng giả nữ ở trên gác cao thất Tát Đà Ba Luân tự cắt
thân thể, chẳng tiếc mạng sống, muốn biết
duyên do, nàng liền xuống gác đến hỏi Tát Đà Ba Luân rằng:
Người Trời, Người,
A tu la, sao lại tự hủy thân khốn khổ đến như vậy. Dùng tim, máu, tủy này để làm gì?
Tát Đà Ba Luân đáp:
Tôi bán thân cho ông
Bà La Môn đây, để có tiền vật
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Trưởng giả nữ hỏi:
Ông muốn đem bán tim, máu và tuỷ để
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát sẽ được
công đức gì?
Tát Đà Ba Luân đáp:
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát khéo học
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực. Ngài sẽ giảng dạy tôi
việc phải làm của
Bồ Tát và đạo sở hành của
Bồ Tát.
Tôi học pháp ấy, đạo ấy, lúc được
Vô Thượng Bồ Đề làm
y chỉ cho
chúng sanh sẽ được thân màu
hoàng kim đủ ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo quang minh vô lượng,
đại từ đại bi hỉ xả, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, Phật
thập lực, mười
tám pháp bất cộng, sáu
thần thông chẳng thể nghĩ bàn,
giới định trí huệ thanh tịnh, được
Vô Thượng Bồ Đề. Ở trong các pháp được
tri kiến nhứt thiết
vô ngại.
Đem
pháp bảo vô lượng phân bố cho tất cả
chúng sanh.
Những
công đức lợi ích như vậy, tôi sẽ được từ nơi
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ấy.
Trưởng giả nữ nghe
Phật pháp thượng diệu ấy lòng rất
vui mừng kinh ngạc, rởn ốc nói:
Rất là
hi hữu. Chỗ ông nói
vi diệu khó được nghe. Vì mỗi mỗi
pháp công đức ấy đáng xả cả
hằng sa thân mạng. Chỗ ông nói đó rất là vi diệu!
Nay ông cần những gì, tôi sẽ
cung cấp hết. Những
vàng bạc,
châu báu, hoa hương, phan lọng,
y phục, nhạc khí, tôi sẽ
cấp cho ông tất cả để ông
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Ông chớ nên hủy hoại
thân thể. Tôi cũng sẽ đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát cùng ông gieo căn lành để được pháp
vi diệu như lời ông nói đó.
Lúc ấy Thiên Đế Thích hoàn lại bổ hình khen:
Lành thay,
lành thay! Ông bền chịu sự
đau khổ như
vậy mà chẳng động tâm. Chư Phật
quá khứ lúc
hành đạo Bồ Tát cũng như
vậy mà cầu
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực nên được
Vô Thượng Bồ Đề.
Tôi thiệt chẳng dùng tim, máu, tủy người, chỉ đến để thử nhau thôi. Ông cầu mong điều gì, tôi sẽ ban cho!
Tát Đà Ba Luân đáp:
Tôi cầu mong
Vô Thượng Bồ Đề.
Thiên Đế Thích nói:
Điều ấy sức tôi làm không được. Đó là
cảnh giới chư Phật.
Tôi quyết phải
báo đền, vậy ông nên cầu việc khác.
Tát Đà Ba Luân nói:
Nếu như vậy, xin
thân thể tôi
bình phục như cũ.
Liền đó
thân thể của Tát Đà Ba Luân
bình phục không còn thương tích
y như trước không khác.
Thiên Đế Thích bỗng nhiên chẳng thiện.
Trưởng giả nữ bảo Tát Đà Ba Luân:
Người đến nhà tôi, cần thứ gì tôi sẽ xin
cha mẹ tôi
cấp cho. Tôi cũng sẽ từ giả
cha mẹ rồi
mang theo kẻ hầu hạ cùng người đi đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát để
cúng dường và
cầu pháp.
Tát Đà Ba Luân liền đứng ngoài cửa nhà
trưởng giả nữ. Nàng vào thưa
cha mẹ xin đủ đồ dùng để
cúng dường và xin pháp
cha mẹ cho nàng
mang theo năm trăm thị nữ vốn là kẻ hầu hạ nàng cùng đi với Tát Đà Ba Luân đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát để
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát ấy sẽ vì chúng con mà
thuyết pháp. Con sẽ thật hành đúng theo và sẽ được pháp của chư Phật.
Cha mẹ nàng hỏi:
Tát Đà Ba Luân là người nào?
Nàng thưa:
Người ấy hiện đứng ngoài cửa.
Người ấy dùng
thâm tâm cầu
Vô Thượng Bồ Đề, muốn độ tất cả
chúng sanh khỏi
vô lượng khổ
sanh tử. Vì
cầu pháp mà người ấy tự bán thân mình để
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật có tên là đạo sở học của
Bồ Tát.
Vì
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát mà Tát Đà Ba Luân ở giữa chợ rao lớn: Ai muốn cần người, ai muốn mua người?
Bán thân không ai hỏi mua, người ấy đứng một chỗ
buồn rầu khóc than.
Thiên Đế Thích hóa làm người
Bà La Môn đến
thử thách hỏi
duyên cớ.
Tát Đà Ba Luân nói tôi muốn bán thân để
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, nhưng vì phước bạc nên chẳng ai hỏi mua.
Bà La môn nói tôi chẳng cần người, tôi muốn tế Trời, phải dùng tim, máu và tuỷ người. ông có bán được không?
Tát Đà Ba Luân nghe nói hết buốn rầu,
vui mừng ưng bán không cần giá cả.
Lúc ấy Tát Đà Ba Luân tay mặt cầm dao bén đâm vào cánh tay trái lấy máu, rồi cắt thị bắp vế mặt, muốn chẻ xương lấy tủy.
Con ở trên gác
ngó thấy vội xuống hỏi
duyên cớ.
Khi biết rõ
duyên do, con hứa
cung cấp đầy đủ đồ
cúng dường và ngăn người ấy hủy hoại
thân thể. Con cũng hứa sẽ xin phép
cha mẹ cùng đi với người ấy đến
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Cha mẹ nàng nói:
Thật là
hi hữu khó có. Người ấy
tinh tiến vì pháp và rất thích
pháp tướng.
Những
Phật pháp ấy chẳng thể nghĩ bàn, là tối
đệ nhứt ở tất cả
thế gian, là
nhơn duyên an lạc của tất cả
chúng sanh.
Vì pháp ấy mà người ấy
đại thệ trang nghiêm.
Cha mẹ cho phép con đến gặp
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát để thân cận
cúng dường. Vì con đã
phát tâm lớn muốn được
Phật pháp. Con
tinh tiến như vậy
cha mẹ đâu được chẳng
tùy hỉ.
Được
cha mẹ cho phép,
trưởng giả nữ rất
vui mừng, liền
trang nghiêm xe
bảy báu năm trăm cỗ. Đích thân nàng cùng năm trăm thị nữ sắm sửa đồ
cúng dường, đem các thứ
hoa tươi và hoa bằng vàng, bằng bạc, những Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý phục trân báu,
chuỗi ngọc, hương tốt, đồ
ăn uống thơm ngon, rồi cùng Tát Đà Ba Luân và năm trăm thị nữ, mỗi người ngồi một xe,
cung kính trang trọng đi lần về phương đông, thấy
thánh Chúng Hương bày báu
trang nghiêm, bảy lớp vây quang, hào bằng
bảy báu và hàng cây
bảy báu cũng đều bảy lớp. Thành ấy rộng mười hai
do tuần, giàu thạnh
an tĩnh rất là
vui sướng. Trong thành nhơn dân đông đúc, có năm trăm thị xã, đường xá tương được
đẹp đẽ như tranh vẽ.
Cầu kỳ bằng phẳng,
rộng rãi, sạch sẽ. Đến khi vào trong thành, thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ngồi trên
pháp tòa giữa đài cao đang
thuyết pháp cho
vô lượng trăm ngàn muôn ức
thính chúng cung kính vây quanh.
Lúc thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, Tát Đà Ba Luân lòng liền
vui mừng như
Tỳ Kheo nhập
đệ tam thiền nhiếp tâm an tĩnh, tự nghĩ rằng theo nghĩ thì
chúng ta chẳng nên ngồi xe đến
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Suy nghĩ xong liền xuống xe đi bộ.
Trưởng giả nữ cùng năm trăm thị nữ cũng xuống xe đi bộ.
Bấy giờ Tát Đà Ba Luân cùng
trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ
châu báu trang nghiêm,
cung kính vây quang, đồng đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát có đài
bảy báu trang nghiêm với
ngưu đầu chiên đàn đỏ, màn lưới chơn châu che trùm phía trên, bốn gốc đều treo bửu
châu ma ni để làm đèn sáng và có bốn lò hương báu thường
đốt hương thơm để
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Trong đài có giường lớn
bảy báu, giường nhỏ bốn báu đặt trên giường lớn.
Bát nhã ba la mật được biên vào là vàng
hoàng kim và
an trí trên giường nhỏ.
Các thứ phan lọng
trang nghiêm treo che phí trên.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát cùng chúng nữ nhơn thấy đài báu thờ
Bát nhã ba la mật ấy có các
châu báu trang nghiêm. Lại thấy
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng
vô lượng trăm ngàn vạn
chư Thiên dùng hoa trời
mạn đà la,
chiên đàn nghiền bột, mạt các thứ báu rải trên đài. Trên
hư không trỗi
nhạc trời để
cúng dường đài báu ấy.
Tát Đà Ba Luân hỏi
Thiên Đế Thích:
Ngài Kiều Thi Ca! Có
duyên cớ gì mà Ngài cùng
vô lượng trăm ngàn vạn
chư Thiên đem hoa hương trời và
kỹ nhạc trời
cúng dường đài ấy như vậy?
Thiên Đế Thích đáp:
Người chẳng biết ư Đây là
Ma ha bát nhã ba la mật, là mẹ của
chư Đại Bồ Tát, hay sanh chư Phật và nhiếp trì
Bồ Tát.
Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật ấy
thành tựu tất cả
công đức, được các
Phật pháp và nhứt thiết
chủng trí.
Tát Đà Ba Luân liền
vui mừng hỏi
Thiên Đế Thích:
Ngài Kiều Thi Ca!
Bát nhã ba la mật ấy là mẹ
chư Đại Bồ Tát, hay sanh chư Phật và nhiếp trì
Bồ Tát.
Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật ấy
thành tựu tất cả
công đức, được các
Phật pháp và nhứt thiết
chủng trí nay ở tại chỗ nào?
Thiên Đế Thích đáp:
Trong đài cao ấy có giường lớn
bảy báu, trên giường lớn đặt giường nhỏ bốn báu,
Bát nhã ba la mật được biên trên lá vàng
hoàng kim an trí trên giường nhỏ ấy.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát dùng ấn
bảy báu ấn lên.
Chúng ta không thể mở được để cho người xem.
Lúc ấy Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát cùng
trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đem đồ
cúng dường như hoa hương,
chuỗi ngọc, phan lộng chia làm hai phần: một phần
cúng dường Bát nhã ba la mật, một phần
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát đang ngồi trên pháp tọa.
Sau khi
cúng dường phần
Bát nhã ba la mật xong, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát cùng các nữ nhơn đem phần
cúng dường thứ hai đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ngồi trên pháp tọa, liền vì pháp lấy đồ
cúng dường dâng lên
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Những đồ
cúng dường ấy
hiện lên hư không, phía trên
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát,
hóa thành hoa đài, bửu trướng, bửu cái, bốn phía bửu các treo thòng những phan báu.
Tát Đà Ba Luân và các nữ nhơn thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát biến hóa như vậy lòng rất
vui mừng nghĩ rằng: Thiệt chưa từng có.
Công đức thần thông của
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát là như vậy. Lúc hành
Bồ Tát đạo mà sức
thần thông còn được từng ấy huống là lúc được
Vô Thượng Bồ Đề.
Trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ
lòng tin thanh tịnh kính trọng Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, đều
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đồng nguyện rằng:
Như
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát được các
thâm pháp Bồ Tát, như
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát cúng dường Bát nhã ba la mật, như
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ở trong
đại chúng hiển thị diễn thuyết nghĩa
Bát nhã ba la mật, như
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát được sức
phương tiện Bát nhã ba la mật,
thành tựu thần thông, ở nơi công việc
Bồ Tát được
tự tại,
chúng tôi cũng sẽ như vậy.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát và các nữ nhơn
cúng dường Bát nhã ba la mật và
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát rồi, đồng
đảnh lễ Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Sau đó cùng đứng qua một phía.
Đứng qua một phía xong, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát bạch
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát rằng:
Ngày trước lúc tôi cầu
Bát nhã ba la mật, ở trong rừng vắng vẻ nghe tiếng trên
hư không dạy rằng: này
thiện nam tử! Từ đây người đi qua phương Đông sẽ được nghe
Bát nhã ba la mật. Tôi theo lời đi qua phương Đông. Chẳng bao lâu tôi nghĩ rằng sao tôi chẳng hỏi nơi tiếng
hư không: Tôi phải đi đến xứ nào,
xa gần,
nghe pháp nơi ai? Tôi quá buồn khổ khóc lóc, ở lại đó bảy ngày đêm, vì quá buồn khổ nên tôi không màng
ăn uống, chỉ nghĩ rằng lúc nào tôi được nghe
Bát nhã ba la mật? Đương lúc tôi
buồn rầu nhứt tâm niệm
Bát nhã ba la mật như vậy, tôi thấy
đức Phật hiện thân trên
hư không bảo tôi rằng: Nhà ngươi chớ
buông bỏ tâm
đại nguyện, đại
tinh tiến. Dùng tâm
đại nguyện, đại
tinh tiến ấy, nhà ngươi đi qua phương Đông cách đây năm trăm
do tuần có tòa thành tên Chúng Hương, trong thành ấy có
Đại Bồ Tát tên
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Nhà người sẽ được nghe
Bát nhã ba la mật nơi
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát.
Bồ Tát ấy là
thiện tri thức nhiều đời của nhà ngươi, thường
thủ hộ nhà ngươi.
Đức Phật chỉ bảo xong, tôi đi qua phương Đông, trong lòng chẳng nghĩ gì khác, chỉ
tâm niệm bao giờ tôi được thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát vì tôi mà nói
Bát nhã ba la mật?
Lúc ấy tôi dừng lại giữa đường, nơi tất cả pháp, tôi được
tri kiến vô ngại, được các
tam muội quán
chư Pháp tánh v.v…
hiện ra trước. Tôi an trụ trong các
tam muội ấy, thấy
mười phương vô lượng vô số chư Phật
giảng thuyết Bát nhã ba la mật. Chư Phật
giảng thuyết Bát nhã ba la mật. Chư Phật khen tôi rằng:
Lành thay,
lành thay! Này
thiện nam tử!
Thuở trước, lúc cầu
Bát nhã ba la mật, ta được các
tam muội cũng như nhà ngươi hôm nay vậy. Được các
tam muội ấy rồi thì được khắp các
Phật pháp.
Chư Phật vì tôi
thuyết pháp và
an ủi tôi xong, bỗng nhiên chẳng thiện.
Tôi từ
tam muội dậy,
suy nghĩ rằng: Chư Phật từ đâu đến và đi đến đâu?
Vì không còn thấy chư Phật nên tôi rất
buồn rầu.
Tôi lại
suy nghĩ rằng
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát trước đã
cúng dường chư Phật gieo các căn lành, từ lâu
hành Bát nhã
ba la mật và sức
phương tiện, ở trong
Bồ Tát đạo đã được
tự tại, là
thiện tri thức của tôi,
thủ hộ tôi.
Tôi sẽ hỏi
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát sự việc ấy: Chư Phật từ đâu đến và đi đến đâu.
Nay tôi hỏi
đại sư: Chư Phật ấy từ đâu đến và đi đến đâu?
Đại sư vì tôi nói chỗ chư Phật từ đâu đến và đi cho tôi được biết.
Tôi biết rồi cũng thường chẳng rời thấy chư Phật”.
PHẨM ĐÀM VÔ KIỆT
THỨ TÁM MƯƠI CHÍN
Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát bảo Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát:
Này
thiện nam tử! Chư Phật không từ đâu đến, đi cũng không đến đâu.
Tại sao vậy?
Chư pháp như, tướng chẳng động.
Chư pháp như túc là chư Phật.
Pháp
vô sanh không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
Pháp vô diệt không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
Pháp thiệt tế không đến, không đi.
Pháp thiệt tế là chư Phật.
Pháp không không đến, không đi.
Pháp không là chư Phật.
Pháp
vô nhiễm không đến, không đi. Pháp
vô nhiễm là chư Phật.
Pháp tịch diệt không đến, không đi.
Pháp tịch diệt là chư Phật.
Tánh
hư không không đến, không đi. Tánh
hư không là chư Phật.
Này
thiện nam tử! Rời các pháp ấy không còn có Phật.
Chư Phật như, các
pháp như, một
như không sai khác.
Này
thiện nam tử! Như ấy
thường một, không có hai, không có ba, ra ngoài các
pháp số, vì là
vô sở hữu.
Ví như tháng cuối xuân, giữa ngày lúc nắng nóng, có người thấy
ánh nắng dợn động bèn đuổi theo mong tìm được nước. Ý ông nghỉ sao? Nước ấy từ ao nào, núi nào, suối nào chảy đến, nay đi về đâu, hoặc là chảy về biển Đông, biển Tây, biển Nam, biển Bắc ư
Tát Đà Ba Luân thưa:
Thưa Đại sư! Trong
ánh nắng còn không có nước, làm sao có được chỗ nước đến, nước đi!
Này
thiện nam tử! Kẻ ngu
vô trí bị sự khát bức ngặt, thấy nắng dợn bèn tường là nước.
Này
thiện nam tử! nếu có người
phân biệt chư Phật có đi, phải biết các người ấy đều là
ngu phu.
Tại sao vậy?
Này
thiện nam tử! Chư Phật, chẳng thể lấy
sắc thân thấy được. Chư Phật,
pháp thân không đến, không đi, cũng không chỗ đến, chỗ đi.
Này
thiện nam tử! Thí như nhà
ảo thuật, thuật ra các thứ như voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Ảo sự ấy từ chỗ nào đến, đi đến đâu?
Thưa Đại sư! Ảo sự không thiệt làm sao có chỗ đến, chỗ đi.
Này
thiện nam tử! Người mà
phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này
thiện nam tử!
Ví như chiêm bao thấy voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. ý ông nghĩ sao? Cảnh vật được thấy trong
chiêm bao có chỗ đến chỗ đi chăng?
Thưa Đại sư! Cảnh vật được thấy trong
chiêm bao đều là
hư vọng, làm sao lại có đến, có đi.
Này
thiện nam tử! Nếu người mà
phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này thiệnnam tử!
Đức Phật nói các
pháp như chiêm bao. Nếu có
chúng sanh nào chẳng biết pháp nghĩa ấy, cho
danh tự sắc thân là Phật, người ấy
phân biệt chư Phật có đến, có đi.
Vì chẳng biết tướng thiệt tế của các pháp, nên đều là hạng
ngu phu vô trí.
Các người ấy
mãi mãi qua lại năm được, xa rời
Bát nhã ba la mật, xa rời các
Phật pháp.
Này
thiện nam tử!
Đức Phật nói các
pháp như ảo, như mộng. Nếu có
chúng sanh nào biết đúng thiệt, thì người ấy chẳng
phân biệt các pháp, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt.
Nếu chẳng
phân biệt các pháp hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt thì có thể biết được
thiệt tướng của các pháp mà
đức Phật đã nói. Người ấy
hành Bát nhã
ba la mật gần
Vô Thượng Bồ Đề, gọi là
chơn Phật đệ tử, chẳng
hư vọng ăn của
tín thí. Người ấy đáng nhận
cúng dường. Là
phước điền thế gian.
Này
thiện nam tử!
Ví như ở
đại hải, những
châu báu trong nước chẳng từ phương Đông lại, chẳng từ phương Nam lại, chẳng từ phương Tây lại, chẳng từ phương Bắc lại, cũng chẳng từ bốn phương cạnh và trên dưới lại. Vì
do nơi căn lành của
chúng sanh mà biển sanh
châu báu ấy.
Châu báu ấy cũng chẳng phải không
nhơn duyên mà sanh.
Châu báu ấy đều từ
nhơn duyên hòa hiệp mà sanh.
Châu báu ấy nếu diệt mất, nó cũng chẳng đi đến
mười phương. Các duyên hòa hiệp thì có. Các duyên rời thì diệt.
Này
thiện nam tử Thân chư Phật cũng vậy, từ bổn nghiệp
nhơn duyên quả báo mà sanh. Lúc sanh chẳng từ
mười phương đến, lúc diệt cũng chẳng đi đến
mười phương. Chỉ các duyên hiệp thì có, các duyên rời thì diệt.
Này
thiện nam tử!
Ví như đờn
không hầu, lúc tiếng phát ra không chỗ đến, lúc tiếng diệt không chỗ đi. Vì các duyên hòa hiệp nên có tiếng.
Có thùng, có cổ, có da, có dây, có trụ, có cần, có người lấy tay khảy, các duyên ấy hòa hiệp mà có
âm thanh ấy.
Âm thanh ấy cũng chẳng từ thùng đờn nhẫn đến chẳng từ tay người phát ra. Các duyên hòa hiệp bèn có
âm thanh. Lúc các duyên ấy rời tan,
âm thanh cũng không có chỗ đi.
Này
thiện nam tử Thân chư Phật cũng như vậy,
từ vô lượng công đức nhơn duyên sanh, chẳng từ một nhơn, một duyên, một
công đức sanh, cũng chẳng không
nhơn duyên mà có. Vì các duyên hòa hiệp nên có. Thân chư Phật chẳng riêng từ một sự mà thành. Đến không từ đâu, đi không đến đâu.
Này
thiện nam tử Phải biết chư Phật, tướng đến, tướng đi như vậy.
Này
thiện nam tử Cũng phải biết tất cả
pháp không có tướng đến, đi.
Nếu ông biết chư Phật và các
pháp không có tướng đến, đi, sanh, diệt thì tất là được
Vô Thượng Bồ Đề, cũng hay lành
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực.
Lúc ấy Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn đem hoa trời
mạn đà la trao cho Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát mà nói rằng:
Người lấy hoa này
cúng dường Đàm Vô Kiệt Bồ Tát. Tôi phải
thủ hộ cúng dường Ngài.
Tại sao vậy?
Vì
do nơi ngài mà hôm nay đem sự
lợi ích đến cho trăm ngàn muôn ức
chúng sanh, khiến họ được
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Ngài!
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ấy rất khó gặp được.
Vì lợi ích cho tất cả
chúng sanh mà
Đại Bồ Tát chị những sự nhọc nhằn khổ sở trong
vô lượng vô số kiếp.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát nhận lấy
hoa mạn đà la rải trên
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát mà bạch rằng:
Thưa Đại sư! Từ ngày hôm nay, thân tôi thuộc về
Đại sư dùng
cung cấp cúng dường.
Lúc ấy trưởng giả nữa và năm trăm thị nữ thưa với Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát rằng:
Từ hôm nay
chúng tôi cũng đem
thân thuộc về Ngài. Do căn lành
nhơn duyên này,
chúng tôi sẽ được
pháp như vậy, cũng như Ngài đã được.
Chúng tôi cùng Ngài
đời đời cúng dường chư Phật,
đời đời thường
cúng dường ngài.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát bảo chúng nữ nhơn:
Các người lấy
tâm chí thành thuộc về tôi, tôi sẽ nhận các người.
Chúng nữ thưa:
Chúng tôi tâm chí thành thuộc về Ngài,
tùy theo chỗ Ngài
dạy bảo.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát và chúng nữ đem những đồ bửu vật
trang nghiêm cùng năm trăm cỗ xe
bảy báu dâng lên
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát mà bạch rằng:
Tôi đem năm trăm nữ nhơn này phụng cấp
đại sư. Năm trăm cỗ xe này tùy
đại sư dùng.
Thiên Đế Thích liền khen rằng:
Lành thay,
lành thay! Này Ngài
Đại Bồ Tát thí xả tất cả
sở hữu phải như vậy.
Bố thí như vậy sẽ chóng được
Vô Thượng Bồ Đề.
Cúng dường người
thuyết pháp như vậy ắt có thể được nghe
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực.
Chư Phật
quá khứ,
thuở trước lúc hành
Bồ Tát đạo cũng an trụ trong sự
bố thí như
vậy mà được nghe
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực rồi được
Vô Thượng Bồ Đề.
Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát muốn cho Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát được căn lành đầy đủ nên thọ lấy năm trăm cỗ xe, năm trăm thị nữ và
trưởng giả nữ, thọ lấy xong bèn đem cho lại Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát thuyết pháp đến
mặt trời lặn, Ngài rời khỏi pháp tọa vào cung.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi vì pháp mà đến đây, vậy tôi chẳng nên ngồi và nằm. Tôi phải dùng hai
oai nghi: hoặc đi, hoặc đứng để chờ
pháp sư từ
nội cung ra
thuyết pháp.
Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát trọn bảy năm
nhứt tâm nhập trong
Vô lượng A tăng kỳ Bồ Tát tam muội và
hành Bát nhã
ba la mật cùng
phương tiện kực.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát cũng trọn bảy năm đi tu
kinh hành hoặc đứng, chẳng ngồi, chẳng nằm, không có ngủ nghỉ, không
tham dục giận phiền, lòng chẳng chấp luyến, chỉ niệm
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát bao giờ
xuất định ra
thuyết pháp.
Qua bảy năm, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát nghĩ rằng tôi phải vì
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát mà trần thiết pháp tọa để Ngài sẽ ngồi trên đó
thuyết pháp. Tôi phải rưới
quét sạch sẽ, rải các thứ hoa,
trang nghiêm chỗ
thuyết pháp, vì
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát sẽ thuyết
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực.
Lúc ấy Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát cùng
trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đặt giường
bảy báu. Năm trăm nữ nhơn đều cởi thượng Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý của mình trải trên pháp tọa,
tâm niệm Đàm Vô Kiệt Bồ Tát sẽ ngồi trên pháp tọa này thuyết
Bát nhã ba la mật và
phương tiện lực.
Sắp đặt pháp tọa xong, tìm nước rưới đất mà tìm không được. Tại sao? Vì
ác ma che ngăn làm cho nước chẳng hiệp.
Ma nghĩ rằng Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát tìm nước chẳng được, ở nơi
Vô Thượng Bồ Đề nếu móng khởi chừng một niệm kém khác thì
trí huệ chẳng chiếu, căn lành chẳng thêm, sẽ
chậm trễ nơi
nhứt thiết trí.
Lúc ấy Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát nghĩ rằng tôi phải tự đâm thân mình lấy máu rưới đất để bụi không bay lấm dơ
Đại sư. Tôi còn cần
thân thể này, nó sẽ hư hại. Từ vô thỉ
đến nay, tôi luôn luôn mất
thân mạng chưa từng được có pháp.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát liền cầm dao bén tự đâm vào thân, lấy máu rưới đất.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát với
trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đều không có tâm thiện khác, ma cũng không có dịp hại được.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn nghĩ rằng: Thiệt chưa từng có, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát mến yêu
chánh pháp đến đỗi như vậy. Tự đâm thân mình lấy máu rưới đất.
Bồ Tát ấy cùng chúng nữ nhơn tâm chẳng
động chuyển.
Ác ma Ba Tuần chẳng
phá hư được căn lành của họ. Tâm họ
kiên cố, phát
đại trang nghiêm, chẳng tiếc
thân mạng. Dùng
thân tâm cầu
Vô Thượng Bồ Đề. Sẽ độ tất cả
chúng sanh khỏi
vô lượng sanh tử.
Thiên Đế Thích khen ngợi Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát:
Thiện nam tử! Ngài có sức
tinh tiến kiến cố khó lay động, chẳng nghĩ bàn được. Ngài yêu mến
chánh pháp, cầu được
chánh pháp rất là
vô thượng.
Thiện nam tử! Chư Phật thuở
quá khứ cũng như vậy. Dùng
thân tâm yêu pháp, tiếc pháp, trọng pháp, tập họp các
công đức, được
Vô Thượng Bồ Đề.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát nghĩ rằng tôi đã vì
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát trần thiết pháp tọa, quét rưới đất sạch sẽ rồi, tôi phải tìm ở đâu để được hoa đẹp thơm để
trang nghiêm đất chỗ
thuyết pháp này. Và lúc
Bồ Tát ngồi trên pháp tọa
thuyết pháp còn phải
rải hoa cúng dường.
Biết
tâm niệm Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát,
Thiên Đế Thích liền đem ba ngàn thạch hoa trời
mạn đà la trao cho Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát.
Được hoa rồi, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát dùng phân nửa số hoa rải đất, còn phân nửa số hoa chờ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát ra ngồi
thuyết pháp sẽ
cúng dường.
Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát nhập
tam muội quá bảy năm rồi, từ
tam muội dậy, vì thuyết
Bát nhã ba la mật nên cùng
vô lượng trăm ngàn vạn chúng
cung kính vây quanh đến ngồi trên pháp tọa.
Lúc thấy
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát lòng rất
vui mừng như
Tỳ Kheo nhập
đệ tam thiền, bèn cùng trưởn giả nữ và năm trăm thị nữ đến chỗ
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát rải hoa cúng dường, đầu mặt
đảnh lễ rồi ngồi qua một phía.
Đàm Vô Kiệt Bồ Tát thấy
đại chúng ngồi xong, bèn bảo Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát rằng:
Này
thiện nam tử! Lắng nghe và
lãnh thọ kỹ. Nay tôi sẽ vì ông mà thuyết tướng
Bát nhã ba la mật.
Này
thiện nam tử! Vì các
pháp bình đẳng nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
bình đẳng. Vì các pháp rời lìa nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng rời lìa. Vì các pháp
bất cộng nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
bất động. Vì các pháp
vô niệm nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô niệm. Vì các pháp
vô úy nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô úy. Vì các pháp nhứt vị nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng nhứt vị. Vì các pháp
vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì các pháp
vô sanh nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô sanh. Vì các pháp vô diệt nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng vô diệt. Vì
hư không vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì nước
đại hải vô niên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì
núi Tu Di trang nghiêm nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
trang nghiêm. Vì
hư không vô phân biệt nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô phân biệt. Vì sắc
vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức
vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì
địa chủng vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng
vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì không chủng
vô biên nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì như
kim cang bình đẳng nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
bình đẳng. Vì các pháp
vô phân biệt nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô phân biệt. Vì các tánh
bất khả đắc nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
bất khả đắc. Vì các pháp
vô sở hữu bình đẳng nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
sở hữu bình đẳng. Vì các pháp
vô tác nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
vô tác. Vì các pháp
bất khả tư nghì nên phải biết
Bát nhã ba la mật cũng
bất khả tư nghì.
Liền
lúc ấy, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát tại chỗ ngồi được các
tam muội. Những là
chư pháp đẳng
tam muội,
chư pháp ly
tam muội,
chư pháp vô úy tam muội,
chư pháp nhứt vị
tam muội,
chư pháp vô sanh tam muội, pháp vô diệt
tam muội,
hư không vô biên tam muội,
đại hải thủy
vô biên tam muội,
tu di sơn trang nghiêm tam muội,
hư không vô phân biệt tam muội, sắc
vô biên tam muội, thọ, tưởng, hành, thức
vô biên tam muội,
địa chủng vô biên tam muội, thủy, hỏa, phong, không chủng
vô biên tam muội, như
kim cang đẳng
tam muội,
chư pháp vô phân biệt tam muội,
chư pháp bất khả tư nghì tam muội. Được sáu trăm vạn môn
tam muội như vậy”.
Đức Phật bào Ngài Tu Bồ Đế: “Như ta hôm nay ở trong
tam thiên Đại thiên thế giớ cùng
chư tăng Tỳ kheo vây quanh, lấy tướng ấy, lấy
tướng mạo ấy, lấy
danh tự ấy thuyết
Bát nhã ba la mật.
Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát được sáu trăm muôn
tam muội ấy, thấy
mười phương hằng sa chư Phật ở trong
Đại Thiên thế giới cùng
chư Tăng Tỳ Kheo cung kính vây quanh, lấy tướng như vậy, lấy
tướng mạo như vậy, lấy
danh tự ấy thuyết đại
Bát nhã ba la mật ấy cũng như vậy.
Từ
thuở ấy về sau, Tát Đà Ba Luân
Bồ Tát đa văn trí huệ chẳng nghĩ bàn được, như nước
đại hải thường chẳng rời chư Phật, sanh nơi nước có Phật, nhẫn đến trong giấc mơ cũng chẳng có lúc nào chưa từng thấy Phật, tất cả các nạn thảy đều đã dứt, tại cõi nước Phật
tùy theo nguyện sanh về.
Này Tu Bồ Đề! phải biết
nhơn duyên Bát nhã ba la mật ấy có thể
thành tựu tất cả
công đức Đại Bồ Tát, được nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Vì thế nên
chư Đại Bồ Tát nếu muốn học
sáu ba la mật, muốn
thâm nhập chư
Phật trí huệ, muốn được nhứt thiết
chủng trí thì phải
thọ trì Bát nhã ba la mật ấy,
đọc tụng, chánh
ức niệm, rộng vì người mà
giảng thuyết, cũng biên chép quyển kinh,
tôn trọng tán thán,
cúng dường hương hoa nhẫn đến kỷ nhạc.
Tại sao vậy?
Vì
Bát nhã ba la mật là mẹ của
mười phương chư Phật quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Mười phương chư Phật đều
tôn trọng Bát nhã ba la mật vậy”.
PHẨM CHÚC LỤY
THỨ CHÍN MƯƠI
Bấy giờ
đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Này A Nan! Ý ông nghĩ sao?
Đức Phật có phải là
đại sư của ông chăng? Còn ông có phải là
đệ tử của
đức Phật chăng?”
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật là
đại sư của tôi. Đấng
Thiện Thệ là
đại sư của tôi. Tôi là
đệ tử của đức Phật”.
- Đúng như vậy.
Đức Phật là
đại sư của ông. Ông là
đệ tử của
đức Phật.
Nếu như chỗ phải làm của hàng
đệ tử thì ông đã làm rồi.
Này A Nan! Ông dùng nghiệp thân,khẩu, ý nhơn từ
cúng dường, hầu hạ
đức Phật, cũng thường đúng theo ý của
đức Phật, không có trái lỗi.
Này A Nan! Thân ta
hiện tại đây, ông ái kính,
cúng dường,
cung cấp, hầu hạ, tâm ông thường
thanh tịnh.
Sau khi ta
diệt độ, tất cả sự ái kính,
cúng dường,
cung cấp ấy ông phải dành cho
Bát nhã ba la mật.
Nhẫn đến lần thứ hai, lần thứ ba, đưc Phật đem
Bát nhã ba la mật chúc lụy cho ông.
Này A Nan! Ông chớ có quên, chớ để mất, chớ làm người đoạn
Phật chủng tối hậu.
Này A Nan! Tùy bao nhiêu
thời gian mà
Bát nhã ba la mật còn
tại thế gian, phải biết là bao nhiêu
thời gian có Phật ở đời
thuyết pháp.
Này A Nan! Nếu có ai biên chép
Bát nhã ba la mật, rồi
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm, rộng
giảng thuyết cho người, lấy các thứ hoa hương,phan lọng, bửu Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, đèn đuốc cung kinh,
tôn trọng,
ca ngợi,
cúng dường, phải biết người ấy chẳng rời thấy Phật, chẳng rời
nghe pháp, được thường gần bên Phật”.
Đức Phật nói
Bát nhã ba la mật rồi,
Di Lặc Bồ Tát v.v…
chư Thiên Đế Thích,
Huệ Mạng Tu Bồ Đề,
Huệ Mạng Xá Lợi phất,
Đại Mục Kiền Liên,
Ma Ha Ca Diếp,
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử,
Ma Ha Câu Si La,
Ma Ha Ca Chiên Diên,
A Nan v.v… cùng tất cả
đại chúng và tất cả
thế gian,
chư Thiên, nhơn chúng,
Càn thát bà,
A tu la v.v..
nghe lời đức Phật nói đều rất
vui mừng.
TRỌN BA MƯƠI QUYỂN
Dịch xong ngày Phật Đản 2517
Rằm tháng tư năm Quý Sửu
(17-5-1973)
Tỳ Kheo THÍCH TRÍ TỊNH
LỜI BẠT
Của DỊCH GIẢ
Phật lịch 2511 (1967), tôi bắt đầu
phiên dịch bộ
Ma ha bát nhã ba la mật Kinh ba mươi quyển trong Hán Tạng ra việt văn và được
đại đức trụ trì chùa Hải Tuệ ở chợ Trương Minh Giảng lo
ấn hành. Cứ mười bộ ở quyển chữ Hán được dịch ra Việt văn thì in thành một tập. Bổn thảo Việt dịch tập lần thứ nhất đưa cho nhà in Sen vàng, lo
ấn loát chưa xong thì bị
đại nạn Tết Mậu Thân, phần lên khuôn bị cháy mất, may mà mấy tập bổn thảo còn sót lại. Vì
biến cố ấy mà tập thứ nhất đến năm Phật lịch 2513 (1969) mới in xong và đến tay đọc giả.
Lúc sắp in tập thứ hai,
biến cố thứ hai lại xảy ra, người đứng lo
ấn hành,
Đại đức trụ trì chùa hải Tuệ bị
đại nạn mất tích.
Đến năm Phật lịch 2515 (1971),
Đại đức Thông Phương
tiếp nối công trình dở dang của
Đại đức trụ trì chùa Hải Tuệ
phụ trách, và đầu năm Phật lịch 2516 (1972), tập kinh thứ hai mới đến tay chư
Phật tử, và
Đại đức Thông Phương cũng
viên tịch vì bạo bệnh cách vài tháng sau cùng năm.
Đầu năm nay, Phật lịch 2517 (1973),
Đại đức Thích Hồng Minh
tiếp nối đảm nhận ấn hành tập thứ ba, và
bộ kinh Ma ha bát nhã ba la mật ba mươi quyển (30) Việt dịch này được
lưu hành trọn vẹn bốn ngàn bộ (mỗi bộ gồm ba tập).
Bao cam go, bao trở ngại,
bộ kinh Việt văn mới được
hoàn thành. Nhưng xét lại cũng chưa bằng muôn một sự hi sanh vì
chánh pháp, vì
Bát nhã ba la mật của chư Phật,
chư Đại Bồ Tát, từ nhiều kiếp nhiều đời.
Xin ghi lại
nguyên thủy cội ngành của
bộ kinh Việt văn này hầu chư quý đọc giả nay và mai.
Ngưỡng vọng
Tam Bảo oai thần,
Bát nhã công đức gia hộ cho
mọi người tất cả
chúng sanh:
tội chướng tiêu trừ, căn lành
tăng trưởng, đồng được đầy đủ
Bát nhã ba la mật, đồng
viên thành Phật đạo.
PHẬT LỊCH 2517 (1973)
Ngày tiền an cư năm Quý Sửu
Dịch giả: Tỳ Kheo THÍCH TRÍ TỊNH
Kính ghi
THÍCH NGHĨA SÁM PHÁP
1.-
Phiền não, nghiệp nhơn,
quả báo, ba món đều hay làm
chướng ngại đường
giải thoát nên gọi: “Ba món chướng”.
2.- Đem
thân mạng về nương,
giao phó cho Phật, Pháp, Tăng, chính là nghĩa của hai chữ “Nam Mô”.
3.- Nói đủ là
sám ma hối quá. “Sám ma” là tiếng Phạm, nghĩa là “hối quá” tức là
ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
4.- Nhãn, nhĩ, tỷ, thiện, thân, ý, sáu căn và ba nghiệp” thân, khẩu, ý.
5.- Giết Cha, giết Mẹ, giết Thánh nhơn,
ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là
năm tội nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục
Vô gián nên nói là tội
Vô gián. Ngục
Vô gián là chỗ thọ
khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
6.-
A tu la,
Súc sanh,
Ngạ quỷ,
Địa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
7.- Bày lộ
tội lỗi ra trước chúng Nhơn, không chút giấu che thời gọi là
phát lồ,
trái với phú tàng (che giấu). Có
phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hội).
Chân thành cảm ơn Thầy Thích Đồng Thường và quý Thầy cùng Phật tử Chùa Giác Nguyên đã hoan hỷ giúp đánh máy vi tính ba quyển Phật Giáo Tư Tưởng Luận do HT. Thích Quảng Độ dịch và bộ Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật do Hoà Thượng Thích Trí Tịnh dịch (Tâm Diệu)