KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI SÁU
PHẨM LỤC DỤ
THỨ BẢY MƯƠI BẢY
Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là ở trong các pháp
vô tướng tự tướng không chẳng
phân biệt mà
trọn vẹn tu
sáu ba la mật, đó là Thí la
ba la mật,
Giới ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tiến
ba la mật,
Thiền ba la mật và
Bát nhã ba la mật?
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là ở trong
pháp không biệt dị mà
phân biệt nói tướng dị biệt?
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bát nhã ba la mật nhiếp lấy thí, giới, nhẫn, tiến và thiền?
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
hành pháp có tướng biệt dị rồi dùng đạo nhứt tướng mà đắc quả?”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, hư diệm,
như huyễn,
như hóa mà thật hành
bố thí,
trì giới, mà
tu nhẫn nhục,
tinh tiến, mà nhập
thiền định, mà rèn
trí huệ, biết
năm ấm này như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm,
như huyễn,
như hóa, biết
năm ấm vô tướng như mộng
cho đến biết
năm ấm vô tướng như hóa.
Tại sao? Vì mộng không
tự tánh, hưởng, ảnh, diệm, huyễn, hóa đều không
tự tánh. Nếu
pháp không tự tánh thì là pháp
vô tướng. Nếu pháp
vô tướng thì là pháp nhứt tướng, đó là
vô tướng.
Này Tu Bồ Đề! Do
nhơn duyên như vậy nên biết
Bồ Tát bố thí vô tướng: người thí
vô tướng, người thọ cũng
vô tướng. Có thể biết
bố thí như
vậy thì hay đầy đủ
Bố thí ba la mật nhẫn đến hay đầy đủ
Bát nhã ba la mật, hay đầy đủ
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, hay đầy đủ
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, hay đầy đủ không,
vô tướng,
vô tác tam muội, hay đầy đủ
bát bội xả,
cửu thứ đệ định, năm
thần thông, năm trăm môn
đà la ni, hay đầy đủ
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng.
Bồ Tát này an trụ trong pháp báo đắc
vô lậu hay quán
vô lượng cõi nước phương Đông, nhẫn đến bay qua vộ lượng cõi nước
mười phương,
cúng dường chư Phật và
lợi ích chúng sanh.
Chúng sanh nào nên dùng
bố thí để nhiếp thì dùng
bố thí nhiếp họ, nên dùng
trì giới để nhiếp thì dùng
trì giới để dạy họ, nên dùng
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ để nhiếp thì dạy họ
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ, nhẫn đến nên dùng các thứ pháp lành để nhiếp thì dùng các thứ pháp lành để nhiếp lấy họ.
Bồ Tát này
thành tựu tất cả pháp lành như vậy thọ thân
thế gian chẳng bị
thế gian sanh tử làm
vô tướng,
vô tác, vô đắc nhiễm. Do vì
chúng sanh nên
Bồ Tát ở trên trời, trong Người
thọ sự tôn quý giàu vui, đem sự tôn quý giàu vui này nhiếp lấy
chúng sanh.
Vì
Bồ Tát này biết tất cả pháp
vô tướng nên biết quả
Tu Đà hoàn mà chẳng an trụ trong đó, biết quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật mà chẳng an trụ trong đó. Tại sao? Vì
Bồ Tát này dùng nhứt thiết
chủng trí biết tất cả pháp rồi sẽ phải được nhứt thiết
chủng trí nên chẳng cùng đồng với hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát biết tất cả pháp
vô tướng như vậy rồi biết
sáu ba la mật vô tướng nhẫn đến biết tất cả
Phật pháp vô tướng.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm,
như huyễn,
như hóa thì hay đầy đủ
Giới ba la mật vô tướng. Giới này chẳng thiếu, chẳng hư, chẳng tạp, chẳng chấp, là giới
vô lậu mà thánh nhơn khen ngợi vào tám phần
thánh đạo. An trụ trong giới này trì tất cả giới, đó là
danh tự giới,
tự nhiên giới,
luật nghi giới,
tác giới,
vô tác giới,
oai nghi giới, phi
oai nghi giới.
Đại Bồ Tát này
thành tựu các giới chẳng nguyện cầu sanh vào dòng lớn
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Cư Sĩ, cung chẳng nguyện cầu sanh vào nhà
Tiểu Vương hay
Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng nguyện cầu sanh các
cõi Trời, chẳng nguyện cầu được quả
Thanh Văn, đạo
Bích Chi Phật. Tại sao? Vì tất cả pháp
vô tướng đó là nhứt tướng, pháp
vô tướng không thể được pháp
vô tướng,
pháp hữu tướng không thể được
pháp hữu tướng,
pháp hữu tướng không thể được pháp
vô tướng, pháp
vô tướng không thể được
pháp hữu tướng.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát này lúc
hành Bát nhã
ba la mật như vậy hay đầy đủ
Giới ba la mật mà vào
Bồ Tát vị, vào
Bồ Tát vị rồi được sanh
vô pháp nhẫn,
hành đạo chủng trí, được báo đắc năm
thần thông, an trụ năm trăm môn
đà la ni, được bốn trí
vô ngại, từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật cúng dường chư Phật,
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, dầu vào trong năm đường
chúng sanh mà
nghiệp báo sanh tử không làm nhiễm
vô tướng,
vô tác, vô đắc được.
Này Tu Bồ Đề!
Ví như hóa Chuyển Luân
Thánh Vương dầu ngồi, nằm, đi, đứng chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ đứng, chỗ ngồi, chỗ nằm mà hay
lợi ích chúng sanh, cũng chẳng thấy có
chúng sanh.
Bồ Tát này cũng như vậy.
Này Tu Bồ Đề!
Ví như Tu Phiến Đa Phật được
Vô Thượng Bồ Đề vì
ba thừa mà
chuyển pháp luân, không có ai được
thọ ký Bồ Tát, hóa
làm Phật rồi
xả thọ mạng nhập
vô dư Niết Bàn.
Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật cũng như vậy, hay đầy đủ
Giới ba la mật. Đầy đủ
Giới ba la mật rồi nhiếp tất cả pháp lành.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát an trụ trong
năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh như diệm,
như huyễn,
như hóa, đầy đủ
Nhẫn ba la mật vô tướng.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong hai thứ nhẫn thì có thể đầy đủ
Nhẫn ba la mật, đó là
sanh nhẫn và
pháp nhẫn. Từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng, nếu có bất luận
chúng sanh nào đến
mắng chửi, đánh đập, chém giết
Bồ Tát,
Bồ Tát này vì muốn đầy đủ
Nhẫn ba la mật nên chẳng sanh lòng giận thù, dầu chỉ một niệm.
Bồ Tát này
suy nghĩ như vầy: Ai mắng ta? Ai đánh ta? Ai chém ta?
Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát này ở trong tất cả pháp được
vô tướng nhẫn, nên chẳng bao giờ nghĩ rằng người đó mắng ta, hại ta.
Nếu thật hành như vậy,
Đại Bồ Tát hay đầy đủ
Nhẫn ba la mật. Do đầy đủ
Nhẫn ba la mật nên được
vô sanh pháp nhẫn”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
vô sanh pháp nhẫn? Nhẫn này đoạn dứt những gì và biết những gì?”.
Đức Phật bảo Ngài
tu Bồ Đề: “Này Tu Bồ Đề! Được
pháp nhẫn, nhẫn đến chẳng sanh
mảy may pháp chẳng lành nên gọi là
vô sanh pháp nhẫn. Tất cả
phiền não sở đoạn của
Bồ Tát đều hết, đó gọi là đoạn dứt. Dùng
trí huệ biết tất cả pháp chẳng sanh, đây gọi là biết”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Vô sanh pháp nhẫn của hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật cùng
vô sanh pháp nhẫn của
Bồ Tát có gì khác nhau?
- Này Tu Bồ Đề! Hoặc
trí hoặc đoạn của
Tu Đà Hoàn gọi là nhẫn của
Bồ Tát, hoặc
trí hoặc đoạn của
Tư Đà Hàm gọi là nhẫn của
Bồ Tát, hoặc
trí hoặc đoạn của
A Na Hàm gọi là nhẫn của
Bồ Tát, hoặc
trí hoặc đoạn của
A La Hán gọi là nhẫn của
Bồ Tát, hoặc
trí hoặc đoạn của
Bích Chi Phật gọi là nhẫn của
Bồ Tát, đó là sai khác.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thành tựu nhẫn này hơn cả hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
An trụ trong báo đắc
vô sanh nhẫn này,
Đại Bồ Tát hành
Bồ Tát đạo đầy đủ
đạo chủng trí. Vì đầy đủ
đạo chủng trí nên thường chẳng rời lìa
ba mươi bảy phẩm trợ đạo nhẫn đến không,
vô tướng,
vô tác tam muội, thường chẳng rời lìa năm
thần thông. Vì chẳng rời lìa năm
thần thông nên hay
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ.
Thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ xong sẽ được nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đầy đủ
Nhẫn ba la mật vô tướng như vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ trong
năm ấm vô tướng như mộng, như hưởng, như ảnh như diệm,
như huyễn,
như hóa mà thật hành
tinh tiến và tâm
tinh tiến.
Do thân
tinh tiến mà khởi
thần thông. Do khởi
thần thông mà đến
thế giới mười phương cúng dường chư Phật,
lợi ích chúng sanh.
Dùng sức thân
tinh tiến mà
giáo hóa chúng sanh cho họ an trụ nơi
ba thừa.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật hay đầy đủ
Tinh tiến ba la mật vô tướng như vậy.
Bồ Tát này do tâm
tinh tiến,
tinh tiến vô lậu của bực thánh mà nhập trong tám phần
thánh đạo, hay đầy đủ
Tinh tiến ba la mật.
Tinh tiến ba la mật này nhiếp hết tất cả pháp lành, những là
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
bát bội xả,
cửu thứ đệ định,
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng.
Bồ Tát thật hành những pháp lành trong đây tất phải đầy đủ nhứt thiết
chủng trí.
Đầy đủ nhứt thiết
chủng trí rồi dứt tất cả tập chủng
phiền não, đầy đủ ba mươi hai tướng, thân phóng
vô lượng vô đẳng quang minh.
Phóng quang minh rồi chuyển ba lần mười hai
hành pháp luân.
Do
chuyển pháp luân nên
Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách,
quang minh chiếu khắp
Đại Thiên thế giới.
Chúng sanh trong
Đại Thiên thế giới nghe
âm thanh thuyết pháp đều được do
ba thừa mà được
độ thoát.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
Tinh tiến ba la mật hay
lợi ích lớn cho
chúng sanh, hay đầy đủ nhứt thiết
chủng trí như vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ trong
năm ấm vô tướng như mộng, như hưởng, như ảnh như diệm,
như huyễn,
như hóa, hay đầy đủ
Thiền ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nhập
sơ thiền nhẫn đến nhập
đệ tứ thiền, nhập
tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả, nhập
hư không vô biên xứ nhẫn đến nhập
phi tưởng phi phi tưởng xứ,
nhập không tam muội đến nhập
vô tướng,
vô tác tam muội, nhập điện quang
tam muội, nhập như
kim cang tam muội,
nhập thánh chánh
tam muội. Trừ
tam muội của chư Phật, những
tam muội khác, hoặc những
tam muội cùng
đồng Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát này đều chứng, đều nhập. Dầu nhập nhưng cũng chẳng thọ
mùi vị tam muội, cũng chẳng thọ quả
tam muội.
Tại sao? Vì
Bồ Tát này biết những
tam muội ấy
không tướng,
không tánh sở hữu thì có đâu lại ở trong
pháp không tướng mà thọ
mùi vị pháp không tướng mà thọ
mùi vị pháp không tướng, ở trong pháp
vô sở hữu mà thọ
mùi vị pháp
vô sở hữu.
Nếu chẳng thọ
mùi vị thì chẳng theo sức của
thiền định sanh trời cõi Sắc hay
Vô sắc.
Tại sao? Vì
Bồ Tát này chẳng thấy hai cõi ấy, cũng chẳng thấy
thiền định ấy, cũng chẳng thấy người nhập thiền, cũng chẳng thấy ngươi dùng pháp ấy nhập thiền, chẳng thấy chỗ nhập thiền.
Nếu ở nơi pháp ấy mà chẳng có được. Bấy giờ
Bồ Tát liền hay đầy đủ
Thiền na ba la mật vô tướng.
Bồ Tát dùng
Thiền na ba la mật vô tướng này có thể vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bồ Tát do đầy đủ
Thiền ba la mật vô tướng mà hay vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát này khéo học
nội không, khéo học
ngoại không, nhẫn đến khéo học
vô pháp hữu pháp không. Nơi các thứ không ấy, không có pháp để làm chỗ an trụ được, như hoặc là quả
Tu Đà Hoàn, hoặc là quả
Tư Đà Hàm, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí. Những
pháp không này cũng không.
Đại Bồ Tát thật hành những
pháp không như vậy hay vào trong bực
Bồ Tát.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là bực đại Bồ Tát? Thế nào là chẳng phải bực?
- Này Tu Bồ Đề! Tất cả
sở hữu đắc là chẳng phải bực
Bồ Tát. Tất cả
vô sở đắc là bực
Bồ Tát.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là hữu sở đắc? Những gì là
vô sở đắc?
- Này Tu Bồ Đề! Sắc là
hữu sở đắc, thọ, tưởng, hành, thức là
hữu sở đắc. Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý là
hữu sở đắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí là
hữu sở đắc. Đây là chẳng phải bực
Bồ Tát.
Này Tu Bồ Đề! Bực
Bồ Tát là các pháp ấy chẳng chỉ bày được, chẳng nói phô được.
Các pháp nào chẳng chỉ bày được? Đó là sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao?
Này Tu Bồ Đề! Sắc tánh là chẳng chỉ được, chẳng nói được, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tánh là chẳng chỉ được, chẳng nói được. Như thế gọi là
Bồ Tát.
Bồ Tát vào trong bực
Bồ Tát rồi, tất cả
thiền định tam muội đầy đủ còn chẳng theo sức của
thiền định để sanh, huống là an trụ trong tham, sân, si, để
sanh khởi những
tội nghiệp ư?
Bồ Tát an trụ trong
pháp như huyễn
lợi ích cho
chúng sanh, nhưng cũng chẳng thấy có
chúng sanh, cũng chẳng thấy có huyễn. Nếu tất cả không thấy có được thì hay
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ.
Này Tu Bồ Đề! Như thế gọi là
Bồ Tát đầy đủ
Thiền ba la mật vô tướng hay
chuyển pháp luân, đó là
pháp luân không có được.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật biết tất cả
pháp như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm,
như huyễn,
như hóa.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Đại Bồ Tát biết tất cả
pháp như mộng, như hưởng, như ảnh như diệm,
như huyễn, như hóa?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, chẳng thấy hưởng, chẳng thấy người nghe hưởng, chẳng thấy ảnh, chẳng thấy người thấy ảnh, chẳng thấy diệm, chẳng thấy người thấy diệm, chẳng thấy huyễn, chẳng thấy hóa, chẳng thấy người thấy hóa.
Tại sao? Vì những mộng, hưởng, ảnh, diệm, huyễn và hóa ấy là
pháp điển đảo của kẻ phàm, người ngu vậy.
A La Hán chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, nhẫn đến chẳng thấy hóa, chẳng thấy người thấy hóa.
Bích Chi Phật,
Đại Bồ Tát và chư Phật đều cũng chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, nhẫn đến chẳng thấy hóa, chẳng thấy người thấy hóa.
Tại sao? Vì tất cả
pháp không có tánh
sở hữu, chẳng sanh, chẳng định.
Nếu là
pháp không có tánh
sở hữu, chẳng sanh, chẳng định thì thế nào
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật lại ở trong ấy nắm lấy tướng sanh, tướng định, việc ấy chẳng phải vậy.
Thiệt vậy, này Tu Bồ Đề!
Hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát chẳng trước chấp nơi sắc nhẫn đến chẳng trước chấp nơi thức, chẳng trước chấp Dục, Sắc,
Vô sắc ba cõi, chẳng trước chấp các thiền, các
giải thoát tam muội, chẳng trước chấp
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát thánh đạo, chẳng
chấp trước không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội, chẳng
chấp trước Đàn na ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật.
Do vì chẳng
chấp trước nên hay đầy đủ
Bồ Tát sơ địa. Trong
sơ địa cũng chẳng trước chấp.
Tại sao? Vì
Bồ Tát này còn chẳng thấy có được địa ấy, huống là sanh lòng trước chấp! Nhẫn đến
thập địa cũng vậy.
Đại Bồ Tát này
hành Bát nhã
ba la mật cũng chẳng thấy có được
Bát nhã ba la mật.
Nếu lúc
hành Bát nhã
ba la mật chẳng thấy có được
Bát nhã ba la mật, thì
lúc ấy thấy tất cả pháp đều vào trong
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy có được các pháp ấy. Vì các pháp ấy cùng
Bát nhã ba la mật không hai, không khác.
Tại sao? Vì các pháp vào trong như,
pháp tánh, thiệt tế nên là
vô phân biệt.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các pháp
vô tướng, vô phân việt sao lại nói là thiện, là
bất thiện, là
hữu lậu, là
vô lậu, là
thế gian, là
xuất thế gian, là
hữu vi là vô vi?
- Này Tu Bồ Đề! Theo ý ông thế nào? Trong
thiệt tướng của các pháp, có pháp nào nói được là thiện, là
bất thiện, nhẫn đến
hữu vi,
vô vi chăng? Có pháp nào nói được là quả
Tu Đà Hoàn, nhẫn đến
A La Hán,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát,
Vô Thượng Bồ Đề chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Chẳng nói được.
- Này Tu Bồ Đề! Vì
nhơn duyên như vậy nên phải biết tất cả pháp
vô tướng,
vô phân biệt, không sanh,
không định, chẳng chỉ bày, nói phô được.
Này Tu Bồ Đề! Ngày trước lúc ta hành
Bồ Tát đạo, cũng không có pháp nào có tánh được hoặc là sắc, hoặc là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến hoặc là
hữu vi hoặc là
vô vi, hoặc là quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật từ lúc mới
phát tâm đến lúc thành
Vô Thượng Bồ Đề phải khéo học các
pháp tánh.
Vì khoa học các
pháp tánh nên gọi là đạo
Vô Thượng Bồ Đề.
Hành đạo ấy hay đầy đủ
sáu ba la mật,
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ.
An trụ trong pháp ấy được
Vô Thượng Bồ Đề, dùng pháp
tam thừa độ thoát chúng sanh, cũng chẳng
chấp trước pháp
tam thừa.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng pháp
vô tướng phải học
Bát nhã ba la mật như vậy”.
PHẨM TỨ NHIẾP
THỨ BẢY MƯƠI TÁM
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu các
pháp như như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm,
như huyễn,
như hóa, không có thiệt sự, không có tánh,
tự tướng rỗng không, thì làm thế nào
phân biệt là pháp lành, pháp chẳng lành, là pháp
thế gian, là pháp
xuất thế gian, là
pháp hữu lậu, là pháp
vô lậu, là pháp
vô lậu, là
pháp hữu vi, là
pháp vô vi, là pháp hay được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, là pháp hay được đạo
Bích Chi Phật, là pháp hay được
Vô Thượng Bồ Đề?”
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Kẻ phàm, người ngu có mộng, có người thấy mộng, nhẫn đến có hóa, có người thấy hóa. Họ
phát khởi thân, khẩu, ý gây nghiệp thiện,
nghiệp bất thiện, nghiệp
vô ký, nghiệp phước, nghiệp tội, nghiệp
bất động.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong hai thứ không:
tất cánh không và vô thỉ không, vì
chúng sanh mà
thuyết pháp rằng:
Các
chúng sanh này! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức rỗng không, không có
sở hữu;
thập nhị thập,
thập bát giới rỗng không, không có
sở hữu.
Sắc thọ, tưởng, hành, thức,
thập nhị thập,
thập bát giới là mộng, là hưởng, là ảnh, là diệm, là huyễn, là hóa.
Trong đó không có
năm uẩn,
mười hai nhập,
mười tám giới, không có mộng cũng không có người thấy mộng, không có hưởng cũng không có người nghe hưởng, không có ảnh cũng không có người thấy ảnh, không có diệm cũng không có người thấy diệm, không có huyễn cũng không có người thấy huyễn, không có hoá cũng không có người thấy hóa.
Tất cả
pháp không có căn bổn, thiệt tánh
vô sở hữu.
Các người ở trong không có ấm lại thấy có ấm, không có nhập lại thấy có nhập, không có giới lại thấy có giới.
Tất cả pháp ấy đều từ
nhơn duyên hòa hợp mà sanh. Do tâm
điên đảo mà khởi, thuộc
nghiệp quả báo.
Tại sao các người ở trong những pháp rỗng không, không có căn bổn mà lại nắm lấy tướng căn bổn?
Lúc bấy giờ
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật dùng sức phương tiện ở trong pháp
xan tham mà
cứu thoát chúng sanh ra, dạy họ thật hành
Đàn na ba la mật, giữ
công đức bố thí này được
phước báo lớn. Từ nơi
phước báo lớn
cứu thoát ra, dạy họ
trì giới, nương
công đức trì giới, được sanh chỗ tôn quý
trên Trời. Rồi lại
cứu thoát ra, dạy họ an trụ
sơ thiền, do
công đức sơ thiền, sanh
Trời Phạm Thiên, nhẫn đến dạy họ an trụ
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền,
không vô biên xứ,
thức vô biên xứ,
vô sở hữu xứ, phi
phi tưởng xứ cũng như vậy.
Chúng sanh thật hành
bố thí ấy và
quả báo bố thí,
trì giới và
quả báo trì giới,
thiền định và
quả báo thiền định, từ nơi đó mà
cứu thoát họ, đặt họ nơi
vô dư Niết Bàn, đó là
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần, không,
vô tướng,
vô tác giải thóat môn,
bát bội xả,
cửu thứ đệ định,
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng pháp.
Bồ Tát làm
an ổn chúng sanh, cho họ an trụ trong pháp
vô lậu của bực thánh,
không sắc, không hình, không đối.
Có ai có thể được quả
Tu Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật thì
Bồ Tát an ổn giáo hóa, làm cho họ an
trụ quả Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật.
Có ai có thể được
Vô Thượng Bồ Đề thì
Bồ Tát an ổn giáo hóa làm cho họ an trụ
Vô Thượng Bồ Đề”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Chư Đại Bồ Tát là
hi hữu khó
theo kịp. Các Ngài hay thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa này.
Các
pháp không có tánh là
rốt ráo không, vô thỉ không, mà các ngài
phân biệt các pháp là thiện, là
bất thiện, là
hữu lậu, là
vô lậu, nhẫn đến là
hữu vi là
vô vi.
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề!
Chư Đại Bồ Tát rất là
hi hữu khó
theo kịp, hay thật
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa này. Các
pháp không có tánh,
rốt ráo không, vô thỉ không, mà các Ngài
phân biệt các pháp.
Này Tu Bồ Đề! Nếu các ông biết pháp của
Đại Bồ Tát này là rất
hi hữu khó
theo kịp, thì biết rằng tất cả hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng có thể được, huống là người khác.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là pháp
hi hữu khó
theo kịp của
Đại Bồ Tát mà tất cả hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật không thể có được?
- Này Tu Bồ Đề! Nên
nhứt tâm lắng nghe. Có
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong báo đắc
sáu ba la mật, và an trụ rong báo đắc
ngũ thần thông,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, các
đà la ni, các trí
vô ngại, đi qua đến cõi nước
mười phương, có ai đáng dùng
bố thí được độ thì dùng
bố thí nhiếp họ, có ai dùng
trì giới được độ thì dùng
trì giới nhiếp họ, có ai đáng dùng
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ để nhiếp họ. Có ai đáng dùng
sơ thiền được độ thì dùng
sơ thiền để nhiếp họ. Có ai đáng dùng
nhị thiền,
tam thiền nhẫn đến phi
phi tưởng xứ được độ thì theo chỗ
thích ứng mà nhiếp lấy họ. Có ai nên dùng từ, bi, hỉ, xả được độ thì dùng
từ bi hỉ xả để nhiếp họ. Cá ai nên dùng
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần, có ai nên dùng
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
không tam muội,
vô tác tam muội được độ thì theo chỗ
thích ứng để nhiếp lấy họ.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát dùng
bố thí lợi ích chúng sanh thế nào?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát bố thí tùy chỗ
chúng sanh cần dùng mà
cung cấp tất cả cho họ, như là
thức ăn, món uống, Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân,
y phục, xe ngựa,
hương hoa,
anh lạc v.v… đồng như
cúng dường chư Phật,
A La Hán,
A Na Hàm,
Tư Đà hàm,
Tu Đà Hoàn không khác. Hoặc
bố thí cho bực đã nhập
chánh đạo, người phàm, dưới đến chim thú đều không
phân biệt sai khác,
bố thí đồng đẳng.
Tại sao? Vì tất cả pháp chẳng khác, chẳng
phân biệt nên
Bồ Tát này không khác, không
phân biệt.
Bố thí như vậy rồi sẽ được báo pháp
vô phân biệt, đó là nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
Đại Bồ Tát thấy kẻ ăn xin mà
quan niệm rằng: Phật là
phước điền, ta nên
cúng dường, chim thú chẳng phải là
phước điền, ta chẳng nên
bố thí thì chẳng phải là pháp
Bồ Tát.
Tại sao?
Đại Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng nghĩ rằng:
Chúng sanh này nên
bố thí lợi ích,
chúng sanh này chẳng nên
bố thí, do vì
bố thí chúng sanh này được sanh dòng lớn
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Cư Sĩ, nhẫn đến do vì
bố thí nên dùng pháp
tam thừa độ họ vào
vô dư Niết Bàn.
Nếu có
chúng sanh đến xin,
Bồ Tát chẳng sanh lòng
phân biệt sai khác: nên cho người này, không nên cho người này.
Tại sao? Vì
Bồ Tát vì những
chúng sanh này mà
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, nếu còn
phân biệt chọn lựa thì sa vào chỗ
quở trách của chư Phật,
Bồ Tát,
Bích Chi Phật,
Thanh Văn và tất cả Trời, Người,
thế gian.
Ai thỉnh Ngài cứu tất cả chúng sanh! Ngài là nhà của tất cả
chúng sanh, là chỗ hỗ trợ tất cả
chúng sanh, là chỗ nương tựa của tất cả
chúng sanh mà lại
phân biệt,
lựa chọn nên cho, chẳng nên cho.
Lại nữa, lúc
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, hoặc có người hay
Phi Nhơn đến muốn
cầu xin thân thể, tay chưn của
Bồ Tát, bấy giờ
Bồ Tát chẳng nên sanh
hai lòng: nên
cho hay chẳng nên cho.
Tại sao? Vì
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh mà thọ thân, nay
chúng sanh đến lấy đâu nên chẳng cho.
Bồ Tát phải
quan niệm rằng tôi
vì lợi ích chúng sanh mà thọ thân này,
chúng sanh chẳng xin còn phải cho họ, huống là xin mà lại chẳng cho!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật phải học như vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu thấy có người đến xin,
Đại Bồ Tát phải
quan niệm: Trong đây ai cho, ai nhận, gì là vật cho? Tất cả pháp ấy đều không có
tự tánh, vì là
rốt ráo không vậy.
Pháp không tướng thì không có cho, không có giựt. Tại sao? Vì là
rốt ráo không, là
nội không, là
ngoại không, là
nội ngoại không, là
đại không, là
đệ nhứt nghĩa không, là
tự tướng không. An trụ trong các thứ không ấy mà
bố thí thì đầy đủ
Đàn na ba la mật. Vì đầy đủ
Đàn na ba la mật nên nếu bị đâm chém
thân thể hay bị cướp giựt tài vật,
Bồ Tát này liền nghĩ rằng: Chặt chém ta là ai? Cướp giựt của ta là ai?
Này Tu Bồ Đề!
Đức Như Lai dùng
Phật nhãn thấy phương Đông có
hằng sa Đại Bồ Tát, vào
địa ngục làm cho lửa tắt, nước sôi lạnh, dùng ba sự để
giáo hóa: một là
thần thông, hai là biết
tâm niệm kẻ khác, ba là
thuyết pháp.
Bồ Tát này
dùng sức thần thông làm cho trong
Địa ngục lửa tắt, nước sôi lạnh, biết
tâm niệm kẻ khác, dùng
từ bi hỉ xả tùy ý thuyết pháp. Những
chúng sanh ấy ở nơi
Bồ Tát sanh lòng
thanh tịnh,
thoát khỏi địa ngục rồi lần lần do pháp
tam thừa mà được hết khổ
sanh tử.
Như phương Đông, chín phương kia cũng vậy.
Này Tu Bồ Đề!
Đức Như Lai dùng
Phật nhãn quan sát trong
hằng sa quốc độ mười phương, thấy chư
Bồ Tát hầu hạ chư Phật,
cung cấp đồ
cần dùng, mến kính chư Phật. Nếu chư Phật có
dạy bảo thì chư
Bồ Tát ấy đều hay
thọ trì tất cả nhẫn đến lúc thành
Vô Thượng Bồ Đề trọn chẳng quên sót.
Này Tu Bồ Đề!
Đức Như Lai dùng
Phật nhãn quan sát mười phương hằng sa quốc độ, thấy
chư đại Bồ Tát vì
Súc sanh mà
xả thân thể phân tán các nơi, có
Súc sanh nào
ăn thịt của
Đại Bồ Tát ấy đều sanh lòng mến kính. Do có lòng mến kinh
Bồ Tát nên
thoát ly loài
Súc sanh, được gặp chư Phật,
nghe pháp tu hành, do
ba thừa Thanh Văn,
Bích Chi Phật và
Phật pháp mà nhập
vô dư Niết Bàn.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Chư Đại Bồ Tát làm
lợi ích chúng sanh rất nhiều,
giáo hóa chúng sanh khiến
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đúng pháp
tu hành nhẫn đến nhập
vô dư Niết Bàn.
Lại này Tu Bồ Đề!
Đức Như Lai dùng
Phật nhãn thấy
chư Đại Bồ Tát trong
hằng sa quốc độ mười phương trừ những khổ
đói khát của hàng
Ngạ quỉ. Hàng
Ngạ quỉ này đều kính mến
Bồ Tát. Do sự kính mến
Bồ Tát này mà được
thoát ly Ngạ quỉ, gặp Phật
nghe pháp,
tu hành đúng pháp, lần lần do
ba thừa Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Phật thừa mà nhập
vô dư Niết Bàn.
Đại Bồ Tát vì độ
chúng sanh mà thật hành tâm
đại bi như vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Đức Như Lai dùng
Phật nhãn thấy
chư Đại Bồ Tát ở trên Trời Tứ Thiên Vương thuyết pháp. Cũng
thuyết pháp tại cung
trời Đao Lợi, Trời
Dạ Ma,
Trời Đâu Suất,
Trời Hóa Lạc,
Trời Tha Hóa.
Chư Thiên nghe
Bồ Tát thuyết pháp, lần lần do
ba thừa mà được
diệt độ.
Này Tu Bồ Đề! Trong hàng
Thiên chúng này, nếu có ai say mê
ngũ dục,
Bồ Tát hiện lửa nổi dậy đốt cháy cung điện họ rồi
thuyết pháp cho họ: Này chư Thiên! Tất cả
pháp hữu vi đều
vô thường, đâu có
an ổn được.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Đức Như Lai dùng
Phật nhãn thấy hàng
Phạm Thiên trong
hằng sa quốc độ ở
mười phương thế giới chấp lấy
tà kiến. Chư
Bồ Tát dạy họ xa rời
tà kiến mà bảo rằng: Sao các Ngài ở trong các pháp
hư vọng không tướng mà lại sanh tà kiến!
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an
trụ tâm đại từ vì
chúng sanh mà
thuyết pháp.
Này Tu Bồ Đề! Đó là pháp
hi hữu khó
theo kịp của
Đại Bồ Tát vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Đức Như lai dùng
Phật nhãn thấy
chư Đại Bồ Tát trong
hằng sa quốc độ mười phương thế giới dùng bốn sự để nhiếp lấy
chúng sanh. Đó là
bố thí,
ái ngữ,
lợi ích và
đồng sự.
Thế nào là
Bồ Tát dùng
bố thí để nhiếp lấy chúng sanh?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát dùng hai thứ
bố thí để nhiếp lấy
chúng sanh. Đó là
tài thí và
pháp thí.
Những gì là
tài thí nhiếp lấy chúng sanh?
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đem các thứ
bảo vật: vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê, chơn châu, kha bối,
san hô v.v…, hoặc đem đồ uống ăn, Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý phục, mền mùng, phòng nhà, đèn đuốc, hoa hương,
anh lạc, hoặc con trai, con gái, hoặc bò, dê, voi, ngựa, xe cộ, hoặc đem
thân thể mình mà
cung cấp cho
chúng sanh.
Bồ Tát bảo
chúng sanh rằng: Các ngươi nếu có
cần dùng gì thì đến lấy như đến lấy vật của mình chớ có
nghi ngại.
Bố thí xong,
Bồ Tát này dạy cho họ pháp
tam quy:
quy y Phật,
quy y Pháp,
quy y Tăng. Hoặc dạy họ thọ
ngũ giới, thọ
bát trai giới, hoặc dạy
sơ thiền, nhẫn đến
phi tưởng, phi
phi tưởng định, hoặc dạy
từ bi hỉ xả, hoặc dạy
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm xả,
niệm Thiên, hoặc dạy
quán bất tịnh, quán
xuất nhập tức, hoặc tướng hoặc xúc, hoặc dạy họ
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội,
bát bội xả,
cửu thứ đệ định,
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng pháp,
đại từ đại bi, ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo, hoặc dạy quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật, hoặc dạy
Vô Thượng Bồ Đề.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh:
tài thí xong lại dạy cho họ được
Niết Bàn an ổn vô thượng. Đây gọi là pháp
hi hữu khó
theo kịp của
Đại Bồ Tát.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Bồ Tát dùng
pháp thí nhiếp chúng sanh?
Này Tu Bồ Đề!
Pháp thí có hai thứ: một là
thế gian, hai là
xuất thế gian?
Những gì là
pháp thí thế gian?
Trình bày dạy rõ pháp
thế gian như là
quán bất tịnh, quán
xuất nhập tức,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định. Những pháp
thế gian như vậy với những pháp cùng đồng với pháp sở hành của
phàm phu, thì gọi là
pháp thí thế gian.
Bồ Tát này
pháp thí thế gian như vậy rồi dùng nhiều các
giáo hóa cho họ xa rời pháp
thế gian. Xa rời pháp
thế gian xong,
Bồ Tát dùng sức phương tiện làm cho họ được pháp
vô lậu của bực Thánh và quả
vô lậu của bực Thánh.
Những gì là pháp
vô lậu của bực Thánh?
Những gì là quả
vô lậu của bực Thánh?
Pháp
vô lậu của bực Tháh là
ba mươi bảy phẩm trợ đạo và
ba môn giải thoát.
Quả
vô lậu của bực Thánh là quả
Tu Đà Hoàn, nhẫn đến quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật,
Vô Thượng Bồ Đề.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Pháp Thánh
vô lậu của
Đại Bồ Tát còn có
trí huệ trong quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
trí huệ trong quả
A La Hán,
trí huệ trong đạo
Bích Chi Phật,
trí huệ trong
ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
trí huệ trong
sáu ba la mật nhẫn đến
trí huệ trong
đại từ đại bi.
Tất cả
pháp như vậy, hoặc pháp
thế gian,
xuất thế gian,
trí huệ, hoặc
hữu lậu, hoặc
vô lậu, hoặc
hữu vi, hoặc
vô vi, nhứt thiết
chủng trí trong pháp ấy thì gọi là pháp Thánh
vô lậu của
Đại Bồ Tát.
Những gì là quả Thánh vô lậu?
Dứt tất cả chủng tập
phiền não thì gọi quả Thánh
vô lậu.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát có được nhứt thiết
chủng trí chăng?
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy,
Đại Bồ Tát được nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn!
Bồ Tát với Phật có những gì khác?
- Này Tu Bồ Đề! Có khác.
Đại Bồ Tát được nhứt thiết
chủng trí thì gọi là Phật.
Tại sao? Vì tâm
Bồ Tát cùng
tâm Phật không khác.
Bồ Tát an trụ trong nhứt thiết
chủng trí, đối với tất cả
pháp không pháp nào chẳng
soi sáng.
Đây gọi là
Đại Bồ Tát thế gian pháp thí.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nhơn
thế gian pháp thí mà được
xuất thế gian pháp thí.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cho họ được pháp
thế gian,
dùng sức phương tiện dạy cho họ được pháp
xuất thế gian.
Này Tu Bồ Đề! Những gì là pháp
xuất thế gian của Bồ Tát? Những pháp chẳng cùng đồng với pháp
phàm phu. Đó là
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
tám giải thoát môn,
bát bội xả,
cửu thứ đệ định,
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng pháp, ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo, năm trăm
đà la ni môn. Đây gọi là pháp
xuất thế gian.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là tứ niệm xứ?
Đại Bồ Tát quán nội thân theo thân mà
quán sát, quán
ngoại thân theo thân mà
quán sát, siêng năng
tinh tiến dùng
nhứt tâm trí huệ quán sát, quán tập nhơn của thân do
nhơn duyên sanh,
quán thân diệt,
quán sát hành
sanh diệt của thân tập, đạo này không sở Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, nơi
thế gian không sở thọ. Đó là
thân niệm xứ.
Thọ niệm xứ,
tâm niệm xứ,
pháp niệm xứ cũng như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là tứ chánh cần?
Những pháp ác
bất thiện chưa sanh nên siêng năn
tinh tiến.
Những pháp ác
bất thiện đã sanh, vì dứt trừ nên siêng năng
tinh tiến.
Những
pháp thiện chưa sanh, vì
sanh khởi nên siêng năng
tinh tiến.
Những
pháp thiện đã sanh, vì thêm lớn đầy đủ nên siêng năng
tinh tiến. Đây gọi
tứ chánh cần.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là tứ
như ý túc?
Nguyện dục
tam muội quyết đoán thật hành
thành tựu.
Tinh tiến tam muội quyết đoán thật hành
thành tựu.
Nhứt tâm tam muội quyết đoán thật hành
thành tựu.
Tư duy tam muội quyết đoán thật hành
thành tựu.
Đây gọi là
tứ như ý túc.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là ngũ căn? Đó là
tín căn,
tinh tiến căn,
niệm căn,
định căn và
huệ căn.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là ngũ lực? Đó là
tín lực,
tinh tiến lực,
niệm lực,
định lực và huệ lực.
Thế nào là thất giác phần? Đó là niệm
giác phần, hỉ
giác phần,
khinh an giác phần, định
giác phần và
xả giác phần.
Thế nào là
bát thánh đạo phần? Đó là
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh
tinh tiến,
chánh niệm và
chánh định.
Thế nào là tam tam muội? Đó là
không tam muội môn,
vô tướng tam muội môn và
vô tác tam muội môn.
Thế nào là không tam muội? Dùng không hành và
vô ngã hành để
nhiếp tâm gọi là
không tam muội.
Thế nào là
vô tướng tam muội? Dùng
tịch diệt hành và ly hành để
nhiếp tâm gọi là
vô tướng tam muội.
Thế nào là
vô tác tam muội? Dùng
vô thường hành và khổ hành để
nhiếp tâm gọi là
vô tác tam muội.
Thế nào là bát bội xả?
Trong có tướng sắc, ngoài quán sắc là bội xả thứ nhứt.
Trong
không tướng sắc, ngoài quán sắc là bội xả thứ hai.
Tịnh bội xả là bội xả thứ ba.
Qua khỏi tất cả tướng sắc,
diệt tướng có
đối ngại, vì chẳng nghĩ đến tất cả tướng dị biệt mà quán
hư không vô biên, nhập
vô biên hư không xứ, là bội xả thứ tư.
Nhẫn đến qua khỏi
phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ,
nhập diệt thọ tưởng bội xả, là bội xả thứ tám.
Thế nào là cửu
thứ đệ định?
Hành giả rời lìa
pháp ái dục, ác
bất thiện có giác, có quán,
ly dục, sanh hỉ lạc, nhập
sơ thiền, nhẫn đến qua khỏi phi
phi tưởng xứ,
nhập diệt thọ tưởng định, gọi là
cửu thứ đệ định.
Thế nào là
mười trí lực của Phật?
Sức trí biết đúng thiệt phải chỗ, chẳng phải chỗ.
Sức trí biết đúng thiệt về những nghiệp, những thọ, biết chỗ tạo nghiệp, biết
nhơn duyên, biết
quả báo suốt thuở
quá khứ,
hiện tại và
vị lai của
chúng sanh.
Sức trí biết đúng thiệt tất cả
thiền định,
giải thoát tam muội.
Sức trí biết đúng
thiệt căn tánh thượng, trung hay hạ của tất cả
chúng sanh.
Sức trí biết đúng thiệt những
tri kiến hiểu biết và chỗ thích muốn của tất cả
chúng sanh.
Sức trí biết đúng thiệt những
cảnh giới sai khác của tất cả
chúng sanh.
Sức trí biết đúng thiệt chỗ đục đến của tất cả
đạo hạnh.
Sức trí biết đúng thiệt đời trước của tất cả
chúng sanh từ một kiếp đến
vô lượng kiếp.
Sức trí biết đúnh thiệt, dùng
thiên nhãn thấy
chúng sanh sanh về đường lành, đường dữ nhẫn đến
nhập Niết Bàn.
Sức trí biết đúng thiệt
vô lậu tam giải thoát.
Đây là
mười trí lực của Phật”.