KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI CHÍN
PHẨM KIÊN CỐ
THỨ NĂM MƯƠI SÁU
Đức Phật phán dạy: “Lại Nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma đến
Bồ Tát, muốn
phá hoại tâm của
Bồ Tát mà bảo rằng: Nhứt thiết
chủng trí đồng với
hư không rỗng không, chẳng có tướng, các pháp đồng với
hư không rỗng không, chẳng có tướng. Ở trong các pháp đồng với
hư không rỗng không, chẳng có tướng ấy, không có ai được
Vô thượng Bồ đề, cũng không có chẳng được, các pháp ấy đều như
hư không, chẳng có tướng. Ngài luống chịu khổ siêng tu
vô ích.
Vô thượng Bồ đề của Ngài nghe đó đều là
ma sự, chẳng phải lời của Phật dạy. Ngài luôn bỏ
tâm nguyện ấy đi. Ngài chớ mãi thọ lấy sự khổ,
lo lắng chẳng an ấy mà phải đọa vào
ác đạo.
Lúc nghe llời trách cứ ấy,
Bồ Tát nầy nên nghĩ rằng đây là
ác ma muốn
phá hoại tâm
Vô thượng Bồ đề của tôi.
Các pháp dầu như
hư không, chẳng chỗ có,
tự tướng rỗng không, nhưng
chúng sanh chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu.
Tôi cũng do
đại thệ trang nghiêm rỗng không, chẳng có
tự tướng, đồng như
hư không mà được nhứt thiết
chủng trí rồi vì
chúng sanh mà
thuyết pháp cho họ
được giải thoát,
chứng quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm về sau, nếu nghe sự việc trên tự phải vững tâm, chẳng
động chuyển. Do tâm
vững chắc, chẳng
động chuyển nầy mà thật hành
sáu ba la mật tất sẽ được vào
Bồ Tát vị”.
- Bạch đức Thế Tôn! Vì
bất chuyển mà gọi là
bất thối chuyển hay là vì chuyển mà gọi là
bất thối chuyển?
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì
bất chuyển, vì chuyển cũng gọi là
bất thối chuyển.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát chẳng bị chuyển nơi bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật thì gọi là
bất thối chuyển. Nếu
đại Bồ Tát chuyển bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật thì cũng gọi là
bất thối chuyển.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo trên đây mà được gọi là
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển lúc muốn nhập
sơ thiền đến
diệt tận định liền được nhập. Lúc muốn tu
tứ niệm xứ đến
ngũ thần thông liền có thể tu. Dầu tu
tứ niệm xứ đến
ngũ thần thông, nhưng
đại Bồ Tát nầy chẳng thọ lấy
tứ niệm xứ, dầu tu các thiền mà chẳng thọ lấy các thiền, nhẫn đến chẳng thọ lấy quả
A La Hán, quả
Bích Chi Phật.
Đại Bồ Tát nầy vì
chúng sanh mà thọ lấy thân để
tùy theo chỗ đáng, chỗ nên hầu làm
lợi ích họ.
Do hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà được gọi
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát bất thối chuyển thường nghĩ nhớ
Vô thượng Bồ đề, trọn chẳng
xa lìa tâm nhứt thiết
chủng trí.
Vì chẳng
xa lìa tâm nhứt thiết
chủng trí nên chẳng quý sắc, chẳng
quý tướng, chẳng quý
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, chẳng quý sáu độ, chẳng quý
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm nhẫn đến
ngũ thần thông, chẳng quý
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, chẳng quý
mười trí lực đến mười
tám pháp bất cộng, chẳng quý
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, chẳng quý thấy Phật, chẳng quý chủng
thiện căn.
Tại sao vậy? Vì tất cả
pháp tự tướng không, chẳng có pháp quý được và tâm hay quý. Tất cả pháp
vô sở hữu,
tự tướng không như
hư không.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát bất thối chuyển nầy
thành tựu tâm như đây ờ trong bốn
oai nghi của
thân thể: đi, đứng, nằm, ngồi,
tới lui, ra vào luôn
nhứt tâm bất loạn.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà gọi là
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát hiện thân tại gia vì lợi ích chúng sanh mà thọ lấy
ngũ dục để
bố thí cho
chúng sanh: người cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần
y phục,
ngọa cụ, thuốc men đều
cung cấp cho.
Đại Bồ Tát nầy tự làm
đàn ba la mật và dạy người làm
Đàn ba la mật, khen ngợi
pháp Đàn ba la mật, cũng
vui mừng khen ngợi người làm Đàng
ba la mật, nhẫn đến
Bát nhã ba la mật cũng vậy. Ở
tại gia,
đại Bồ Tát nầy đem trân bửu đầy
Diêm Phù Đề, đầy cõi cõi
Đại Thiên để
cấp thí cho mọi loài
chúng sanh, chẳng tự vì mình mà thường tu
phạm hạnh, chẳng hiếp đáp, khinh dễ, cướp giựt của kẻ khác cho họ phải sầu lo.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo nầy mà gọi là bực
bất thối chuyển đại Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Chấp Kim Cang Thần Vương nhẫn đến
Ngũ Tánh Chấp Kim Cang Thần thường theo kề cận
thủ hộ đại Bồ Tát nầy mà nghĩ rằng:
Đại Bồ Tát nầy sẽ được
Vô thượng Bồ đề. Do đây nên hoặc
chư Thiên Tử, hoặc hư
Ma Vương,
Phạm Vương, hoặc người
thế lực ở nhơn gian đều chẳng
phá hoại được tâm
nhứt thiết trí của
đại Bồ Tát nầy, nhẫn đến thành
Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là
tướng đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thường đầy đủ
ngũ căn của bực
Bồ Tát:
tín căn,
tinh tấn căn,
niệm căn,
định căn,
huệ căn. Đây gọi là tướng
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát bất thối chuyển làm thượng nhơn chớ chẳng làm hạ nhơn.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là thượng nhơn?
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nhứt tâm thật hành
Vô thượng Bồ đề, lòng chẳng
tán loạn thời gọi là thượng nhơn.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thường
nhất tâm niệm Phật đạo, vì sanh hoạt
thanh tịnh nên chẳng làm những nghề
chú thuật, hòa hiệp, thuốc men, chẳng
phù chú quỷ thần, sai nhập
nam nữ để hỏi sự kiết hung,
phước lộc,
sống chết. Tại sao vậy? Vì rõ biết các
pháp tự tướng không, chẳng thấy các tướng nên chẳng làm việc
tà mạng mà làm
chánh mạng. Đây gọi là tướng
bất thối chuyển đại Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nay Phật sẽ lại nói hạnh, loại,
tướng mạo của
đại Bồ Tát bất thối chuyển, ngươi nên
nhứt tâm lắng nghe.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật. Vì thường chẳng xa rời
Vô thượng Bồ đề nên chẳng nói sự
ngũ ấm, chẳng nói sự
thập nhị nhập, chẳng nói sự
thập bát giới. Tại sao vậy? Vì thường
quan niệm ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới tướng không.
Đại Bồ Tát nầy chẳng thích nói đến việc quan. Tại sao vậy? Vì an trụ trong
tướng không của các pháp nên chẳng có sự sang, sự hèn.
Chẳng thích nói việc cướp trộm, vì các
pháp tự tướng không nên chẳng thấy hoặc được hoặc mất.
Chẳng thích nói việc quân trận, vì các
pháp tự tướng không nên chẳng thấy hoặc nhiều hoặc ít.
Chẳng thích nói việc chiến đấu, vì các
pháp tự tướng không nên chẳng thấy hoặc thương hoặc ghét.
Chẳng thích nói việc
phụ nữ, trụ trong
pháp không nên chẳng thấy việc đẹp hoặc xấu.
Chẳng thích nói việc xóm làng, vì các
pháp tự tướng không nên chẳng thấy hoặc hiệp hoặc tan.
Chẳng thích nói việc thành thị, vì trong thiệt tế chẳng thấy hoặc thắng hoặc thua.
Chẳng thích nói
quốc sự, vì an trụ trong thiệt tế chẳng thấy có pháp thuộc nơi đó hoặc chẳng thuộc nơi đó.
Chẳng thích nói đến chính mình, vì an trụ trong
pháp tánh nên chẳng thấy có pháp nào là ngã hoặc là
vô ngã, nhẫn đến chẳng thấy có ai biết, ai thấy.
Như vậy,
đại Bồ Tát chẳng thích nói các sự việc
thế gian, chỉ ưa nói
Bát nhã ba la mật, chẳng xa rời tâm
nhứt thiết trí.
Lúc làm
Đàn ba la mật chẳng làm sự
xan tham, lúc làm
Thi ba la mật chẳng làm sự
phá giới, lúc làm
Nhẫn ba la mật chẳng làm sự giận tranh, lúc làm Tấn
ba la mật chẳng làm sự
giải đãi, lúc làm
Thiền ba la mật chẳng làm sự
tán loạn, lúc làm Huệ
ba la mật chẳng làm sự
ngu si.
Đại Bồ Tát nầy dầu thật hành tất cả
pháp không, nhưng thích
chánh pháp, mến
chánh pháp. dầu thật
hành pháp tánh nhưng thường
tán thán pháp
bất hoại mà mến tích
thiện tri thức như là chư Phật và chư
Bồ Tát,
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Có thể
giáo hóa người ưa muốn
Vô thượng Bồ đề.
Đại Bồ Tát nầy thường muốn thấy chư Phật. Khi nghe nói
Phật hiện ở cõi nước nào liền nguyện
vãng sanh. Ngày đêm luôn tưởng
niệm Phật.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nầy nhập
sơ thiền đến phi
phi tưởng xứ định, vì
dùng sức phương tiện nên
phát khởi tâm cõi Dục,
thác sanh vào trong hàng
chúng sanh hay thật hành
thập thiện nghiệp, và trong chỗ
hiện tại có Phật ở.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo trên đây, phải biết đó là bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát an trụ nơi một không,
ngoại không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, an trụ nơi
tứ niệm xứ nhẫn đến
ba môn giải thoát: không,
vô tướng,
vô tác. Với trong
địa vị của mình tự biết rất rõ, chẳng còn nghi là phải hay không phải bậc
bất thối chuyển.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy chẳng còn thầy có chút pháp nào ở trong
Vô thượng Bồ đề hoặc chuyển hay
bất thối chuyển.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như có người được quả
Tu Đà Hoàn, an trụ trong bậc
Tu Đà Hoàn, tự biết
rõ ràng, trọn chẳng
nghi ngờ. Cũng vậy, an trụ trong
bất thối chuyển,
đại Bồ Tát nầy tự biết
rõ ràng, trọn chẳng
nghi ngờ. An trụ trong bậc nầy,
đại Bồ Tát thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh. Lúc các
ma sự phát khởi thì hay biết, cũng chẳng theo
ma sự phá hoại ma sự.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như có người
phạm tội ngũ nghịch, tâm tội
ngũ nghịch luôn theo dính người đói
cho đến chết chẳng rời, dầu có nghĩ việc khác cũng vẫn không ngăn cách tâm tội ấy. Cũng vậy,
đại Bồ Tát nầy tự an trụ trong
địa vị của mình, tâm thường
bất động. Tất cả Thiên, Nhơn,
A Tu La trong đời không làm
động chuyển được tâm
Bồ Tát nầy. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy vượt trên tất cả hàng Thiên, Nhơn,
A Tu La mà vào trong
địa vị chánh Pháp, an trụ nơi
bực mình đã chứng, đầy đủ
thần thông Bồ Tát, hay
tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh, từ một
Phật độ đến một
Phật độ. Ở chỗ
chư Phật mười phương gieo trồng những
thiện căn, hầu gần thưa hỏi chư Phật.
Đại Bồ Tát nầy an trụ như vậy, lúc có
ma sự phát khởi liền hay biết mà chẳng theo,
dùng sức phương tiện đặt
ma sự vào trong thiệt tế. Với
địa vị tự chứng,
đại Bồ Tát nầy chẳng
nghi ngờ, hối tíếc. Rõ biết thiệt tế nầy chẳng phải một, chẳng phải hai. Do cớ trên đây mà
đại Bồ Tát nầy nhẫn đến lúc chuyển thân, trọn chẳng hướng về bậc
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Trong các
pháp tự tướng không,
đại Bồ Tát nầy chẳng thấy có pháp nào hoặc sanh hoặc diệt hoặc cấu hoặc tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Nhẫn đến lúc chuyển thân,
đại Bồ Tát nầy trọn chẳng nghi rằng mình sẽ được hay chẳng được
Vô thượng Bồ đề. Vì các
pháp tự tướng không chính đó là
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nầy an trụ trong
địa vị của mình chứng, chẳng theo lờingười khác, không ai
phá hoại được. Vì bực nầy đã
thành tựu trí huệ bất động vậy.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo trên đây, phải biết đó gọi là bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu có
ác ma hiện thân Phật đến bảo
đại Bồ Tát nầy rằng: Nay Ngài ở trong đây chứng lấy quả
A La Hán, Ngài cũng chẳng được
thọ ký Vô thượng Bồ đề, cũng chưa được
vô sanh pháp nhẫn, Ngài không có hạnh, loại,
tướng mạo của bực
bất thối chuyển, cũng không có tướng để được
thọ ký Vô thượng Bồ đề. Lúc
nghe lời nói như trên,
đại Bồ Tát nầy trọn
không kinh sợ,
nghi ngờ và tự biết
quyết định sẽ được chư
Phật thọ ký
Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì chư
Bồ Tát do pháp ấy mà được
thọ ký, nay tôi cũng có pháp ấy tất được
thọ ký.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
ác ma hoặc người bị ma sai
hiện hình Phật đến
thọ ký quả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật cho
đại Bồ Tát nầy.
Đại Bồ Tát nầy liền tự nghĩ rằng đây là
ác ma hoặc người bị
ác ma sai
hiện hình Phật đến làm như vậy. Vì chư Phật chẳng bao giờ bảo
Bồ Tát xa lìa Vô thượng Bồ đề để an trụ bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo như trên mà gọi là bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma hiện thân Phật đến chỗ
Bồ Tát mà bảo rằng: Kinh sách của Ngài học chẳng phải của Phật nói, cũng chẳng phải của
Thanh Văn nói, đó là của ma nói.
Đại Bồ Tát nầy liền tự nghĩ biết là
ác ma hiện ra bảo tôi xa rời
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết
đại Bồ Tát nầy đã được chư Phật
quá khứ thọ ký cho, đã ở bậc
bất thối chuyển.
Tại sao vậy? Vì
chư đại Bồ Tát có bao nhiêu hạnh, loại,
tướng mạo bất thối chuyển thì
đại Bồ Tát nầy cũng có đủ những hạnh, loại,
tướng mạo ấy. Đây gọi là bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nầy vì
hộ trì chánh pháp mà chẳng tiếc
thân mạng huống là những vật khác. Lúc
hộ trì Phật pháp,
đại Bồ Tát nghĩ rằng chẳng phải vì
hộ trì chánh pháp của một
đức Phật mà vì
hộ trì chánh pháp của
thập phương tam thế tất cả chư Phật nên chẳng tiếc
thân mạng.
Nầy Tu Bồ Đề! Như lời Phật đã dạy: Tất cả pháp chơn không.
Lúc có kẻ
ngu si phá hoại, chẳng lời của Phật mà tuyên nói rằng đó là
phi pháp, là chẳng lành, chẳng phải lời dạy của Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
hộ trì pháp chơn không như
vậy mà đại Bồ Tát chẳng tiếc
thân mạng.
Đại Bồ Tát cũng tự nghĩ rằng tôi cũng ở trong số chư
Phật vị lai, đã
thọ ký trong số đó, pháp chơn không ấy cũng là pháp của tôi. Tôi vì
hộ pháp ấy mà chẳng tiếc
thân mạng.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì thấy sự
lợi ích quan hệ như vậy nên
đại Bồ Tát chẳng tiếc
thân mạng để
hộ trì.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo ấy mà biết là tướng của bậc
bất thối chuyển .
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nghe
đức Phật huyết pháp,
đại Bồ Tát chẳng
nghi hối, nghe xong ghi nhớ,
thọ trì, trọn chẳng quên mất. Tại sao vậy, vì
đại Bồ Tát đã được
đà la ni.
- Bạch đức Thế Tôn! Được
đà la ni gì mà khi nghe
đức Phật thuyết các
kinh pháp lại chẳng quên mất?
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì
Bồ Tát được
văn trì đà la ni nên chẳng quên mất các
kinh pháp của
đức Phật đã dạy và chẳng
nghi hối.
- Bạch đức Thế Tôn! Chỉ chẳng quên, chẳng nghi
kinh pháp của
đức Phật dạy, còn
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Thiên Long,
Bát Bộ nói có được chẳng quên, chẳng nghi chăng?
- Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả
lời nói về các sự việc,
Bồ Tát được
đà la ni nầy đều chẳng quên, chẳng nghi.
Nầy Tu Bồ Đề! Những hạnh, loại,
tướng mạo như vậy, phải biết đó là bậc
đại Bồ Tát bất thối chuyển”.
PHẨM THÂM ÁO
THỨ NĂM MƯƠI BẢY
Lúc ấy Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức,
thành tựu vô lượng công đức,
thành tựu vô biên công đức”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức,
thành tựu vô lượng công đức,
thành tựu vô biên công đức.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát bất thối chuyển được
vô lượng vô biên trí huệ, chẳng đồng với hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
An trụ trong
trí huệ ấy,
đại Bồ Tát nầy phát sanh bốn trí
vô ngại. Vì được bốn trí
vô ngại nầy nên tất cả Trời, Người,
thế gian không thể
cùng tận được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "bạch đức Thế Tôn!
đức Phật có thể
hằng sa kiếp khen ngợi những hạnh, loại,
tướng mạo của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát bất thối chuyển nầy an trụ trong chỗ
thâm áo nào mà lúc thật hành
sáu ba la mật được đầy đủ
tứ niệm xứ nhẫn đến đầy đủ nhứt thiết chủng trí?”
-
Lành thay,
lành thay! Nầy Tu Bồ Đề! Người vì
đại Bồ Tát bất thối chuyển mà hỏi chỗ
thâm áo đó.
Nầy Tu Bồ Đề! Chỗ
thâm áo đây nghĩa của nó là không, là
vô tướng,
vô tác, vô khởi,
vô sanh,
vô nhiễm, là ly, là
tịch diệt, là như, là
pháp tánh, thiệt tế, là
Niết Bàn. Những pháp trên đây là nghĩa của
thâm áo.
- Bạch đức Thế Tôn! Chỉ có không,
vô tướng,
vô tác nhẫn đến
Niết Bàn là
thâm áo, còn tất cả pháp là chẳng phải ư?
- Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả pháp cũng là nghĩa
thâm áo cả: sắc cũng
thâm áo, thọ, tưởng, hành, thức cũng
thâm áo, nhẫn đến ý cũng
thâm áo, sắc đến pháp cũng
thâm áo,
nhãn giới đến
ý thức giới cũng
thâm áo,
Đàn na ba la mật đến
Vô thượng Bồ đề cũng
thâm áo.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là sắc nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề cũng đều thâm áo?
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc như
thâm áo nên sắc cũng
thâm áo, nhẫn đến vì
Vô thượng Bồ đề như
thâm áo nên
Vô thượng Bồ đề cũng
thâm áo.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là sắc như
thâm áo nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề như thâm áo?
- Nầy Tu Bồ Đề! sắc như dó chẳng phải sắc chẳng phải rời sắc, nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề như đó chẳng phải
Vô thượng Bồ đề chẳng phải rời
Vô thượng Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Thật là
hy hữu.
Đức Phật dùng sức phương tiện vi diệu làm cho
đại Bồ Tát bất thối chuyển rời
sắc xứ Niết Bàn, cũng làm cho rời tất cả
pháp xứ Niết Bàn.
- Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật dùng sức phương tiện vi diệu làm cho
đại Bồ Tát bất thối chuyển rời
sắc xứ Niết Bàn, cũng làm cho rời tất cả
pháp xứ Niết Bàn.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có pháp
thâm áo như vậy cùng
Bát nhã ba la mật tương ứng,
quan sát, tính lường,
suy gẫm, nghĩ rằng: Tôi phải thật hành như thế, đúng như lời dạy trong
Bát nhã ba la mật, tôi phải học tập như thế, đúng như trong
Bát nhã ba la mật đã nói.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát có thể làm, có thể học đúng như lời,
quán sát đúng như trong
Bát nhã ba la mật, siêng năng
tinh tấn đầy thì lúc
phát khởi một niệm sẽ được
vô lượng vô biên vô số phước đức,
siêu việt vô lượng kiếp, gần quả
Vô thượng Bồ đề, huống là thường thật
hành Bát nhã
ba la mật đúng với niệm
Vô thượng Bồ đề.
Ví như người tánh nhiều
dâm dục hẹn ước với cô gái
xinh đẹp, đến giờ hẹn cô gái vì trở ngại nên không đến được. Ý ngươi thế nào? Nầy Tu Bồ Đề! Chỗ nhớ tưởng của gã đàn ông đó sẽ ở đâu?
- Bạch đức Thế Tôn! Gã ấy
niệm niệm luôn nhớ đến cô gái, mong cô sẽ đến để cùng ngồi, cùng nằm, cùng vui.
- Nầy Tu Bồ Đề! Trong một ngày đêm, nơi tâm gã ấy có mấy niệm phát sanh?
- Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát niệm
Bát nhã ba la mật đúng như lời trong
Bát nhã ba la mật, thật hành trong klhoảng một niệm sẽ
siêu việt số kiếp cũng như số
tâm niệm trong một ngày đêm của gã đó.
Đại Bồ Tát nầy thật
hành Bát nhã
ba la mật, xa rời những tội
Vô thượng Bồ đề.
Đại Bồ Tát nầy trong một ngày thật
hành Bát nhã
ba la mật được
thiện căn công đức chẳng giảm,
công đức đầy cả
hằng sa cõi
Đại Thiên. Với những
công đức kém khác sánh chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, nhẫn đến toán số
thí dụ cũng chẳng bằng
công đức nầy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu có người xa rời
Bát nhã ba la mật mà
cúng dường Tam Bảo:
Phật Bảo,
Pháp Bảo và
Tăng Bảo trong
thời gian hằng sa kiếp được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều, được
vô lượng vô biên vô số phước.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vẫn không bằng
phước đức của
đại Bồ Tát ở trong
Bát nhã ba la mật hành đúng như lời.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật là đạo
chư đại Bồ Tát. Thừa đạo nầy mau được
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu có người xa rời
Bát nhã ba la mật,
trải qua số kiếp như
hằng sa cúng dường các bực
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
Bích Chi Phật và chư Phật. người nầy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vẫn không bằng
phước đức của
đại Bồ Tát ở trong
Bát nhã ba la mật tu hành đúng như lời.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật nầy thì hơn hẳn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
nhập địa vị
Bồ Tát, sẽ được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Có người xa rời
Bát nhã ba la mật,
trong khoảng thời gian hằng sa kiếp
tu tập bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và trí huệ. Người nầy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề!
Phước đức đó vẫn không bằng phước của
đại Bồ Tát ở trong
Bát nhã ba la mật đúng như lời trong một ngày
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật là mẹ của
chư đại Bồ Tát, hay sanh thành
chư đại Bồ Tát. Vì
chư đại Bồ Tát an trụ trong
Bát nhã ba la mật thì đầy đủ được tất cả
Phật pháp vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát xa rời
Bát nhã ba la mật,
trong khoảng hắng
sa kiếp làm việc
pháp thí. Người nầy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Được rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vẫn không bằng phước
pháp thí trong một ngày của người ở trong
Bát nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật thì chẳng xa rời nhứt thiết
chủng trí, chẳng xa rời nhứt thiết
chủng trí thì chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật.
Thế nên
đại Bồ Tát muốn được
Vô thượng Bồ đề thì chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu có
đại Bồ Tát xa rời
Bát nhã ba la mật mà
tu hành tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí trải qua hằng sa kiếp người nầy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vẫn không bằng một ngày
tu tập tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí của người ở trong
Bát nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật thì không bao giờ
thối chuyển nhứt thiết
chủng trí. Còn xa rời thì có thể
thối chuyển.
Thế nên, Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên xa rời
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát xa rời
Bát nhã ba la mật, trải
hằng sa kiếp thật hành
tài thí,
pháp thí và
thiền định, rồi đem
công đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Người nầy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vẫn không bằng phước một ngày
tài thí,
pháp thí,
thiền định,
hồi hướng Vô thượng Bồ đề của
thiện nam,
thiện nữ ở trong
Bát nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật hồi hướng là
hồi hướng đệ nhứt. Nếu rời
Bát nhã ba la mật hồi hướng thì chẳng gọi là
hồi hướng. Thế nên muốn được
Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải học
Bát nhã ba la mật hồi hướng.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát xa rời
Bát nhã ba la mật, trải
hằng sa kiếp hòa hiệp,
tùy hỉ thiện căn của
tam thế chư Phật và của hàng
đệ tử Phật rồi
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Người nầy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nhiều không bằng phước một ngày
tùy hỉ thiện căn,
hồi hướng Vô thượng Bồ đề của
thiện nam,
thiện nữ ở trong
Bát nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
Thế nên muốn được
Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát phải học
phương tiện trong
Bát nhã ba la mật hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn!
Cứ theo lời
đức Phật đã phán dạy thì các pháp do
nhơn duyên khởi tác đều từ
vọng tưởng sanh ra, chẳng phải chơn thiệt, thế sao
thiện nam,
thiện nữ lại được
phước đức lớn?
Bạch đức Thế Tôn! Vì là pháp
nhơn duyên khởi tác thì chẳng nên được
chánh kiến nhập
pháp vị, chẳng nên được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chẳng nên được
Vô thượng Bồ đề.
- Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Vì là pháp
nhơn duyên khởi tác thì chẳng nên được
chánh kiến, nhập
pháp vị, nhẫn đến chẳng nên được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật biết pháp
nhơn duyên khởi tác cũng không, chẳng
kiên cố,
hư dối chẳng thiệt. Vì
đại Bồ Tát nầy khéo học
nội không nhẫn đến khéo
vô pháp hữu pháp không. An trụ trong mười
tám pháp không nầy,
đại Bồ Tát quán sát pháp khởi tác không, bèn chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật, lần lần được
vô lượng vô biên vô số phước đức.
- Bạch đức Thế Tôn!
Vô số cùng
vô lượng với
vô biên có gì khác nhau?
- Nầy Tu Bồ Đề!
Vô số là nói chẳng ở trong số những
pháp hữu vi hoặc
vô vi.
Vô lượng là nói chẳng lường được hoặc là
quá khứ hoặc là
vị lai hoặc là
hiện tại.
Vô biên là nói các
pháp không thể được bờ mé.
- Bạch đức Thế Tôn! Vả có sắc, thọ, tưởng, hành, thức nào cũng
vô số vô lượng vô biên chăng?
- Nầy Tu Bồ Đề! Có
nhơn duyên mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng
vô số vô lượng vô biên.
- Bạch đức Thế Tôn! Do
nhơn duyên gì mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng
vô số vô lượng vô biên?
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì
sắc không, vì thọ, tưởng, hành, thức không nên cùng
chúng sanh vô lượng vô biên.
- Bạch đức Thế Tôn! Chỉ
sắc không, chỉ thọ, tưởng, hành, thức không mà chẳng phải tất cả pháp đều không cả ư?
- Nầy Tu Bồ Đề! Phật thường nói tất cả
pháp không ư?
- Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật thường phán dạy tất cả
pháp không.
Bạch đức Thế Tôn! Các
pháp không thì tức là
vô tận vô số vô lượng vô biên.
Bạch đức Thế Tôn! Trong không đó, số chẳng thể được, lượng chẳng thể được, biên chẳng thể được. Thế nên
vô tận vô số vô lượng vô biên nghĩa không khác nhau.
- Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Những pháp ấy nghĩa chẳng khác biết nhau.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp ấy chẳng nói được.
Đức Phật dùng sức phương tiện mà
phân biệt tuyên nói, đó là
vô tận,
vô số,
vô lượng,
vô biên,
vô trước, không,
vô tướng,
vô tác, vô khởi,
vô sanh, vô diệt,
vô nhiễm,
Niết Bàn.
Dùng sức phương tiện mà
đức Phật phân biệt tuyên nói.
- Bạch đức Thế Tôn! Thật là hỉ hữu. các
pháp thiệt tướng chẳng nói được mà
đức Phật dùng sức phương tiện tuyên nói.
Cứ theo chỗ tôi hiều nghĩa của
đức Phật dạy thì tất cả pháp cũng chẳng nói được.
- Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả pháp chẳng nói được. Tướng chẳng nói được của tất cả pháp tức là không.
Tướng không đó chẳng nói được.
- Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa chẳng nói được có tăng, có giảm chăng?
- Nầy Tu Bồ Đề! Nghĩa chẳng nói được chẳng tăng, chẳng giảm.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu nghĩa chẳng nói được đó chẳng tăng chẳng giảm thì
Đàn ba la mật cũng chẳng tăng giảm, nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng chẳng tăng giảm.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
sáu ba la mật nhẫn đến pháp
bất cộng chẳng tăng tại sao
đại Bồ Tát lại được
Vô thượng Bồ đề?
- Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Nghĩa chẳng nói được đó chẳng tăng, chẳng giảm.
Đại Bồ Tát lúc
tu tập Bát nhã ba la mật, vì có sức
phương tiện nên chẳng nghĩ rằng tôi làm tăng
Bát nhã ba la mật nhẫn đến tăng
Đàn na ba la mật, mà
quan niệm rằng chỉ vì
danh tự mà gọi là
Đàn na ba la mật thôi.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Đàn na ba la mật, tâm và
thiện căn hồi hướng đúng như tướng của
Vô thượng Bồ đề, nhẫn đến lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, tâm và
hồi hướng đúng như tướng của
Vô thượng Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
Vô thượng Bồ đề?
- Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả
pháp như tướng, đây gọi là
Vô thượng Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là tất cả
pháp như tướng gọi là
Vô thượng Bồ đề?
- Nầy Tu Bồ Đề! Sắc như tướng, thọ, tưởng, hành, thức như tướng, nhẫn đến
Niết Bàn như tướng là
Vô thượng Bồ đề. Tướng như ấy cũng chẳng tăng, chẳng giảm.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát chẳng rời
Bát nhã ba la mật thường
quán sát pháp như ấy chẳng thấy có tăng, có giảm. Thế nên nghĩa
bất khả thuyết không tăng giảm,
Đàn na ba la mật nhẫn đến pháp
bất cộng cũng không tăng giảm.
Đại Bồ Tát do vì pháp bất tăng giảm nầy ứng với hạnh
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát dùng
sơ tâm được
Vô thượng Bồ đề hay là dùng
hậu tâm được
Vô thượng Bồ đề?
Bạch đức Thế Tôn!
Sơ tâm ấy chẳng đến
hậu tâm, còn
hậu tâm kia chẳng ở tại
sơ tâm. Tâm và
tâm sở chẳng
cùng chung như
vậy thì làm sao
thiện căn lại
tăng ích. Nếu
thiện căn chẳng tăng thì sao lại được
Vô thượng Bồ đề?
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì người mà Phật sẽ dùng ví dụ. Người có trí được ví dụ thì
dễ hiểu được nghĩa.
Nầy Tu Bồ Đề! Như thắp đèn, là dùng ngọn lửa
ban đầu để đốt cháy tim đèn hay là dùng ngọn lửa lúc sau?
- Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải ngọn lửa
ban đầu cháy tim đèn, cũng chẳng phải rời ngọn lửa
ban đầu. Chẳng phải ngọn lửa lúc sau cháy tim đèn, cũng chẳng phải rời ngọn lửa lúc sau.
- Nầy Tu Bồ Đề! Tim đèn ấy có bị đốt cháy không?
- Bạch đức Thế Tôn! Tim đèn ấy thiệt bị đốt cháy.
- Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát chẳng dùng
sơ tâm được
Vô thượng Bồ đề, cũng chẳng rời
sơ tâm được
Vô thượng Bồ đề, chẳng dùng
hậu tâm hậu tâm cũng chẳng rời
hậu tâm được
Vô thượng Bồ đề mà thiệt được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
đại Bồ Tát từ
sơ phát tâm thật
hành Bát nhã
ba la mật đầy đủ
thập địa, được
Vô thượng Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
thập địa mà
đại Bồ Tát đầy đủ rồi được
Vô thượng Bồ đề?
- Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đầy đủ
Càn Huệ địa,
Tánh địa, Bát Nhơn địa,
Kiến địa,
Bạc địa,
Ly Dục địa,
Dĩ Tác địa,
Bích Chi Phật địa,
Bồ Tát địa và
Phật địa. Đầy đủ những địa đó rồi
đại Bồ Tát được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát học đủ mười địa đó rồi, chẳng phải
sơ tâm cũng chẳng rời
sơ tâm, chẳng phải
hậu tâm cũng chẳng rời
hậu tâm được
Vô thượng Bồ đề mà thiệt được
Vô thượng Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Pháp
nhơn duyên ấy rất sâu: chẳng phải
sơ tâm cũng chẳng rời
sơ tâm, chẳng phải
hậu tâm cũng chẳng rời
hậu tâm được
Vô thượng Bồ đề, mà
đại Bồ Tát được
Vô thượng Bồ đề.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu tâm đã diệt, tâm ấy có sanh
trở lại chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Tâm sanh có phải là tướng diệt chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Là tướng diệt.
- Nầy Tu Bồ Đề!
Tâm tướng diệt đó, tâm là diệt chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Cũng trụ như vậy chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Cũng trụ như vậy,
như như trụ.
- Nầy Tu Bồ Đề! Tâm đó
như như trụ sẽ chứng thiệt tế chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Như thế có phải là rất sâu chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! thiệt là rất sâu.
- Nầy Tu Bồ Đề! Chỉ tâm như vậy thôi ư?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Rời tâm như vậy ư?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát có thể hành như vậy có phải hành sâu
Bát nhã ba la mật chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Đó là hành sâu
Bát nhã ba la mật.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát hành như vậy, đó là hành chỗ nào?
- Bạch đức Thế Tôn! Đó là hành mà không có chỗ hành được. Vì
đại Bồ Tát nếu
hành Bát nhã
ba la mật thì trụ trong các
pháp như, không có
quan niệm như thế: không chỗ
quan niệm, không ai
quan niệm.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát hành như vậy, đó là hành chỗ nào?
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát ấy hành chỗ
như vầy: hành trong
đệ nhứt nghĩa, vì không có tướng
sai biệt vậy.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát hành trong
đệ nhứt vô niệm, đó là tướng hành ư?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát ấy có hoại các tướng chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là không hoại các tướng?
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát ấy
hành Bát nhã
ba la mật chẳng
quan niệm tôi sẽ hoại các
pháp tướng. Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật mà chưa đầy đủ
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại,
đại từ đại bi, mười
tám pháp bất cộng thì chẳng được
Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Do vì sức
phương tiện nên
đại Bồ Tát đối với các pháp cũng chẳng nắm lấy tướng, cũng chẳng
phá hoại tướng.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát rõ biết tất cả
pháp tự tướng không.
An trụ trong
tự tướng không,
đại Bồ Tát vì
chúng sanh mà nhập
ba tam muội. Dùng
ba tam muội đó để
thành tựu chúng sanh.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát nhập
ba tam muội thành tựu chúng sanh như thế nào?
- Nầy Tu Bồ Đề! An trụ trong
ba tam muội,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh đi trong pháp tạo tác, bèn
dùng sức phương tiện dạy cho họ được
vô tác. Thấy
chúng sanh đi trong
ngã tướng, bèn
dùng sức phương tiện dạy cho họ đi trong không. thấy
chúng sanh đi trong tất cả tướng, bèn
dùng sức phương tiện dạy chọ đi trong
vô tướng.
Nầy Tu Bồ Đề! Đó là
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật ba tam muội rồi dùng
ba tam muội để
thành tựu chúng sanh”.
PHẨM MỘNG HÀNH
THỨ NĂM MƯƠI TÁM
Lúc đó Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu
đại Bồ Tát lúc
chiêm bao nhập
ba tam muội: không,
vô tướng và
vô tác tam muội, chừng có
lợi ích nơi
Bát nhã ba la mật chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu lúc ban ngày,
đại Bồ Tát nhập
ba tam muội có
lợi ích nơi
Bát nhã ba la mật thì ban đên trong
chiêm bao cũng sẽ có
lợi ích. Tại sao vậy? Vì ngày, đêm
chiêm bao đồng nhau không khác.
Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Nếu bna ngày
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật có
lợi ích Bát nhã ba la mật thì trong
chiêm bao,
hành Bát nhã
ba la mật cũng phải có lợi ích”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Trong
chiêm bao,
đại Bồ Tát hành động
tác nghiệp, những nghiệp đó có hợp thành chăng? Cứ như lời
đức Phật dạy thì tất cả
pháp như chiêm bao, vì thế chẳng nên có hợp thành. Tại sao vậy? Vì trong
chiêm bao không có pháp hợp thành, lúc thức nhớ tưởng,
phân biệt mới nên có hợp thành”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu người trong
chiêm bao giết chết
chúng sanh, khi
thức dậy nghĩ nhớ,
phân biệt hành động đó: tôi giết như thế được lắm!
Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Sự việc đó như thế nào?”
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Không có
cảnh duyên thì nghiệp chẳng sanh, không có
cảnh duyên thì tư chẳng sanh. Có duyên thì nghiệp sanh, có duyên thì tư sanh.
Tâm phát sanh ở trong
kiến văn, giác tri, chớ tâm chẳng sanh từ nơi chẳng có
kiến văn, giác tri.
Trong đây có tâm tịnh, có cấu. Thế nên vì có
cảnh duyên mà nghiệp sanh, nghiệp chẳng sanh nơi không có duyên. Vì có
cảnh duyên mà tư sanh, tư chẳng sanh nơi không có duyên”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Như lời
đức Phật nói: Tất cả nghiệp, tất cả tư đều là
tự tướng ly, sao lại bảo rằng vì có duyên nên nghiệp sanh, không duên thì nghiệp chẳng sanh. Vì có duyên nên tư sanh, không duyên thì tư sanh chẳng sanh?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì nắm lấy tướng nên có duyên thì nghiệp sanh, không duyên thì chẳng sanh. Vì nắm lấy tướng nên có duyên thì tư sanh, không duyên thì chẳng sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Nếu
đại Bồ Tát trong
chiêm bao bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ, đem
thiện căn phước đức nầy
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây có phải là thiệt
hồi hướng chăng?”
Ngài Tu Bồ Đề! Nói: “Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Hiện đây có Di Lăc
Bồ Tát đã được
đức Phật thọ ký bất thối chuyển, sẽ
thành Phật, Ngài nên hỏi
Di Lặc Bồ Tát sẽ giải đáp”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Di Lặc Bồ Tát: “Thưa Ngài
Tu Bồ Đề vừa bảo rằng hiện đây có
Di Lặc Bồ Tát đã được
đức Phật thọ ký bực
bất thối chuyển, sẽ
thành Phật. Ngài
Di Lặc Bồ Tát sẽ giải đáp”.
Di Lặc Bồ Tát bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Sẽ dùng danh
từ Di Lặc để đáp chăng? Hoặc là sắc, thọ, tưởng, hành, thức để đáp chăng? Hoặc dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức không để đáp chăng?
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể đáp được. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không chẳng thể đáp được. Tôi chẳng thấy pháp ấy có thể đáp được, cũng chẳng thấy ai hay đáp được. Tôi chẳng thấy người ấy được
thọ ký, cũng chẳng thấy pháp có thể
thọ ký, chẳng thấy nơi chỗ
thọ ký.
Tất cả các pháp ấy đều không hai, không khác”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Như lời của Ngài nói đó, là được pháp
tác chứng chăng?”
Ngài
Di Lặc Bồ Tát nói: “Như pháp của tôi nói đó, như vậy chẳng chứng”.
Lúc đó Ngài
Xá Lợi Phất nghĩ rằng:
Di Lặc Bồ Tát có
trí huệ sâu xa, từ lâu đã thật hành
sáu ba la mật, vì dùng
vô sở đắc nên
hay nói như vậy.
Bấy giờ
đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Ngươi dùng pháp ấy được
A La Hán, ngươi có thấy pháp ấy chăng?”
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chẳng thấy”.
Đức Phật dạy: “Nầy
Xá Lợi Phất Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật cũng như vậy, chẳng nghĩ rằng pháp ấy sẽ được
thọ ký, pháp ấy đã được
thọ ký, pháp ấy sẽ được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật chẳng
nghi ngờ rằng tôi được hay chẳng được mà tự
biết mình thiệt được
Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Có
đại Bồ Tát lúc hành
bố thí ba la mật, hoặc thầy
chúng sanh đói rét,
y phục rách rưới,
phát nguyện rằng: Trong
thời gian tôi hành
bố thí ba la mật đó, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự đói rét như vậy. Những đồ dùng, đồ uống ăn,
y phục, như
cõi Trời Tứ Thiên Vương,
Trời Đao Lợi, Trời
Dạ Ma,
Trời Đâu Suất,
Trời Hóa Lạc,
Trời Tha Hóa Tự tại.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
bố thí ba la mật, gần kề
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
hành trì giới ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh sát sanh, trộm cướp nhẫn đến
tà kiến, bị
chết yểu, nhiều bịnh, xấu tướng, thiếu
oai đức, nghèo hèn, tàn tật, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi
hành Trì giới ba la mật đây, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có
nghiệp ác và báo xấu như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
Trì giới ba la mật, gần kề
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
Nhẫn nhục ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh giận thù,
mắng nhiếc, đánh đập, tàn sát lẫn nhau, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
Nhẫn nhục ba la mật đây, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có những sự đó, tất cả đều xem nhau như cha, như mẹ, như
anh chị em, như
thiện tri thức, đều có
lòng từ bi.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
Nhẫn nhục ba la mật, gần kề
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành
Tinh tấn ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh lười biếng, chẳng siêng
tu pháp lành, rời bả
ba thừa Thanh Văn,
Bích Chi Phật, Phật thừ, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
Tinh tấn ba la mật, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy, tất cả đều siêng tu tinh tất, đều được
đắc độ nơi pháp
Tam thừa.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
Tinh tấn ba la mật, gần kề
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
Thiền ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh bị
ngũ cái che trùm:
dâm dục, ngủ nghỉ, điệu hối,
nghi ngờ, mất thiền, mất định, mất
vô lượng tâm, phái
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi
tu Thiền ba la mật, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi đều không có sự như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
Thiền ba la mật, gần kề
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh ngu si, mất
chánh kiến thế gian,
xuất thế gian hoặc cho rằng không nghiệp, không
nhơn duyên nghiệp, hoặc cho rằng thân là thường còn, hoặc cho rằng
đoạn diệt, hoặc nói là
vô sở hữu, phải
phát nguyện rằng: Theo tời gian tôi
hành Bát nhã
ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
Bát nhã ba la mật, gần kề
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh antrụ nơi ba tụ: một là
chánh định tụ, hai là
tà định tụ, ba là
bất định tụ, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
lục ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật.
chúng sanh trong cõi nước tôi không có
tà định tụ, cũng không có danh từ
tà tụ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần kề nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh Địa ngục,
Ngạ quỷ và
Súc sanh, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, trong cõi nước tôi không có ba
ác đạo, cũng không có danh từ ba
ác đạo.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần kề nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy mặt đất gai chông, hầm hố, gò mương rãnh nhơ uế, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật, nguyện lúc tôi
thành Phật, cõi nước tôi không có như vậy, mặt đất bằng phẳng như bàn tay.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành tư như vậy có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần kề nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
cõi nầy thuần đất, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật, nguyện lúc tôi
thành Phật, cõi nước tôi toàn
vàng ròng làm cát trải khắp.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần kề nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh luyến trước, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có
luyến trước như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần kề nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
bốn giai cấp trong
chúng sanh:
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Tỳ Xá,
Thủ Đà La, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, trong cõi nước tôi không có danh từ
bốn giai cấp.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát thấy
chúng sanh có những hạng hạm trung, thượng, có
nhà hạ, trung, thượng, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có
ưu liệt như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh có
thân hình dị biệt, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có
thân hình biệt dị nhau, tất cả đều
xinh đẹp,
đoan trang, sạch sẽ, đầy đủ
tướng mạo.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh có chúa có tôi, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, cõi nước tôi không có danh từ chúa tôi, cũng không có
hình tượng dị biệt, chỉ trừ
đức Phật Pháp vương.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như vậy, thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh chia ra sáu loài khác nhau, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, cõi nước tôi không có sáu loài, cũng không có danh từ sáu loài:
Địa ngục,
Ngạ quỷ,
Súc sanh, Nhơn loại, Chư Thần,
chư Thiên, tất cả
chúng sanh trong nước tôi đều đồng
tu hành tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh có
bốn loài: noãn, thai, thấp và
hóa sanh, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, trong cõi nước tôi tất cả
chúng sanh chỉ có
hóa sanh mà không ba thứ sanh kia.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh không có
ngũ thần thông, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước tôi đều được
ngũ thần thông.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh đại
tiểu tiện ô uế, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước tôi đều dùng
pháp hỉ làm sự ăn, trọn không có đại
tiểu tiện ô uế.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh không có
quang minh, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu Ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước tôi
thân thể đều có ánh sáng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy có
thời tiết giờ ngày, tháng, năm, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật, cõi nước tôi không co danh từ giờ, ngày, tháng, năm.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh yếu mạng, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước tôi đều sống lâu
vô lượng kiếp.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh không có
tướng hảo, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi đều đầy đủ ba mươi hai
tướng hảo.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh rời lìa
thiện căn, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi đều
thành tựu thiện căn, do
phước đức ấy mà có thể
cúng dường chư Phật mười phương.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh có
ba độc, bốn định, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật, tất cả
chúng sanh trong cõi nước tôi không có bốn bịnh hàn, nhiệt, phong, đàm, không có
ba độc tham, sân, si.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh có
ba thừa, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có
danh tự hai thừa, chỉ có thuần một thừa.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành
sáu ba la mật, thấy
chúng sanh có
tăng thượng mạn, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi không có danh từ
tăng thượng mạn.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, nghĩ
quang minh,
thọ mạng của tôi
hữu lượng số tăng thêm hữu hạn, phải
phát nguyện rằng: Lúc tôi
thành Phật,
quang minh,
thọ mạng vô lượng số tăng thêm vô hạn.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
sáu ba la mật, phải
phát nguyện rằng: Theo
thời gian tôi hành
sáu ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi
thành Phật, cõi nước tôi
hằng sa quốc độ của chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát nên nghĩ rằng dầu đường
sanh tử dài,
chúng sanh tánh nhiều, nhưng bờ
sanh tử như
hư không, bờ
chúng sanh tánh cũng như
hư không. Trong đó thiệt không có
sanh tử qua lại, cũng không có ai
giải thoát.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tu hành như
vậy thì có thể đầy đủ
sáu ba la mật, gần nhứt thiết
chủng trí.