KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ NHẤT
PHẨM TỰ
THỨ NHỨT
Tôi nghe
như vầy: Một thuở nọ
đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại thành
Vương Xá cùng với
đại Tỳ Kheo Tăng trên năm ngàn người, đều là những bậc
A La Hán đã hết
hữu lậu dứt
phiền não, tâm
được giải thoát, huệ
được giải thoát, tâm ý điều nhu, là bực
đại long tượng, chỗ làm đã xong, lợi mình đã được, sạch hết
kiết sử, bỏ gánh hoặc nghiệp, kham gánh
chánh pháp, do
chánh trí mà
được giải thoát. Riêng Ngài
A Nan là còn ở bực
hữu học,
chứng quả Tu Đà Hoàn.
Lại có năm trăm
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di thấy được
thánh đế.
Lại có hàng
đại Bồ Tát đều được những môn đà là ni và những môn
tam muội, thật
hành không,
vô tướng,
vô tác, đã được đẳng nhẫn và
vô ngại tổng trì. Đây đều là bực
ngũ thần thông không còn
giải đãi, đã rời bỏ
danh lợi,
thuyết pháp không cầu báo,
lời nói ra tất được
mọi người kính tin, chứng
thâm pháp nhẫn được sức
vô úy,
giải thoát tất cả ma hạnh
nghiệp chướng, khéo tuyên nói pháp
nhơn duyên. Từ
vô số kiếp
đến nay, các Ngài phát
thệ nguyện lớn,
nhan sắc hòa vui thường thưa hỏi trước,
lời nói dịu dàng, ở giữa
đại chúng tự tại không sợ, từng khéo
thuyết pháp từ
vô số ức kiếp, biết rõ các
pháp như ảo, như diệm, như bóng trăng trong nước, như
hư không, như vang, như bóng, như mộng, như thành
càn thát bà, như tượng trong gương, như
biến hóa, đã được
vô ngại vô úy biết rõ
tâm hành của
chúng sanh dùng
trí huệ vi diệu mà
cứu độ chúng. Các Ngài đã
thành tựu đại nhẫn
vô ngại như thật, nguyện
lãnh thọ vô lượng thế giới của chư Phật, tưởng niệm đến
vô lượng thế giới, chư Phật
chánh định thường
hiện tiền, có thể thỉnh
vô lượng chư Phật, có thể dứt những
kiến chấp và các
phiền não, xuất sanh và du hí trăm ngàn muôn
tam muội. Hàng
đại Bồ Tát đây
thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Danh hiệu của các Ngài là:
Bạt Đà Là
Bồ Tát, Kế Na Na Dà La
Bồ Tát,
Đạo Sư Bồ Tát,
Na La Đạt
Bồ Tát, Tinh Đắc
Bồ Tát,
Thủy Thiên Bồ Tát, Chủ Thiên
Bồ Tát,
Đại Ý Bồ Tát, Ých Ý
Bồ Tát,
Tăng Ý Bồ Tát, Bất Hư Kiến
Bồ Tát, Thiện Tấn
Bồ Tát, Thế Thắng
Bồ Tát, Thường Cần
Bồ Tát, Bất Xả
Tinh Tấn Bồ Tát, Nhựt Tạng
Bồ Tát, Bất Khuyết Ý
Bồ Tát,
Quán Thế Âm Bồ Tát,
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Chấp Bửu Ấn
Bồ Tát, Thường Cử Thủ
Bồ Tát,
Từ Thị Bồ Tát, có trăm ngàn muôn ức
na do tha đại Bồ Tát như vậy. Hàng
đại Bồ Tát nầy đều là bực
nhất sanh bổ xứ nối ngôi Phật.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn tự trải tòa
sư tử rồi
ngồi kiết già ngay thẳng nhiếp niệm nhập tất cả môn
vương tam muội. Sau đó
đức Phật an tường xuất định dùng
thiên nhãn nhìn xem
thế giới trọn thân
mỉm cười, từ tướng thiên bức luân dưới
lòng bàn chân phóng ra sáu trăm muôn ức
quang minh. Từ mười ngón chân, hai mắt cá, hai bắp chân, hai gối, hai vế, eo, lưng, rún, bụng, hông, ngực, chữ vạn, vai, cánh tay, mười ngón tay, cổ, miệng, bốn mươi răng, mũi, mắt, tai,
bạch hào,
nhục kế, mỗi chỗ trên thân Phật phóng sáu trăm muôn ức
quang minh. Từ những
quang minh nầy phát ra
quang minh lớn chiếu khắp
Đại Thiên thế giới, rồi chiếu đến
hằng sa thế giới của chư Phật ở
mười phương, từ đây
quang minh lại chiếu
vượt qua hằng sa thế giới khắp
mười phương. Nếu
chúng sanh nào gặp được
quang minh nầy thời
quyết định được
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tất cả lỗ lông khắp thân của Phật cũng đều
mỉm cười phóng quang minh chiếu khắp cõi
Đại Thiên suốt đến
hằng sa thế giới ở
mười phương. Nếu
chúng sanh nào gặp được
quang minh nầy thời
quyết định được
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đức Thế Tôn lại
phóng quang minh thường chiếu khắp cõi
Đại Thiên suốt đến
hằng sa thế giới ở
mười phương. Nếu
chúng sanh nào gặp được
quang minh nầy thời
quyết định được
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đức Thế Tôn mỉm cười vui vẻ hiện tướng lưỡi rộng dài
trùm khắp Đại Thiên thế giới, phóng ra
vô lượng ngàn muôn ức
quang minh. Mỗi
quang minh nầy
hóa thành hoa báu ngàn cánh màu
hoàng kim. Trên hoa báu đều có
Hóa Phật ngồi kiết già tuyên nói sáu phép
ba la mật.
Chúng sanh nào
nghe được thời
quyết định được
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Quang minh nầy cũng chiếu đến
hằng sa thế giới ở
mười phương và cũng hiện hoa báu
Hóa Phật thuyết pháp như vậy.
Bấy giờ
đức Phật vẫn ngồi trên tòa
sư tử mà nhập
sư tử du hí tam muội. Do
thần lực của Phật, cả
Đại Thiên thế giới đều
chấn động sáu cách, làm cho mọi loài đều hòa vui.
Trong cõi
Đại Thiên nầy, hàng
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh và
bát nạn đều được sanh lên
cõi trời Tứ Vương đến
trời Tha Hóa Tự Tại. Các vị
Thiên Tử nầy tự biết
túc mạng đều rất
vui mừng đồng đến chỗ
đức Phật ngự,
đảnh lễ chân Phật rồi ngồi qua một phía.
Hằng sa thế giới ở
mười phương cũng
chấn động sáu cách, các loài
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh và
bát nạn đều được sanh lên sáu
cõi trời Dục Giới.
Bấy giờ
chúng sanh ở cõi
Đại Thiên nầy, kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ điên được tỉnh, kẻ loạn được định, kẻ bịnh được lành, kẻ tàn tật được hết tật nguyền, kẻ rách được được mặc, kẻ
đói khát được
ăn uống.
Tất cả mọi loài đều phát
thiện tâm xem nhau như
cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt, đồng
thực hành mười
nghiệp đạo lành, tịnh tu
phạm hạnh không phạm
lỗi lầm, lòng họ
điềm nhiên khoái lạc như
Tỳ Kheo nhập
đệ tam thiền. Họ đều được
trí huệ tốt giữ mình theo
giới luật không làm tổn não kẻ khác.
Đức Thế Tôn ngự trên tòa
sư tử,
quang minh sắc tướng oai đức nguy nguy
tôn nghiêm bực nhứt, hơn cả
Đại Thiên cùng
hằng sa thế giới ở
mười phương, như
núi Tu Di cao sáng hơn tất cả núi non.
Lúc
đức Thế Tôn đem thân thường
hiển thị cho
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên, nhơn chúng cùng hàng
phi nhơn và
chư Thiên ở
Dục giới,
Sắc giới đem những
thiên hoa,
thiên hương, thiên
anh lạc đến rải trên
đức Phật. Những hoa hương báu nầy dừng ở
hư không hóa thành đài báu lớn thòng những
chuỗi ngọc cùng lọng báu nhiều màu giăng trùm
Đại Thiên thế giới, do đây nên toàn cõi
Đại Thiên thành màu
hoàng kim, đến
hằng sa thế giới ở
mười phương cũng như vậy.
Chúng sanh ở
cõi nầy và
chúng sanh ở
thế giới mười phương đều tự cho là
đức Phật chỉ riêng
thuyết pháp cho mình.
Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, miệng Phật
phóng quang minh chiếu khắp
Đại Thiên thế giới. Do
quang minh nầy mà
chúng sanh đồng thấy chư Phật và
Tăng chúng trong
hằng sa thế giới ở
mười phương.
Chúng sanh ở
hằng sa thế giới ở
mười phương kia cũng thấy Phật
Thích Ca Mâu Ni và
đại chúng ở cõi
Đại Thiên nầy.
Phương đông qua khỏi
hằng sa thế giới có cõi Đa Bửu của Phật Bửu Tích.
Đức Phật đây
hiện đương giảng
Bát nhã ba la mật cho
chư Đại Bồ Tát. Nơi đó có
Bồ Tát hiệu Phổ Minh thấy
quang minh thấy
chấn động lại thấy thân Phật
Thích Ca Mâu Ni, Ngài liền đến bạch hỏi
duyên do với Phật Bửu Tích.
Đức Phật Bửu Tích bảo đó là
thần lực của Phật
Thích Ca Mâu Ni ở
cõi Ta Bà cách đây
hằng sa thế giới về phương Tây. Đức
Thích Ca Mâu Ni sắp vì chúng
đại Bồ Tát mà tuyên nói
Bát nhã ba la mật.
Phổ Minh Bồ Tát bạch
đức Phật Bửu Tích rằng nay tôi muốn đến
lễ bái cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và gặp gỡ các vị
đại Bồ Tát. Phật Bửu Tích thuận cho và trao
hoa sen ngàn cánh màu hoàng kinh cho
Phổ Minh Bồ Tát mà dặn rằng ông đem hoa nầy
cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông nên
nhứt tâm trân trọng đến
cõi Ta Bà. Các vị
Bồ Tát sanh vào cõi đó thật là khó bằng khó hơn.
Phổ Minh Bồ Tát lãnh
hoa sen ngàn cánh màu
hoàng kim từ tạ Phật Bửu Tích rồi cùng
vô số đại chúng đem những hoa hương phan lọng đến chỗ Phật
Thích Ca Mâu Ni đảnh lễ bạch rằng,
đức Phật Bửu Tích gởi lời thăm và
dâng hoa cúng dường.
Phật
Thích Ca Mâu Ni nhận
hoa sen ngàn cánh màu
hoàng kim rồi rải vụt qua phương Đông
cúng dường hằng sa chư Phật.
Hoa sen ấy
hóa thành hằng sa đóa hoa khắp cả
hằng sa thế giới ở phương Đông. Trên mỗi đóa
hoa sen đều có
Hóa Bồ Tát ngồi kiết già nói sáu
pháp ba la mật, ai
nghe được tiếng pháp nầy thời
quyết định đến
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại chúng theo
Phổ Minh Bồ Tát cũng đem hoa hương phan lọng của mình dâng
cúng Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phương Nam qua khỏi
hằng sa thế giới có cõi Ly Nhứt Thiết Ưu của Phật
Vô Ưu Đức. Nơi đó có
Bồ Tát hiệu Ly Ưu.
Phương Tây qua khỏi
hằng sa thế giới có cõi Diệt Ác của Phật Bửu Sơn. Nơi đó có
Bồ Tát hiệu Nghĩa Ý.
Phương Bắc qua khỏi
hằng sa thế giới có cõi Thắng Quốc của
đức Phật Thắng Vương. Nơi đó có
Bồ Tát hiệu Đức Thắng.
Hạ phương qua khỏi
hằng sa thế giới có cõi Thiện Quốc của
đức Phật Thiện Đức. Nơi đó có
Bồ Tát hiệu Hoa Thượng.
Thượng phương qua khỏi
hằng sa thế giới có cõi Hỉ Quốc của
đức Phật Hỉ Đức. Nơi đó có
Bồ Tát hiệu Đức Hỉ.
Chư
Bồ Tát trên đây ở cõi mình thấy
quang minh thấy
chấn động.v.v…liền cùng
đại chúng cầm hoa hương phan lọng đến
Ta Bà thế giới kính lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni đồng như
Phổ Minh Bồ Tát ở phương Đông.
Lúc bấy giờ
Đại Thiên thế giới thành
trang nghiêm vi diệu như Hoa Tích
thế giới cùng Phổ Hoa
thế giới.
Đức Như Lai biết hàng
đại Bồ Tát cùng chư Nhơn Thiên
Bát bộ ở
hằng sa thế giới đều đã
vân tập bèn gọi Ngài
Xá Lợi Phất mà dạy rằng: “Đại
Bồ Tát muốn dùng nhứt thiết
chủng trí để biết tất cả pháp, thời phải
tu tập Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát muốn dùng nhứt thiết
chủng trí để biết tất cả pháp, thời phải
tu tập Bát nhã ba la mật như thế nào?”
Phật dạy: “Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát dùng
phương pháp chẳng an trụ mà an trụ trong
Bát nhã ba la mật.
Bởi không có pháp để xả bỏ nên được đầy đủ
Đàn ba la mật, vì người cho, kẻ nhận và tài vật đều
bất khả đắc.
Vì tội và không tội đều
bất khả đắc nên đầy đủ
Thi ba la mật.
Vì tâm chẳng động nên đầy đủ
Sằn đề ba la mật.
Vì
thân tâm tinh tấn chẳng giải đải nên đầy đủ Tỳ lê gia
ba la mật.
Vì chẳng
tán loạn, chẳng say mê nên đầy đủ
Thiền na ba la mật.
Vì chẳng
chấp trước tất cả pháp nên đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát dùng
phương pháp chẳng an trụ mà an trụ trong
Bát nhã ba la mật. Vì
bất sanh nên đầy đủ
bốn niệm xứ,
bốn chánh cần,
bốn như ý túc, năm căn,
năm lực, bẩy
giác phần,
tám thánh đạo phần,
không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội,
bốn thiền,
bốn tâm vô lượng, bốn
định vô sắc, tám bội xả,
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ, mười nhứt thiết xứ.
Cũng đầy đủ chín pháp tưởng thây chết: Tưởng sình, tưởng nứt, tưởng máu chảy, tưởng thúi rã, tưởng bầm xanh, tưởng dòi trùng ăn, tưởng nát, tưởng xương trắng, tưởng cháy tan.
Cũng đầy đủ tám
chánh niệm:
Niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm thí xả,
niệm thiên, niệm
xuất tức, nhập tức, niệm chết.
Cũng đầy đủ mười pháp quán: Quán
vô thường, quán khổ,
quán vô ngã, quán món ăn nhơ nhớp,
quán thế gian tất cả đều không đáng vui ưa, quán chết,
quán bất tịnh, quán đoạn trừ, quán
ly dục, quán diệt tận.
Cũng đầy đủ mười một trí:
Pháp trí, tỷ trí,
tha tâm trí,
thế trí,
khổ trí,
tập trí,
diệt trí,
đạo trí,
tận trí,
vô sanh trí, như thiệt trí.
Cũng đầy đủ ba môn
tam muội:
Tam muội có giác có quán,
tam muội không giác có quán,
tam muội không giác
không quán.
Cũng đầy đủ ba căn: Căn chưa biết sắp biết, căn biết, căn đã biết.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn biết tất cả
công đức của Phật như
mười trí lực, bốn
vô sở úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ,
đại bi, thời phải
tu tập Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn đầy đủ
đạo huệ, muốn dùng
đạo huệ để đầy đủ đạo chủng huệ, muốn dùng đạo chủng huệ để đầy đủ
nhất thiết trí, muốn dùng
nhất thiết trí để đầy đủ
nhất thiết chủng trí, muốn dùng
nhất thiết chủng trí để dứt
tập khí phiền não, đều phải
tu tập Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát phải học tập
Bát nhã ba la mật như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn lên
địa vị Bồ Tát, muốn hơn bực
Thanh Văn,
Duyên Giác, muốn trụ bực
bất thối chuyển, muốn có
lục thần thông, muốn biết
chí hướng của tất cả
chúng sanh, muốn có
trí huệ hơn tất cả của tất cả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, muốn được những môn
đà la ni, những môn
tam muội, đều phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dùng tâm
tùy hỉ để hơn trên những sự
bố thí,
trì giới,
tam muội thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến,
giải thoát tam muội của tất cả những người cầu
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát thật hành phần ít
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ, mà muốn do sức
phương tiện hồi hướng để được
vô lượng vô biên công đức, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn thật hành
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn
đời đời thân thể giống như thân Phật đủ ba mươi hai
tướng đại nhơn,
tám mươi tùy hình hảo, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn sanh nhà
Bồ Tát, muốn được bực đồng chơn, muốn chẳng rời Phật, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn đem những
thiện căn cúng dường chư Phật và
cung kính tôn trọng tán thán tùy ý thành tựu, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn làm cho
chúng sanh thỏa nguyện về những thứ uống, ăn,
y phục, giường nệm, đèn đuốc, phòng nhà, xe cộ, thuốc men, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn làm cho
chúng sanh ở
hằng sa thế giới đứng vững nơi sáu môn
ba la mật, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn gieo một
thiện căn ở trong
phước điền của Phật còn mãi đến khi được
vô thượng chánh đẳng chánh giác vẫn không hết, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn chư Phật ở
mười phương ca ngợi danh hiệu của mình, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn vừa
phát ý thời thân liền đến
hằng sa thế giới ở
mười phương, muốn vừa
phát âm thời
tiếng vang đến
hằng sa thế giới ở
mười phương, đều phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn
thế giới của chư Phật chẳng dứt diệt, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn an trụ nơi
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
không không đại không,
đệ nhất nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không,
tánh không,
tự tướng không,
chư pháp không,
vô sở đắc không,
vô pháp không,
hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn biết
nhơn duyên,
thứ đệ duyên,
duyên duyên và
tăng thượng duyên của các pháp, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn biết
pháp như,
pháp tánh và thiệt tế của các pháp, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát phải như
vậy mà an trụ trong
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn đếm biết số
vi trần của những hòn núi, của những quả đất trong
Đại Thiên thế giới, muốn phân tích một sợ lông làm trăm phần rồi lấy một phần lông chấm hết nước của những suối ao, sông ngòi, biển cả trong
Đại Thiên thế giới mà
không kinh động đến loài thủy tộc, muốn thổi một cái liền tắt ngọn lửa cháy khắp
Đại Thiên thế giới như
hỏa tai lúc
kiếp tận, muốn lấy một ngón tay ngăn dừng những cơn gió lớn có thể làm tan nát
Đại Thiên thế giới đến tất cả những
núi Tu Di như thổi tan đống cỏ mục, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn
một lần ngồi kiết già có thể làm cho
thân thể khắp tất cả
không gian trong
Đại Thiên thế giới, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn lấy một sợ lông vít những
núi Tu Di trong
Đại Thiên thế giới ném qua khỏi
vô số thế giới phương khác mà
không kinh động đến
chúng sanh trong đó, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn đem một suất ăn, một bộ
y phục, một nén hương, một cành hoa, một cây đèn, một
tràng phan, một
bảo cái mà có thể
cúng dường đầy đủ khắp chư Phật cùng
chư Tăng trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn làm cho
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương đều đủ
giới hạnh,
tam muội,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, cùng làm cho được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, nhẫn đến được
vô dư Niết Bàn, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật lúc
bố thí nên biết rõ rằng:
Bố thí như vậy được
quả báo rất lớn,
bố thí như vậy được sanh vào giòng quý hiền,
bố thí như vậy được sanh lên trời Tứ Vương,
trời Đao Lợi, trời
Dạ Ma,
trời Đâu Suất,
trời Hóa Lạc,
trời Tha Hóa,
bố thí như vậy được nhập
sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền,
không vô biên xứ,
thức vô biên xứ,
vô sở hữu xứ,
phi hữu tưởng, phi
vô tưởng xứ, nhơn
bố thí nầy được
bát thánh đạo phần, nhơn
bố thí nầy được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, lúc
bố thí,
do nơi sức
huệ phương tiện nên có thể đầy đủ
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật và
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát lúc
bố thí,
do nơi sức
huệ phương tiện nên đầy đủ sáu
ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Do vì người
bố thí, kẻ thọ và tài vật đều
bất khả đắc nên có thể đầy đủ
Đàn na ba la mật. Vì có tội cùng chẳng tội đều chẳng dính mắc nên đầy đủ
Thi la ba la mật. Vì tâm
bất động nên đầy đủ
Sằn đề ba la mật. Vì
thân tâm tinh tấn nên đầy đủ Tỳ lê gia
ba la mật. Vì chẳng
tán loạn chẳng
say đắm nên đầy đủ
Thiền na ba la mật. Vì biết tất cả pháp đều
bất khả đắc nên đầy đủ
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn được
công đức của chư Phật
quá khứ,
hiện tại,
vị lai, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn đến bờ kia của
pháp hữu vi và
pháp vô vi, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn biết
pháp như,
pháp tướng và
biên tế vô sanh của các pháp
quá khứ,
hiện tại,
vị lai, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn đứng trước tất cả hàng
Thanh Văn,
Duyên Giác, muốn hầu hạ chư Phật, muốn làm nội quyến của chư Phật, muốn được
quyến thuộc lớn, muốn được
quyến thuộc Bồ Tát, muốn
thanh tịnh báo đại thí, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn những tâm xan lẫn,
phá giới,
sân khuể,
giải đãi,
tán loạn,
ngu si đều chẳng
phát khởi, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn làm cho tất cả
chúng sanh đứng vững nơi phước
bố thí, nơi phước
trì giới, nơi phước
tu tập thiền định, nơi phước khuyến đạo, nơi tài phước và pháp phước, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn được
ngũ nhãn thời phải học
Bát nhã ba la mật. Đây là
ngũ nhãn:
nhục nhãn,
thiên nhãn,
huệ nhãn,
pháp nhãn và
Phật nhãn.
Đại Bồ Tát muốn dùng
thiên nhãn thấy chư Phật trong
hằng sa thế giới, muốn dùng
thiên nhĩ nghe pháp của chư Phật ở
mười phương tuyên nói, muốn
hiểu biết tâm của Phật, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn
nghe được pháp của chư Phật ở
mười phương tuyên nói, nghe xong nhớ mãi đến khi thành
Vô thượng Bồ đề vẫn không quên, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn thấy
thế giới của chư Phật ở
quá khứ, thấy
thế giới của chư
Phật vị lai và
thế giới ở
mười phương của chư
Phật hiện tại, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn nghe
mười hai bộ kinh, từ
khế kinh trường hàng đến
luận nghị kinh mà hàng
Thanh Văn nghe cùng chẳng nghe, nghe xong đều muốn
đọc tụng,
thọ trì trọn vẹn, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Chánh pháp của chư Phật
quá khứ,
hiện tại,
vị lai trong
hằng sa thế giới đã tuyên nói, hiện nay nói và sẽ nói, được nghe xong đều muốn tin
lãnh thọ trì, thật hành và giảng nói lại cho người khác, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn đem
quang minh chiếu khắp những chỗ mà mặt nhựt mặt nguyệt chẳng chiếu đến trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn làm cho tất cả
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, những nơi không có
danh hiệu Phật, Pháp, Tăng, đều được
chánh kiến nghe
danh hiệu Tam Bảo, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn làm cho
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, do
năng lực của ta mà kẻ mù được thấy, kể điếc được nghe, kẻ rách được lành, kẻ
đói khát được no đủ, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn làm cho
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, do
năng lực của ta mà những loài trong ba
ác đạo đều được thân người, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn làm cho
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương, do
năng lực của ta mà được đứng vững nơi giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
Vô thượng Bồ đề, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn học
oai nghi của chư Phật, muốn nhìn ngó như
tượng vương, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát nguyện rằng khiến cho tôi lúc đi, chân tôi cách đất bốn ngón tay không đạp trên đất, tôi sẽ được
vô lượng chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, từ
Tứ Thiên Vương đến
Sắc Cứu Cánh Thiên cung kính vây quanh cùng đi đến dưới cội
bồ đề. Tôi sẽ ngồi dưới cội
bồ đề và
chư Thiên sẽ trải tòa cho tôi. Muốn được như vậy, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Lại nguyện lúc tôi
thành Phật, chỗ tôi đi đứng ngồi nằm đều sẽ là
Kim cang. Muốn được vậy, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nếu muốn ngày
xuất gia liền
thành đạo Vô thượng Bồ đề, liền
chuyển pháp luân có
vô lượng vô số chúng sanh xa lìa trần cấu ở trong các pháp được
pháp nhãn thanh tịnh, có
vô lượng vô số chúng sanh vì chẳng thọ tất cả pháp nên được
vô lậu giải thoát, có
vô lượng vô số chúng sanh được
bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn lúc
thành Phật sẽ dùng
vô lượng vô số Thanh Văn làm Tăng, lúc nói một thời pháp, tất cả
chư Tăng nầy liền được quả
A La Hán, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn lúc
thành Phật, sẽ dùng
vô lượng vô số Bồ Tát làm Tăng, lúc nói một thời pháp, tất cả
chư Tăng nầy đều được
bất thối chuyển, được
vô lượng thọ mạng đầy đủ
quang minh, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn lúc
thành Phật, trong
thế giới không có danh từ
tam độc,
dâm dục,
sân khuể,
ngu si, tất cả
chúng sanh đều
thành tựu chánh trí huệ,
thiện thí,
thiện giới,
thiện định, thiện
phạm hạnh, thiện
từ bi, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn lúc
thành Phật, sau khi
nhập Niết Bàn,
chánh pháp không diệt tận, cũng không có danh từ diệt tận, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn lúc
thành Phật,
chúng sanh ở
hằng sa thế giới ở
mười phương nghe
danh hiệu của ta
quyết định sẽ được
Vô thượng Bồ đề, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn được những
công đức như vậy, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
PHẨM PHỤNG BÁT
THỨ HAI
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Nếu
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật có thể làm những
công đức ấy thời bốn vị
Thiên Vương đều rất
vui mừng mà nghĩ rằng
chúng ta phải đem bốn cái bát dâng lên
Bồ Tát như những bát mà
chư Thiên Vương
thuở trước đã dâng cho Phật
thuở trước.
Lúc đó
trời Đao Lợi nhẫn đến
trời Tha Hóa Tự Tại cũng rất
hoan hỷ mà nghĩ rằng
chúng ta phải hầu hạ
cúng dường Bồ Tát để hàng
Thiên chúng được thêm đông và
giảm bớt hàng
A tu la.
Chư Thiên trong cõi
Đại Thiên, từ cõi Tứ Vương đến cõi Sắc
Cứu Cánh đều rất
vui mừng mà nghĩ rằng
chúng ta phải cẩn thỉnh
Bồ Tát chuyển pháp luân.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc vị
đại Bồ Tát nầy thật
hành Bát nhã
ba la mật Tăng ích sáu ba la mật, các
thiện nam tử và
thiện nữ nhơn đều tự
vui mừng mà nghĩ rằng
chúng ta phải làm
cha mẹ,
vợ con,
thân tộc,
họ hàng cho người nầy.
Lúc đó trời Tứ Vương nhẫn đến
trời Sắc Cứu Cánh đều rất
vui mừng mà tự nghĩ rằng
chúng ta phải
tìm cách làm cho
Bồ Tát nầy
xa lìa dâm dục, từ
sơ phát tâm luôn là đồng nhơn, chớ để vị nầy hội hiệp với
sắc dục, nếu hưởng thọ
ngũ dục thời sẽ
chướng ngại sanh về
Phạm Thiên huống là quả
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát cần phải là người đoạn dục
xuất gia mới đáng được
Vô thượng Bồ đề, chẳng phải là người không đoạn dục mà được”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát cần phải có
cha mẹ,
vợ con,
thân tộc,
họ hàng chăng?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! hoặc có
Bồ Tát có
cha mẹ,
vợ con,
thân tộc. Hoặc có
Bồ Tát từ khi
sơ phát tâm đoạn dục tu hạnh đồng nhơn mãi đến thành
Vô thượng Bồ đề chẳng phạm
sắc dục. Hoặc có
Bồ Tát dùng
phương tiện lực hưởng thọ
ngũ dục xong mới
xuất gia thành
Vô thượng Bồ đề.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi khéo dùng phương
ảo thuật hóa ra cảnh
ngũ dục rồi
vui đùa trong đó. Ý ông nghĩ thế nào, nhà
ảo thuật có thiệt hưởng thọ cảnh
ngũ dục ấy chăng?”
- Bạch đức Thế Tôn! Không ạ.
- Nầy
Xá Lợi Phất! cũng vậy
đại Bồ Tát dùng
phương tiện lực hóa ra cảnh
ngũ dục rồi ở trong đó hưởng thọ để độ
chúng sanh.
Đại Bồ Tát nầy chẳng nhiễm
ngũ dục, lại dùng nhiều cách
quở trách ngũ dục:
Ngũ dục là lửa cháy,
ngũ dục là nhơ nhớp
xấu xa,
ngũ dục là thứ
phá hoại,
ngũ dục như oán thù.
Do đây nên biết rằng vì độ
chúng sanh mà
Bồ Tát hưởng thọ
ngũ dục.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát phải
thực hành Bát nhã ba la mật thế nào?
- Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy
danh tự Bồ Tát, chẳng thấy
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy là mình có thật
hành Bát nhã
ba la mật cùng
không thật hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát là
danh tự Bồ Tát, tánh vốn rỗng không. Trong
tánh không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, rời lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có
tánh không,
tánh không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Tại sao vậy? Vì chỉ có
danh tự gọi là
bồ đề, chí có
danh tự gọi là
Bồ Tát, chỉ có
danh tự gọi là
tánh không.
Tại sao vậy? Vì
thật tánh của các pháp vốn là không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy cũng chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, cũng chẳng thấy cấu, chẳng thấy tịnh.
Tại sao vậy? Vì
danh tự là những pháp do
nhơn duyên hòa hiệp làm thành, chỉ do nhớ tưởng
phân biệt giả danh mà nói thôi.
Vì thế nên
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật chẳng thấy tất cả
danh tự. Vì chẳng thấy nên chẳng
chấp trước.
PHẨM TU TẬP ĐÚNG
THỨ BA
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát phải
suy nghĩ như thế nầy:
Bồ Tát chỉ có
danh tự, Phật cũng chỉ có
danh tự,
Bát nhã ba la mật cũng chỉ có
danh tự, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ có
danh tự.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như ngã
chúng sanh thọ giả, mạng giả, sanh giả,
dưỡng dục giả,
tác giả, sử
tác giả,
khởi giả, sử
khởi giả,
thọ giả, sử
thọ giả,
tri giả,
kiến giả đều là
bất khả đắc tất cả. Vì là
bất khả đắc nên rỗng không. Vì rỗng không nên chỉ dùng
danh tự để tuyên nói.
Đại Bồ Tát cũng thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy: Chẳng thấy ngã, chẳng thấy
chúng sanh, nhẫn đến chẳng thấy
tri giả,
kiến giả. Nhữnh
danh tự tuyên nói đó cũng chẳng thấy.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy hơn trên tất cả hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, trừ
trí huệ của Phật, do vì
tánh không,
tác dụng bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy đối với những
pháp danh tự cùng chỗ mà
danh tự dính đến, tất cả đều
bất khả đắc.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát có thể thật hành như vậy đó là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Ví như số
Tỳ Kheo nhiều bằng số tre, lau, mía, mè, lúa, đậu, lùm rừng đầy cả cõi
Diêm Phù Đề, tất cả đều có
trí huệ như
Xá Lợi Phất,
Đại Mục Kiền Liên, đem tất cả
trí huệ ấy muốn
so sánh với
trí huệ của
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, thời không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn ức, nhẫn đến không bằng một phần ví dụ.
Tại sao vậy? Vì dùng
trí huệ nầy mà
Bồ Tát độ thoát tất cả
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Không nói đến như
Xá Lợi Phất và
Đại Mục Kiền Liên đầy cõi
Diêm Phù Đề, mà
ví như đầy cả cõi
Đại Thiên, hoặc nhẫn đến đầy cả
hằng sa thế giới ở
mười phương, đem tất cả
trí huệ ấy muốn
so sánh với
trí huệ của
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật cũng không bằng một phần trăm, nhẫn đến không bằng một phần ví dụ.
Nầy
Xá Lợi Phất! “Đại
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, một ngày
tu tập trí huệ hơn trên tất cả hàng
Thanh Văn, Bích Chi Phật”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Trí huệ của hàng
Thanh Văn,
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
trí huệ của hàng
Bích Chi Phật,
trí huệ của Phật, những
trí huệ nầy không
sai biệt, không chống
trái nhau, đều là
vô sanh tánh không. Nếu đã là tánh
vô sanh tánh không, chẳng
trái nhau thời là không sai khác nhau. Cớ sao
đức Thế Tôn lại dạy rằng
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật một ngày
tu tập trí huệ hơn trên tất cả hàng
Thanh Văn, Bích Chi Phật?”
Phật nói: “Đại
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật một ngày
tu tập trí huệ,
tâm niệm rằng: Ta
hành đạo trí huệ lợi ích tất cả
chúng sanh, ta sẽ dùng nhứt thiết
chủng trí biết rõ tất cả pháp,
độ thoát tất cả
chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ thế nào,
trí huệ của hành
Thanh Văn,
Bích Chi Phật có những sự như vậy không?”
-Bạch dức Thế Tôn! Không ạ.
-Nầy
Xá Lợi Phất! Hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật có
quan niệm nầy: Ta sẽ thành
Vô thượng Bồ đề độ thoát tất cả
chúng sanh, làm cho họ đều được
vô dư y Niết Bàn, như
chư đại Bồ Tát không?
-Bạch đức Thế Tôn! Không ạ.
-Nầy
Xá Lợi Phất! Do những cớ trên đây nên biết rằng
trí huệ của hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật sánh với
trí huệ của
đại Bồ Tát không bằng một phần trăm, nhẫn đến không bằng một phần
thí dụ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật có
quan niệm nầy: Ta thật hành
sáu ba la mật,
thành tựu chúng sanh,
trang nghiêm Phật độ, đầy đủ
mười trí lực, bốn
vô sở úy, bốn vô nggại trí, mười
tám pháp bất cộng,
độ thoát vô lượng vô số chúng sanh đến quả
Niết Bàn như
chư đại Bồ Tát không?
-Bạch đức Thế Tôn! Không ạ.
-Nầy
Xá Lợi Phất!
Ví như loài đom đóm kia chẳng bao giờ nghĩ rằng mình như mạt nhựt mọc lên chiếu ánh sáng khắp
Diêm Phù Đề.
Cũng vậy, hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng có
quan niệm như
đại Bồ Tát: Ta thật hành
sáu ba la mật nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng được
Vô Thượng Bồ đề, độ
vô lượng vô số chúng sanh đến quả Niết Bàn”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “ Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà đến bực
bất thối chuyển thanh tịnh Phật đạo?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm thật hành
sáu ba la mật, an trụ nơi
pháp không,
vô tướng,
vô tác, có thể vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà đến bực
bất thối chuyển thanh tịnh Phật đạo”.
-Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát an trụ bực nào mà có thể làm
phước điền cho hàng
Thanh Văn, Bích Chi Phật?
-Nầy
Xá Lợi Phất! Từ lúc
sơ phát tâm thật hành
sáu ba la mật nhẫn đến lúc ngồi
đạo tràng thành
Vô thượng Bồ đề,
trong khoảng thời gian ấy, luôn thường làm
phước điền cho hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Tại sao vậy? Vì do có
nhân duyên của
đại Bồ Tát nên những
thiện pháp của
thế gian phát sanh. Như những pháp
thập thiện,
ngũ giới,
bát quan trai,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
lục ba la mật, thật bát không,
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng,
đại từ,
đại bi, nhứt thiết
chủng trí, do
nhơn duyên của
đại Bồ Tát mà những pháp nầy
hiện ra trên
thế gian. Cũng do
nhơn duyên của
Bồ Tát mà những đại tộc
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Cư Sĩ,
Tứ Thiên Vương nhẫn đến
Phi Phi Tưởng Thiên,
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật và
Phật Đà đều
xuất hiện trên
thế gian.
-Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát có
thanh tịnh xong phước
bố thí chăng?
-Nầy
Xá Lợi Phất! Không có. Vì bổn lai đã
thanh tịnh xong.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát là vị
đại thí chủ bố thí những
thiện pháp như
thập thiện,
ngũ giới nhẫn đến nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào
đại Bồ Tát tu tập đúng
Bát nhã ba la mật tương ứng với
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tu tập đúng
sắc không,
tu tập đúng thọ, tưởng, hành, thức không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tu tập đúng nhãn không,
tu tập đúng nhĩ, tĩ, thiệt, thân,
tâm không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng
sắc không,
tu tập đúng thinh, hương, vị, xúc,
pháp không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng
nhãn giới không, đúng
sắc giới không,
nhãn thức giới không, nhãn đến
tu tập đúng
ý thức giới không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng
khổ không,
tu tập đúng tập, diệt, đạo không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng
vô minh không,
tu tập đúng hành, thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng tất cả
pháp không, hoặc
hữu vi hoặc
vô vi, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tu tập đúng
tánh không,
tự tướng không,
chư pháp không,
vô sở đắc không,
vô pháp không,
hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không bảy môn không, đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc
tu tập bảy môn không,
đại Bồ Tát chẳng thấy sắc hoặc
tương ứng hay không
tương ứng, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc
tương ứng hay không
tương ứng, chẳng thấy sắc hoặc sanh tướng hay
diệt tướng, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh tướng hay
diệt tướng, chẳng thấy sắc hoặc cấu tướng hay tịnh tướng, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc cấu tướng hay tịnh tướng, chẳng thấy sắc hiệp với thọ, chẳng thấy thọ hiệp với tưởng, chẳng thấy tưởng hiệp với hành, chẳng thấy hành hiệp với thức. Tại sao vậy? Vì tánh của các pháp vốn rỗng không nên không có pháp nào hiệp với pháp nào.
Nầy
Xá Lợi Phất! Trong
sắc không chẳng có sắc, trong thọ không, tưởng không,
hành không, thức không chẳng có thọ, tưởng, hành, thức.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì sắc rỗng không nên không có tướng não hoại, vì thọ rỗng không nên không có tướng thọ, vì tưởng rỗng không nên không có tướng biết, vì hành rỗng không nên không có tướng
tác giả, vì thức rỗng không nên không có tướng
tri giác. Tại sao vậy? Vì chẳng phải sắc khác với không, cũng chẳng phải không khác với sắc, mà sắc chính là không và không chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức chính là không và không chính là thọ, tưởng, hành, thức.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tướng rỗng không của các pháp vốn chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng phải
quá khứ,
vị lai, hiên tại, vì thế nên trong
không pháp ấy không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không có nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có
nhãn giới, nhẫn đến không có
ý thức giới, không có
vô minh cũng không có
vô minh tận, nhẫn đến không có
lão tử, cũng không có
lão tử tận, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí cũng không có đắc, không có
Tu Đà Hoàn và quả
Tu Đà Hoàn, không có
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán và Phật, cũng không có quả
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A Na Hán, quả
Bích Chi Phật và quả Phật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy
Bát nhã ba la mật hoặc
tương ứng hay chẳng
tương ứng, cũng chẳng thấy
Đàn na ba là mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật và
Thiền na ba la mật hoặc
tương ứng hay chẳng
tương ứng.
Đại Bồ Tát cũng chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, chẳng thấy sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng thấy
nhãn giới nhẫn đến
ý thức giới hoặc
tương ứng hay chẳng
tương ứng.
Đại Bồ Tát cũng chẳng thấy
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí hoặc
tương ứng hay chẳng
tương ứng.
Như trên đây, nầy
Xá Lợi Phất! Phải biết đó là
đại Bồ Tát tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, không chẳng hiệp với không,
vô tướng chẳng hiệp với
vô tướng,
vô tác chẳng hiệp với
vô tác. Tại sao vậy? Vì không,
vô tướng,
vô tác chẳng có hiệp với chẳng hiệp.
Đại Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nhập vào
tự tướng không của các pháp, nhập xong nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
Bồ Tát chẳng cho là hiệp chẳng cho là chẳng hiệp, sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng hiệp với
tiền tế cũng chẳng hiệp với
hậu tế, chẳng hiệp với
hiện tại. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát chẳng thấy
tiền tế, chẳng thấy
hậu tế cũng chẳng thấy
hiện tại.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì tham tế là danh từ rỗng không, nên
tiền tế chẳng hiệp với
hậu tế,
hậu tế chẳng hiệp với
tiền tế,
hiện tại chẳng hiệp với
tiền tế,
hậu tế,
tiền tế với
hậu tế cũng chẳng hiệp với
hiện tại. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật. Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật,
nhứt thiết trí chẳng hiệp với đời
quá khứ, đời
vị lai, đời
hiện tại. Tại sao vậy? Vì đời
quá khứ, đời
vị lai, đời
hiện tại đều còn chẳng thể thấy huống là có hiệp. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể thấy, vì nhãn đến ý chẳng thể thấy, vì sắc nhẫn đến pháp chẳng thể thấy, vì
nhãn thức nhẫn đến
ý thức chẳng thể thấy nên sắc, thọ đến
ý thức đều chẳng hiệp với
nhứt thiết trí. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật đều chẳng thể thấy nên
Đàn na đến
Bát nhã ba la mật chẳng hiệp với
nhất thiết trí. Vì
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần nhẫn đến
thập lực,
thập bát bất cộng pháp đều chẳng thể thấy nên tất cả đều chẳng hiệp với
nhất thiết trí. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng
tu tập sắc là hữu hay là vô, chẳng
tu tập sắc là
vô thường hay là
vô thường, chẳng
tu tập sắc là khổ hay là lạc, chẳng
tu tập sắc là ngã hay là
phi ngã, chẳng
tu tập sắc là
tịch diệt hay là chẳng phải
tịch diệt, chẳng
tu tập sắc là rỗng không hay là chẵng phải rỗng không, chẳng
tu tập sắc là
hữu tướng hay là
vô tướng, chẳng
tu tập sắc là
hữu tác hay là
vô tác; thọ, tưởng. hành. thức cũng như vậy. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng có
quan niệm là ta thật hành hay chẳng thật
hành Bát nhã
ba la mật, cũng chẳng có
quan niệm chẳng phải thật hành cùng chẳng phải chẳng thật hành. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Chẳng vì
Bát nhã ba la mật mà
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật. Cũng chẳng vì
Đàn na,
Thi la,
Sằn đề, Tỳ lê gia,
Thiền na ba la mật, cũng chẳng vì bực
bất thối chuyển thành tựu chúng sanh thanh tịch
Phật độ, cũng chẳng vì
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng pháp mà
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật. Cũng chẳng vì
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
không không,
đại không,
đệ nhất nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không,
tánh không,
chư pháp không,
tự tướng không,
bất khả đắc không,
vô pháp không,
hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không, cũng chẳng vì
như pháp tánh, thiệt tế mà
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật. Tại sao vậy? Vì lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng
phá hoại tướng của các pháp.
Tu tập đúng như đây thời gọi là
tương ứng vơi
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Chẳng vì
thiên nhãn,
thiên nhĩ, tha tâm,
túc mạng,
thần túc,
lậu tận sáu
môn thần thông mà
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật. Tại sao vậy? Vì lúc thật hành,
đại Bồ Tát còn chẳng thấy
Bát nhã ba la mật huống là thấy
Bồ Tát thần thông. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng
quan niệm rằng ta dùng
như ý thần thông bay đến phương Đông cùng bay đến khắp
mười phương để
cúng dường hằng sa chư Phật, cũng chẳng
quan niệm rằng ta dùng
thiên nhĩ nghe
hằng sa chư Phật mười phương thuyết pháp, dùng
tha tâm thông trí biết
tâm niệm của
hằng sa chúng sanh mười phương, dùng
túc mạng trí biết
việc làm của
vô lượng đời của
hằng sa chúng sanh ở
mười phương, cũng chẳng nghĩ rằng ta dùng
thiên nhãn thấy
hằng sa chúng sanh chết đây sanh về nơi kia. Như đây gọi là
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật tương ứng với
Bát nhã ba la mật và cũng có thể
độ thoát vô lượng vô số chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát có thể thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy thời
ác ma không hại được, tất cả sự việc
thế gian đều
tùy ý muốn,
hằng sa chư Phật mười phương đều
ủng hộ cho
Bồ Tát nầy chẳng sa vào hành
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Chư Thiên từ Tứ Vương đến
Sắc Cứu Cánh Thiên cũng đều
ủng hộ Bồ Tát giúp thêm
tự tại. Nếu
Bồ Tát nầy đã có
trọng tội thì hiện đời bị báo nhẹ. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát nầy dùng lòng
bình đẳng lợi ích chúng sanh. Như đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát mau được các môn
đà la ni và các môn
tam muội, sanh về đâu cũng thường gặp được chư Phật mãi đến khi
chứng quả Vô thượng Bồ đề không bao giờ rời chư Phật. Đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có pháp nầy với pháp nầy hoặc hiệp hay chẳng hiệp nhau, hoặc bằng hay chẳng bằng nhau. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát chẳng thấy có pháp nầy cùng những pháp khác hoặc hiệp hoặc bằng hay chẳng hiệp chẳng bằng. Đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng ta sẽ chóng được
pháp tánh hoặc chẳng được. Tại sao vậy? Vì
pháp tánh chẳng phải là tướng được. Đây gọi là
tu tập tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào ra ngoài
pháp tánh, cũng chẳng nghĩ rằng
pháp tánh khác với các pháp, cũng chẳng nghĩ rằng pháp nầy có thể được
pháp tánh hay chẳng được. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát chẳng thấy dùng pháp nầy có thể được
pháp tánh hay chẳng được
pháp tánh.
Đại Bồ Tát tu tập đúng như đây thời gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật,
pháp tánh chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với
pháp tánh. Đây gọi là
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật,
nhãn giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với
nhãn giới,
sắc giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với
sắc giới,
nhãn thức giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với
nhãn thức giới, nhẫn đến
ý giới,
pháp giới và
ý thức giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với
ý giới,
pháp giới và
ý thức giới.
Tương ứng không như vậy gọi là
tương ứng đệ nhứt.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Bồ Tát thật
hành pháp không chẳng sa vào hành
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, có thể
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh, chóng được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Trong các môn
tương ứng,
thời tương ứng với
Bát nhã ba la mật là tối
đệ nhứt, là tối tôn,
tối thắng, tối
diệu không có gì trên. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy thật hành
tương ứng với
Bát nhã ba la mật, chính đó là không,
vô tướng,
vô tác. Phải biết rằng
Bồ Tát nầy như đã được
thọ ký hoặc đã gần được
thọ ký.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tương ứng như vậy có thể làm
lợi ích cho
vô lượng vô số chúng sanh.
Đại Bồ Tát nầy cũng chẳng nghĩ rằng ta
tương ứng với
Bát nhã ba la mật, chư Phật sẽ
thọ ký cho ta, ta sẽ gần được
thọ ký, ta sẽ
thanh tịnh Phật độ, sẽ
thành Phật chuyển pháp luân. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy chẳng thấy có pháp nào ra ngoài
pháp tánh, cũng chẳng thấy có pháp nào thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng thấy có pháp nào được
Phật thọ ký, chẳng thấy có pháp nào
thành Phật chuyển pháp luân. Tại sao vậy? Vì lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng sanh tướng ngã, tướng
chúng sanh nhẫn đến chẳng sanh tướng
tri giả, tướng
kiến giả. Tại sao vậy? Vì
chúng sanh rốt ráo bất sanh bất diệt,
chúng sanh không có sanh, không có diệt. Nếu các pháp đã không có tướng
sanh diệt thời làm sao lại có pháp thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nên vì
đại Bồ Tát chẳng thấy
chúng sanh đó chính là thật
hành Bát nhã
ba la mật. Tại sao vậy? Vì
chúng sanh là bất thọ, là
bất khả đắc, là ly, chính đây là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Trong các môn
tương ứng của
đại Bồ Tát,
tương ứng với không là tối đệ nhất.
Tương ứng với không đây hơn tất cả các môn
tương ứng.
Đại Bồ Tát tu tập pháp không như vậy có thể phát sanh
đại từ, chẳng sanh những tâm san lẫn,
phạm giới,
sân hận, giải đải,
tán loạn, vô trí”.