KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ TÁM
PHẨM VÔ SANH
THỨ HAI MƯƠI SÁU
Bấy giờ Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Đại
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật quán các pháp.
Những gì là Bồ Tát? Những gì là
Bát nhã ba la mật? Những gì là quán?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì
vô thượng Chánh đẳng Cánh giác phát
đại tâm, người nầy gọi là
Bồ Tát. Người nầy cũng biết tất cả pháp, tất cả tướng mà cũng
chấp trước, biết tướng của sắc nhẫn đến biết tướng của
bất cộng pháp cũng chẳng chấp trước”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Những gì là tất cả pháp tướng?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu dùng
danh tự,
nhơn duyên hòa hiệp v.v…để biết các pháp, đây là sắc, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp, là
pháp hữu vi, là
pháp vô vi. Dùng tướng
danh tự ngữ ngôn để biết các
pháp thời gọi là biết các
pháp tướng.
Như lời
Xá Lợi Phất hỏi, những gì là
Bát nhã ba la mật? Vì
viễn ly nên gọi là
Bát nhã ba la mật.
Những pháp gì viễn ly? Viễn lý ấm giới nhập.
Viễn ly ba la mật.
Viễn ly không, Do đây nên
viễn ly gọi là
Bát nhã ba la mật.
Lại
viễn ly tứ niệm xứ đến
viễn ly mười
tám pháp bất cộng,
viễn ly nhứt thiết trí. Do đây nên
viễn ly gọi là
Bát nhã ba la mật.
Những gì là quán? Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát quán sắc chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải
vô ngã, chẳng phải không, chẳng phải
bất không, chẳng phải tướng, chẳng phải
vô tướng, chẳng phải ác, chẳng phải
vô tác, chẳng phải
tịch diệt, chẳng phải chẳng
tịch diệt, chẳng phải ly, chẳng phải chẳng ly, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp, tất cả môn
tam muội đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật quán các pháp”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
nhơn duyên gì mà sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc; nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh là chẳng phải nhứt thiết chủng trí?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc
sắc tướng rỗng không. Trong
sắc không ấy không có sắc cũng không có sanh, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy. Do đây nên sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh là chẳng phải nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
nhơn duyên gì mà nói rằng sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng hai là chẳng phải nhứt thiết chủng trí?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Có sắc là có chẳng hai, nhẫn đến có nhứt thiết
chủng trí là có chẳng hai. Tất cả những pháp nầy đều chẳng hiệp, chẳng tan,,
không sắc, không hình, không đối một tướng. Do đây nên sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, nhẫn đên nhứt thiết
chủng trí chẳng hai là chẳng phải nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “ Do
nhơn duyên gì mà nói rắng sắc nầy vào trong
pháp số vô nhị, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí vào trong
pháp số vô nhị ?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc chẳng khác
vô sanh,
vô sanh chẳng khác sắc, sắc tức là
vô sanh,
vô sanh tức là sắc. Do đây nên sắc vào trong
pháp số vô nhị. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy”.
Bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật quán các
pháp như vậy thời thấy sắc
vô sanh, vì
rốt ráo tịnh vậy. Thấy thọ, tưởng, hành, thức
vô sanh vì
rốt ráo tịnh vậy. Nhẫn đến thấy Phật và
Phật pháp vô sanh vì
rốt ráo tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Cứ theo nghĩa của
Tu Bồ Đề nói mà tôi được nghe thời sắc là chẳng sanh, thọ, tưởng, hành, thức là chẳng sanh, nhẫn đến Phật và
Phật pháp cũng chẳng sanh.
Nếu như vậy thời lẽ ra nay chẳng nên được
Tu Đà Hoàn Tu Đà Hoàn quả,
Tư Đà Hàm Tư Đà Hàm quả,
A Na Hàm A Na Hàm quả,
A La Hán A La Hán quả,
Bích Chi Phật Bích Chi Phật đạo, chẳng nên được
đại Bồ Tát nhứt thiết
chủng trí, cũng không có
lục đạo chúng sanh sai khác, cũng chẳng nên được
đại Bồ Tát năm thứ
bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu tất cả pháp là tướng chẳng sanh, cớ chi
Tu Đà Hoàn tu đạo đế để dứt bă kiết sử?
Tư Đà Hàm tu đạo đế để làm mỏng tham, sân, si?
A Na Hàm tu đạo đế để dứt năm hạ phần kiết sử?
A La Hán tu đạo đế để dứt năm thượng phần kiết sử?
Bích Chi Phật vì
pháp Bích Chi Phật mà
tu đạo đế ? Cớ chi
đại Bồ Tát vì thọ khổ thay
chúng sanh mà làm những việc khó làm? Cớ
chi Phật chuyển pháp luân?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Tôi chẳng muốn cho pháp
vô sanh có sở đắc. Tôi cũng chẳng muốn cho trong pháp
vô sanh có được
Tu Đà Hoàn và
Tu Đà Hoàn quả, nhẫn đến có được
Bích Chi Phật và
Bích Chi Phật đạo. Tôi cũng chẳng muốn trong pháp
vô sanh có
Bồ Tát làm việc khó làm để thay khổ chio
chúng sanh,
Bồ Tát cũng chẳng dùng tâm khó làm để
hành đạo.
Tại sao vậy? Vì nếu sanh tâm khó,
tâm khổ thời chẳng thể
lợi ích cho
vô lượng vô số chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nay đây
Bồ Tát thương xót chúng sanh. Với
chúng sanh,
Bồ Tát tưởng như
cha mẹ, anh em, con cháu, cũng tưởng như thân mình. Thế nên
Bồ Tát có thể
lợi ích cho
vô lượng vô số chúng sanh, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy.
Bồ Tát nên sanh tâm như thế nầy: Như ngã
bất khả đắc, nơi tất cả thứ, tất cả chỗ,
nội pháp,
ngoại pháp cũng vậy, đều
bất khả đắc. Nếu sanh tâm như trên đây thời
Bồ Tát không có tâm khó,
tâm khổ. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát nầy nơi tất cả thứ, tất cả chỗ, tất cả pháp đều chẳng
lãnh thọ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tôi cũng chẳng muốn cho trong
vô sanh có Phật chứng
Vô thượng Bồ đề, trong
vô sanh có
chuyển pháp luân, tôi cũng chẳng muốn dùng pháp
vô sanh để đắc đạo”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Nay
Tu Bồ Đề muốn khiến dùng pháp
sanh đắc đạo hay là dùng pháp
vô sanh đắc đạo?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Tôi chẳng muốn khiến dùng pháp
sanh đắc đạo”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Vậy thời
Tu Bồ Đề muốn khiến dùng pháp
vô sanh đắc đạo?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Tôi cũng chẳng muốn khiến dùng pháp
vô sanh đắc đạo”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Như lời
Tu Bồ Đề nói thời là
vô tri, vô đắc”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Có tri, có đắc không phai hai pháp. Nay theo
danh tự thế gian nên có tri, có đắc. Theo
danh tự thế gian nên có
Tu Đà Hoàn đến có chư Phật.
Trong
đệ nhứt nghĩa đế thời
vô tri, vô đắc, cũng không
Tu Đà Hoàn đến không chư Phật”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Nếu theo
danh tự thế gian nên có tri, có đắc, thời sáu loài sai khác cũng do
danh tự thế gian mà có, chẳng phải là
đệ nhứt nghĩa đế”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Theo
danh tự thế gian nên có tri, có đắc. Sáu loài sai khác cũng do
danh tự thế gian mà có, chẳng phải là
đệ nhứt nghĩa đế.
Tại sao vậy? Vì trong
đệ nhứt nghĩa đế không có nghiệp, không có báo, không có sanh, không có diệt, không có tịnh, không có cấu”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Pháp chẳng
sanh sanh chăng? Pháp
sanh sanh chăng?”
Ngià
Tu Bồ Đề nói: “Tôi chẳng muốn khiến pháp chẳng
sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp sanh sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Pháp chẳng sanh nào không muốn khiến sanh?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc là pháp chẳng sanh,
tự tánh nó rỗng không chẳng muốn khiến sanh. Nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề là pháp chẳng sanh,
tự tánh nó rỗng không chẳng muốn khiến sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Sanh sanh hay chẳng sanh?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Chẳng phải sanh, cũng chẳng phải chẳng
sanh sanh.
Tại sao vậy? Vì sanh và chẳng sanh là hai pháp chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc không hình, không đối, một tướng tức là không có tướng. Do đây nên chẳng phải
sanh sanh cũng chẳng phải chẳng sanh sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: ”Tu
Bồ Đề khéo thích nói pháp
vô sanh và tướng vô sanh”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Tôi thích nói pháp
vô sanh và tướng
vô sanh.
Tại sao vậy? Vì những pháp
vô sanh, tướng
vô sanh và những lời thích nói đều chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối, một tướng, tức là không có tướng”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Tu
Bồ Đề thích nói pháp chẳng sanh, cũng thích nói tướng chẳng sanh, những lời thích nói nầy cũng chẳng sanh”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng như vậy. Vì sắc chẳng
sanh nhẫn đến
nhất thiết chủng trí chẳng sanh. Do đây nên tôi thích nói pháp chẳng sanh, cũng thích nói tướng chẳng sanh, lời thích nói nầy cũng chẳng sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Trong những người
thuyết pháp,
Tu Bồ Đề đáng là người trên hết. Vì có hỏi
điều chi,
Tu Bồ Đề đều đáp được cả”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì các
pháp không có
sở y vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Thế nào là các
pháp không có sở y?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc tánh thường không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa
trung gian. Nhẫn đến
nhất thiết chủng trí tánh thường không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa
trung gian. Do đây nên tất cả
pháp không chỗ y tựa, vì tánh thường không vậy.
Ngài
Xá Lợi Phất! Thế nên
đại Bồ Tát lúc thật hành sáu môn
ba la mật phải
tịnh sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến phải tịnh
nhất thiết chủng trí”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Thế nào là
đại Bồ Tát lúc thật hành sáu môn
ba la mật tịnh
Bồ Tát đạo?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Có
thế gian Đàn na
ba la mật. Có
xuất thế gian Đàn na
ba la mật. Năm
ba la mật kia cũng đều có
thế gian và có
xuất thế gian”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Thế nào là
thế gian Đàn na
ba la mật? Thế nào là
xuất thế gian Đàn na
ba la mật?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu
đại Bồ Tát làm
thí chủ có thể
bố thí cho
Sa Môn,
Bà La Môn và người nghèo cùng đi xin: cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần mặc cho mặc, cần chỗ ở cho chỗ ở, cần tiền bạc,
châu báu, hoa hương,
cần cầu thuốc mem cho thuốc mem, tất cả thứ
cần dùng đều
cấp cho.
Lúc
bố thí,
Bồ Tát nghĩ rằng tôi cho họ nhận, tôi chẳng
bỏn xẻn tham lam, tôi là
thí chủ, tôi có thể thí xả tất cả, tôi
y theo lời Phật dạy mà thật hành
Đàn na ba la mật.
Bố thí xong,
Bồ Tát lúc dùng pháp đã được,
cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề mà nghĩ rằng
nhân duyên bố thí nầy khiến
chúng sanh được sự
an lạc đời nay, về sau khiến họ được sự
an lạc nhập Niết Bàn.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Bồ Tát nầy
bố thí có ba điều
chướng ngại: Một là
ngã tướng, hai là tha tướng, ba là thí tướng. Vì
bố thí mà có
ba tướng nầy nên gọi là
thế gian Đàn na
ba la mật.
Tại sao gọi là thế gian? Vì ở trong
thế gian chẳng động dời, chẳng siêu xuất vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là
xuất thế gian Đàn na
ba la mật? Chính là ba phần
thanh tịnh vậy.
Những gì là ba? Lúc
bố thí,
đại Bồ Tát chẳng thấy có mình, chẳng thấy có người nhận, chẳng có thấy vật
bố thí, cũng chẳng trong mong
báo đáp. Đây gọi là
đại Bồ Tát ba phần
thanh tịnh Đàn na ba la mật.
Lại lúc
bố thí,
đại Bồ Tát bố thí cho tất cả
chúng sanh mà không thấy có
chúng sanh, đem sự
bố thí nầy
hồi hướng Vô thượng Bồ đề nhẫn đến không thấy có
pháp tướng vi tế.
Đây gọi là
xuất thế gian Đàn na
ba la mật.
Tại sao gọi là
xuất thế gian? Vì ở trong
thế gian có thể động dời, có thể siêu xuất vậy.
Năm môn
ba la mật kia nếu có
sở y thời gọi là
thế gian,
nếu không sở y thời gọi là
xuất thế gian,
ngoài ra như đã giải nói về
Đàn na ba la mật.
Lúc thật hành sáu môn
ba la mật,
đại Bồ Tát tịnh
Bồ Tát đạo như vậy”
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Thế nào là
đại Bồ Tát vì đạo
Vô thượng Bồ đề?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Tứ
niệm xứ là
đại Bồ Tát vì đạo
Vô thượng Bồ đề, nhẫn đến
Bát thánh đạo phần,
giải thoát môn,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, tất cả
tam muội môn và
đà la ni môn,
thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, đây gọi là
đại Bồ Tát vì đạo
Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Xá Lợi Phất khen: “Lành thay
lành thay!Nầy Tu Bồ Đề! “Gì là
ba la mật lực?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Là
Bát nhã ba la mật lực. Vì
Bát nhã ba la mật hay sanh tất cả pháp lành của
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát và Phật.
Bát nhã ba la mật hay nạp thọ tất cả pháp lành, hoặc pháp
Thanh Văn,
pháp Bích Chi Phật, hoặc pháp
Bồ Tát và
Phật pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Quá khứ chư Phật thật
hành Bát nhã
ba la mật được
Vô thượng Bồ đề.
Vị lai chư Phật cũng thật
hành Bát nhã
ba la mật sẽ được
Vô thượng Bồ đề.
Hiện tại nay, chư Phật trong các
quốc độ mười phương cũng thật
hành Bát nhã
ba la mật được
Vô thượng Bồ đề.
Nếu lúc nghe nói
Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng
nghi ngờ, chẳng cho là khó, thời nên biết
đại Bồ Tát nầy thật hành
Bồ Tát đạo.
Người thật hành
Bồ Tát đạo vì cứu tất cả
chúng sanh nên tâm chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh, bởi
vô tâm đắc vậy.
Bồ Tát phải thường chẳng rời niệm nầy: Chính là
đại bi niệm”.
Ngài
Xá Lợi Phất lại hỏi: “Muốn khiến
đại Bồ Tát thường chẳng rời niệm nầy: chính là
đại bi niệm. Nếu
đại Bồ Tát thường chẳng rời
đại bi niệm, thời nay đây tất cả
chúng sanh sẽ làm
Bồ Tát. Vì tất cả
chúng sanh cũng chẳng rời các niệm vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Lành thay,
lành thay! Xá Lợi Phất muốn chất vấn tôi mà
trở thành nghĩa của tôi.
Tại sao vậy? Vì
chúng sanh không có nên niệm không. Vì
chúng sanh tánh không có nên niệm tánh cũng không. Vì
chúng sanh pháp không có nên
niệm pháp cũng không. Vì
chúng sanh ly nên niệm cũng ly. Vì
chúng sanh rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Vì
chúng sanh bất
khả tri nên niệm cũng bất
khả tri.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì
sắc không có nên niệm cũng không. Vì sắc
tánh không có nên niệm tánh cũng không. Vì
sắc pháp không có nên
niệm pháp cũng không. Vì sắc ly nên niệm cũng ly. Vì sắc rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Vì sắc bất
khả tri nên niệm cũng bất
khả tri. Nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề cũng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thật hành
Bồ Tát đạo, tôi muốn khiến chẳng rời niệm nầy: chính là
đại bi niệm”.
Bấy giờ
đức Phật khen: “Lành thay,
lành thay! Đây chính là
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát. Ai muốn nói thời phải nói như vậy.
Tu Bồ Đề nói về
Bát nhã ba la mật đều là tuân thừa ý của Phật.
Đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật phải học như lời của
Tu Bồ Đề nói”.
Lúc Ngài
Tu Bồ Đề nói phẩm
Bát nhã ba la mật, cõi
Đại Thiên chấn động sáu cách.
Bấy giờ
đức Phật mỉm cười.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch hỏi
duyên do.
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Như ta nói
Bát nhã ba la mật tại
quốc độ nầy,
mười phương trong
vô lượng vô số quốc độ, chư Phật cũng nói
Bát nhã ba la mật như vậy”.
Lúc
đức Phật nói phẩm
Bát nhã ba la mật, có mười hai
na do tha Nhơn, Thiên được
vô sanh pháp nhẫn.
Lúc
mười phương chư Phật nói
Bát nhã ba la mật cũng có
vô lượng vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
PHẨM THIÊN VƯƠNG
THỨ HAI MƯƠI BẢY
Bấy giờ trong
Đại Thiên thế giới, chư vị Tứ Thiên
Thiên Vương cùng
vô số trăm ngàn ức
chư Thiên đồng đến
pháp hội.
Chư vị
Đao Lợi Thiên Vương cùng
vô số trăm ngàn ức
chư Thiên, chư vị
Dạ Ma Thiên Vương, chư vị
Đâu Suất Thiên Vương cùng
vô số trăm ngà ức
chư Thiên, chư vị
Hóa Lạc Thiên Vương cùng
vô số trăm ngàn ức
chư Thiên, chư vị
Tự Tại Thiên Vương cùng
vô số trăm ngàn ức
chư Thiên, chư vị
Phạm Thiên Vương cùng
vô số trăm ngàn ức
chư Thiên đồng đến
pháp hội.
Thân quang minh do
nghiệp báo sanh của chư vị
Tứ Thiên Vương nhẫn đến chư vị
Đại Tự Tại Thiên so với
thường quang của
đức Phật không bằng một phần muôn ức, ở bên Phật khác nào cột cháy nám sánh với đống vàng
diêm phù đàn.
Thích Đề Hoàn Nhơn, vị
Thiên Vương cõi trời Đau Lợi bạch Ngài
Tu Bồ Đề: “Chư vị
Thiên Vương đây cùng hòa hiệp đều muốn nghe
Đại Đức Tu Bồ Đề nói
Bát nhã ba la mật.
Bạch Ngài Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nên an trụ trong
Bát nhã ba la mật thế nào? Những gì là
Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát? Thế nào
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Tôi sẽ thừa thuận ý của
đức Phật mà nói
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát, như chỗ
chư đại Bồ Tát phải an trụ trong
Bát nhã ba la mật.
Nay
chư Thiên Tử nào chưa
phát tâm Vô thượng Bồ đề thời nên
phát tâm. Người nào nhập chánh vị
Thanh Văn thời chẳng thể
phát tâm Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì chướng cách với
sanh tử vậy.
Người nầy nếu
phát bồ đề tâm, tôi cũng
tùy hỉ. Vì bực thượng nhan phải nên lại cầu thượng pháp. Tôi trọn không dứt tuyệt
công đức của họ.
Nầy Kiều Thi Ca! Gì là
Bát nhã ba la mật?
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhất thiết trí để tư niệm sắc là
vô thường, là khổ, là không, là
vô ngã. Tư niệm sắc như bịnh, như mụn nhọt vỡ bể, như mũi tên ghim vào thân, làm cho
đau đớn, suy hoại, lo sợ chẳng an, vì
vô sở đắc vậy.
Tư
niệm thọ, tưởng, hành, thức đến địa, thủy, hỏa, phong không thức,
sáu đại chủng cũng như vậy, vì đều
vô sở đắc cả.
Bồ Tát lại quán sắc đến thức chủng là
tịch diệt, là ly, là
bất sanh, là
bất diệt, là bất cấu, là
bất tịnh, vì
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát đúng với tâm thứ
nhứt thiết trí quán
vô minh duyên ra các hành nhẫn đến
lão tử nhơn duyên tụ tập những sự khổ lớn, vì cũng
vô sở đắc vậy.
Đại Bồ Tát quán vì
vô minh diệt nên các hành diệt, nhẫn đến vì
sanh diệt nên
lão tử diệt. Vì
lão tử diệt nên nhóm khổ lớn
ưu bi khổ não cũng diệt, vì
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát đúng với tâm nhứt thiết
chủng trí tu
tứ niệm xứ, vì
vô sở đắc vậy. Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, vì
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí thật hành
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật, vì
vô sở đắc vậy.
Lại Kiều Thi Ca! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát quán
như vầy: Chỉ có các pháp và các pháp làm
nhơn duyên cho nhau mà có thuận ích,
tăng trưởng,
phân biệt, so tính, trong đây không có
ngã và ngã sở.
Tâm
hồi hướng của
Bồ Tát chẳng ở trong tâm
Vô thượng Bồ đề, tâm
bồ đề chẳng ở trong tâm
hồi hướng.
Ở trong tâm
Vô thượng Bồ đề, tâm
hồi hướng bất khả đắc.
Ở trong tâm
hồi hướng, tâm
Vô thượng Bồ đề bất khả đắc.
Đại Bồ Tát dù quán tất cả pháp, nhưng cũng không có pháp
khả đắc.
Đây gọi là
Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát”.
Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Thế nào là tâm
hồi hướng của
Bồ Tát chẳng ở trong tâm
Vô thượng Bồ đề, nhẫn đến ở trong tâm
hồi hướng, tâm
Vô thượng Bồ đề bất khả đắc”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Tâm
hồi hướng và tâm
Vô thượng Bồ đề chẳng phải tâm, là chẳng phải
tâm tướng.
Trong chẳng phải
tâm tướng chẳng
hồi hướng được, chẳng phải
tâm tướng nầy thường chẳng phải
tâm tướng.
Bất khả tư nghì tướng thường
bất khả tư nghì tướng. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát”.
Đức Phật khen: “Lành thay,
lành thay! Tu Bồ Đề vì
chư đại Bồ Tát mà nói
Bát nhã ba la mật,
an ổn tâm của đại Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Thế Tôn! Con phải
báo ân.
Thuở
quá khứ, chư Phật và các
đệ tử vì hàng
đại Bồ Tát nói
sáu ba la mật dạy bảo lợi ích vui mừng.
Lúc ấy đức Thế Tôn cũng ở nơi đó học được
Vô thượng Bồ đề.
Hôm nay cũng phải vì hàng
Bồ Tát nói
sáu ba la mật,
dạy bảo lợi ích vui mừng cho họ được
Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói với
Thích Đề Hoàn Nhơn: “Nầy Kiều Thi Ca! Nay Ngài nên nghe chỗ nên an trụ cùng chỗ chẳng nên an trụ trong
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát.
Nầy Kiều Thi Ca! Sắc sắc rỗng không, đến thức thức rỗng không,
Bồ Tát Bồ Tát rỗng không.
Sắc không và
Bồ Tát không nầy chẳng hai, chẳng khác, đến thức không và
Bồ Tát không chẳng hai, chẳng khác.
Nầy Kiều Thi Ca! Trong
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát nên an trụ như vậy.
Lại nhãn nhãn rỗng không, đến ý rỗng không,
Bồ Tát Bồ Tát rỗng không.
Nhãn
không nhẫn đến
Bồ Tát không chẳng hai, chẳng khác.
Lục trần, sắc đến pháp,
lục đại,
đại địa đến thức đại thức đại rỗng không,
Bồ Tát Bồ Tát rỗng không.
Thức
đại không và
Bồ Tát không chẳng hai, chẳng khác.
Vô minh vô minh rỗng không đến
lão tử lão tử rỗng không.
Vô minh diệt
vô minh diệt rỗng không đến
lão tử diệt
lão tử diệt rỗng không,
Bồ Tát Bồ Tát rỗng không.
Vô minh không đến
lão tử diệt không và
Bồ Tát không chẳng hai, chẳng khác.
Nầy Kiều Thi Ca! Trong
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát phải an trụ như vậy.
Lại
Đàn na ba la mật đến nhứt thiết
chủng trí nhứt thiết
chủng trí rỗng không,
Bồ Tát Bồ Tát rỗng không.
Nhứt thiết
chủng trí không và
Bồ Tát không chẳng hai, chẳng khác.
Nầy Kiều Thi Ca! Trong
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát phải an trụ như vậy.
Thế nào trong
Bát nhã ba la mật chỗ chẳng nên an trụ?
Nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vì có sở đắc vậy. Chẳng nên an trụ trong nhãn đến ý. Chẳng nên an trụ trong sắc đến pháp. Chẳng nên an trụ trong
nhãn thức đến
ý thức. Chẳng nên an trụ trong nhãn xúc,
nhơn duyên, sanh thọ, vì có sở đắc vậy.
Chẳng nên an trụ trong
Đàn na ba la mật đến
nhứt thiết trí, vì có sở đắc vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát đối với sắc là thường, sắc là
vô thường, sắc là lạc, là khổ, sắc là tịnh, sắc là
bất tịnh, sắc là ngã, sắc là
vô ngã, sắc là không, sắc là
bất không, sắc là
tịch diệt, sắc là chẳng
tịch diệt, sắc là ly, sắc là chẳng ly, đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy. Như với sắc, với thọ, tưởng, hànht, thức cũng vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát đối với
vô vi tướng và
phước điền của quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến của Phật đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Ở trong
sơ phát tâm: Tôi phải đầy đủ sáu môn
ba la mật, sẽ nhập
Bồ Tát vị, sẽ ở bực
bất thối chuyển, có đủ năm
thần thông,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Có đủ năm
thần thông rồi tôi sẽ đến
vô lượng vô số cõi Phật để
lễ kính cúng dường, nghe
Phật thuyết pháp, nghe xong nói lại cho người khác. Tất cả như vậy,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Như
quốc độ nghiêm tịnh của chư Phật, tôi cũng sẽ
nghiêm tịnh quốc độ như vậy, sẽ
thành tựu chúng sanh khiến họ
nhập Phật đạo, sẽ đến chỗ của
vô lượng vô số chư Phật để
tán thán kính trọng cúng dường phát tâm Vô thượng Bồ đề. Tất cả
như vầy,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Tôi sẽ sanh
ngũ nhãn, sẽ sanh tất cả
tam muội, tất cả
đà la ni, sẽ được nhập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng, sẽ đầy đủ
đại từ đại bi, ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình. Tất cả như vậy,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Đây là bát nhơn, là
tín hành nhơn, là
pháp hành nhơn,
Tu Đà Hoàn tột bảy đời,
Tu Đà Hoàn mạng chung sạch
phiền não,
Tu Đà Hoàn trung gian nhập Niết Bàn, người nầy hướng
Tư Đà Hàm quả chứng,
Tư Đà Hàm nhứt lai nhập Niết Bàn, người nầy hướng
A Na Hàm quả chứng,
A Na Hàm nơi kia
nhập Niết Bàn, người nầy hướng
A La Hán quả chứng,
A La Hán đời nay nhập
vô dư Niết Bàn, người nầy là
Bích Chi Phật, trụ
Bồ Tát địa, vượt hơn
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, được
đạo chủng trí, nhứt thiết
chủng trí, đắc
Vô thượng Bồ đề, sẽ
chuyển pháp luân,
làm Phật sự độ
vô lượng chúng sanh nhập Niết Bàn. Tất cả như vậy,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Được
tứ như ý túc, trụ trong
tam muội nầy sẽ trụ thọ
số kiếp như
số cát sông Hằng, sẽ được ba mươi hai tướng, mỗi mỗi tướng có trăm phước
trang nghiêm,
thế giới của ta như
hằng sa thế giới mười phương,
Đại Thiên thế giới của ta
thuần kim cang,
cây bồ đề của ta sẽ phát ra
mùi thơm làm cho
chúng sanh dứt sạch
thân bịnh và tâm bịnh,
chúng sanh nghe
mùi thơm nầy sẽ sạch tham, sân, si, cũng không có tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, tất cả sẽ được
Vô thượng Bồ đề. Tất cả như vậy,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Sẽ khiến trong
thế giới của tôi không có
danh tự sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không có
danh tự Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, không có
danh tự tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp, cũng không có
danh tự Tu Đà Hoàn đến Phật. Tất cả như vậy,
đại Bồ Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Tại sao vậy? Vì chư Phật lúc đắc
Vô thượng Bồ đề, tất cả pháp đề
vô sở đắc vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên ở trong
Bát nhã ba la mật,
Bồ Tát chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Ngài
Xá Lợi Phất nghĩ rằng nay đây
Bồ Tát phải an trụ trong
Bát nhã ba la mật như thế nào?”
Biết
tâm niệm của Ngài
Xá Lợi Phất, Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy
Xá Lợi Phất!
Cứ theo ý Ngài thời chư Phật an trụ chỗ nào?”
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Chư Phật không có chỗ an trụ.
Chư Phật chẳng an trụ trong sắc, chẳng an trụ trong thọ, tưởng, hành, thức, chẳng an trụ trong tánh
hữu vi, trong tánh
vô vi, chẳng an trụ trong
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp, chẳng an trụ trong nhứt thiết
chủng trí.
Trong
Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát phải an trụ như chư Phật an trụ. Nơi tất cả pháp chẳng phải an trụ chẳng phải chẳng an trụ.
Trong
Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát phải học như vậy, phải an trụ nơi pháp chẳng trụ”.
Bấy giờ trong
pháp hội có
chư Thiên Tử nghĩ rằng
lời nói câu chữ của hàng
Dạ Xoa còn có thế rõ biết được,
Đại Đức Tu Bồ Đề luận nói,
giải thích Bát nhã ba la mật,
chúng tôi trọn chẳng biết chi cả.
Ngài
Tu Bồ Đề biết
tâm niệm của
Chư Thiên Tử nên hỏi rằng: “Các Ngài chẳng hiểu, chẳng biết ư?”
Chư Thiên Tử nói: “Bạch Đại Đức!
Chúng tôi chẳng hiểu, chẳng biết”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đúng ra thời các Ngài phải nên chẳng biết, còn tôi thì không có luận nói, nhẫn đến tôi không nói đến một chữ, cũng không có người nghe.
Tại sao vậy? Vì những chữ chẳng phải
Bát nhã ba la mật. Trong
Bát nhã ba la mật không có thích giả.
Vô thượng Bồ đề của chư Phật không có chữ, không có lời.
Nầy các Ngài! Như
đức Phật biến hóa thành hóa nhơn. Hoá nhơn nầy lại
biến hóa bốn bộ chúng Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Như-lai-tạng
Tiểu thừa,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di. Ở giữa
bốn bộ chúng nầy, hóa nhơn
thuyết pháp.
Ý các Ngài nghĩ thế nào, trong đó có thuyết giả, có thích giả, có
trí giả chăng?“
Chư thiên Tử nói: “Bạch Đại Đức! Không có”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy các Ngài! Tất cả pháp đều như
biến hóa, trong đó không có thuyết giả, không có thích giả cũng không có
tri giả.
Nầy các Ngài!
Ví như có người
chiêm bao thấy
Phật thuyết pháp, ý các Ngài nghĩ thế nào, trong đó có thuyết giả,
thính giả và
tri giả chăng?”
Chư Thiên Tử nói: “Bạch Đại Đức! Không có”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy các Ngài! Tất cả các pháp đều như
chiêm bao, không có người nói, không có người nghe, không có người biết.
Nầy các Ngài!
Ví như có hai người ở một bên bờ khe sâu
lên tiếng ca ngợi Phật, Pháp và Tăng phát ra hai vang.
Ý các Ngài nghĩ thế nào, hai vang ấy có hiểu lẫn nhau chăng?”
Chư Thiên Tử nói: “Bạch Đại Đức! Không”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy các Ngài! Tất cả pháp cũng như vang, không thuyết giả, không thích giả, không
tri giả.
Nầy các Ngài! Như nhà
ảo thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa
làm Phật và
bốn bộ chúng rồi
thuyết pháp. Ý các Ngài nghĩ thế nào, trong đó có người nói, người nghe, người biết không?”
Chư Thiên Tử nói: “Bạch Đại Đức! Không có”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nầy các Ngài! Tất cả
pháp như ảo huyễn, trong đó không có thuyết giả, thích giả, cũng không có tri giả”.
Bấy giờ
chư Thiên Tử nghĩ rằng
Đại Đức Tu Bồ Đề giải nói muốn cho
dễ hiểu mà
trở lại càng thâm, càng diệu.
Ngài
Tu Bồ Đề biết
tâm niệm của
chư Thiên Tử mà nói rằng: “Nầy các Ngài! Sắc chẳng phải thâm, chẳng phải diệu, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. Sắc tánh đến thức tánh chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. Nhãn tánh đến ý tánh, sắc tánh đến
pháp tánh,
nhãn giới tánh đến
ý thức giới tánh, nhãn xúc đến ý xúc, nhãn xúc,
nhơn duyên, sanh thọ đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ đều chẳng phải thâm, chẳng phải diệu.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp, tất cả
tam muội đến tất cả
đà la ni, nhứt thiết
chủng trí và nhứt thiết
chủng trí tánh đều chẳng phải thâm, chẳng phải diệu”.
Chư Thiên Tử nghĩ rằng trong
thuyết pháp ấy chẳng phải nói sắc đến chẳng nói nhứt thiết
chủng trí, chẳng nói
Tu Đà Hoàn quả đến
A La Hán quả, chẳng nói
Bích Chi Phật đạo, chẳng nói
Vô thượng Bồ đề đạo, trong chẳng pháp ấy chẳng nói
danh tự ngữ ngôn.
Ngài
Tu Bồ Đề biết
tâm niệm của
chư Thiên Tử nên nói rằng: “Nầy các Ngài! Đúng như vậy, trong pháp ấy,
Vô thượng Bồ đề của chư Phật không có tướng nói được, trong ấy không có thuyết giả, không có
thính giả, không có
tri giả.
Nầy các Ngài! Do đây nên
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn, người muốn an trụ
Tu Đà Hoàn quả, muốn y chứng
Tu Đà Hoàn quả, người nầy chẳng lìa rời trí nhẫn trên đây. Người muốn an trụ, muốn chứng
Tư Đà Hàm quả,
A Na Hàm quả,
A La Hán quả,
Bích Chi Phật đạo và
Phật đạo, người nầy chẳng rời lìa trí nhẫn trên đây.
Nầy các Ngài!
Đại Bồ Tát từ
sơ phát tâm, ở trong
Bát nhã ba la mật, phải an trụ như vậy. Vì không có nói, không có nghe vậy”.