KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI BA
PHẨM CHIẾU MINH
THỨ BỐN MƯƠI
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đây chính là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Chính là
Bát nhã ba la mật!”
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật hay chiếu sáng tất cả pháp, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nên
kính lễ Bát nhã ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật chẳng dính mắc
ba cõi.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật trừ các sự
tối tăm, vì tất cả
phiền não kiến chấp đều dứt trừ vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Trong tất cả pháp
trợ đạo, thời
Bát nhã ba la mật là
tối thượng.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật là
an ổn, vì hay dứt trừ tất cả bố úy
khổ não vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật hay đem
lại quang minh, vì
trang nghiêm với
ngũ nhãn vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật hay
chỉ dẫn những
chúng sanh đã sa vào
tà kiến, vì rời hẳn hai bên vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật là nhứt thiết
chủng trí, vì tất cả
phiền não và
tập khí dứt diệt vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật là mẹ của
chư đại Bồ Tát, vì hay xuất sanh các
Phật pháp vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật bất sanh bất diệt, vì
tự tướng rỗng không vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật xa rời
sanh tử, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật là chỗ
hộ vệ của người không ai cứu giúp, vì ban bố tất cả trân bửu vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật đầy đủ
năng lực, vì không gì
phá hoại được vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật hay chuyển ba lần chuyển mười hai
hành pháp luân, vì tất cả các pháp chẳng chuyển, chẳng hườn vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật hay
hiển thị các
pháp tánh, vì
vô pháp hữu pháp không vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Phải
cúng dường Bát nhã ba la mật thế nào?”
Đức Phật nói: “Phải như
cúng dường Phật mà
cúng dường Bát nhã ba la mật. Phải như
lễ Phật mà lễ
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì Phật chẳng khác
Bát nhã ba la mật và
Bát nhã ba la mật tức là Phật. Phật tức là
Bát nhã ba la mật và
Bát nhã ba la mật tức là Phật.
Trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh chư Phật, chư
Bồ Tát,
Bích Chi Phật,
A La Hán,
A Na Hàm,
Tư Đà Hàm,
Tu Đà Hoàn.
Trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh mười
thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, năm
thần thông,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo.
Trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh
thập lực, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, nhứt thiết chủng trí”.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn nghĩ rằng do cớ gì mà Ngài
Xá Lợi Phất hỏi
đức Phật những sự như vậy.
Thiên Đế bèn đem
ý nghĩ đó hỏi Ngài
Xá Lợi Phất.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Nầy Kiều Thi Ca!
Đại Bồ Tát được
Bát nhã ba la mật thủ hộ, do
phương tiện lực, đối với
thiện căn của
tam thế chư Phật từ
sơ phát tâm đến
pháp trụ, đều hòa hiệp
tùy hỉ, tất cả
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Vì cớ ấy nên tôi bạch hỏi việc như vậy.
Nầy Kiều Thi Ca!
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát hơn
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật và
Thiền na ba la mật.
Ví như những người
sanh manh, hoặc số trăm, số ngàn, hoặc cả trăm ngàn người, mà không ai
dẫn đường, thời học không
đi vào thành được.
Cũng vậy, năm
ba la mật mà rời
Bát nhã ba la mật thời như kẻ mù không người
dẫn đường, không thể tiến đạo, không thể được nhứt thiết
chủng trí.
Nếu được
Bát nhã ba la mật dắt dẫn, thời năm
ba la mật gọi là có con mắt và được
danh tự Ba la mật”.
Thiên Đế hỏi Ngài
Xá Lợi Phất: “Như lời Ngài nói là
Bát nhã ba la mật tương tợ thời năm
ba la mật chẳng dược
danh tự Ba la mật.
Nếu không Thi la ba la mật, hoặc
nếu không Sằn đề ba la mật, hoặc không Tỳ lê gia
ba la mật hay
Thiền na ba la mật tương tợ thời năm
ba la mật chẳng được
danh tự Ba la mật.
Nếu đã như thế, tại sao chỉ riêng
ca ngợi Bát nhã ba la mật?”
Ngài
Xá Lợi Phất nói: “Đúng như lời Kiếu
Thi Ca nói.
Nếu không Đàn na ba la mật v.v… thời năm
ba la mật chẳng được
danh tự Ba la mật.
Nhưng vì
đại Bồ Tát an trụ trong
Bát nhã ba la mật thời hay đầy đủ
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật.
Vì thế nên đối với với năm
ba la mật, thời
Bát nhã ba la mật là
đệ nhứt trên hết, là tối
diệu vô lượng, không gì bằng”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Phải phát sanh
Bát nhã ba la mật thế nào?”
Đức Phật nói: “Vì sắc chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật sanh. Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật sanh. Vì
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật sanh. Vì
nội không đến
pháp hữu pháp không chẳng sanh, vì
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật sanh.
Vì tất cả các pháp chẳng sanh như vậy nên
Bát nhã ba la mật phải sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là vì sắc chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật sanh. Nhẫn đến thế nào là vì tất cả pháp chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật phải sanh?”
Đức Phật nói: “Sắc chẳng khởi, chẳng sanh vì là chẳng được, chẳng mất vậy. Nhẫn đến tất cả các pháp chẳng khởi, chẳng sanh vì là chẳng được, chẳng mất vậy, Do đó, mà
Bát nhã ba la mật sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Sanh
Bát nhã ba la mật như vậy hiệp với những pháp nào?”
Đức Phật nói: “Không có cùng hiệp. Thế nên được gọi là
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chẳng cùng hiệp với những pháp nào?”
Đức Phật nói: “Chẳng cùng hiệp với pháp
bất thiện, chẳng cùng hiệp với
pháp thiện, chẳng cùng hiệp với pháp
thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp
xuất thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp
xuất thế gian, chẳng cùng hiệp với
pháp hữu lậu, chẳng cùng hiệp với pháp
vô lậu, chẳng cùng hiệp với pháp tội, chẳng cùng hiệp với pháp vô tội, chẳng cùng hiệp với
pháp hữu vi, chẳng cùng hiệp với
pháp vô vi.
Tại sao vậy?
Vì
Bát nhã ba la mật chẳng vì được các pháp mà sanh. Thế nên đối với các
pháp không chỗ cùng hiệp”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng hiệp với
nhứt thiết trí chăng?”
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca!
Bát nhã ba la mật cũng chẳng hiệp và
nhứt thiết trí cũng chẳng được.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật chẳng như
danh tự, chẳng như tướng, chẳng
như pháp khởi tác hiệp”.
Thiên Đế thưa: “Nay hiệp thế nào?”
Đức Phật nói: “Nếu
đại Bồ Tát như chẳng lấy, chẳng thô, chẳng ở, chẳng mắc, chẳng dứt, hiệp như vậy cũng không chỗ hiệp, cũng vậy,
Bát nhã ba la mật tất cả pháp hiệp cũng không chỗ hiệp”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thật là chưa từng có.
Bát nhã ba la mật nầy vì tất cả pháp chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng được, chẳng mất nên sanh”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật mà
quan niệm rằng
Bát nhã ba la mật hoặc hiệp với tất cả pháp, hoặc chẳng hiệp, thời vị
Bồ Tát nầy đã bỏ
Bát nhã ba la mật, đã lìa
Bát nhã ba la mật”.
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Lại có
nhơn duyên mà
đại Bồ Tát bỏ và
xa lìa Bát nhã ba la mật.
Nếu
đại Bồ Tát quan niệm rằng
Bát nhã ba la mật nầy không chỗ có, trống rỗng, chẳng cứng chắc.
Đại Bồ Tát nầy thời là bỏ và lìa xa
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tin
Bát nhã ba la mật là chẳng tin pháp nào?”
Đức Phật nói: “Tin
Bát nhã ba la mật thời chẳng tin sắc, chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức, chẳng tin nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, chẳng tin sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng tin nhã giới đến
ý thức giới, chẳng tin
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật, chẳng tin
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng tin
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần, chẳng tin
thập lực đến mười
tám pháp bất cộng, chẳng tin quả
Tu Đà Hoàn đến đạo
Bích Chi Phật, chẳng tin đạo
Bồ Tát, chẳng tin
Vô thượng Bồ đề nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy?
Vì sắc
bất khả đắc nên tin
Bát nhã ba la mật thời chẳng tin sắc. Nhẫn đến vì nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc nên
Bát nhã ba la mật thời chẳng tin nhứt thiết
chủng trí.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Lúc tin
Bát nhã ba la mật thời chẳng tin sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy gọi là
Đại ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì
Bát nhã ba la mật nầy chẳng làm sắc lớn, chẳng làm sắc nhỏ, nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề chẳng làm lớn, chẳng làm nhỏ, chư Phật chẳng làm lớn, chẳng làm nhỏ.
Vì
Bát nhã ba la mật nầy chẳng làm sắc hiệp, chẳng làm sắc tan, nhẫn đến chư Phật chẳng làm hiệp, chẳng làm tan.
Vì
Bát nhã ba la mật nầy chẳng làm sắc
vô lượng, chẳng làm sắc chẳng phải
vô lượng, nhẫn đến chư Phật chẳng làm
vô lượng, chẳng làm chẳng phải
vô lượng.
Vì
Bát nhã ba la mật nầy chẳng làm sắc rộng, chẳng làm sắc hẹp, nẫn đến chư Phật chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp.
Vì
Bát nhã ba la mật nầy chẳng làm hữu lực, chẳng làm sắc vô lực, nhẫn đến chư Phật chẳng làm hữu lực, chẳng làm vô lực.
Do
nhơn duyên trên đây nên
Bát nhã ba la mật gọi là
đại ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Bồ Tát mới
phát tâm chẳng
xa lìa Bát nhã ba la mật, chẳng
xa lìa Thiền na ba la mật đến
Đàn na ba la mật,
quan niệm rằng
Bát nhã ba la mật nầy chẳng làm sắc lớn, chẳng làm sắc nhỏ, chẳng làm sắc hiệp, chẳng làm sắc tan, chẳng làm sắc
vô lượng, chẳng làm sắc chẳng phải
vô lượng, chẳng làm
sắc hữu lực, chẳng làm sắc vô lực. Nhẫn đến chư Phật cũng như vậy.
Bồ Tát biết như vậy thời chẳng
hiện hành Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì chẳng phải tướng
Bát nhã ba la mật. Nghĩa là làm sắc lớn, nhỏ đến hữu lực, vô lực, nhẫn đến chư Phật làm lớn, nhỏ, hữu lực, vô lực.
Bạch đức Thế Tôn! Vì dụnh
hữu sở đắc,
Bồ Tát nầy bèn có
lỗi lầm lớn. Nghĩa là lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật làm sắc lớn, nhỏ đến hữu lực, vô lực, nhẫn đến chư Phật làm lớn nhỏ, nhỏ, hữu lực, vô lực.
Bạch đức Thế Tôn! Vì dụng
hữu sở đắc,
Bồ Tát nầy bèn có
lỗi lầm lớn. Nghĩa là lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật làm sắc lớn, nhỏ, nhẫn đến chư Phật làm hữu lực, vô lực.
Tại sao vậy?
Vì người
hữu sở đắc thời
không Vô thượng
Bồ đề.
Tại sao vậy?
Vì
chúng sanh chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật chẳng sanh, nhẫn đến vì Phật chẳng sanh nên
Bát nhã ba la mật chẳng sanh.
Vì
chúng sanh tánh không nên
Bát nhã ba la mật tánh không. Vì sắc
tánh không nên
Bát nhã ba la mật tánh không. Nhẫn đến vì
Phật tánh không nên
Bát nhã ba la mật tánh không.
Vì
chúng sanh chẳng phải pháp nên
Bát nhã ba la mật chẳng phải pháp. Vì sắc chẳng phải pháp nên
Bát nhã ba la mật chẳng phải pháp. Nhẫn đến vì Phật chẳng phải pháp nên
Bát nhã ba la mật chẳng phải pháp.
Vì
chúng sanh sắc đến Phật rỗng không nên
Bát nhã ba la mật rỗng không.
Vì
chúng sanh sắc đến Phật ly nên
Bát nhã ba la mật ly.
Vì
chúng sanh sắc đến Phật không có nên
Bát nhã ba la mật không có.
Vì
chúng sanh sắc đến Phật
bất khả tư nghì nên
Bát nhã ba la mật bất khả tư nghì.
Vì
chúng sanh sắc đến Phật chẳng diệt nên
Bát nhã ba la mật chẳng diệt.
Vì
chúng sanh sắc đến Phật bất
khả tri nên
Bát nhã ba la mật bất
khả tri.
Vì
chúng sanh đến
Phật lực chẳng
thành tựu nên
Bát nhã ba la mật lục chẳng
thành tựu.
Thế nên, bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát gọi là
Đại ba la mật vậy”.
PHẨM TÍN HỦY
THỨ BỐN MƯƠI MỐT
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Có
đại Bồ Tát tin hiểu
Bát nhã ba la mật nầy.
đại Bồ Tát ấy từ đâu sanh nơi đây?
Phát tâm Bồ đề đã được bao lâu? Đã
cúng dường bao nhiêu đức Phật? Thật hành
sáu ba la mật được bao lâu mà nay có thể
tùy thuận và hiểu thâm nghĩa
Bát nhã ba la mật?’
Đức Phật nói: “Đại
Bồ Tát nầy
cúng dường chư Phật mười phương đến sanh nơi đây.
Đại Bồ Tát nầy đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề từ vô lượng vô biên a tăng kỳ trăm ngàn muôn
ức kiếp. Từ lúc mới
phát tâm Bồ đề,
đại Bồ Tát nầy thường thật hành
sáu ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nầy hoặc thấy hay nghe
Bát nhã ba la mật liền nghĩ rằng tôi thấy Phật, nghe
Phật thuyết pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nầy hay
tùy thuận hiểu thâm nghĩa
Bát nhã ba la mật. Vì
vô tướng,
vô nhị và
vô sở đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật nầy có thể nghe, có thể thấy chăng?”
Đức Phật nói: “Bát nhã
ba la mật nầy không có ai nghe, cũng không có ai thấy.
Bát nhã ba la mật không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
Thiền na ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Sằn đề ba la mật,
Thi la ba la mật và
Đàn na ba la mật không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
Tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
Thập lực đến
bất cộng pháp không nghe thấy, vì các pháp độn vậy.
Phật và
Phật đạo không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thật
hành đạo bao lâu mà
Bồ Tát nầy có thể thật hành
thâm Bát nhã ba la mật nầy?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Trong đây phải
phân biệt để nói.
Có
đại Bồ Tát sơ phát tâm tập thật hành thâm
sáu ba la mật, do sứ
phương tiện nên đối với các
pháp không chỗ
phá hoại, chẳng thấy các pháp có pháp nào là không
lợi ích, cũng trọn chẳng xa rời thật hành
sáu ba la mật, cũng chẳng
xa lìa chư Phật. Từ
một thế giới đến
một thế giới, nếu muốn
dùng sức thiện căn để
cúng dường chư Phật, thời
tùy ý liền được.
Vĩnh viễn chẳng còn
thác sanh trong bụng bà mẹ nhơn loại. Trọn chẳng rời những
thần thông, trọn chẳng sanh những
phiền não và
tâm niệm Thanh văn,
Bích Chi Phật. Từ một
quốc độ đến một
quốc độ để
thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Chư đại Bồ Tát có thể tập thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Có
đại Bồ Tát thấy chư Phật nhiều. Hoặc
từ vô lượng trăm ngàn
ức kiếp theo chư Phật thật hành
sáu ba la mật, vì không sức
phương tiện, đều vì có sở đắc, nên lúc nghe
giảng thuyết thâm Bát nhã ba la mật, liền từ trong
chúng hội bỏ đi, chẳng
cung kính thâm Bát nhã ba la mật và chư Phật.
Chư đại Bồ Tát ấy hiện nầy ngồi trong
đại chúng nầy, nghe
thâm Bát nhã ba la mật, vì không thích nên bèn bỏ đi.
Tại sao vậy?
Vì những người nầy đời trước lúc nghe nói
thâm Bát nhã ba la mật bèn bỏ đi nên đời nay nghe nói
thâm Bát nhã ba la mật nên cũng bỏ đi,
thân tâm không hòa.
Những người nầy gieo trồng giống
nghiệp duyên ngu si.
Do
nghiệp duyên ngu si nên khi nghe giảng
thâm Bát nhã ba la mật bèn khinh chê. Vì khinh chê
Bát nhã ba la mật nên tức là khinh chê
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí của
tam thế chư Phật.
Vì người nầy khinh che
nhứt thiết trí của
tam thế chư Phật nên
phát khởi nghiệp
phá pháp. Do tội
phá pháp kết hợp nhơn duyên nên đọa trong
đại địa ngục
vô lượng trăm ngàn muôn ức năm.
Những người
phá pháp nầy, từ một
đại địa ngục đến một
đại địa ngục. Nơi đó, lúc hỏa kiếp pháp khởi, người nầy lại dời đến một
đại địa ngục ở cõi khác mà
thác sanh, từ một
đại địa ngục đến một
đại địa ngục. Nếu lúc cõi đó
hỏa tai phát khởi, thờingười nầy lại
thác sanh vào
đại địa ngục ở cõi khác.
Lần lượt thác sanh như vậy khắp
thế giới mười phương. Vì tội
phá pháp chưa hết, nên sanh
trở lại cõi nầy, từ một
đại địa ngục đến một
đại địa ngục thọ
vô lượng khổ.
Cõi nầy phát khởi hỏa kiếp lại
thác sanh vào
đại địa ngục cõi khác.
Người nầy lúc
thác sanh vào
súc sanh chịu khổ vì tội
phá pháp cũng vậy.
Lúc tội nặng lần mỏng nhẹ, người nầy hoặc được thân nhơn loại, sanh vào nhà người
sanh manh, hoặc sanh vào nhà
chiên Đà La, sanh vào những
nhà hạ tiện như hốt phân hay khiêng thây người chết v.v… Hoặc không có con mắt, hoặc một mắt, hoặc mắt mù, không lưỡi, không tai, không chân tay. Nơi người
thác sanh không có Phật, không có
chánh pháp, không
Phật đệ tử. Tại sao vậy? Vì tội
phá pháp chứa nhóm quá sâu nặng nên thọ lấy
quả báo như vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tội
ngũ nghịch cùng tội
phá pháp có tương tợ nhau không?”
Đức Phật nói: “Chẳng nên bảo là tương tợ. Tại sao vậy?”
Nếu có người nghe nói
thâm Bát nhã ba la mật mà chẳng tin nổi rồi hủy báng rằng chẳng nên học pháp ấy. Đó là
phi pháp, chẳng phải pháp lành, chẳng phải
lời Phật dạy, chẳng phải
Phật giáo.
Người nầy tự mình hủy báng, cũng bảo người khác hủy báng
Bát nhã ba la mật.
Người nầy tự
phá hoại thân mình, cũng
phá hoại thân người khác.
Người nầy tự uống thuốc
độc dược giết thân mình, cũng đầu độc người khác.
Người nầy tự làm mất thân mình, cũng làm mất thân người khác.
Người nầy tự chẳng tin, chẳng biết
thâm Bát nhã ba la mật, cũng làm người khác chẳng tin, chẳng biết.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ta còn chẳng cho nghe
danh tự của người ấy, huống là mắt thấy và cùng ở.
Tại sao vậy?
Phải biết người nầy gọi là kẻ làm nhơ
chánh pháp, bị sa vào tánh đen trược suy hoại.
Những ai nghe và tin dùng lời người nầy thời cũng thọ khổ như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu người nàophá hủy
Bát nhã ba la mật thời gọi là kẻ hoại pháp”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Đức
Thế Tôn nói người
hoại pháp phải mang lấy
trọng tội mà chẳng nói
thân thể lớn nhỏ của người nầy phải thọ”.
Đức Phật nói: “Chẳng cần nói người nầy thọ thân lớn nhỏ.
Tại sao vậy?
Người
phá pháp nầy nếu nghe
thân thể lớn nhỏ mà mình phải thọ thời sẽ thổ máu nóng, hoặc chết hoặc sắp chết.
Người
phá pháp nầy nghe
thân thể như vậy, có
trọng tội như vậy, sẽ rất buồn lo như mũi tên đâm vào tim, sẽ lần khô héo mà nghĩ rằng vì tội
phá pháp nên mắc lấy thân đại quỷ thọ
vô lượng khổ như vậy”.
Vì thế nên Phật chẳng cho
Xá Lợi Phất hỏi thân lớn nhỏ mà người
phá pháp nầy phải thọ.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Xin
đức Thế Tôn nói để làm điều răn
sáng suốt cho người
đời sau, khiến biết rằng
tội nghiệp phá pháp mắc phải thân lớn xấu thọ khổ như vậy”.
Đức Phật nói: “Người
đời sau nếu nghe tội
phá pháp nghiệp nhơn dầy nặng đầy đủ phải chịu
vô lượng khổ rất lâu trong
đại địa ngục, cũng đủ làm điều răn
sáng suốt rồi”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
thiện nam,
thiện nữ tánh thiện
thanh tịnh được
nghe pháp nầy cũng đủ làm chỗ
y chỉ, thà mất
thân mạng chớ hủy
phá chánh pháp. Họ tự nghĩ rằng nếu ta hủy
phá chánh pháp thời sẽ phải thọ lấy sự khổ như vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Những
thiện nam,
thiện nữ phải khéo nhiếp
thân khẩu ý ba nghiệp, chớ để thọ lấy sự khổ như vậy, hoặc chẳng được thấy Phật, hoặc chẳng được
nghe pháp, hoặc chẳng được thân cận
chư tăng, hoặc sanh ở
quốc độ không Phật, hoặc sanh ở nhà bần cùng, hoặc
mọi người chẳng
tín thọ lời nói.
Bạch đức Thế Tôn!
Do nơi thân
khẩu nghiệp nhơn duyên, có tội nặng
phá pháp như vậy chăng?”
Đức Phật nói: “Do nơi
khẩu nghiệp nhơn duyên có tội nặng
phá pháp như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Người
ngu si ấy ở trong
Phật pháp xuất gia thọ giới rồi phá
thâm Bát nhã ba la mật, chê bai chẳng
tín thọ.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu phá
Bát nhã ba la mật, chê bai
Bát nhã ba la mật, thời là phá
nhứt thiết trí của
chư Phật mười phương. Phá
nhứt thiết trí là phá
Phật Bảo. Phá
Phật Bảo thời là
phá Pháp Bảo.
Phá Pháp Bảo thời là
phá Tăng Bảo. Phá
Tam Bảo thời là
phá chánh kiến của
thế gian.
Phá chánh kiến
thế gian thời là phá
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí. Phá nhứt thiết
chủng trí thời mắc
vô lượng vô biên a tăng kỳ tội, thời phải thọ lấy
vô lượng vô biên a tăng kỳ sự ưu khổ”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Có mấy
nhơn duyên mà người
ngu si nầy chê bai
phá hoại thâm Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Có bốn
nhơn duyên. Một là bị ma sai sử. Hai là chẳng tin
thâm pháp, chẳng tin, chẳng hiểu,
tâm không thanh tịnh. Ba là
gần gủi thầy bạn ác, tâm mê tối
giải đãi,
chấp chặt thân
ngũ ấm. Bốn là nhiều sân giận, tự cao, khinh người.
Nầy Tu Bồ Đề! Do bốn
nhơn duyên trên đây mà người
ngu si muốn
phá hoại thâm Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người tương đắc với bạn ác, gieo trồng điều
bất thiện, chẳng siêng năng
tinh tấn tu pháp lành thời khó tin, khó hiểu
thâm Bát nhã ba la mật nầy”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy, Người ấy khó tin, khó hiểu
thâm Bát nhã ba la mật nầy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào
Bát nhã ba la mật nầy rất sâu khó tin, khó hiểu?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Sắc chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh
vô sở hữu là sắc.
Thọ, tưởng, hành, thức chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh
vô sở hữu là thọ, tưởng, hành, thức.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh
vô sở hữu là
sáu ba la mật.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh
vô sở hữu là
nội không đến
vô pháp hữu pháp không.
Tứ niệm xứ đến
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh
vô sở hữu là
tứ niệm xứ đến
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh
vô sở hữu là
tứ niệm xứ đến
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc bổn tế chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì bổn tế tánh
vô sở hữu là sắc.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí bổn tế chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì bổn tế tánh
vô sở hữu là nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc
hậu tế nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí hậu tế chẳng chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì
hậu tế vô sở hữu là sắc, nhẫn đến là nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc
hiện tại nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí hiện tại chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì
hiện tại tánh
vô sở hữu là sắc nhẫn đến là nhứt thiết chủng trí”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những người chẳng
chuyên cần tinh tấn, chẳng gieo trồng căn lành, gần gũi bạn ác,
giải đãi, ưa quên, không
trí huệ thiện xảo phương tiện, thiệt khó tin, khó hiểu
Bát nhã ba la mật”.
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Những người ấy thiệt khó tin khó hiểu
Bát nhã ba la mật nầy. Tại sao vậy? Vì
sắc thanh tịnh thời quả cũng
thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh thời quả cũng
thanh tịnh. Nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề thanh tịnh thời quả cũng
thanh tịnh.
Lại vì
sắc thanh tịnh tức là
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Bát nhã ba la mật thanh tịnh tức là
sắc thanh tịnh.
Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh tức là
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Bát nhã ba la mật thanh tịnh tức là nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh.
Sắc thanh tịnh và
Bát nhã ba la mật thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh và
Bát nhã ba la mật thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì chẳng hai
thanh tịnh nên
sắc thanh tịnh. Vì chẳng hai
thanh tịnh nên nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì chẳng hai
thanh tịnh nầy cùng
sắc thanh tịnh đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh không hai, không khác.
Vì ngã
thanh tịnh,
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả thanh tịnh nên sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh.
Vì sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh nên ngã
chúng sanh nhẫn đến
tri giả,
kiến giả thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì ngã đến
kiến giả thanh tịnh nầy cùng với sắc đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh chẳng hai, chẳng khác, không đoạn, không hoại.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì tham, sân, si
thanh tịnh nên sắc đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì tham, sân, si
thanh tịnh cùng với sắc đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh chẳng hai, chẳng khác.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
vô minh thanh tịnh nên hành
thanh tịnh. Vì hành
thanh tịnh nên thức
thanh tịnh. Vì thức
thanh tịnh nên
danh sắc thanh tịnh. Vì
danh sắc thanh tịnh nên
lục nhập thanh tịnh. Vì
lục nhập thanh tịnh nên xúc
thanh tịnh. Vì xúc
thanh tịnh nên thọ
thanh tịnh. Vì thọ
thanh tịnh nên ái
thanh tịnh. Vì ái
thanh tịnh nên thủ
thanh tịnh. Vì thủ
thanh tịnh nên hữu
thanh tịnh. Vì hữu
thanh tịnh nên sanh
thanh tịnh. Vì sanh
thanh tịnh nên
lão tử thanh tịnh. Vì
lão tử thanh tịnh nên
Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì
Bát nhã ba la mật thanh tịnh nên
Thiền na thanh tịnh. Nhẫn đến vì
Đàn na thanh tịnh nên
nội không thanh tịnh. Vì
nội không thanh tịnh nên nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không thanh tịnh. Vì
vô pháp hữu pháp không thanh tịnh nên
tứ niệm xứ nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh. Vì
nhứt thiết trí thanh tịnh nên nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì
nhứt thiết trí nầy cùng với nhứt thiết
chủng trí không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì
Bát nhã ba la mật thanh tịnh nên
sắc thanh tịnh. Nhẫn đến vì
Bát nhã ba la mật thanh tịnh nên
nhứt thiết trí thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật nầy cùng với
nhứt thiết trí không hai, không khác.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
Thiền na ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh. Nhẫn đến vì
Đàn na ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh. Vì
nội không thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh. Vì
tứ niệm xứ thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
nhứt thiết trí thanh tịnh nên nhẫn đến
Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
hữu vi thanh tịnh nên vô ci
thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì
hữu vi thanh tịnh nên
vô vi thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì
hữu vi thanh tịnh cùng với
vô thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
quá khứ thanh tịnh nên
vị lai và
hiện tại thanh tịnh nên
vị lai và
hiện tại thanh tịnh. Vì
vị lai thanh tịnh nên
quá khứ và
hiện tại thanh tịnh. Vì
hiện tại thanh tịnh nên
quá khứ và
vị lai thanh tịnh.
Tại sao vậy? Vì
hiện tại thanh tịnh cùng với
quá khứ và
vị lai thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại vậy”.