23. PHẨM SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT
THỨ HAI MƯƠI BA
Bấy giờ
Đức Phật bảo tất cả
đại chúng : “ Nầy các
Thiện nam tử ! Các người nếu nghi là có Phật không Phật, có
Pháp không Pháp, có Tăng không Tăng, có
khổ không khổ, có tập không tập, có diệt không diệt, có đạo không đạo, có thiệt không thiệt, có
ngã không ngã, có lạc không lạc, có
tịnh không tịnh, có thường không thường, có thừa không thừa, có
tánh không tánh , có
chúng sanh không
chúng sanh, có
hữu không hữu, có chơn không chơn, có nhơn không nhơn, có quả
không quả, có tác không tác, có nghiệp không nghiệp, có báo không báo, giờ đây
tha hồ cho các người hỏi, ta sẽ
phân biệt giải thuyết cho.
Ta thiệt chẳng thấy hoặc có Trời, Người, hoặc có Ma, Phạm, hoặc có
Sa Môn hay
Bà La Môn nào đến hỏi mà ta
không giải đáp được.
Trong
pháp hội có
Bồ Tát hiệu Sư Tử Hống đứng dậy nghiêm chỉnh y phục đảnh lễ đức Phật chấp tay quì bạch rằng : “
Thế Tôn ! Tôi vừa muốn hỏi,
đức Như Lai đại từ lại đã hứa cho.
Phật bảo đại chúng rằng : “ Các người nên
cung kính Bồ Tát nầy, cũng nên
tôn trọng tán thán cùng đem các thứ hoa hương
kỹ nhạc,
anh lạc, phan lọng,
y phục, đồ
ăn uống, đồ nằm , thuốc men, phòng nhà,
điện đường để
cúng dường Bồ Tát. Vì
Bồ Tát nầy từ
quá khứ chư Phật đã sâu trồng
thiện căn phước đức đã đầy đủ, vì thế nên muốn ở trước ta mà thưa hỏi :
Như
Sư Tử chúa tự biết
sức lực nanh răng nhọn bén, bốn chưn chống đất đứng trong hang vẩy đuôi gầm ra tiếng. Nếu có người nào đủ những tướng như vậy phải biết rằng có thể rống như
Sư Tử, thiệt là
Sư Tử chúa sáng sớm ra khỏi hang vươn vai ngáp nhìn ngó bốn phương,
cất tiếng rống to. Làm như thế là vì mười một điều : Một là vì muốn phá dẹp những loài chẳng phải thiệt
Sư Tử mà dối làm
Sư Tử ; hai là vì muốn
thử sức mình ; ba là vì muốn khiến chỗ ở
thanh tịnh ; bốn là vì muốn bầy
Sư Tử con biết chỗ nơi ; năm là vì muốn đoàn
Sư Tử không tâm kinh sợ ; sáu là vì muốn kẻ ngũ được
thức tỉnh ; bảy là vì muốn tất cả những thú
phóng dật được siêng năng chẳng
phóng dật ; tám là vì muốn những thú khác đến chầu hầu ; chín là vì muốn
điều phục đại hương tượng ; mười là vì muốn
dạy bảo các con cái ; mười một là vì muốn
trang nghiêm quyến thuộc của mình.
Tất cả loài
cầm thú nghe tiếng hống của
Sư Tử, loài lội
dưới nước liền lặn xuống vực sâu, loài chạy trên bờ nép trốn trong hang, loài chim bay thời rơi rớt, các
đại hương tượng kinh hãi chạy té phẩn.
Như loài chồn cáo kia dầu
đi theo Sư Tử trọn trăm năm nhưng chẳng thể rống
lên tiếng như
Sư Tử. Nếu là con
Sư Tử, mới đầy ba năm thời có thể kêu rống như
Sư Tử chúa.
Nầy
Thiện nam tử !
Như Lai chánh đẳng giác,
trí huệ là
nanh vuốt,
bốn như ý túc là chơn, đầy đủ sáu môn
Ba La Mật là thân,
thập trí lực hùng mãnh là
sức lực,
đại từ bi là đuôi an trụ,
tứ thiền là hang
thanh tịnh, vì
chúng sanh mà rống như
Sư Tử, dẹp phá quân ma, hiện bày
mười trí lực, mở mang chỗ đi của Phật, làm chỗ nương về cho bọn
tà kiến,
vỗ về những chúng sợ sệt
sanh tử,
giác ngộ chúng sanh vô minh ngủ nghỉ, làm cho người tạo ác sanh tâm
ăn năn, khai thị
tà kiến cho tất cả
chúng sanh, làm cho họ biết hàng
lục sư chẳng phải là tiếng rống của
Sư Tử, để phá lòng
kiêu mạn của
ngoại đạo Phú Lâu Na v.v… Làm cho hàng
nhị thừa sanh lòng
hối hận,
dạy bảo các
Bồ Tát bực ngũ trụ cho họ sanh tâm
đại lực, làm cho
bốn bộ chúng chánh kiến chẳng sợ sệt những
đồ chúng tà kiến, nên từ nơi
thánh hạnh,
phạm hạnh,
thiên hạnh, vươn vai mà ra. Muốn khiến các
chúng sanh phá lòng
kiêu mạn nên hà ngáp. Vì khiến
chúng sanh thêm lớn pháp lành nên đoái ngó bốn phương. Vì khiến
chúng sanh đặng
tứ vô ngại biện nên bốn chân chấm đất. Vì khiến
chúng sanh đầy đủ
Thi La Ba La Mật nên rống như
Sư Tử .
Sư Tử rống gọi là
quyết định thuyết : “ Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh,
Như Lai thường trụ không có
biến đổi.”
Nầy
Thiện nam tử ! Hàng
Thanh Văn Duyên Giác dầu theo
đức Như Lai trong
vô lượng vô số kiếp nhưng trọn không thể làm
Sư Tử rống.
Thập trụ Bồ Tát nếu có thể tu hành ba hạnh như trên, nên biết rằng đó là
Sư Tử rống.
Nầy
đại chúng !
Bồ Tát Sư Tử Hống đây, nay muốn làm
đại Sư Tử rống, nên
đại chúng phải nên
thâm tâm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.
Bây giờ
Thế Tôn bảo
Sư Tử Hống Bồ Tát : “ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu ông muốn hỏi, giờ đây ông có thể hỏi .”
Bạch
Thế Tôn ! Thế nào là Phật tánh? Do nghĩa gì nên gọi là
Phật tánh ? Có gì lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh ? Nếu
chúng sanh có
Phật tánh, tại sao lại chẳng thấy được
Phật tánh của tất cả
chúng sanh ?
Thập trụ Bồ Tát trụ những pháp gì mà chẳng thấy
Phật tánh rõ ràng ? Phật trụ những pháp gì mà thấy được
rõ ràng ?
Thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì mà thấy chẳng
rõ ràng ? Phật dùng con mắt gì mà thấy
Phật tánh được
rõ ràng ?
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử !
Lành thay !
Lành thay ! Nếu có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ
trang nghiêm : Một là
trí huệ, hai là
phước đức. Nếu có
Bồ Tát đầy đủ hai thứ
trang nghiêm như vậy thời biết
Phật tánh, cũng lại rõ biết gọi là
Phật tánh, nhẫn đến có thể biết
Thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì, chư
Phật Thế Tôn dùng con mắt gì .
Sư Tử Hống Bồ Tát thưa : “ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là
trí huệ trang nghiêm ? Thế nào gọi là
phước đức trang nghiêm ?
_ Nầy
Thiện nam tử !
Trí huệ trang nghiêm chính là từ nhứt địa đến
thập địa.
Phước đức trang nghiêm chính là
Đàn Ba La Mật nhẫn đến
Bát Nhã, chẳng phải là
Bát Nhã Ba La Mật.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Huệ
trang nghiêm là nói chư Phật và
Bồ Tát.
Phước đức trang nghiêm là nói
Thanh Văn Duyên Giác cùng
Cửu trụ Bồ Tát.
Lại nầy
Thiện nam tử !
Phước đức trang nghiêm là
hữu vi hữu lậu có
quả báo, có ngại chẳng phải thường, là pháp
phàm phu.
Trí huệ trang nghiêm là
vô vi vô lậu không quả báo, không ngại là
thường trụ.
Nầy
Thiện nam tử ! Nay ông đầy đủ hai thứ
trang nghiêm nầy, nên ông có thể hỏi diệu nghĩa rất sâu Phật cũng đầy đủ hai thứ
trang nghiêm nầy nên có thể
giải đáp những nghĩa ấy.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu có
Bồ Tát đầy đủ hai thứ
trang nghiêm như vậy thời chẳng nên hỏi một thứ hai thứ. Tại sao
đức Thế Tôn nói rằng có thể đáp một thứ hai thứ. Vì tất cả
pháp không có một thứ hai thứ. Một thứ hai thứ là tướng
phàm phu.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có
Bồ Tát không hai thứ
trang nghiêm thời chẳng phải biết một thứ hai thứ. Phải là
Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêmmới có thể rõ biết một thứ hai thứ. Nếu nói các
pháp không một hai đó, thời không đúng nghĩa. Vì
nếu không một hai thế nào nói là tất cả
pháp không một không hai.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu nói một hai là tướng
phàm phu, đây bèn gọi là bực
Thập trụ Bồ Tát chẳng phải là
phàm phu vậy. Tại sao vậy ? Một đó gọi là
Niết Bàn, hai đó gọi là
sanh tử .
Tại sao một đó gọi là
Niết Bàn ? Vì
Niết Bàn là thường. Tại sao hai đó là
sanh tử ? Vì là ái và
vô minh vậy.
Niết Bàn thường trụ đó chẳng phải là tướng
phàm phu.
Sanh tử là hai đó cũng chẳng phải tướng
phàm phu. Do nghĩa nầy nên người đủ hai thứ
trang nghiêm thời có thể hỏi có thể đáp.
Ông hỏi thế nào là
Phật tánh đó ? Lóng nghe ! Ta sẽ
phân biệt giải thuyết cho ông.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh đã gọi là
đệ nhứt nghĩa không,
đệ nhứt nghĩa không gọi là
trí huệ.
Không đây là chẳng thấy không cùng
bất không. Người trí thấy không và
bất không thường cùng
vô thường khổ với lạc, ngã cùng
vô ngã. Không là nói tất cả
sanh tử.
Bất không là nói
Đại Niết Bàn. Nhẫn đến
vô ngã chính là
sanh tử. Ngã đó chính là
Đại Niết Bàn.
Thấy tất cả không mà chẳng thấy
bất không thời chẳng gọi là
trung đạo. Nhẫn đến thấy tất cả
vô ngã mà chẳng thấy ngã thời chẳng gọi là
trung đạo.
Trung đạo đó gọi là
Phật tánh. Do nghĩa nầy nên
Phật tánh là
thường hằng không
biến đổi vì
vô minh che đậy làm cho
chúng sanh chẳng thấy được. Hàng
Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả không mà chẳng thấy
bất không, nhẫn đến thấy tất cả
vô ngã mà chẳng thấy ngã, do đây nên chẳng được
đệ nhứt nghĩa không. Vì chẳng đặng
đệ nhứt nghĩa không nên chẳng đi được nơi
trung đạo. Vì không
trung đạo nên chẳng thấy
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Phàm có ba hạng chẳng thấy
trung đạo. Một là định lạc hành, hai là định khổ hành, ba là khổ lạc hành.
Định lạc hành chính là
Đại Bồ Tát vì
thương xót tất cả chúng snh, nên dầu ở
địa ngục A Tỳ nhưng an vui như
đệ tam thiền.
Định khổ hành là nói hàng
phàm phu.
Khổ lạc hành là nói
Thanh Văn Duyên Giác.
Thanh Văn Duyên Giác hành nơi khổ lạc mà tưởng là
trung đạo, do đây nên dầu có
Phật tánh mà chẳng thấy được.
Như ông hỏi nghỉa gì gọi là
Phật tánh ?
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh chính là
vô thượng Bồ Đề của tất cả chư Phật, là
chủng tử của
trung đạo.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Đạo có ba : Thượng, trung, hạ.
Đạo bực hạ là
Phạm thiên vô thường nhận lầm là thường. Đạo bực thượng là
sanh tử vô thườntg
nhận lầm là thường.
Tam Bảo là thường chấp là
vô thường. Cớ gì gọi là bực thượng ? Vì có thể đặng
vô thượng Bồ Đề.
Đạo
bực trung gọi là
đệ nhứt nghĩa không :
Vô thường thấy là
vô thường, thường thấy là thường.
Đệ nhứt nghĩa không chẳng gọi là hạ, vì tất cả
phàm phu không thể được, lại chẳng gọi là bực thượng, vì chính đây là thượng. Đạo của chư Phật
Bồ Tát tu hành chẳng phải thượng chẳng phải hạ nên gọi là
trung đạo.
Nầy
Thiện nam tử ! Bờ mé
sanh tử phàm có hai thứ cội gốc : Một là
vô minh, hai là
hữu ái. Chặn giữa hai thứ nầy thời có quả khổ sanh già bịnh chết, đây gọi là
trung đạo.
Trung đạo như đây có thể phá
sanh tử nên gọi là trung. Do nghĩa nầy nên
pháp trung đạo gọi là
Phật tánh. Vì thế nên
Phật tánh là
thường lạc ngã tịnh. Bởi
chúng sanh chẳng thấy được
Phật tánh nên là
vô thường vô lạc
vô ngã vô tịnh.
Phật tánh thiệt chẳng phải là
vô thường vô lạc
vô ngã vô tịnh.
Ví như người nghèo trong nhà có kho
châu báu vì người nầy chẳng thấy nên không được
sung sướng tự tại. Có người trí dùng
phương tiện chỉ bảo cho được thấy. Nhờ thấy có
châu báu người nầy hết khổ đặng
sung sướng tự tại.
Cũng vậy, vì
chúng sanh chẳng thấy
Phật tánh nên là
vô thường vô lạc
vô ngã vô tịnh. Do
thiện tri thức, chư Phật và
Bồ Tát dùng nhiều
phương tiện dạy bảo mà
chúng sanh thấy
Phật tánh. Do thấy
Phật tánh nên
chúng sanh được thường, lạc, ngã, tịnh.
Kiến chấp của
chúng sanh phàm có hai :
Thường kiến và
đoạn kiến. Hai thứ
kiến chấp nầy chẳng gọi là
trung đạo. Không thường không đoạn mới gọi là
trung đạo, không thường không đoạn, tức là
trí quán chiếu mười hai
nhơn duyên.
Quán trí nầy gọi là
Phật tánh. Hàng
nhị thừa dầu quán
nhơn duyên nhưng còn chẳng được gọi là
Phật tánh. Phật tanùh dầu là thường bởi
chúng sanh bị
vô minh che đậy nên không thấy được. Lội chưa qua được sông mười hai
nhơn duyên, dụ như thỏ và ngựa kia, vì chẳng thấy
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Trí huệ quán chiếu mười hai
nhơn duyên đây chính là
chủng tử của
vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên mười hai
nhơn duyên gọi là
Phật tánh.
Ví như dưa hấu gọi là bịnh nhiệt, vì dưa nầy có thể làm
nhơn duyên bịnh nhiệt. Mười hai
nhơn duyên cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh có nhơn, có nhơn nhơn, có quả, có
quả quả.
Có nhơn đó chính là mười hai
nhơn duyên. Nhơn nhơn đó chính là
trí huệ. Có quả chính là
vô thượng Bồ Đề. Qủa quả đó chính là
vô thượng Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Như
vô minh là nhơn, hành là quả ; hành là nhơn , thức là qủa. Do nghĩa nầy nên thể
vô minh kia cũng là nhơn, cũng là nhơn nhơn. Thức cũng là quả, cũng là
quả quả.
Phật tánh cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên mười hai
nhơn duyên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng hai, chẳng đến, chẳng đi, chẳng chơn, chẳng quả.
Là nhơn mà chẳng phải quả như
Phật tánh.
Là quả mà chẳng phải nhơn như
Đại Niết Bàn.
Là nhơn cũng là quả như những pháp do mười hai
nhơn duyên sanh.
Chẳng phải nhơn chẳng phải quả gọi là
Phật tánh. Vì chẳng phải nhơn quả nên
thường hằng không
biến đổi.
Do nghĩa nầy nên trong kinh Phật nói mười hai
nhơn duyên ý nghĩ rất sâu không thể biết, không thể thấy, chẳng thể nghĩ bàn, là
cảnh giới của chư Phật và
Bồ Tát, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác đến được.
Do nghĩa gì mà là rất sâu ? Nghiệp hạnh của
chúng sanh chẳng thường chẳng đoạn mà có
quả báo dầu
niệm niệm diệt mà không mất, dầu không
tác giả mà có
tác nghiệp, dầu không
thọ giả mà có
quả báo.
Thọ giả, dầu diệt mà quả chẳng hư. Không có lự tri nhưng hòa hiệp mà có. Tất cả
chúng sanh dầu cùng đi với mười hai
nhơn duyên mà chẳng thấy chẳng biết. Vì chẳng thấy biết nên không có chung thỉ. Bực
Thập trụ Bồ Tát chỉ thấy chung mà chẳng thấy thỉ. Chư Phật thấy thỉ thấy chung. Do nghĩa nầy nên chư Phật thấy
Phật tánh được
rõ ràng. Tất cả
chúng sanh vì chẳng thấy được mười hai
nhơn duyên nên phải
luân chuyển.
Như tằm làm kén tự sống tự chết. Tất cả
chúng sanh cũng như vậy, vì chẳng thấy
Phật tánh nên tự tạo nghiệp mà
lưu chuyển sanh tử, dường như đánh trái cầu.
Vì thế nên trong các kinh Phật nói : Nếu có người thấy được mười hai
nhơn duyên thời là thấy pháp, thấy pháp đó chính là thấy Phật. Phật đó chính là
Phật tánh, vì tất cả chư Phật dùng đây làm tánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Trí quán mười hai
nhơn duyên có bốn hạng : Một là hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng.
Quán trí bực hạ chẳng thấy
Phật tánh, vì chẳng thấy nên chứng được đạo
Thanh văn.
Trí quán bực trung chẳng thấy
Phật tánh, vì chẳng thấy nên chứng đặng đạo
Duyên Giác.
Trí quán bực thượng thấy
Phật tánh chẳng
rõ ràng, vì thấy chẳng
rõ ràng nên trụ bực
thập trụ.
Trí quán bực thượng thượng thấy
Phật tánh rõ ràng nên chứng được
vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa đây nên mười hai
nhơn duyên gọi là
Phật tánh.
Phật tánh chính là
đệ nhứt nghĩa không.
Đệ nhứt nghĩa không gọi là
trung đạo.
Trung đạo đó gọi là Phật. Phật đây là
Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nếu Phật cùng
Phật Tánh không sai khác, thời tất cả
chúng sanh cần gì
tu hành ?”
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử ! Lời ông hỏi không đúng. Phật cùng
Phật tánh dầu không sai khác nhưng
chúng sanh đều chưa đầy đủ.
Ví như có người
ác tâm muốn hại mẹ, hại rồi sanh lòng
ăn năn,
ba nghiệp dầu lành, nhưng người nầy vẫn gọi là người
địa ngục, vì người nầy
quyết định sẽ đọa
địa ngục vậy.
Hiện tại người nầy dầu không thân
địa ngục nhưng vẫn gọi là người
địa ngục.
Do đây nên trong các kinh Phật nói nếu thấy có người
tu hành hạnh lành thời gọi là thấy người trời. Thấy người tạo ác thời gọi là thấy
địa ngục. Vì
quyết định sẽ thọ
quả báo.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì tất cả
chúng sanh quyết định được
vô thượng Bồ Đề nên Phật nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Nhưng thật ra tất cả
chúng sanh chưa có
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do nghĩa đây nên nơi kinh nầy Phật nói kệ
rằng :
Trước có nay không
Trước không nay có
Ba đời có pháp
Nghĩa nầy không đúng.
Nầy
Thiện nam tử ! Có ba thứ có : Một là
vị lai có, hai là
hiện tại có, ba là
quá khứ có.
Tất cả
chúng sanh vị lai sẽ có
vô thượng Bồ Đề , đây gọi là
Phật tánh. Tất cả
chúng sanh hiện tại điều có
phiền não, nên
hiện tại không có
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tất cả
chúng sanh quá khứ có dứt
phiền não nên
hiện tại được thấy
Phật tánh. Do nghĩa nầy Phật thường tuyên nói : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, nhẫn đến nhứt
xiển đề cũng có
Phật tánh.
Nhứt
xiển đề không có pháp lành.
Phật tánh là pháp lành
vị lai họ sẽ có. Nhứt
xiển đề đều có
Phật tánh, vì họ
quyết định sẽ đặng thành
vô thượng Bồ Đề.
Ví như có người trong nhà có sữa lạc. Có người hỏi : Ông có tô không ? Đáp rằng tôi có. Lạc thiệt chẳng phải tô, do
phương tiện khéo, chắc sẽ đặng tô, nên đáp rằng có tô.
Chúng sanh cũng như vậy tất cả đều có tâm. Phàm người có tâm sẽ được thành
vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa đây nên Phật thường tuyên nói : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Tất cánh có hai thứ : Một là
trang nghiêm tất cánh, hai là
cứu cánh tất cánh. Và một là
thế gian tất cánh, hai là
xuất thế tất cánh.
Trang nghiêm tất cánh là sáu môn
Ba La Mật.
Cứu cánh tất cánh là
nhứt thừa của tất cả,
chúng sanh chứng được.
Nhứt thừa đó gọi là
Phật tánh. Do nghĩa đây nên Phật nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, tất cả
chúng sanh đều có
nhứt thừa, vì
vô minh che đậy nên chẳng thấy được.
Như Châu Uất Đơn Việt,
Đao Lợi Thiên, vì
quả báo che ngăn nên
chúng sanh ở đây chẳng thấy được.
Phật tánh cũng như vậy, do các
phiền não kiết sử che ngăn nên
chúng sanh chẳng thấy được.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh chính là
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội tánh như
đề hồ, chính là mẹ của tất cả chư Phật. Do sức của
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội mà chư Phật được thường, lạc, ngã, tịnh. Tất cả
chúng sanh đều có
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội vì chẳng
tu hành nên không được thấy, vì thế nên không thể được thành
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử !
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có năm tên : Một là
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hai là
Bát Nhã Ba La Mật, ba là
Kim Cang Tam Muội, bốn là
Sư Tử Hống Tam Muội, năm là
Phật tánh.
Tùy theo năng lực chỗ làm của
Tam muội mà có tên khác nhau.
Nầy
Thiện nam tử ! Như một
Tam Muội có nhiều tên, như thiền gọi là
tứ thiền, căn gọi là
định căn, lực gọi là
định lực, giác gọi là định giác, chánh gọi là
chánh định, bát đại nhơn giác gọi là định giác,
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! tất cả
chúng sanh đầy đủ ba môn định : Thượng, Trung và Hạ. Thượng là nói
Phật tánh, do đây nên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Trung là tất cả
chúng sanh đầy đủ
sơ thiền, lúc có
nhơn duyên thời có thể
tu tập,
nếu không nhơn duyên thời chẳng thể
tu tập.
Nhơn duyên đây có hai thứ : Một là
hỏa tai, hai là phá
kiết sử cõi dục, do đây nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều đầy đủ định
bực Trung.
Hạ định là
định tâm sở trong
mười đại địa, do đây nên nói tất cả
chúng sanh đều đầy đủ định bực hạ.
Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh vì
phiền não che đậy nên chẳng được thấy.
Thập trụ Bồ Tát dầu thấy
nhứt thừa nhưng chẳng biết
Như Lai là
pháp thường trụ, do đây nên nói rằng
Thập trụ Bồ Tát dầu thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử ! Thủ Lăng gọi là nhứt thiết sự
tất cánh, “ Nghiêm” là kiên, nhứt thiết sự
tất cánh mà đặng
kiên cố gọi là
Thủ Lăng Nghiêm. Do đây nên nói rằng
Thủ Lăng Nghiêm định gọi là
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Một lúc nọ ta ở bên
sông Ni Liên Thiền, bảo
A Nan rằng : Nay ta muốn tắm rửa, ông nên lấy y và đem
tháo đậu. Ta vào trong nước, tất cả loài chim cùng những loài ở trên đất, ở
dưới nước đều tụ đến xem ngó ta. Lúc đó lại có năm trăm vị
Phạm Chí đi đến bờ sông bảo nhau rằng : Thế nào mà được thân
Kim Cương ? Nếu
giả sử ông
Cù Đàm chẳng nói
đoạn kiến, ta sẽ theo ông để thỉnh thọ
trai pháp.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó ta dùng
tha tâm trí biết
tâm niệm của các
Phạm Chí, bèn bảo họ rằng tại sao cho rằng ta nói
đoạn kiến ? _ Các
Phạm Chí đáp : Lúc trước ở trong các kinh
Cù Đàm nói tất cả
chúng sanh đều không có ngã, đã nói không ngã sao lại chẳng phải
đoạn kiến ?
Nếu không ngã thời ai
trì giới ? Ai
phá giới ?
_ Nầy các
Phạm Chí ! Ta nói tất cả
chúng sanh đều không ngã. Ta cũng thường tuyên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Phật tánh đó há chẳng phải là ngã ư ? Do nghĩa nầy nên ta chẳng nói
đoạn kiến. Vì tất cả
chúng sanh chẳng thấy
Phật tánh nên là
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh, đây thời gọi là nói
đoạn kiến vậy.
Lúc đó các
Phạm Chí nghe nói
Phật tánh chính là ngã, liền
phát tâm vô thượng Bồ Đề,
đồng thời xuất gia tu đạo Bồ Đề. Tất cả những loài chim bay cá lội, thú chạy cũng đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề, đã
phát tâm rồi
chúng nó liền được bỏ thân chim thú.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh đây thiệt chẳng phải ngã, vì
chúng sanh nên nói là ngã. Vì có
nhơn duyên nên
Như Lai nói
vô ngã là ngã, mà thật là
vô ngã. Dầu nói như vậy nhưng không
hư vọng. Vì có
nhơn duyên,
Như Lai nói ngã là
vô ngã, mà thiệt là có ngã. Vì
thế giới chúng sanh nên dầu nói
vô ngã mà không
hư vọng.
Phật tánh vô ngã
Như Lai nói là ngã, vì
Phật tánh là thường.
Như Lai là ngã mà nói là
vô ngã, vì được
tự tại.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Nếu tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh như
Kim Cang Lực Sĩ, do cớ gì mà tất cả
chúng sanh chẳng được thấy.
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Như
sắc pháp dầu có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hình chất dài ngắn, mà kẻ mù chẳng thấy. Dầu chẳng thấy nhưng cũng chẳng thể nói rằng không có xanh, vàng, đỏ, trắng hình chất dài ngắn. Vì dầu rằng người mù chẳng thấy, nhưng người mắt sáng thời được thấy.
Phật tánh cũng như vậy, tất cả
chúng sanh dầu chẳng được thấy, nhưng
Thập Trụ Bồ Tát thấy được một ít phần,
đức Như Lai thời thấy rõ
hoàn toàn.
Thập Trụ Bồ Tát thấy
Phật tánh như đêm tối thấy
hình sắc,
Đức Như Lai thấy
Phật tánh như
giữa ban ngày thấy
hình sắc.
Như người mắt lòa thấy
hình sắc chẳng
rõ ràng,
lương y điều trị, do
công dụng của thuốc nên được
rõ ràng.
Thập Trụ Bồ Tát cũng như vậy, dầu thấy
Phật tánh nhưng chẳng được
rõ ràng, nhờ
năng lực của
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội mà được thấy
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người thấy tất cả pháp là
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp cũng là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, người như vậy thời chẳng thấy
Phật tánh.
Trên đây nói tất cả pháp đó là nói
sanh tử. Còn chẳng phải tất cả pháp đó là nói
Tam Bảo.
Hàng
Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả pháp là
vô thường , vô lạc,
vô ngã, vô tịnh ; thấy chẳng phải tất cả pháp cũng là
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh, vì thế nên chẳng thấy
Phật tánh.
Thập Trụ Bồ Tát thấy tất cả pháp là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, còn chẳng phải tất cả
pháp thời phần ít là thường, lạc, ngã, tịnh do đây nên trong mười phần thấy được một phần.
Chư
Phật Thế Tôn thấy tất cả pháp là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì thế nên
Như Lai thấy
Phật tánh xem như trái
A ma lặc trong bàn tay. Do nghĩa nầy nên
Thủ Lăng Nghiêm định gọi là
tất cánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Như đêm mùng một dầu chẳng thấy
mặt trăng nhưng chẳng được nói là không.
Phật tánh cũng như vậy, tất cả
phàm phu dầu chẳng được thấy, cũng chẳng được nói rằng không có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh là
mười trí lực, bốn
vô sở úy,
đại bi tam niệm. Tất cả
chúng sanh thời có ba thứ ấy, vì sau khi phá
trừ phiền não thời được thấy. Hàng nhứt
xiển đề sau khi phá trừ nhứt
xiển đề thời có thể được ba thứ ấy. Do nghĩa nầy nên Phật thường tuyên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh đều đồng có mười hai
nhơn duyên, cũng có nội, cũng có ngoại.
Những gì là mười hai ?
Phiền não quá khứ gọi là “Vô minh”, nghiệp
quá khứ gọi là “hành”.
Trong đời hiện tại, lúc
sơ khởi thọ thai gọi là “thức”. Năm phần
nhập thai chưa đủ bốn căn gọi là “danh sắc”. Đầy đủ bốn căn gọi là “lục nhập”. Chưa
phân biệt khổ vui gọi là “xúc”.
Nhiễm tập một ái gọi là “thọ”. Quen gần
ngũ dục thời gọi là “ái”. Tham cầu trong và ngoài thời gọi là “thủ”. Vì sự trong ngoài mà khởi nghiệp thân, khẩu, ý đây gọi là “hữu”. Thức đời
hiện tại gọi là
vị lai “sanh”.
Hiện tại danh sắc, lục, nhập, xúc, thọ thời gọi là
vị lai “lão, bịnh, tử” vậy. Đây gọi là mười hai
nhơn duyên.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh dầu có mười hai
nhơn duyên như vậy, hoặc có kẻ chưa đủ như lúc
Ca La Lã chết thời không có mười hai. Từ sanh đến
lão tử thời đủ mười hai.
Chúng sanh cõi
sắc không có ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có già bịnh, nhưng cũng được gọi là đầy đủ mười hai.
Chúng sanh cõi
vô sắc thời không có sắc nhẫn đến không
lão bịnh, nhưng cũng được gọi là đủ mười hai, vì
quyết định được vậy. Vì thế nên nói rằng
chúng sanh đồng đầy đủ có mười hai
nhơn duyên.
Phật tánh cũng như vậy, tất cả
chúng sanh quyết định sẽ đặng thành
vô thượng Bồ Đề. Do đây nên Phật nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Núi Tuyết có thứ cỏ tên
nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ nầy thời sanh chất
đề hồ. Trên núi ấy lại có thứ cỏ khác, nếu bò ăn thứ cỏ ấy thời không sanh chất
đề hồ. Dầu không sanh chất
đề hồ nhưng chẳng thể nói rằng trong núi Tuyết không có cỏ
nhẫn nhục.
Phật tánh cũng như vậy. Núi Tuyết là nói
Như Lai, cỏ
nhẫn nhục là nói
Đại Niết Bàn, những cỏ khác là nói
mười hai bộ kinh.
Chúng sanh nếu có thể được nghe, được
học hỏi Đại Niết Bàn thời thấy được
Phật tánh. Trong
mười hai bộ kinh dầu chẳng nghe có, nhưng chẳng thể nói rằng không có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc ; cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng ; cũng là một cũng là chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một ; chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải chẳng phải thường, chẳng phải chẳng phải đoạn ; cũng là có cũng là không, chẳng phải có chẳng phải không ; cũng là tận cũng là chẳng phải tận, chẳng phải tận, chẳng phải là chẳng phải tận ; cũng là nhơn cũng là quả, chẳng phải nhơn chẳng phải quả ; cũng là nghĩa cũng là chẳng phải nghĩa, chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa ; cũng là
danh tự cũng là chẳng phải
danh tự, chẳng phải
danh tự chẳng phải là chẳng phải
danh tự ; cũng là khổ cũng là lạc, chẳng phải khổ chẳng phải lạc ; cũng là ngã cũng là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã ; cũng là không cũng là chẳng phải không, chẳng phải là không chẳng phải là chẳng phải không.
Thế nào là sắc ? Vì là
thân kim cang. Thế nào là
phi sắc ? Vì mười
tám pháp bất cộng chẳng phải là
sắc pháp . Thế nào là chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc ? Vì sắc cũng chẳng phải
sắc không có tướng
quyết định.
Thế nào là tướng ? Vì là ba mươi hai tướng. Thế nào là chẳng phải tướng ? Vì tất cả
chúng sanh chẳng hiện được tướng tốt. Thế nào là chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng ? Vì tướng cùng chẳng phải
tướng không quyết địng vậy.
Thế nào là một ? Vì tất cả
chúng sanh đều là
nhứt thừa. Thế nào là chẳng phải một ? Vì nói
ba thừa vậy . Thế nào là chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một ? Vì
vô số pháp vậy.
Thế nào là chẳng phải thường ? Vì từ nơi duyên mà thấy.
Thế nào là chẳng phải đoạn ? Vì lìa
đoạn kiến vậy.
Thế nào chẳng phải là chẳng phải thường, chẳng phải là chẳng phải đoạn ? Vì không chung không thỉ vậy.
Thế nào là có ? Vì tất cả
chúng sanh đều có. Thế nào là không ? Vì từ
phương tiện khéo mà đặng thấy vậy. Thế nào là chẳng phải có, chẳng phải không ? Vì
hư không tánh vậy.
Thế nào gọi là tận ? Vì đặng
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Thế nào là chẳng phải tận ? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải tận, chẳng phải là chẳng phải tận ? Vì tất cả tướng tận dứt hết vậy.
Thế nào là nhơn ? Vì liễu nhơn vậy. Thế nào là quả ? Vì
quả quyết định vậy. Thế nào là chẳng phải nhơn chẳng phải quả ? Vì là thường vậy.
Thế nào là nghĩa ? Vì đều có thể nhiếp lấy
nghĩa không ngại. Thế nào là chẳng phải nghĩa ? Vì chẳng thể nói vậy. Thế nào là chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa ? Vì
rốt ráo không vậy.
Thế nào là
danh tự ? Vì có tên gọi vậy. Thế nào là chẳng phải
danh tự ? Vì có tên mà thiệt không tên vậy. Thế nào là chẳng phải
danh tự chẳng phải là chẳng phải
danh tự ? Vì dứt tất cả
danh tự vậy.
Thế nào là cũng khổ cũng lạc ? Vì các thọ
duyên khởi vậy. Thế nào là chẳng phải khổ chẳng phải lạc ? Vì dứt tất cả thọ vậy.
Thế nào là chẳng phải ngã ? Vì chưa đầy đủ được tám thứ
tự tại vậy. Thế nào là chẳng phải chẳng phải ngã ? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã ? Vì chẳng tạo tác chẳng
lãnh thọ vậy.
Thế nào là không ? Vì là
đệ nhứt nghĩa không. Thế nào là chẳng phải không ? Vì là thường vậy.Thế nào là chẳng phải không chẳng phải là chẳng phải không ? Vì có thể là
chủng tử cho pháp lành vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người
tư duy hiểu rõ được
kinh Đại Niết Bàn những nghĩa như vậy, nên biết rằng người nầy thấy được
Phật tánh.
Phật tánh đó chẳng thể nghĩ bàn, là
cảnh giới của chư Phật, chẳng phải
Thanh Văn Duyên Giác biết được.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh chẳng phải là ấm, giới, nhập, chẳng phải trước không nay có, chẳng phải đã có rồi
trở lại không, từ nơi
nhơn duyên lành mà
chúng sanh đặng thấy.
Ví như khối sắt đen để vào lửa đốt thời đỏ,
lấy ra nguội thời
trở lại đen.
Dầu vậy nhưng màu đen nầy chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do
nhơn duyên mà có.
Phật tánh cũng như vậy, lửa
phiền não tắt dứt
thời chúng sanh được
nghe được thấy.
Nầy
Thiện nam tử ! Như hột giống biến diệt thời mầm mộng mọc lên, nhưng tánh mầm mộng nầy chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nhẫn đến bông trái cũng như vậy, đều theo nơi duyên mà có.
Kinh Đại Niết Bàn vi diệu nầy
thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức.
Phật tánh cũng như vậy đều là
vô lượng vô biên công đức kết hợp mà
thành tựu.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn !
Bồ Tát thành tựu đầy đủ bao nhiêu
pháp thời đặng thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng ? Chư
Phật Thế Tôn thành tựu bao nhiêu pháp mà được thấy
rõ ràng ?
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát thành tựu đầy đủ mười pháp dầu được thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng : Một là
thiểu dục, hai là
tri dục, ba là
tịch tịnh, bốn là
tinh tấn, năm là
chánh niệm, sáu là
chánh định, bảy là chánh huệ, tám là
giải thoát, chín là
tán thán giải thoát, mười là dùng
Đại Niết Bàn giáo hóa chúng sanh”.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn !
Thiểu dục cùng
tri túc có gì sai khác ? “
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử !
thiểu dục là chẳng cầu chẳng lấy.
Tri túc là lúc đặng ít lòng không
hối hận.
Thiểu dục là ít có mong muốn.
Tri túc là chỉ vì
pháp sự lòng chẳng
sầu não.
Nầy
Thiện nam tử ! Dục đó có ba : Một là
ác dục, hai là đại dục, ba là dục dục.
Ác dục là nếu có
Tỳ Kheo sanh lòng
tham dục muốn làm
thượng thủ của tất cả
đại chúng, muốn cho tất cả
chúng tăng thuận theo phía sau ta, khiến
bốn bộ chúng thảy đều
cúng dường cung kính tán thán tôn trọng ta. Khiến ta vì chúng
thuyết pháp trước nhứt, đều muốn cho tất cả tin thọ lời của ta. Cũng khiến
Quốc Vương, quan lớn, trưởng gỉa đều
cung kính ta. Khiến ta được nhiều
y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà cửa
tốt đẹp. Đây là cầu muốn
sanh tử nên gọi là
ác dục.
Đại dục là thế nào ? Nếu có
Tỳ Kheo sanh lòng cầu muốn làm thế nào cho
bốn bộ chúng thảy đều biết ta được bực
sơ trụ những đến
thập trụ, được
vô thượng Bồ Đề, được quả
A La Hán nhẫn đến quả
Tu Đà Hoàn, ta được
tứ thiền nhẫn đến bốn trí
vô ngại. Đây là vì
lợi dưỡng nên gọi là đại dục.
Dục dục là, nếu có
Tỳ Kheo muốn sanh
Phạm Thiên,
Ma Thiên,
Tự Tại Thiên,
Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc
Sát Đế Lợi,
Cư Sĩ,
Bà La Môn, đều được
tự tại. Vì
lợi dưỡng nên gọi là dục dục.
Nếu chẳng bị ba thứ
ác dục nầy làm hại thời gọi là
thiểu dục.
Dục đó gọi là hai mươi lăm ái, không có hai mươi lăm ái như vậy thời gọi là
thiểu dục. Chẳng cần những sự mong muốn
vị lai thời gọi là
thiểu dục. Được mà chẳng tham đắm thời gọi là
tri túc. Chẳng cầu
cung kính gọi là
thiểu dục, được mà chẳng chứa nhóm gọi là
tri túc.
Nầy
Thiện nam tử ! Có lúc
thiểu dục chẳng gọi là
tri túc, cũng có
tri túc chẳng gọi là
thiểu dục, cũng có
thiểu dục mà cũng
tri túc, cũng có chẳng
tri túc chẳng
thiểu dục.
Thiểu dục đó là nói bực
Tu Đà Hoàn.
Tri túc đó là nói
Bích Chi Phật.
Thiểu dục tri túc đó là nói
A La Hán. Chẳng
thiểu dục chẳng
tri túc đó là nói
Bồ Tát.
Nầy
Thiện nam tử !
Thiểu dục tri túc lại có hai thứ : Một là thiện, hai là
bất thiện.
Bất thiện là nói
phàm phu. Thiện là nói Thánh nhơn và
Bồ Tát. Tất cả Thánh nhơn dầu chứng được
đạo quả mà chẳng tự xưng nói vì chẳng tự xưng nói nên trong lòng chẳng
não hận, đây gọi là
tri túc.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn, vì muốn thấy
Phật tánh nên
tu tập thiểu dục tri túc.
Thế nào là
tịch tịnh ?
Tịch tịnh có hai : Một là tâm tịnh, hai là thân tịnh. Thân
tịch tịnh thời trọn chẳng gây tạo ba điều ác nơi thân.
Tâm tịch tịnh cũng chẳng gây tạo ba điều ác nơi ý, đây gọi là
thân tâm tịch tịnh.
Thân
tịch tịnh trọn chẳng gần gũi
bốn chúng, chẳng dự việc của
bốn chúng.
Tâm tịch tịnh là chẳng quen tập
tham dục,
sân khuể,
ngu si. Đây gọi là
thân tâm tịch tịnh. Hoặc có
Tỳ Kheo thân dầu
tịch tịnh mà tâm chẳng
tịch tịnh. Có
Tỳ Kheo thân chẳng
tịch tịnh mà
tâm tịch tịnh. Có
Tỳ Kheo thân tâm đều
tịch tịnh. Lại có
Tỳ Kheo thân tâm đều chẳng
tịch tịnh.
Người thân
tịch tịnh mà tâm chẳng
tịch tịnh, như có
Tỳ Kheo ngồi thiền chỗ vắng vẻ
xa lìa bốn chúng mà trong lòng luôn chứa nhóm
tham dục,
sân khuể,
ngu si.
Người
tâm tịch tịnh mà thân chẳng
tịch tịnh, như có
Tỳ Kheo gần gũi
bốn chúng cùng
Quốc Vương, đại thần mà trong lòng dứt tham, sân, si. Người
thân tâm đều
tịch tịnh, chính là chư Phật và
Bồ Tát.
Người
thân tâm đều chẳng
tịch tịnh chính là các
phàm phu, vì
phàm phu thân tâm dầu
yên tịnh nhưng không thể
quán sát sâu xa lý vô thường vô lạc vô ngả vô tịnh, do đây nên
phàm phu không thể
tịch tịnh được thân, khẩu, ý
ba nghiệp.
Hạng nhứt
xiển đề phạm bốn tội nặng, tạo
năm tội nghịch cũng chẳng gọi là
thân tâm tịch tịnh.
Thế nào là
tinh tấn ? Nếu có
Tỳ Kheo muốn cho thân, khẩu, ý
ba nghiệp thanh tịnh nên
xa lìa tất cả hạnh
nghiệp bất thiện mà
tu tập tất cả
nghiệp lành, đây gọi là
tinh tấn.
Siêng năng
tinh tấn như đây thời
chuyên niệm tưởng nơi
sáu chỗ, chính là
Phật Pháp Tăng, giới, thí và thiên, đây gọi là
chánh niệm.
Người có
chánh niệm thời được
tam muội, đây gọi là
chánh định.
Người có
chánh định,
quán sát thấy các pháp dường như
hư không, đây gọi là chánh huệ. Người có chánh huệ
xa lìa tất cả
kiết sử phiền não, đây gọi là
giải thoát.
Người
được giải thoát vì
chúng sanh mà khen ngợi
giải thoát, nói rằng
giải thoát là
thường hằng chẳng
biến đổi đây gọi là
tán thán giải thoát.
Giải thoát chính là
vô thượng Đại Bát Niết Bàn.
Niết Bàn chính là lửa
phiền não kiết sử đã tắt mất. Lại
Niết Bàn gọi là nhà cửa, vì có thể ngăn mưa gió
phiền não. Lại
Niết Bàn gọi là
quy y, vì có thể qua khỏi tất cả những sự bố úy. Lại
Niết Bàn gọi là cồn bãi, vì
bốn con sông lớn hung bạo chẳng thể chảy trôi. Những gì là bốn ? Một là dục bạo, hai là hữu bạo, ba là kiến bạo, bốn là
vô minh bạo. Do đây nên
Niết Bàn gọi là cồn bãi. Lại
Niết Bàn gọi là
rốt ráo về, vì có thể được tất cả sự
an lạc rốt ráo.
Nếu có
Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ mười
pháp như vậy, thời dầu được thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Người
xuất gia có bốn thứ bịnh nên chẳng chứng được bốn quả
Sa Môn.
Những gì là bốn bịnh ? Chính là bốn
ác dục : Một là
y phục dục, hai là
thực dục, ba là
ngọa cụ dục, bốn là
hữu dục.
Bịnh
xuất gia nầy, có bốn thứ
lương dược trị lành được :
Phấn tảo y trị được bịnh y dục của
Tỳ Kheo ;
khất thực trị được bịnh vì
thực dục ; thọ hạ trị được bịng
ngọa cụ dục ;
thân tâm tịch tịnh phá được
hữu dục của
Tỳ Kheo.
Đây gọi là bốn thứ thuốc trị bốn thứ bịnh, gọi đó là
thánh hạnh.
Thánh hạnh nầy được gọi
thiểu dục tri túc.
Người
tịch tịnh có bốn điều vui : Một là
xuất gia vui, hai là
tịch tịnh vui, ba là vĩnh việt vui, bốn là
tất cánh vui. Được bốn điều vui nầy gọi là
tịch tịnh.
Đủ bốn hạnh
tinh tấn nên gọi là
tinh tấn. Đủ
tứ niệm xứ nên gọi là
chánh niệm. Đủ
tứ thiền nên gọi là
chánh định. Thấy bốn điều chơn thật của Thánh nên gọi là chánh huệ.
Dứt hẳn tất cả
phiền não kiết sử gọi là
giải thoát. Quỡ trách lỗi của tất cả
phiền não gọi là
tán thán giải thoát.
Đại Bồ Tát đầy đủ mười
pháp như vậy, dầu được thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát nghe kinh nầy rồi gần gũi
tu tập,
xa lìa tất cả việc
thế gian, đây gọi là
thiểu dục. Đã
xuất gia rồi chẳng sanh lòng
hối hận, đây gọi là
tri túc. Đã
tri túc rồi gần ở nơi chỗ vắng vẽ
rảnh rang xa lìa chỗ
ồn ào thời gọi là
tịch tịnh.
Người chẳng
tri túc chẳng thích chỗ vắng vẻ
rảnh rang. Luận về người
tri túc thời thường thích ở chỗ vắng vẻ. Ở chỗ vắng vẽ rồi thường
suy nghĩ rằng : Tất cả
thế gian đều gọi tôi đặng
đạo quả Sa Môn, nhưng thiệt ra tôi chưa đặng, nay tôi sao lại phỉnh gạt
mọi người, nghĩ như vậy rồi siêng năng
tu tập đạo quả Sa Môn, đây gọi là
tinh tấn.
Gần gũi
tu tập Đại Niết Bàn, đây gọi là
chánh niệm.
Tùy thuận thiên hạnh gọi là
chánh định. An trụ trong định nầy có
chánh kiến chánh tri, đây gọi là chánh huệ. Người chánh
tri kiến có thể
xa lìa được
kiết sử phiền não, đây gọi là
giải thoát.
Thập trụ Bồ Tát vì
chúng sanh mà khen ngợi
Niết Bàn, đây gọi là
tán thán giải thoát.
Đại Bồ Tát đầy đủ mười
pháp như vậy, dầu được thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Luận về người
thiểu dục như có
Tỳ Kheo ở chỗ vắng vẽ ngồi ngay thẳng chẳng nằm, hoặc ở dưới cội cây, hoặc ở trong gò mã, hoặc ở chỗ trống, tùy chỗ có cỏ mà ngồi trên đó,
khất thực mà ăn đặng gì cũng là đủ cả. Hoặc
một lần ngồi ăn, chẳng quá
một lần ăn, chỉ chứa ba y, y
phấn tảo, y bố, đây gọi là
thiểu dục. Đã thật hành việc nầy trong lòng chẳng
ăn năn, đây gọi là
tri túc. Tu
không tam muội, đây gọi là
tịch tịnh. Đặng bốn quả
Sa Môn rồi đối với
vô thượng Bồ Đề tâm chẳng thôi dứt, đây gọi là tinht ấn.
Chuyên tâm tư duy tánh
Như Lai là thường không có
biến đổi đây gọi là
chánh niệm. Tu
bát giải thoát đây gọi là
chánh định. Đặng
tứ vô ngại đây gọi là chánh huệ.
Xa lìa bảy thứ lậu, đây gọi là
giải thoát. Khen ngợi
Niết Bàn không có
mười tướng, gọi là
tán thán giải thoát.
Mười tướng là : Sanh, gìa, bịnh, chết
sắc ,thinh, hương, vị, xúc và
vô thường.
Xa lìa mười tướng nầy thời gọi là
Đại Niết Bàn. Đây gọi là
Đại Bồ Tát đầy đủ mười
pháp như vậy dầu được thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì
đa dục nên gần gũi
Quốc Vương, Quan lớn,
Trưởng giả,
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Tỳ Xá ,
Thủ Đà, tự xưng là tôi đặng quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán.
Vì
lợi dưỡng nên đi đứng ngồi nằm nhẫn đến đại tiện
tiểu tiện, nếu thấy
đàn việt vẫn chào hỏi
tiếp đãi chuyện vãn.
Người phá
ác dục gọi là
thiểu dục, dầu người nầy chưa có thể
phá hoại phiền não kiết sử, nhưng có thể
đồng hành vi với
Như Lai, đây gọi là
tri túc.
Nầy
Thiện nam tử ! Hai
pháp như vậy bèn là
nhơn duyên gần của
chánh niệm,
chánh định, thường được
sư trưởng bạn học khen ngợi. Trong các kinh Phật cũng thường
ngợi khen tán thán tôn trọng pháp như vậy.
Nếu có thể đầy đủ hai pháp nầy thời được gần môn
Đại Niết Bàn và năm điều vui, đây gọi là
tịch tịnh. Người
giữ giới bền chắc gọi là
tinh tấn. Người có tàm quí gọi là
chánh niệm, chẳng thấy
tâm tướng gọi là
chánh định, chẳng cầu
tánh tướng nhơn duyên của các
pháp thời gọi là chánh huệ. Vì không có tướng nên
phiền não dứt, đây gọi là
giải thoát. Khen ngợi
kinh Đại Niết Bàn nầy thời gọi là
tán thán giải thoát.
Đây gọi là
Đại Bồ Tát an trụ mười pháp dầu được thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông hỏi
Thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì mà thấy được
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng, chư Phật dùng con mắt gì mà thấy đuợc
Phật tánh rõ ràng ?
Nầy
Thiện nam tử ! Do
huệ nhãn mà thấy
Phật tánh thời chẳng được
rõ ràng, dùng
Phật nhãn mà thấy thời được
rõ ràng. Vì hạnh
Bồ Đề thời chẳng
rõ ràng, nếu
vô hành vô tác thời được
rõ ràng. Trụ nơi
thập trụ thời dầu thấy mà chẳng
rõ ràng, nếu chẳng trụ chẳng đi thời thấy được
rõ ràng.
Đại Bồ Tát vì nhơn
trí huệ nên thấy chẳng
rõ ràng, chư Phật vì dứt nhơn quả nên thấy
rõ ràng. Bực nhứt thiết giác gọi là
Phật tánh.
Thập trụ Bồ Tát chẳng được gọi là nhứt thiết giác, nên dầu thấy mà chẳng
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử ! Thấy có hai thứ : Một là con mắt thấy, hai là nghe thấy.
Chư Phật con mắt thấy
Phật tánh như xem trái cây trong bàn tay.
Thập trụ Bồ Tát nghe thấy
Phật tánh nên chẳng
rõ ràng .
Thập trụ Bồ Tát dầu có thể tự biết
quyết định đặng
vô thượng Bồ Đề, mà chẳng biết được tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Lại có con mắt
ngó thấy : Như Chư Phật cùng
Thập trụ Bồ Tát, con mắt thấy
Phật tánh. Lại có nghe thấy : Như tất cả
chúng sanh nhẫn đến
Cửu trụ Bồ Tát nghe thấy
Phật tánh.
Bồ Tát nếu nghe tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, chẳng sanh
lòng tin thời chẳng gọi là nghe thấy.
Nếu có
Thiện nam tử ,
Thiện nữ nhơn muốn thấy
Như Lai, nên phải
tu tập mười hai bộ kinh thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh chẳng biết được
tâm tướng của
Như Lai, phải
quán tưởng thế nào để đuợc biết ?”
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh thật ra chẳng biết được
tâm tướng của
Như Lai. Nếu muốn
quan sát để được biết thời có hai
nhơn duyên : Một là con mắt thấy, hai là nghe thấy. Nếu thấy
thân nghiệp của
Như Lai, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây gọi là con mắt thấy. Nếu xem thấy
khẩu nghiệp của
Như Lai, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây gọi là nghe thấy. Nếu thấy sắc mạo mà tất cả
chúng sanh không
sánh bằng được, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây là con mắt thấy. Nếu nghe tiếng tâm
vi diệu tối thắng chẳng đồng với tiếng tâm của
chúng sanh, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây gọi là nghe thấy. Nếu thấy
thần thông của
Như Lai hiện,
thần thông nầy là vì
chúng sanh hay là vì
lợi dưỡng ? Nếu là vì
chúng sanh mà chẳng vì
lợi dưỡng, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây là con mắt
ngó thấy. Nếu xem thấy
Như Lai lúc dùng
tha tâm trí quán sát chúng sanh, vì
lợi dưỡng thuyết pháp hay vì
chúng sanh thuyết pháp ?
Nếu vì
chúng sanh mà chẳng vì
lợi dưỡng, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây gọi là nghe thấy.
Tại sao
Như Lai thọ thân nầy ? Cớ gì thọ thân ? Vì ai mà thọ thân ? Đây gọi là con mắt
ngó thấy.
Nếu
quan sát Như Lai thuyết pháp thế nào ? Cớ gì
thuyết pháp ? Vì ai mà thuyết
pháp ? Đây gọi là nghe thấy. Dùng
nghiệp ác nơi thân gia hại đó mà chẳng
sân hận, nên biết rằng đây là
Như Lai vậy, đây gọi là con mắt thấy. Dùng
nghiệp ác nơi miệng gia hại đó mà chẳng giận, nên biết rằng đây là
Như Lai, đây gọi là nghe thấy.
Nếu thấy
Bồ Tát lúc mới sanh, ở bốn phương đều đi bảy bước, các
thiên thần cầm phan lọng,
chấn động vô lượng vô biên thế giới, ánh sáng vàng chói rực khắp
hư không,
Long Vương dùng
thần lực phun nước tắm rửa cho
Bồ Tát,
Chư Thiên hiện hình tiếp đỡ
đảnh lễ, tiên
A Tư Đà chắp tay cung kính, lớn khôn vất bỏ
ngũ dục như bỏ nước miếng nước mũi, chẳng bị sự vui
trong đời cám dỗ,
xuất gia tu hành, thích ở chỗ
vắng lặng, vì phá
tà kiến nên
khổ hạnh sáu năm, đối với
chúng sanh bình đẳng không sai khác, tâm thường ở trong
chánh định không bao giờ
tán loạn,
tướng hảo trang nghiêm nơi thân, đi đến chỗ nào những gò nỗng đều bằng,
y phục cách rời nơi thân bốn tấc chẳng
sa xuống, lúc đi nhìn thẳng chẳng ngó hai bên, vật thực của Phật ăn không có lỗi chẳng
hoàn toàn, chỗ Phật ngồi đứng cỏ chẳng động loạn, vì
điều phục chúng sanh nên qua
thuyết pháp mà
tâm không kiêu mạn, đây gọi là con mắt thấy.
Nếu nghe
Bồ Tát đi bảy bước rồi xướng rằng : Nay thân nầy của ta là thân rốt sau cả.
A Tư Đà Tiên
chắp tay nói rằng :
_ Tâu
Đại Vương !
Thái Tử Tất Đạt Đa quyết định sẽ thành
Vô thượng Bồ Đề, trọn chẳng ở nhà làm
Chuyển Luân Vương, vì
Chuyển Luân Vương thân tướng chẳng
rõ ràng, còn
Thái Tử Tất Đại Đa tất cả tướng tốt nơi thân đều sáng rở, do đây quyết chắc sẽ được
vô thượng Bồ Đề. Lúc thấy người già bịnh chết,
Bồ Tát nói rằng : Tất cả
chúng sanh thật đáng
xót thương, thường ở trong sanh, già, bịnh, chết mà chẳng biết
quan sát, ta sẽ dứt trừ sự khổ ấy. Theo học định vô tưởntg với
Ngũ Thông Tiên Nhơn là ông A La Lã, đã
thành tựu rồi
Bồ Tát bèn nói lỗi của môn định ấy. Lại theo học
định phi phi tưởng với Tiên Nhơn Uất Đà Dà, đã
thành tựu rồi bèn nói định nầy chẳng phải
Niết Bàn, chính là pháp
sanh tử. Sáu năm
khổ hạnh không có kết quả :
Tu khổ hạnh luống
vô ích, nếu là hay thời ta đã được kết quả tốt, vì là
hư vọng nên ta không được gì, đây gọi là tà thuật, chẳng phải là đạo chơn chánh.
Lúc đã
thành đạo,
Phạm Thiên thỉnh : “ Ngửa mong
đức Như Lai vì
chúng sanh mà
thuyết pháp cam lộ vô thượng”.
Phật bảo : “ Nầy
Phạm Vương ! Tất cả
chúng sanh thường bị
phiền não che đậy chẳng thể
lãnh thọ lời dạy về pháp chơn chánh của Phật.”
Phạm Vương lại bạch : “
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh phàm có ba hạng :
Lợi căn,
trung căn và
hạ căn. Hạng
lợi căn có thể
lãnh thọ chánh pháp. Xin
đức Thế Tôn vì họ mà thuyết pháp” .
Phật nói : “ Nầy
Phạm Vương ! Lóng nghe !Lóng nghe ! Nay Phật sẽ vì tất cả
chúng sanh mở cửa cam lộ”.
Ở thành
Ba La Nại, chuyển
chánh pháp luân, tuyên nói
trung đạo, vì tất cả
chúng sanh chẳng phá trừ các
kiết sử, chẳng phải là không thể trừ, chẳng phải phá chẳng phải là chẳng phá, nên gọi là
trung đạo.
Chẳng độ
chúng sanh, chẳng phải là không độ được nên gọi là
trung đạo.
Chẳng phải tất cả
thành tựu, chẳng phải là chẳng
thành tựu nên gọi là
trung đạo.
Phàm có
lời nói dạy ra, chẳng tự nói là thấy, chẳng nói là
đệ tử, nên gọi là
trung đạo.
Thuyết pháp chẳng vì lợi, chẳng phải là không được quả lành nên gọi là
trung đạo.
Lời Phật là
chánh ngữ, thiệt ngữ, thời ngữ, chơn ngữ, chẳng
hư vọng, là
vi diệu đệ nhứt.
Đây gọi là nghe thấy.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm tướng của
Như Lai thiệt ra không thể thấy. Nếu
Thiện nam tử ,
Thiện nữ nhơn nào muốn được thấy
Như Lai, phải nên
y theo hai
nhơn duyên như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như trước kia nói điều dụ trái
am ma la bốn hạng người v.v… Có hạng người
việc làm kỹ mà tâm chẳng chánh thiệt. Có hạng người tâm kỹ mà
việc làm chẳng chánh thiệt. Có hạng người tâm kỹ mà
việc làm cũng chánh thiệt. Có hạng người tâm chẳng kỹ
việc làm cũng chẳng chánh thiệt.
Thế Tôn ! Hai hạng đầu, làm thế nào biết được ? Như lời Phật nói, dầu
y theo hai
nhơn duyên ấy, cũng chẳng thể biết được.
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Điều dụ trái
am ma la, hai hạng người nầy thiệt khó biết được. Vì khó biết, nên trong kinh Phật nói phải cùng họ
ở chung.
Ở chung nếu chẳng biết được thời phải ở lâu. Ở lâu nếu chẳng biết được thời nên dùng
trí huệ. Dùng trí mà chẳng biết thời nên
quán sát suy gẫm kỹ. Do
quán sát suy gẫm thời biết là
trì giới cùng
phá giới.
Nầy
Thiện nam tử ! Đầy đủ bốn điều :
Ở chung, ở lâu,
trí huệ,
quán sát rồi sau mới biết là
trì giới cùng
phá giới.
Nầy
Thiện nam tử ! Giới có hai thứ,
trì giới cũng hai : Một là giới
cứu cánh, hai là giới chẳng
cứu cánh.
Có người do
nhơn duyên nên
thọ trì cấm giới, người trí phải
quán sát người nầy
trì giới là vì
lợi dưỡng hay là vì
cứu cánh.
Giới của
đức Như Lai không có
nhơn duyên, vì thế nên được gọi là giới
cứu cánh.
Do nghĩa nầy nên
Bồ Tát dầu bị
chúng sanh ác làm
tổn hại mà chẳng có lòng giận hờn. Do đây nên
Như Lai đặng gọi là
thành tựu trì giới cứu cánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Xưa kia có một lúc ta cùng
Xá Lợi Phất và năm trăm
đệ tử đồng ở nơi nước
Ma Dà Đà trong thành Chiêm Bà. Có thợ
săn đuổi theo một con
bồ câu.
Bồ câu nầy sợ hải đến nơi bóng của
Xá Lợi Phất vẫn còn
run sợ, nó chạy đến trong bóng của ta thời
thân tâm an ổn hết kinh sợ. Do đây nên biết
đức Như Lai trì giới rốt ráo nhẫn đến bóng của thân còn có
năng lực như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Giới chẳng
cứu cánh còn chẳng được quả
Thanh Văn,
Duyên Giác, huống là có thể được quả
vô thượng Bồ Đề.
Lại có hai thứ : Một là vì
lợi dưỡng, hai là vì
chánh pháp. Vì
lợi dưỡng mà
thọ trì cấm giới, nên biết giới nầy chẳng thấy được
Phật tánh cùng
Như Lai. Dầu nghe
Phật tánh và
danh tự Như Lai nhưng vẫn chẳng được gọi là nghe thấy.
Nếu vì
chánh pháp mà
thọ trì cấm giới, nên biết giới nầy có thể thấy được
Phật tánh cùng
Như Lai, đây gọi là con mắt thấy cũng gọi là nghe thấy.
Lại có hai thứ : Một là căn sâu khó lay khó nhổ, hai là căn cạn dễ động.
Nếu có thể tu tập không,
vô tướng,
vô nguyện, đây gọi là căn sâu. Nếu chẳng
tu tập ba môn
tam muội nầy, hoặc dầu
tu tập mà vì hai mươi lăm cõi, đây gọi là căn cạn.
Lại có hai thứ : Một là vì thân mình, hai là vì
chúng sanh. Người vì
chúng sanh thời có thể thấy
Phật tánh và
Như Lai.
Người
trì giới lại có hai hạng, một là tánh tự hay là
trì giới, hai là
cần phải người khác
dạy bảo nếu đã
thọ giới trải qua vô lượng đời không sai phạm hoặc ở nhằm nước ác, gặp bạn ác,
thời kỳ ác, đời ác, gặp pháp ác
gian tà,
ở chung với kẻ
tà kiến, dầu như vậy, nhưng người nầy vẫn
giữ gìn giới pháp như cũ không có hủy phạm, đây gọi là tánh tự hay
trì giới. Nếu là người gặp
Sư Tăng Bạch Tứ Yết Ma mà
đắc giới, thời
cần phải nương nhờ Hòa Thượng, các
Sư Tăng, bạn lành
dạy bảo, mới biết
oai nghi cử chỉ đúng pháp, đây gọi là hạng người cần nhờ sự
dạy bảo.
Người tánh tự hay
trì giới thời con mắt thấy
Phật tánh và thấy
Như Lai, cùng gọi là nghe thấy.
Giới lại có hai : Một là
giới Thanh Văn, hai là giới
Bồ Tát từ
sơ phát tâm nhẫn đến đặng
vô thượng Bồ Đề, đây gọi là giới
Bồ Tát. Nếu quán
bạch cốt nhẫn đến
chứng quả A La Hán đây gọi là
giới Thanh Văn.
Nếu có người
trì giới Thanh Văn, nên biết rằng người nầy chẳng thấy
Phật tánh và
Như Lai. Nếu có người
trì giới Bồ Tát, nên biết rằng người nầy được
vô thượng Bồ Đề, thấy được
Phật tánh và
Như Lai Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “Thế Tôn ! Do
nhơn duyên gì mà
thọ trì cấm giới ?”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Vì tâm chẳng
hối hận. Cớ gì chẳng
hối hận ? Vì hưởng thọ
an lạc. Cớ gì hưởng thọ
an lạc ? Vì
xa lìa. Cớ gì
xa lìa ? Vì
an ổn. Cớ gì
an ổn ? Vì
thiền định. Cớ gì
thiền định ? Vì
tri kiến chơn thật. Cớ gì
tri kiến chơn thật ? Vì thấy những lỗi họa của
sanh tử. Cớ gì thấy lỗi
sanh tử ? Vì tâm chẳng tham đắm. Cớ gì tâm chẳng tham đắm ? Vì
được giải thoát. Cớ gì
được giải thoát ? Vì được
vô thượng Đại Niết Bàn. Cớ gì được
Đại Niết Bàn ? Vì được thường, lạc, ngã, tịnh. Cớ gì được thường, lạc, ngã, tịnh ? Vì được
bất sanh bất diệt . Cớ gì được
bất sanh bất diệt ? Vì thấy
Phật tánh. Do đây nên
Bồ Tát tánh tự hay
trì giới cứu cánh.
Nầy
Thiện nam tử !
Tỳ Kheo trì giới dầu chẳng
phát nguyện cầu tâm chẳng
hối hận, mà
tự nhiên được, vì
pháp tánh như vậy. Dầu chẳng cầu vui,
xa lìa ,
an ổn,
tri kiến chơn thật, thấy lỗi
sanh tử, tâm chẳng tham đắm,
giải thoát,
Niết Bàn, thường, lạc, ngã,tịnh,
bất sanh,
bất diệt, cùng thấy
Phật tánh, nhưng
tự nhiên được tất cả, vì
pháp tánh như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Thế` Tôn ! Nếu do
trì giới mà đặng quả chẳng
ăn năn, nhơn nơi
giải thoát mà đặng quả
Niết Bàn, thời giới là không nhơn,
Niết Bàn là
không quả. Giới
nếu không nhơn thời gọi là thường,
Niết Bàn có nhơn thời là vô thườntg. Nếu như vậy, thời
Niết Bàn là trước không mà nay có. Nếu trước không mà nay có thời là
vô thường, như thắp
ngọn đèn.
Niết Bàn nếu như vậy thời thế nào được gọi là ngã, lạc, tịnh ư ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử !
Lành thay !
Lành thay ! Ông đã từng ở nơi
vô lượng chư Phật trồng những
thiện căn, mới có thể hỏi
Như Lai thâm nghĩa như vậy ?
Nầy
Thiện nam tử ! Ông chẳng mất bổn niệm mới hỏi như vậy ư ?
Ta nhớ thuở xưa, cách đây
vô lượng kiếp, nơi thành
Ba La Nại có
đức Phật ra đời hiệu là
Thiện Đức.
Đức Phật đó diễn nói
kinh Đại Niết Bàn nầy, trong ba ức năm. Lúc đó ta cùng ông đều ở trong
pháp hội đó. Ta đem việc nầy để hỏi
đức Phật Thiện Đức.
Lúc ấy đức Phật Thiện Đức vì
chúng sanh mà nhập
chánh định nên chưa đáp nghĩa nầy.
Lành thay ! Ông bèn có thể nhớ được việc cũ. Lóng nghe ! Lóng nghe ! Ta sẽ vì ông giải nói.
Nầy
Thiện nam tử ! Giới cũng có nhơn, chính là nghe
chánh pháp. Nghe
chánh pháp cũng có nhơn, chính là gần bạn lành. Gần bạn lành cũng có nhơn, chính là
tín tâm. Người có
tín tâm cũng có nhơn, chính là
nghe pháp và
tư duy ý nghĩa,
Tín tâm nhơn nơi
nghe pháp,
nghe pháp nhơn nơi
tín tâm, hai pháp nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả, mà cũng là
quả quả.Như
Ni Kiền Tử dựng ba cây tréo để bình tròn, làm nhơn quả cho nhau chẳng rời được.
Nầy
Thiện nam tử ! Như
vô minh, duyên hành,
hành duyên vô minh,
vô minh và hành nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả mà cũng là
quả quả. Sanh duyên
lão tử,
lão tử duyên sanh, sanh cùng
lão tử nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả mà cũng là
quả quả.
Nầy
Thiện nam tử ! Pháp sanh có thể sanh ra pháp mà chẳng thể tự sanh, vì chẳng tự sanh nên do sanh mà
sanh sanh.
Sanh sanh chẳng tự sanh lại nhờ sanh mà sanh, vì thế nên hai thứ sanh nầy cũng là nhơn mà cũng là nhơn nhơn, cũng là quả mà cũng là
quả quả.
Nầy
Thiện nam tử !
Tín tâm và
nghe pháp cũng như vậy.
Là quả mà chẳng phải nhơn chính là
Đại Niết Bàn.
Cớ gì gọi là quả ? Vì là quả
vô thượng, là quả
Sa Môn, là quả
Bà La Môn, vì dứt
sanh tử, vì phá
phiền não, do đây nên gọi là quả. Vì bị các
phiền não quở trách nên
Niết Bàn gọi là quả.
Phiền não gọi là
lỗi lầm trên
lỗi lầm.
Nầy
Thiện nam tử !
Niết Bàn không có nhơn mà thể của nó là quả. Vì nó không
sanh diệt, vì không chỗ tạo tác, vì chẳng phải
hữu vi, vì là
vô vi, vì thường chẳng
biến đổi, vì không chỗ nói, vì không
thỉ chung.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
Niết Bàn có nhơn thời chẳng đặng gọi là
Niết Bàn. Bàn là nói nhơn, Niết là nói không, không có nhơn nên gọi là
Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Như lời Phật nói
Niết Bàn là không nhơn. Lời nầy không đúng. Nếu nói là không thời hiệp sáu nghĩa : Một là
tất cánh không nên gọi là không, như tất cả
pháp không có
ngã không có
ngã sở. Hai là có lúc không nên gọi là không, như người đời nói sông ao không có nước, không có
mặt trời mặt trăng. Ba là vì ít nên nói là không, như người đời nói trong đồ ăn ít mặn thời gọi là không mặn, nước ngọt ít ngọt thời gọi là không ngọt. Bốn là không
lãnh thọ nên gọi rằng không, như
Chiên Đà La không thể
thọ trì pháp
Bà La Môn, nên gọi là không
Bà La Môn. Năm là vì
thọ pháp ác nên gọi là không, như người đời nói người
thọ pháp ác chẳng gọi là
Sa Môn, chẳng gọi là
Bà La Môn, nên nói không có
Sa Môn và
Bà La Môn. Sáu là vì
đối đãi mà gọi là không,
như không trắng gọi đó là đen, không sáng gọi đó là
vô minh.
Thế Tôn !
Niết Bàn cũng như vậy, có lúc không nhơn nên gọi là
Niết Bàn.
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử Nay ông nói sáu nghĩa như vậy, cớ sao ông không dẫn
rốt ráo không để dụ cho
Niết Bàn, mà ông lại
lấy có lúc không, để lệ cho
Niết Bàn như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Thể của
Niết Bàn rốt ráo không nhơn, cũng
như không ngã và không
ngã sở.
Nầy
Thiện nam tử ! Pháp
thế gian cùng
Niết Bàn trọn chẳng
tương đối nhau, vì thế nên sáu việc của ông dẫn ra chẳng làm ví dụ được.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả pháp đều không có ngã, mà
Niết Bàn nầy thiệt không có ngã, do nghĩa nầy nên
Niết Bàn không nhơn mà thể của nó là quả. Là nhơn mà chẳng phải qủa gọi là
Phật tánh, vì chẳng phải do nhơn sanh, vì chẳng phải quả của
Sa Môn nên gọi là chẳng phải quả. Cớ gì gọi là nhơn, vì là liễu nhơn vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Nhơn có hai thứ : Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn. Hay sanh ra
pháp thời gọi là sanh nhơn. Đèn hay chiếu rõ đồ vật, nên gọi là liễu nhơn.
Phiền não kiết sử thời gọi là sanh nhơn.
Cha mẹ của
chúng sanh thời gọi là liễu nhơn. Như hột lúa v.v… thời gọi là sanh nhơn. Đất nước phân tro v.v… thời gọi là liễu nhơn. Lại có sanh nhơn, chính là sáu môn
Ba La Mật,
vô thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhơn, chính là
Phật tánh vô thượng
Bồ Đề. Lại có liễu nhơn, chính là sáu môn
Ba La Mật,
Phật tánh. Lại có sanh nhơn, chính là
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Vô Thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhơn, chính là
Bát Chánh Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Lại có sanh nhơn, chính là
tín tâm sáu môn
Ba La Mật.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như Phật nói : Thấy
Như Lai và
Phật tánh,
ý nghĩa đó như thế nào ?
Bạch
Thế Tôn ! Thân
Như Lai không có
tướng mạo, chẳng phải dài ngắn trắng đen, không có
phương sở, chẳng ở trong
tam giới, chẳng phải tướng
hữu vi, chẳng phải
nhãn thức thấy được, như thế thời làm sao có thể thấy được,
Phật tánh cũng vậy.”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Thân của Phật có hai thứ : Một là thường, hai là
vô thường. Thân
vô thường chính là vì muốn
độ thoát tất cả
chúng sanh nên
phương tiện thị hiện, thân nầy con mắt thấy được. Thân
thường trụ chính là thân
giải thoát của
Như Lai, thân nầy cũng gọi là con mắt thấy, cũng gọi là nghe thấy.
Phật tánh cũng có hai thứ : Một là có thể thấy, hai là chẳng thể thấy. Có thể thấy là nói bực
Thập trụ Bồ Tát và chư Phật. Chẳng thể thấy là nói tất cả
chúng sanh. Con mắt có thấy, chính là
Thập trụ Bồ Tát và chư Phật con mắt
ngó thấy Phật tánh của
chúng sanh. Có nghe thấy, là tất cả
chúng sanh và
Cửu Trụ Bồ Tát nghe có
Phật tánh.
Thân của Phật lại có hai thứ : Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là thân
giải thoát của
Như Lai. Là chẳng phải sắc vì
đức Như Lai đã dứt hẳn
sắc căn.
Phật tánh lại có hai thứ : Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là
vô thượng Bồ Đề. Là chẳng phải sắc chính là
phàm phu nhẫn đến
Thập Trụ Bồ Tát. Vì
Thập Trụ Bồ Tát chẳng thấy
rõ ràng nên gọi là chẳng phải sắc.
Phật tánh lại có hai thứ : Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là chư Phật và
Bồ Tát. Là chẳng phải sắc chính là tất cả
chúng sanh. Là sắc gọi rằng con mắt thấy. Là
phi sắc gọi rằng nghe thấy.
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dầu chẳng phải trong ngoài nhưng chẳng phải là hư mất, nên gọi rằng
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như Phật nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh như trong sữa có chất lạc.
Kim Cang lực sĩ, chư Phật,
Phật tánh như
đề hồ trong sạch. Cớ sao
đức Như Lai nói rằng
Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải
ngoài ?”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Ta cũng chẳng nói rằng trong sữa có chất lạc. Vì chất lạc từ sữa sanh ra nên nói rằng có chất lạc.
_
Thế Tôn ! Tất cả
sanh pháp đều có
thời tiết.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Lúc là sửa thời không có chất lạc, củng không có các chất sanh tô, thục tô,
đề hồ. Tất cả
chúng sanh cũng gọi đó là sửa. Vì thế nên ta nói rằng trong sửa không có chất lạc. Như trong sửa
đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng
đồng thời có hai thứ tên. Như người có hai nghề thời gọi rằng thợ vàng sắt. Lúc là chất lạc không có sửa cũng
như không có sanh tô, thục tô và
đề hồ.
Chúng sanh cũng gọi là chất lạc chẳng phải sửa, sanh tô thục tô và
đề hồ.
Nầy
Thiện nam tử ! Nhơn có hai thứ : Một là chánh nhơn, hai là duyên nhơn. Chánh nhơn là như sửa sanh chất lạc. Duyên nhơn là như ủ ấm. Vì từ sửa sanh nên gọi là trong sửa có tánh chất lạc.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Nếu sửa
không tánh chất lạc, trong sừng bò cũng không có, cớ sao chẳng từ trong sừng bò mà sanh ?”
_ Nầy
Thiện nam tử ! Sừng bò cũng sanh chất lạc. Vì ta nói rằng duyên nhơn có hai thứ : Một là ủ, hai là ấm. Tánh sừng bò là ấm nên cũng có thể làm
duyên sanh chất lạc.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu sừng bò có thể sanh chất lạc, người tìm chất lạc cớ sao lại tìm nơi sửa mà chẳng dùng sừng.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Do cớ đó nên ta nói có chánh nhơn có duyên nhơn .
_
Thế Tôn ! Nếu trong sửa vốn
không tánh của chất lạc nay mới có, trong sửa vốn
không tánh cây
am ma la, cớ sao chẳng sanh cây
am ma la, vì trong sửa cả hai tánh đều không.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Sửa cũng có thể sanh cây
am ma la, nếu dùng sửa tưới trong nột đêm, cây
am ma la cao thêm năm thước. Do nghĩa nầy nên ta nói có hai thứ nhơn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu tất cả
pháp chỉ có một nhơn sanh ra thời mới có thể
vấn nạn như lời của ông vừa nói.
Nầy
Thiện nam tử ! Như
tứ đại làm
nhơn duyên có ra tất cả
sắc pháp. Nhưng
sắc pháp mỗi mỗi riêng khác chẳng đồng nhau, do nghĩa nầy nên trong sửa chẳng sanh cây
am ma la.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như Phật nói có hai nhơn là chánh nhơn và duyên nhơn,
Phật tánh của
chúng sanh thuộc về nhơn nào ?
_ Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh của
chúng sanh cũng hai thứ nhơn : Một là chánh nhơn, hai là duyên nhơn. Chánh nhơn đó chính là các
chúng sanh. Duyên nhơn đó chính là sáu môn
Ba La Mật.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi
quyết định biết rằng trong sửa có tánh chất lạc. Vì tôi thấy
trong đời những người tìm chất lạc chỉ lấy nơi trong sửa mà trọn chẳng lấy trong những vật khác. Do đây nên biết rằng trong sửa có tánh của chất lạc.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Như lời của ông hỏi, theo nghĩa thời chẳng đúng.
Ví như có người muốn soi thấy hình bóng của mặt mình bèn lấy con dao sáng.
_ Bạch
Thế Tôn ! Do nghĩa nầy nên trong sửa có tánh của chất lạc, vì nếu trong dao không có hình bóng của gương mặt, cớ gì lại lấy dao.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu trong con dao nầy
quyết định có hình bóng của gương mặt, cớ sao lại
điên đảo : Dựng đứng thời thấy hình dài, cầm ngang thời thấy bóng rộng. Nếu là mặt của mình cớ sao lại thấy dài ? Nếu là mặt người khác thời đâu được gọi rằng là hình bóng của mặt mình. Nếu nhơn mặt mình mà thấy mặt người khác, cớ sao chẳng thấy bóng của lừa của ngựa ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Nhãn quang đến nơi kia nên thấy bóng mặt.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Thật ra nhãn quang nầy chẳng đến nơi kia, vì
xa gần đồng một thời đều được thấy cả, vì chẳng thấy những vật ở chặng giữa vậy.
Nhãn quang nếu đến nơi kia mà được thấy, thời tất cả
chúng sanh đều thấy lửa cớ sao chẳng bị cháy ? Như người thấy vật trắng ở xa thời chẳng nên nghi rằng đó là chim hạc ? Là phan ? Là người ? Là cây ? Nếu nhãn quang đến nơi kia thế nào thấy được vật ở trong bình
thủy tinh, cá cùng đá ở dưới vực sâu. Nếu nhãn quang chẳng đến mà thấy cớ sao thấy được vật trong bình
thủy tinh, mà chẳng thấy được vật ở ngoài vách. Do lẽ nầy nên nếu nói rằng nhãn quang đến nơi kia mà được thấy đó là không đúng.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông vừa nói trong sửa có tánh của chất lạc, cớ sao người bán sửa chỉ lấy giá tiền sửa mà chẳng đòi tiền chất lạc. Người bán ngựa cái cớ sao chỉ lấy tiền ngựa mà chẳng đòi tiền ngựa con.
Nầy
Thiện nam tử ! Người đời vì không con cái nên cầu cưới vợ. Vợ nếu có thai nghén thời chẳng được gọi là con gái. Nếu nói là con gái có tánh của con cái nên phải cưới hỏi thời không đúng. Vì nếu có tánh của con cái lẻ ra cũng phải có tánh của cháu. Nếu có tánh của cháu thời thành ra anh em, vì đồng một bụng sanh ra vậy. Do đây nên ta nói rằng nơi người con gái không có tánh của con cái.
Nếu trong sửa kia có tánh của chất lạc cớ sao chẳng thấy cả năm vị đồng một thời. Nếu trong hột cây có tánh chất của cây
ni câu đà cao năm trượng, cớ sao chẳng thấy mọng cây, nhánh lá, bông trái,
hình sắc sai khác của cây đồng một thời.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc là sửa thời màu khác, vị khác
công dụng khác, nhẫn đến
đề hồ cũng lại như vậy. Làm sao có thể nói được rằng trong sửa có tánh của chất lạc.
Nầy
Thiện nam tử ! Như có người sáng ngày sẽ uống chất tô, giờ đây đã sợ hôi. Nếu nói rằng trong sửa
quyết định có chất lạc thời cũng như vậy.
Ví như có người dùng viết giấy mực hòa hiệp thành chữ, mà trong giấy nầy vốn không có chữ, vì vốn không có nên nhờ duyên mà thành có, nếu vốn đã có thời cần gì các duyên.
Như xanh vàng
hợp lại thành màu lục, nên biết hai màu nầy vốn không có tánh của màu lục, nếu vốn đã có cần gì phải hiệp lại mới thành.
Như
chúng sanh do ăn mà được sống. Nhưng trong vật thực nầy thiệt không có mạng sống. Nếu vốn đã có mạng sống thời lúc chưa ăn lẽ ra vật thực nầy là mạng sống.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa nầy nên ta nói kệ rằng :
Trước không nay có.
Trước có nay không.
Ba đời có pháp.
Không có lẽ đó.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả pháp do
nhơn duyên mà sanh cũng do
nhơn duyên mà diệt.
Nếu
chúng sanh có
Phật tánh, thời tất cả
chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.
Phật tánh của
chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo,
bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong
chúng sanh có
hư không, vì tất cả
chúng sanh đều có
hư không chẳng
chướng ngại,
chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có
hư không nầy.
Giả sử nếu
chúng sanh chẳng có
hư không, thời không có những sự đến đi dứng ngồi nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa nầy nên trong kinh ta nói tất cả
chúng sanh đều có
hư không giới,
hư không giới đây gọi là
hư không.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy. Bực
Thập trụ Bồ Tát thấy được phần ít như châu
kim cương.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh của
chúng sanh là
cảnh giới của chư Phật , chẳng phải là hàng
Thanh Văn ,
Duyên Giác biết được. Tất cả
chúng sanh vì chẳng thấy
Phật tánh nên thường bị
phiền não trói buộc mà phải
lưu chuyển trong
sanh tử . Chư Phật vì thấy
Phật tánh nên
phiền não kiết sử chẳng
trói buộc được, do đây
giải thoát sanh tử đặng
Đại Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh có tánh của
Phật tánh như tánh chất lạc trong sửa. Nếu sửa
không tánh chất lạc , tại sao Phật nói có hai thứ nhơn : Chánh nhơn và duyên nhơn. Duyên nhơn có hai : Ủ và ấm.
Hư không vì là
không tánh nên không có duyên nhơn.
Nầy
Thiện nam tử :
Giả sử trong sửa
quyết định có tánh chất lạc, cần gì đến duyên nhơn ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Vì có tánh nên phải cần duyên nhơn. Vì muốn thấy rõ vậy. Duyên nhơn đó chính là liễu nhơn. Như trong nhà tối đã trước có những đồ vật, vì muốn thấy rõ nên dùng đèn
soi sáng. Nếu vốn không đồ vật thời đèn
soi sáng những gì ? Như trong đất sét có bình, nên cần nhân công, nước, vòng dây, gậy v.v… mà làm liễu nhơn. Như hột
ni câu đà cần đến nước, đất, phân mà làm liễu nhơn. Trong sửa cũng như vậy, phải nhờ ủ ấm làm liễu nhơn. Vì thế nên dầu trước đã có tánh phải nhờ liễu nhơn rồi sau mới được thấy. Do nghĩa nầy nên
quyết định biết trong sửa trước có tánh của chất lạc.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Giả sử nếu trong sửa
quyết định có tánh của chất lạc thời tánh nầy chính là liễu nhơn. Nếu đã là liễu nhơn lại cần gì phải dùng liễu.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu liễu nhơn đây tánh nó là liễu thời lẽ ra phải thường tự liễu. Nếu chẳng tự liễu thời đâu có thể liễu cái khác.
Nếu nói liễu nhơn có hai thứ tánh : Một là tự liễu, hai là liễu tha, thời không đúng nghĩa. Vì một pháp liễu nhơn làm sao lại có hai thứ tánh ? Nếu có hai tánh thời sửa lẽ ra cũng có hai thứ.
Giả sử trong sửa không có hai thứ, tại sao liễu nhơn lại riêng có hai tánh ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Như người đời nói rằng
chúng tôi cộng có tám người : Liễu nhơn cũng như vậy : Tự liễu và liễu tha.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Liễu nhơn nếu như vậy thời chẳng phải là liễu nhơn, vì là số, có thể đếm, sắc của mình, sắc của người nên được nói là tám, mà sắc tánh nầy tự nó không có liễu tướng, vì không liễu tướng phải nhờ trí tánh mới đếm được tự và tha. Do đây nên liễu nhơn chẳng thể tự liễu cũng chẳng liễu được tha.
Nầy
Thiện nam tử ! tất cả
chúng sanh đã có
Phật tánh cớ gì lại phải
tu tập công đức ? Nếu nói
tu tập là liễu nhơn thời đã đồng hư hoại như chất lạc.
Nếu nói trong nhơn
quyết định có quả thời giới, định, huệ lẽ ra không
Tăng trưởng. Nhưng người đời trước kia
không giới, định, huệ theo
sư trưởng học tập thời lần lần được có giới, định, huệ. Nếu cho rằng
sư trưởng dạy dổ là liễu nhơn, chính lúc dạy dỗ thời chưa có giới, định, huệ, nếu là liễu đó, lẽ ra là liễu thứ chưa có, sao lại gọi rằng liễu giới, định, huệ làm cho được
Tăng trưởng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Nếu liễu nhơn là không, sao lại được rằng có sữa có lạc ?”
Nầy
Thiện nam tử ! Sự đáp nạn của
thế gian có ba : Một là chuyển đáp, như trước kia nói cớ gì gọi là giới ? Do vì chẳng
ăn năn nhẫn đến vì được
Đại Niết Bàn. Hai là nín lặng mà đáp, như có
Phạm Chí đến hỏi ta rằng : Ngã là thường ư ? Lúc đó ta nín lặng. Ba là nghi đáp như trong kinh đây nói : Nếu liễu nhơn có hai tánh cớ gì trong sửa chẳng được có hai thứ ?
Nầy
Thiện nam tử ! Nay ta chuyển đáp, như người đời nói rằng có sửa có lạc, vì
quyết định được nên được gọi rằng có sửa có lạc.
Phật tánh cũng như vậy có
chúng sanh có
Phật tánh do vì sẽ được thấy.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời Phật vừa nói không được đúng nghĩa.
Quá khứ đã diệt,
vị lai chưa đến thế nào gọi là có ? Nếu cho rằng sẽ có mà gọi là có đó, thời không đúng. Như người đời thấy không con cái bèn nói không con. Tất cả
chúng sanh không có
Phật tánh, tại sao nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Quá khứ gọi rằng có .
Ví như trồng quít mọng mọc lên thời hột hư mất. Từ mọng lên cây nhánh lá, nhẫn đến kết trái, lúc trái chín bèn có vị ngọt.
Nầy
Thiện nam tử ! Vị ngọt nầy đều không từ nơi hột, mọng, cây, nhánh, bông v.v… Lúc trái chín thời sanh vị ngọt, vị ngọt nầy trước không nay có. Dầu trước không nay có mà chẳng phải là chẳng
do nơi hột lúc trước. Thế nên hột lúc trước dầu đã
quá khứ nhưng được gọi là có. Do nghĩa nầy nên
quá khứ gọi rằng có.
Thế nào lại gọi rằng
vị lai là có ?
Ví như có người gieo trồng cây mè. Có kẻ hỏi cớ gì trồng thứ nầy ? _ Đáp rằng vì có dầu.
Thiệt ra thời chưa có dầu, khi cây mè đã già lấy hột hấp sôi, giã ép rồi sau mới có dầu chảy ra. Nên biết rằng người nầy
trả lời như vậy chẳng phải là
hư vọng. Do nghĩa nầy nên gọi rằng
vị lai có.
Lại thế nào gọi rằng
quá khứ có ư ?
Ví như có người lén mắng nhà vua,
trải qua nhiều năm. Lúc sau vua
nghe được đòi đến hỏi cớ sao mắng ta ? _ Tâu
Đại Vương ! Tôi chẳng mắng vì người mắng đó mất. _ Vua bảo : Kẻ mắng cùng thân ta cả hai đều còn tại sao lại nói rằng mất ? Người kia không
trả lời được nên phải bị tội chết.
Nầy
Thiện nam tử ! Hai tánh ấy thiệt không mà quả chẳng mất, đây gọi là
quá khứ có.
Thế nào lại gọi rằng
vị lai có ? Như có người đến nhà thợ gốm hỏi có bình không ? Đáp rằng có. Thiệt ra thợ gốm nầy chưa có bình vì có đất sét nên đáp rằng có bình, phải biết rằng thợ gốm nầy chẳng phải
vọng ngữ. Trong sữa có chất lạc,
chúng sanh có
Phật tánh cũng như vậy, muốn thấy
Phật tánh, phải nên
quán sát thời tiết hình sắc, do đây nên ta nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh thiệt chẳng
hư vọng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh không có
Phật tánh, làm sao mà được
vô thượng Bồ Đề ?
_ Do chánh nhơn, nên khiến
chúng sanh được
vô thượng Bồ Đề. Gì là chánh nhơn ? Chính là
Phật tánh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu hột
Ni câu đà không có cây
ni câu đà, tại sao gọi là hột
ni câu đà mà chẳng gọi là hột
khư đà la ?
Bạch
Thế Tôn ! Như họ
Cù Đàm chẳng được gọi là họ A Kỳ Da. Họ A Kỳ Da lại chẳng được gọi là
Cù Đàm. Hột
Ni Câu Đà chẳng được gọi là hột
Khư Đà La, còn hột
Khư Đà La chẳng được gọi là hột
Ni Câu Đà. Cũng như
đức Thế Tôn chẳng được bỏ lìa họ
Cù Đàm.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy. Do nghĩa nầy nên biết rằng
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Phật bảo : “ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu nói rằng trong hột có cây
Ni Câu Đà thời không đúng. Vì nếu là có cớ sao chẳng thấy ?
Nầy
Thiện nam tử ! Như những vật
trong đời vì có
nhơn duyên nên chẳng thấy được. Ở xa chẳng thấy được như dấu chim bay giữa
hư không. Vì gần nên chẳng thấy được như lông nheo rớt vào mắt. Vì hư hoại nên chẳng thấy như
ngũ căn đã hư. Vì
loạn tưởng nên chẳng thấy như tâm chẳng
chuyên nhứt. Vì nhỏ nên chẳng thấy như
vi trần. Vì bị che nên chẳng thấy
như tinh tú bị mây phủ . Vì nhiều nên chẳng thấy như hột mè trên đống lúa. Vì tương tợ nên chẳng thấy như chẳng thấy như hột đậu trên đống đậu. Cây
ni câu đà chẳng đồng tám thứ
nhơn duyên như vậy, nếu nó là có tại sao chẳng thấy ? Nếu cho rằng vì nhỏ bị che nên chẳng thấy thời không đúng, vì tướng cây to thô. Nếu cho rằng tánh
vi tế thời thế nào lại thành cây lớn. Nếu cho rằng bị che ngăn thời lẽ ra luôn luôn chẳng được thấy. Cây trước kia không có tướng thô to, nay thời thấy cây to, nên biết rằng tướng to nầy vốn không có tánh. Trước kia không có
tánh thấy nay thời thấy được, nên biết rằng sự thấy nầy cũng vốn không có tánh. Hột cũng như vậy : Trước không có cây nay thời có đó, như thế có lỗi gì ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Như lời Phật nói có hai thứ nhơn : Chánh nhơn và liễu nhơn. Hột
ni câu đà do đất, nước, phân làm liễu nhơn khiến nhỏ được thành to.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu trước đã có thời cần gì đến liễu nhôn ? Nếu trước là không thời liễu nhơn là liễu cái gì ? Nếu trong hột
Ni câu đà vốn không có tướng to, do liễu nhơn bèn sanh to, cớ sao chẳngsanh cây
khư đà la, vì rằng hai thứ đều là không cả.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu như nhỏ chẳng thấy được, thời lẽ ra to có thể thấy. Như một
vi trần thời chẳng thấy được, nhiều
vi trần hòa hiệp thời thấy được. Trong hột lẽ ra cũng như vậy, to thời có thể thấy, vì trong đó đã có mọng cây, bông trái, trong mỗi mỗi trái có
vô lượng hột, trong mỗi mỗi hột có
vô lượng cây nên gọi là thô, vì là thô nên lẽ ra có thể thấy.
Nếu hột
ni câu đà có tánh cây
ni câu đà mà mọc lên cây, con mắt thấy hột nầy bị lửa đốt cháy thời lẽ ra tánh đốt cháy nầy cũng là đã có trước. Nếu tánh cháy vốn đã có thời lẽ ra cây chẳng mọc lên. Nếu tất cả pháp vốn đã có
sanh diệt, cớ sao trước sanh rồi sau diệt mà chẳng đồng một thời ư ? Do nghĩa nầy nên biết là không có tánh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu hột
ni câu đà vốn
không tánh cây mà sanh ra cây, thời hột nầy cớ gì chẳng sanh ra dầu, vì cả hai tánh đều là không cả ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Hột ấy cũng có thể sanh ra dầu, dầu vốn không có tánh dầu, nhưng do
nhơn duyên mà có.
_ Bạch
Thế Tôn ! Cớ sao không gọi là dầu mè ư ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Vì chẳng phải là mè.
Như duyên lửa sanh ra lửa, duyên nước sanh ra nước. Dầu hai thứ lửa và nước đều từ nơi duyên, nhưng chẳng thể có lẫn nhau được. Hột
ni câu đà và dầu mè cũng như vậy, tuy cả hai đều từ nơi duyên mà đều chẳng sanh lẫn nhau.
Tánh chất của hột
ni câu đà hay trị bịnh hàn lãnh. Tánh chất của dầu mè hay trị được bịnh phong.
Như cây mía, do
nhơn duyên mà thành các thứ đường : Đường phèn, đường đen. Dầu cả hai thứ đường đều từ nơi chất mía, nhưng
sắc tướng khác nhau, đường phèn trị bịnh nhiệt, đường đen trị hàn lãnh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như trong sữa
không tánh lạc, trong mè
không tánh dầu, trong hột
ni câu đà không tánh cây, trong đất sét
không tánh bình tất cả
chúng sanh không tánh Phật,
cứ theo đây thời như trước kia
đức Phật nói : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh vì thế nên được
vô thượng Bồ Đề. Nghĩa nầy xét ra không được đúng, vì trời và người đều
vô tánh. Vì
vô tánh nên người có thể sanh làm trời, trời có thể sanh làm người. Đều là do
nhơn duyên của nghiệp, không phải
do nơi tánh.
Đại Bồ Tát do
nhơn duyên của nghiệp nên được
vô thượng Bồ Đề.
Nếu các
chúng sanh có
Phật tánh thời do
nhơn duyên gì mà nhứt
xiển đề dứt căn lành phải đọa
địa ngục ? Nếu
Bồ Đề tâm là
Phật tánh, thời nhứt
xiển đề lẽ ra chẳng dứt. Nếu là có thể dứt được, sao lại được nói rằng
Phật tánh là thường ? Còn nếu chẳng phải là thường thời không gọi là
Phật tánh.
Nếu
chúng sanh có
Phật tánh, cớ sao gọi là
sơ phát tâm ư ? Tại sao lại gọi là bực
thối chuyển , bực
bất thối chuyển ? Nếu là bực
thối chuyển thời nên biết rằng người nầy không có
Phật tánh.
Bạch
Thế Tôn !
Đại Bồ Tát nhứt tâm hướng đến
vô thượng Bồ Đề, đạitừ,
đại bi, thấy
tội lỗi của
phiền não sanh tử.
Quán sát Đại Niết Bàn không có các lỗi
sanh tử phiền não. Tin ngôi
Tam Bảo và nghiệp nhơn
quả báo,
thọ trì giới cấm. Những tâm hạnh như vậy gọi là
Phật tánh.
Nếu rời lìa những tâm hạnh nầy mà có
Phật tánh, thời cần gì dùng những tâm hạnh nầy để làm
nhơn duyên.
Bạch
Thế Tôn ! Như sữa chẳng chờ duyên tất sẽ thành lạc, nhưng thành tô phải chờ đủ duyên : Nhơn công, nước, bình, dây, khuấy.
Cũng vậy, những
chúng sanh có
Phật tánh lẽ ra không cần
nhơn duyên cũng được
vô thượng Bồ Đề.
Nếu là
quyết định có
Phật tánh, cớ sao người
tu hành thấy sự khổ của ba
ác đạo,
sanh , gìa, bịnh, chết mà
thối tâm ? Nếu quyêt định có
Phật tánh, cũng chẳng
cần tu sáu môn
Ba La Mật, lẽ ra được
vô thượng Bồ Đề, như sữa chẳng cần duyên mà thành lạc. Nhưng thật ra phải nhờ tu sáu môn
Ba La Mật mới được
vô thượng Bồ Đề.
Do những nghĩa nầy nên biết rằng
chúng sanh đều không có
Phật tánh.
Như trước kia
đức Phật nói
Tăng Bảo là
thường trụ. Đã là thường thời tất chẳng phải là
vô thường. Đã chẳng phải
vô thường, tại sao
Tăng Bảo được thành
vô thượng Bồ Đề.
Tăng nếu là thường, sao lại nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh ?
Bạch
Thế Tôn !
Giả sử nếu
chúng sanh từ trước
đến nay không tâm Bồ Đề, cũng
không tâm vô thượng Bồ Đề, về sau mới có, thời
Phật tánh của
chúng sanh cũng lẽ ra trước không, sau mới có.
Do nghĩa trên đây nên tất cả
chúng sanh lẽ ra không có
Phật tánh.
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Ông từ lâu đã biết rõ nghĩa
Phật tánh. Nay ông vì
chúng sanh mà thỉnh hỏi như vậy.
Tất cả
chúng sanh thiệt có
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông nói rằng nếu
chúng sanh có
Phật tánh lẽ ra chẳng nên có người
sơ phát tâm. Phải biết rằng
tâm không phải là
Phật tánh, vì tâm vốn
vô thường, còn
Phật tánh là thường.
Ông nói cớ sao có người
thối tâm. Thật ra không có
thối tâm. Nếu tâm có thối thời tất là trọn chẳng thể được
vô thượng Bồ Đề, vì được chậm nên gọi đó là thối.
Tâm
Bồ Đề nầy thiệt chẳng phải là
Phật tánh,vì nhứt
xiển đề dứt căn lành đọa
địa ngục.
Nếu tâm
Bồ Đề là
Phật tánh thời hạng nhứt
xiển đề, chẳng được gọi là nhứt
xiển đề. Tâm
Bồ Đề cũng chẳng được gọi là
vô thường. Do đây nên biết rằng tâm
Bồ Đề thiệt chẳng phải là
Phật tánh.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông nói nếu
chúng sanh có
Phật tánh thời lẽ ra chẳng cần nhờ
nhơn duyên mới được
vô thượng Bồ Đề, như sữa thành lạc. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì ông đã nói phải có năm duyên mới thành sanh tô, nên biết rằng
Phật tánh cũng như vậy.
Như trong các thứ đá có vàng, có bạc, có đồng, có sắt. Bốn thứ đá đều bổn thọ chất
tứ đại, đồng tên là đá, đồng là vật có thiệt, nhưng mỗi thứ đá sản xuất mỗi chất không đồng nhau, phải cần nhờ đủ các duyên mới sản xuất ra chất vàng, bạc, đồng, sắt. Do đây nên biết rằng trước vốn không có, chờ đủ duyên mà sau mới có.
Phật tánh của
chúng sanh chẳng gọi là Phật. Phải do
công đức được thấy
Phật tánh, rồi sau
chúng sanh mới
thành Phật.
Ông nói
chúng sanh đều có
Phật tánh tại sao lại không thấy. Lời nầy không đúng nghĩa. Vì các duyên
công đức chưa đầy đủ nên không được thấy.
Do nghĩa nầy nên ta nói có hai nhơn : Chánh nhơn và duyên nhơn.
Chánh nhơn gọi là
Phật tánh, duyên nhơn là
phát tâm Bồ Đề. Do hai
nhơn duyên nầy mà được
vô thượng Bồ Đề, như đủ duyên thời sản xuất vàng.
Ông nói
Tăng Bảo thường trụ thời lẽ ra
chúng sanh không có
Phật tánh đó. Phải biết rằng Tăng gọi là hòa hiệp. Hoà hiệp nầy có hai :
Thế gian hòa hiệp và
đệ nhứt nghĩa hòa hiệp.
Thế hòa hiệp gọi là
Thanh Văn Tăng. Nghĩa hòa hiệp gọi là
Bồ Tát Tăng.
Thế Tăng là
vô thường.
Phật tánh là
thường trụ. Như
Phật tánh, nghĩa Tăng cũng là
thường trụ.
Lại có Tăng gọi là pháp hòa hiệp, chính là nói
mười hai bộ kinh.
Mười hai bộ kinh là thường, nên ta nói pháp và Tăng là
thường trụ.
Nầy
Thiện nam tử ! Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp đây chính là nói mười hai
nhơn duyên. Trong mười hai
nhơn duyên cũng có
Phật tánh. Mười hai
nhơn duyên là thường,
Phật tánh cũng vậy. Do đây nên ta nói Tăng có
Phật tánh.
Ông nói : Nếu
chúng sanh có
Phật tánh, tại sao có kẻ thối, người không thối ?
Nầy
Thiện nam tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe ! Ta sẽ
phân biệt giải thuyết cho :
Có mười ba điều làm cho
Bồ Tát thối chuyển đạo
vô thượng Bồ Đề : Một là tâm chẳng tin ; hai là tâm chẳng cố làm ; ba là tâm nghi ; bốn là
tham tiếc thân mạng và
của cải ; năm là có
quan niệm quá sợ sệt đối với
Niết Bàn : “ Thế nào làm cho
chúng sanh diệt độ hẳn” ; sáu là tâm chẳng
kham nhẫn ; bảy là tâm chẳng điều nhu ; tám là
sầu não ; chín là chẳng thích vui ; mười là
phóng dật ; mười một là tự khinh thân mình ; mười hai là tự thấy
phiền não không thể phá ; mười ba là không thích những
pháp môn tiến tới Bồ Đề.
Trên đây là mười ba điều làm cho
Bồ Tát thối chuyển đạo
Bồ Đề vô thượng.
Lại có sáu điều làm
hư tâm Bồ Đề : Một là
bỏn xẻn pháp ; hai là có tâm chẳng lành chẳng đối với
chúng sanh ; ba là gần gũi bạn ác ; bốn là chẳng siêng năng
tinh tiến ; năm là quá tự
kiêu mạn ; sáu là kinh doanh nghề nghiệp
thế gian.
Nầy
Thiện nam tử ! Có người được nghe chư Phật là bực Thầy của
cõi Trời và nhơn gian, là
đấng tối thượng trong tất cả
chúng sanh, hơn tất cả hàng
Thanh Văn Duyên Giác, là bực có
pháp nhãn sáng suốt thấy rõ tất cả pháp, có thể đưa
chúng sanh qua khỏi biển khổ lớn. Nghe như vậy rồi, người nầy
phát nguyện lớn : Nếu
trong đời có đấng
vô thượng như vậy, tôi cũng sẽ được. Do đây nên người nầy
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Hoặc có người nhờ người khác khuyên dạy mà
phát tâm Bồ Đề, hoặc có người nghe nói
Bồ Tát trãi qua
vô số kiếp thật hành những
khổ hạnh rồi sau mới được
vô thượng Bồ Đề. Nghe rồi tự nghĩ rằng : Nay tôi không thể kham nổi những
khổ hạnh như vậy, thời làm sao được
vô thượng Bồ Đề. Do đây nên có
thối tâm.
Lại còn có năm điều
thối tâm Bồ Đề : Một là thích
xuất gia theo
ngoại đạo ; hai là chẳng
tu tâm đại từ ; ba là ưa tìm lỗi
pháp sư ; bốn là thường thích ở
trong vòng sanh tử ; năm là không thích
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh.
Lại cũng có hai pháp làm
thối tâm Bồ Đề : Một là tham ưa
ngũ dục ; hai là chẳng thể
cung kính tôn trọng ngôi
Tam Bảo.
Nầy
Thiện nam tử ! Do những
nhơn duyên như vậy làm cho
Bồ Tát thối tâm Bồ Đề.
Thế nào lại gọi là tâm
bất thối ? Có người nghe rằng
đức Phật có thể độ
chúng sanh khỏi
sanh lão bịnh tử. Là đấng chẳng học với Thầy ; tự
tu tập được
vô thượng Bồ Đề. Nếu đạo
Bồ Đề là quả có thể được, tôi cũng
tu tập quyết được quả ấy. Do đây nên người nầy
phát tâm Bồ Đề. Bao nhiêu
công đức tu tập không luận nhiều ít đều
hồi hướng cả về
vô thượng Bồ Đề.
Người nầy
thệ nguyện thường được gặp Phật cùng
đệ tử Phật, thường được
nghe pháp đại thừa thâm diệu nhãn nhĩ tỷ
thiệt thân, cả năm căn đều hoàn cụ, nếu gặp cảnh
khổ nạn cũng quyết không mất tâm
Bồ Đề nầy.
Lại nguyện rằng : Mong chư Phật, chư
Bồ Tát luôn có lòng
hoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ
năm căn lành. Nếu có
chúng sanh nào chặt chém đánh đập giết hại tôi, đối với kẻ nầy, tôi khởi lòng
đại từ, lòng
vui mừng, vì nhờ họ mà tôi được thêm lớn
công hạnh Bồ Đề.
Nếu không có họ, tôi làm sao được quả
vô thượng Bồ Đề.
Lại nguyện rằng :
Đời đời tôi được khỏi những thân nữ, thân hai căn, không căn ; không bị làm
nô lệ, không gặp chủ hung ác, không thuộc dưới quyền vua chúa ác ; chẳng sanh vào nước ác.
Nếu được thân xinh tốt,
dòng họ cao sang,
giàu có, nguyện tôi không có lòng
kiêu mạn.
Nguyện tôi thường được nghe
mười hai bộ kinh và
thọ trì,
đọc tụng, biên chép,
giải thuyết. Lúc tôi
giảng thuyết cho
chúng sanh, nguyện cho thính gỉa đều kính tin không nghi, chẳng sanh
ác tâm đối với tôi.
Nguyện cho tôi thà
nghe pháp ít mà hiểu được nhiều
nghĩa vị, chẳng muốn nghe nhiều mà chẳng rõ
nghĩa lý.
Nguyện là thầy của tâm mình, chớ chẳng bị tâm sai sử. Thân , khẩu, ý,
ba nghiệp chẳng giao tiếp với kẻ ác, điều ác. Có thể làm cho tất cả
chúng sanh được
an lạc.
Giới hạnh nơi thân cũng như
trí huệ nơi tâm đều
vững chắc như núi không bị lay động. Vì muốn
thọ trì chánh pháp vô thượng nên chẳng lẫn tiếc
thân mạng và
tài sản. Chẳng đem vật
bất tịnh làm
phước nghiệp.
Tâm không tà vạy. Tự sống với
chánh mạng. Nếu
thọ ơn thời nhớ mãi, trả nhiều hơn thọ. Biết rành những
sự nghiệp thế gian ; hiểu rành
ngôn ngữ của các địa phương, của mọi loài
chúng sanh.
Đọc tụng biên chép
mười hai bộ kinh không hề nhàm mõi biến lười.
Nếu có
chúng sanh không thích nghe kinh, thời tôi tìm
phương tiện tiếp dẫn cho họ ưa nghe kinh.
Tôi thường nói lời diệu hòa, miệng không tuyên điều xấu ác.
Chúng
bất hòa, tôi làm cho họ hòa hiệp.
Người lo sợ, tôi làm cho họ được
vững lòng.
Thời kỳ đói kém, tôi làm cho
mọi người được no đủ. Đời tật bịnh thời tôi sẽ làm vị đại
lương y tự có
đủ tài bảo cũng như thuốc men, làm cho người bịnh đều được lành bịnh.
Kiếp binh đao, tôi sẽ có
thế lực trừ dứt hết sự tương tàn tương hại.
Tôi sẽ làm cho
chúng sanh khỏi các điều kinh sợ như
bị giết,
bị bắt giam nhốt đánh đập, những nạn về nước lụt, hỏa hoạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, sự nghèo khốn,
phá giới, danh xấu,
ác đạo.
Với
cha mẹ sư trưởng tôi rất kính mến, với
kẻ thù nghịch tôi khởi
lòng từ.
Tôi thường
tu tập sáu chánh niệm, môn
không tam muội, mười hai
nhơn duyên, qúan
sanh diệt vô thường, sở tức,
thiên hạnh,
phạm hạnh,
thánh hạnh,
Kim Cang Tam Muội,
Thủ Lăng Nghiêm định. Nơi không có ngôi
Tam Bảo, nguyện tôi được
tâm tịch tịnh, nếu lúc thân tôi bị phải sự rất khổ, nguyện không hư mất tâm
Bồ Đề vô thượng. Chẳng sanh lòng
tri túc đối với
Thanh Văn Bích Chi Phật.
Chỗ không ngôi
Tam Bảo tôi thường
xuất gia trong hàng
ngoại đạo để phá
tà kiến của họ, đặng
pháp tự tại, đặng tâm
tự tại, nơi
pháp hữu vi thấy rõ sự
lỗi lầm.
Nguyện tôi sợ sệt
đạo quả nhị thừa như người tiếc thân
sợ chết.
Nguyện tôi vì
chúng sanh nên thích ở trong ba
ác đạo như
chúng sanh thích ở
cõi trời Đao Lợi.
Nguyện tôi vì mỗi mỗi
chúng sanh mà chịu khổ
địa ngục trong
vô lượng kiếp chẳng sanh lòng
hối hận.
Nguyện tôi thấy người khác được
lợi ích chẳng sanh lòng
ganh ghét,
thường có lòng
tùy hỉ như chính mình được.
Nếu gặp ngôi
Tam Bảo, nguyện tôi sẽ đem
y phục đồ uống ăn, thuốc men đồ nằm nhà cửa đèn sáng hoa hương
kỹ nhạc, phan lọng,
bảy báu cúng dường.
Nếu
thọ giới pháp của
Phật nguyện tôi
giữ gìn bền chắc trọn chẳng sanh lòng hủy phạm. Nếu nghe
khổ hạnh khó làm của
Bồ Tát, trong lòng
vui mừng chẳng
hối hận.
Tự biết những
việc đời trước trọn chẳng gây nghiệp
tham sân si. Chẳng vì
quả báo mà chứa nhóm nghiệp nhơn. Đối với sự vui
hiện tại chẳng sanh lòng tham đắm.
Nầy
Thiện nam tử !Nếu có người phát được những nguyện như vậy thời gọi là
Bồ Tát trọn chẳng thối thất tâm
Bồ Đề, cũng gọi là
thí chủ có thể thấy
đức Như Lai, thấy rõ
Phật tánh, có thể
điều phục chúng sanh độ khỏi
sanh tử, có thể
hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu môn
Ba La Mật.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên tâm
bất thối chẳng gọi là
Phật tánh !
Nầy
Thiện nam tử ! Ông chẳng nên vì tâm có
thối chuyển mà cho rằng các
chúng sanh không có
Phật tánh. Thí như có hai người đều nghe phương khác có núi
Thất Bảo, trong núi có suối nước trong vị ngọt. Nếu ai đến được núi ấy thời
vĩnh viễn khỏi sự nghèo khốn. Ai uống được nước suối ấy thời sống lâu muôn tuổi. Chỉ vì đường sá xa xôi
hiểm trở nhiều
tai nạn. Hai người ấy đều muốn cùng nhau đi một người sắm sửa các thứ vật
cần dùng đi đường, một người thời đi tay không cùng nhau đồng tiến về hướng núi báu.
Dọc đường gặp người mang nhiều
của báu đi ngược chiều. Hai người hỏi rằng : Xin hỏi ông xứ đó thiệt có núi
bảy báu ư ? Đáp rằng : Thiệt có núi báu, chính tôi đã được
bảo vật và được uống nước suối ngọt. Chỉ lo rằng đường xa
hiểm trở, trộm cướp quá nhiều, hầm hố gai chông, lại thêm thiếu nước, thiếu cỏ. Muôn ngàn người đi ít người đến được.
Nghe khách nói một người
ăn năn cho rằng đường sá
gian nan khốn khổ như vậy,
vô lượng người đi không mấy người được đến, tôi làm thế nào có thể đến được núi báu.
Hiện tại sản nghiệp của tôi cũng tạm
đủ dùng. Nếu
gắng gượng đi hoặc có thể chẳng
toàn thân mạng.
Thân mạng đã chẳng còn, còn mong gì được
trường thọ.
Một người nói rằng : Có người đến được thời tôi cũng có thể đến được. Tôi quyết đến núi báu lượm lấy
bảo vật cùng uống nước suối ngọt, nếu chẳng
toại nguyện có chết cũng cam lòng.
Lúc đó hai người, một thời
ăn năn trở về, một thời
tiến tới núi báu. Người sau nầy đến được núi kia, uống nước suối ngọt, mang nhiều
bảo vật trở về nhà, dùng của ấy phụng dưỡng
cha mẹ cung cấp họ hàng thân thuộc.
Bấy giờ người
ăn năn thối vế trước kia thấy kết quả
tốt đẹp của người nầy trong lòng phát nhẫn : Anh ấy mang được
bảo vật về nhà, tại sao ta cứ ở mãi bên đây mà chẳng dám đi ? Liền sắm sửa hành trang đến thẳng núi báu.
Nầy
Thiện nam tử ! Núi báu kia dụ cho
Đại Niết Bàn. Nước suối ngọt dụ cho
Phật tánh. Hai người kia dụ cho hai vị
Bồ Tát sơ phát tâm.
Con đường hiểm ác dụ cho
sanh tử. Người đi ngược chiều gặp
dọc đường dụ cho
đức Phật Thế Tôn. Trộm cướp dụ cho
tứ ma. Hầm hố gai chông dụ cho các
phiền não. Không nước không cỏ dụ cho chẳng
tu tập đạo
Bồ Đề. Người nghe khó
ăn năn trở về dụ cho
Bồ Tát thối chuyển. Người
dũng mãnh thẳng tiến dụ cho
Bồ Tát bất thối.
Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh của
chúng sanh thường trụ chẳng
biến đổi. Như
con đường hiểm trở kia không ai có thể bảo rằng, vì có người
ăn năn trở lại mà làm cho
con đường thành
vô thường.
Phật tánh cũng như vậy, trong đạo
Bồ Đề trọn không có sự thối thất. Như người
ăn năn kia thấy bạn mình đặng
của báu mang về nhà
giàu có tự tại cúng dường cha mẹ cung cấp thân thuocä, an vui
sung sướng.
Do đó bèn
phát tâm thẳng đến núi báu chẳng tiếc
thân mạng Bồ Tát thối chuyển cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được thành
vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên trong kinh Phật nói tất cả
chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội
ngũ nghịch, phạm tứ trọng và nhứt
xiển đề đều có
Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “Thế Tôn !
Bồ Tát thế nào có thối cùng chẳng thối ?”
_ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có
Bồ Tát tu tập nghiệp nhơn
ba mươi hai tướng tốt của
Như Lai thời được gọi là bực
bất động chuyển, là
thương xót tất cả
chúng sanh, gọi là hơn tất cả hàng
Thanh Văn Duyên Giác, là bực
A Bệ Bạt Trí.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
Đại Bồ Tát trì giới chẳng lay động, tâm
bố thí chẳng
dời đổi,
lời nói chơn thật như
núi Tu Di,
nghiệp duyên trên đây được tướng tốt dưới bàn chưn đầy bằng.
Nếu
Đại Bồ Tát ở nơi
cha mẹ,
Hòa Thượng,
Sư Trưởng nhẫn đến các loài
súc sanh, đem
của cải đúng
pháp cúng dường cung cấp, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân.
Nếu
Đại Bồ Tát chẳng
sát sanh chẳng trộm cướp, đối với
cha mẹ sư trưởng thường có lòng
hoan hỷ, do
nghiệp duyên nầy được thành
ba tướng tốt : Một là ngón tay dài vót, hai là gót chân dài, ba là thân mình vuông thẳng,
ba tướng tốt nầy đồng do một
nghiệp duyên.
Nếu
Đại Bồ Tát tu tập tứ nhiếp pháp để
nhiếp thủ chúng sanh, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt ngón tay có màng lưới như ngỗng chúa trắng.
Nếu
Đại Bồ Tát lúc
cha mẹ sư trưởng có
bịnh khổ, tự tay tắm rửa lau chùi dắt đở thoa bóp, do nghiệp nầy được tướng tốt, tay chưn
dịu dàng.
Nếu
Đại Bồ Tát trì giới nghe pháp, cùng
bố thí không
nhàm chán, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt mắt cá lóng đốt đều no đủ, lông trong thân đều xoắn lên trên.
Nếu
Đại Bồ Tát chuyên tâm nghe pháp và
diễn thuyết chánh pháp, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt đùi vế như nai chúa.
Nếu
Đại Bồ Tát đối với
chúng sanh chẳng có lòng
tổn hại,
ăn uống biết đủ thường ưa
bố thí khám bịnh,
cung cấp thuốc men do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt,
thân hình tròn đủ như cây
Ni Câu Đà, lúc đứng hai tay dài quá đầu gối, đỉnh đầu có
nhục kế vô kiến đảnh tướng.
Nếu
Đại Bồ Tát thấy người gặp sự kinh sợ liền
cứu hộ cho, thấy người lõa lồ rách rưới thời
bố thí y phục do
nghiệp duyên nầy được tướng
tốt mã âm tàng.
Nếu
Đại Bồ Tát gần gũi người trí
xa lìa kẻ ngu,
vui vẻ hỏi đáp quét
dọn đường đi, do nghiệp nầy da thứa mịn màng, lông trên thân xoay về phía hữu.
Nếu
Đại Bồ Tát thường dùng y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men
hương hoa đèn đuốc
bố thí cho người, do nghiệp nầy đặng thân màu
vàng ròng thường có ánh sáng chói rỡ.
Nếu
Đại Bồ Tát lúc
bố thí những
vật báu quý có thể đem cho chẳng tiếc chẳng nghĩ là
phước điền hay chẳng phải
phước điền, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt bảy chỗ trên thân được no đủ.
Nếu
Đại Bồ Tát lúc
bố thí lòng chẳng
nghi ngờ, do
nghiệp duyên nầy được tiếng nói
dịu dàng.
Nếu
Đại Bồ Tát đúng
như pháp làm ra
của cải đem
bố thí, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt nơi thân chỗ xương thiếu đều đầy đủ thân như
sư tử vương, cánh tay thon dài.
Nếu
Đại Bồ Tát xa lìa lưỡng thiệt ác khẩu và tâm giận hờn, do
nghiệp duyên nầy đủ bốn mươi cái răng
trong trắng sạch sẽ, bằng thẳng khít khao.
Nếu
Đại Bồ Tát có lòng
đại từ bi đối với
chúng sanh do
nghiệp duyên nầy được tướng hai răng nanh tốt.
Nếu
Đại Bồ Tát thường
phát nguyện : Có người đến
cầu xin thời
cấp cho theo ý của họ xin, do
nghiệp duyên nầy được gò má như
sư tử.
Nếu
Đại Bồ Tát cung cấp đồ uống ăn theo
sở thích của
chúng sanh do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt trong cổ họng thường rịn chất
cam lộ thượng vị.
Nếu
Đại Bồ Tát tự thật hành
mười điều lành cùng
giáo hóa người, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt lưỡi rộng dài.
Nếu
Đại Bồ Tát chẳng rao nói lỗi xấu của người chẳng hủy báng
chánh pháp, do
nghiệp duyên nầy đặng tướng
tốt tiếng phạm âm.
Nếu
Đại Bồ Tát thấy
kẻ thù nghịch thời sanh lóng
hoan hỷ, do
nhơn duyên nầy được tướng tốt, tròng mắt màu xanh biếc.
Nếu
Đại Bồ Tát chẳng ẩn che
tài đức của người mà phô dương điều hay của mình, do
nghiệp duyên nầy được tướng tốt
bạch hào.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
Đại Bồ Tát tu tập nghiệp duyên ba mươi hai tướng tốt như vậy thời được chẳng
thối chuyển tâm
Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn.
Cảnh giới và
nghiệp quả của chư Phật và
Phật tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì bốn pháp nầy đều là thường, vì
thường trụ nên chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả
chúng sanh vì
phiền não che đậy nên gọi là thường. Vì dứt
phiền não thường nên gọi là
vô thường. Nếu nói rằng tất cả
chúng sanh là thường, cớ gì lại
tu tập tám thánh đạo ?
Tu tập để dứt các sự khổ, các sự khổ nếu đã dứt thời gọi là
vô thường, sự vui được hưởng thọ thời gọi là thường. Do đây nên ta nói tất cả
chúng sanh bị
phiền não che đậy mà chẳng thấy được
Phật tánh, vì chẳng thấy nên chẳng được
Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như lời Phật nói tất cả các pháp có hai tbứ nhơn là chánh nhơn và duyên nhơn. Do hai nhơn nầy lẽ ra không có
trói buộc không có
giải thoát : Thân
ngũ ấm nầy
niệm niệm sanh diệt, nó đã
sanh diệt thời có gì là
trói buộc và
giải thoát.
Bạch
Thế Tôn ! Nhơn thân
ngũ ấm nầy mà
sanh thân ngũ ấm sau. Thân nầy tự diệt chẳng đến thân kia nhưng có thể sinh
ngũ ấm kia. Như do hột sanh mọng, hột chẳng đến mọng , dầu hột chẳng đến mọng mà có thể sanh mọng.
Chúng sanh cũng như vậy, thế nào có
trói buộc và
giải thoát ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe ! Ta sẽ vì ông
phân biệt giải thuyết. Như người lúc chết rất khổ
quyến thuộc bao quanh kêu khóc
than thở, người nầy sợ hải chẳng biết
cầu cứu với ai, dầu có năm
giác quan mà không hay không biết, tay chưn run giựt, không thể
tự chủ,
thân thể lành lạnh sắp
hết hơi nóng, thấy những tướng
nghiệp báo thiện ác đã tạo từ trước. Như
mặt trời sắp lặn, thời bóng của núi gò ngã về hướng đông, không bao giờ trở qua Tây.
Nghiệp quả của
chúng sanh cũng như vậy, lúc thân
ngũ ấm nầy diệt thời
ngũ ấm kia liền nối sanh. Như đèn cháy lên thời bóng tối mất. Đèn tắt, thời bóng tối
hiện ra. Như ấn sáp in vào đất sét, ấn cùng đất sét hiệp, ấn rã, lằn chữ nổi lên, mà ấn sáp nầy chẳng biến nơi đất sét, lằn chữ chẳng phải từ đất sét ra, cũng chẳng phải chỗ khác đến, do ấn làm
nhơn duyên mà sanh lằn chữ.
Ngũ ấm hiện tại diệt,
thân trung ấm liền sanh.
Ngũ ấm hiện tại nầy trọn chẳng biến làm
thân trung ấm,
thân trung ấm chẳng phải tự sanh, cũng chẳng từ
nơi khác đến, do thân
hiện tại mà
sanh thân trung ấm. Như ấn sáp in nơi đất sét, ấn rã lằn chữ thành, danh từ dầu không sai khác mà
thời tiết đều riêng khác. Do đây nên ta nói
thân trung ấm chẳng phải
nhục nhãn thấy được,
thiên nhãn mới
ngó thấy.
Thân trung ấm nầy có ba cách ăn :
Tư thực,
xúc thực, ý thực.
Thân trung ấm có hai thứ : Một là
nghiệp quả lành, hai là
nghiệp quả ác. Do
nghiệp lành nên được
giác quán lành, do
nghiệp ác nên được
giác quán ác. Lúc
cha mẹ giao hội phán hiệp theo
nhơn duyên của nghiệp mà đến chỗ thọ sanh. Đối với mẹ sanh lòng thương, đối với cha sanh lòng sân. Lúc tinh của cha chảy ra cho rằng là của mình, sanh lòng
vui mừng. Do
nhơn duyên của ba thứ
phiền não nầy,
thân trung ấm diệt mà sanh, thân
ngũ ấm sau. Như ấn sáp in vào đất sét ấn hư lằn chữ thành.
Lúc sanh ra những căn thân có đầy đủ cùng chẳng đủ. Người căn đầy đủ thấy sắc thời sanh lòng tham, vì tham nên gọi là ái. Do
hư dối mà sanh lòng tham, vì tham nên gọi là
vô minh. Do
nhơn duyên tham ái và
vô minh nên những
cảnh giới xem thấy thảy đều
điên đảo :
Vô thường thấy là thường,
vô ngã thấy là ngã, vô lạc thấy là lạc,
bất tịnh thấy là tịnh. Do bốn thứ
điên đảo nầy nên gây tạo những hạnh nghiệp
thiện ác.
Phiền não gây ra nghiệp, nghiệp sanh ra
phiền não, đây gọi là
hệ phược. Do nghĩa nầy nên gọi là
ngũ ấm sanh.
Người nầy nếu được gần gũi chư Phật,
đệ tử của Phật cùng những
thiện tri thức thời được
nghe được học
mười hai bộ kinh. Do
nghe pháp nên quán những
cảnh giới lành. Do quán
cảnh giới lành nên được
trí huệ lớn, đây gọi là chánh
tri kiến. Vì được chánh
tri kiến nên sanh lòng
hối hận đối với
sanh tử. Do tâm
hối hận nầy nên chẳng
ưa thích sanh tử , vì chẳng
ưa thích nên phá được lòng tham, vì phá lòng tham nên tu
tám thánh đạo, do tu
tám thánh đạo nên được không
sanh tử, vì không
sanh tử nên gọi là
được giải thoát. Như lửa chẳng gặp củi gọi đó là tắt. Vì tắt diệt
sanh tử nên gọi là
diệt độ. Do nghĩa nầy nên gọi là thân
ngũ ấm diệt.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Trong
hư không chẳng có gai thế nào nói rằng nhổ ?
Ngũ ấm không cột trói thế nào gọi rằng
hệ phược ?”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Vì xiềng xích
phiền não trói buộc ngũ ấm, lìa
ngũ ấm rồi thời không có
phiền não riêng, lìa
phiền não rồi thời không có
ngũ ấm riêng.
Như cột
chống đỡ nóc nhà, lìa nhà thời không cột, lìa cột thời không nhà. Thân
ngũ ấm của
chúng sanh cũng như vậy : Vì có
phiền não gọi là
hệ phược, vì không
phiền não nên gọi là
giải thoát.
Như nắm tay,
chắp tay, cột gút, ba thứ hiệp tan
sanh diệt không có thứ gì riêng.
Ngũ ấm của
chúng sanh cũng như vậy : Vì có
phiền não gọi là
hệ phược, vì không
phiền não gọi là
giải thoát.
Như nói
danh sắc hệ phược chúng sanh, cũng gọi là
chúng sanh hệ phược danh sắc.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như con mắt chẳng tự thấy, ngón tay chẳng tự chạm, dao chẳng tự cắt, thọ chẳng tự thọ sao
đức Thế Tôn lại nói rằng
danh sắc hệ phược danh sắc ? Vì nói
danh sắc thời chính là
chúng sanh còn nói
chúng sanh thời chính là
danh sắc. Nếu nói
danh sắc hệ phược chúng sanh thời là
danh sắc hệ phược danh sắc.
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Như lúc hai tay chắp lại, thời không có cái gì khác đến chắp. Danh cùng sắc cũng như vậy. Do đây nên ta nói
danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếu rời
danh sắc thời
được giải thoát. Vì thế nên ta nói
chúng sanh giải thoát.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn !Nếu có
danh sắc là
hệ phược, các vị
A La Hán chưa rời
danh sắc, lẽ ra cũng là
hệ phược !”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Có hai thứ
giải thoát : Một là
tử đoạn, hai là quả đoạn”.
Tử đoạn là dứt
phiền não. Các vị
A La Hán đã dứt
phiền não, các
kiết sử đã
phá hư, nên tử
kiết sử dứt chẳng
hệ phược được. Vì
A La Hán chưa dứt quả nên gọi là quả
hệ phược. Các vị
A la Hán chẳng thấy
Phật tánh. Vì chẳng thấy nên chẳng được
vô thượng Bồ Đề. Do đây nên có thể gọi là quả
hệ phược mà chẳng được gọi là
danh sắc hệ phược.
Nầy
Thiện nam tử ! Như thắp đèn, lúc dầu chưa
hết thời ánh lửa chẳng tắt. Nếu đã hết dầu, thời lửa quyết phải tắt. Dầu là dụ cho
phiền não. Đèn là dụ cho
chúng sanh. Vì dầu
phiền não nên
chúng sanh chẳng
nhập Niết Bàn. Nếu dứt hết
phiền não, thời tất
nhập Niết Bàn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Đèn cùng dầu tánh cách riêng khác còn
chúng sanh và
phiền não thời không phải như vậy :
Chúng sanh là
phiền não, cũng như
phiền não là
chúng sanh.
Chúng sanh gọi là
ngũ ấm, chính
ngũ ấm gọi là
chúng sanh.
Ngũ ấm gọi là
phiền não, cũng như
phiền não gọi là
ngũ ấm. Sao
đức Như Lai lại dụ như đèn ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Có tám thứ ví dụ : Một là
thuận dụ, hai là
nghịch dụ, ba là
hiện dụ, bốn là
phi dụ, năm là
tiên dụ, sáu là hậu dụ, bảy là tiên hậu dụ, tám là
biến dụ.
Thế nào là
thuận dụ ?
Như trong kinh nói : Trời mưa lớn mương rãnh đều đầy nước, vì mương rãng đầy nước nên hố nhỏ đầy, vì hố nhỏ đầy nên hố lớn đầy, vì hố lớn đầy nên suối nhỏ đầy, vì suối nhỏ đầy nên suối lớn đầy, vì suối lớn đầy nên ao nhỏ đầy, vì ao nhỏ đầy nên ao lớn đầy, vì ao lớn đầy nên sông nhỏ đầy, vì sông nhỏ đầy nên sông lớn đầy, vì sông lớn đầy nên biển lớn đầy.
Pháp vỏ của
đức Như Lai cũng như vậy, làm cho
chúng sanh đầy đủ
giới hạnh ! Vì giới đầy đủ nên tâm chẳng
hối hận được đầy đủ : Vì tâm chẳng
hối hận đầy nên lòng
hoan hỷ đầy đủ, vì lòng
hoan hỷ đầy nên sự
viễn ly đầy đủ, vì sự
viễn ly đầy nên sự
an ổn được đầy đủ, vì sự
an ổn đầy nên
chánh định đầy đủ, vì chánh
tri kiến đầy nên sự nhàm lìa đầy đủ, vì yểm ly đầy nên sự
quở trách đầy đủ, vì sự
quở trách đầy nên
giải thoát đầy đủ, vì
giải thoát đầy nên
Niết Bàn đầy đủ. Đây gọi là
thuận dụ vậy.
Thế nào là
nghịch dụ ?
Biển lớn là nguồn chính là sông lớn ; sông lớn có nguồn chính là sông nhỏ, sông nhỏ có nguồn chính là ao lớn, ao lớn có nguồn chính là ao nhỏ, ao nhỏ có nguồn chính là suối lớn, suối lớn có nguồn chính là suối nhỏ, suối nhỏ có nguồn chính là hồ lớn, hồ lớn có nguồn chính là hồ nhỏ, hồ nhỏ có nguồn chính là mương rãnh, mương rãnh có nguyồn chính là mưa to.
Cũng vậy,
Niết Bàn có nguồn chính là
giải thoát :
Giải thoát từ
quở trách,
quở trách từ yểm ly, yểm ly từ chánh
tri kiến, chánh
tri kiến từ
chánh định,
chánh định từ
an ổn,
an ổn từ
viễn ly,
viễn ly từ
hoan hỷ,
hoan hỷ từ chẳng
hối hận, chẳng
hối hận từ
trì giới, sự
trì giới bắt nguồn từ nơi pháp võ của
đức Như Lai. Đây gọi là
nghịch dụ vậy.
Thế nào là
hiện dụ ?
Như nói
tâm tánh của
chúng sanh như khỉ, vượn. Tánh của khỉ, vượn bỏ cái nầy liền bắt cái kia. Cũng vậy,
tâm tánh của
chúng sanh bắt lấy
lục trần không lúc nào tạm dừng. Đây gọi là
hiện dụ vậy.
Thế nào là
phi dụ ?
Như
xưa kia ta bảo
vua Ba Tư Nặc :
Đại Vương ! Có người
thân tín từ bốn phương đến báo với nhà vua rằng có bốn hòn núi lớn từ bốn phương đến muốn hại nhơn dân. Nếu nghe như vậy
Đại Vương sẽ lập kế gì ?
_ Vua đáp : Bạch
Thế Tôn ! Nếu có như vậy thời không còn có chỗ
trốn tránh, chỉ phải
chuyên tâm trì giới bố thí.
_ Ta khen rằng :
Lành thay !
Đại vương ! Ta nói bốn hòn núi là
sanh lão bịnh tử của
chúng sanh. Bốn sự khổ đó thường đến bức
não chúng sanh, sao
Đại vương chẳng
trì giới bố thí ? _ Vua đáp : Bạch
Thế Tôn !
Trì giới bố thí được
quả báo gì ? Ta nói :
Trì giới bố thí sẽ được hưởng sự
vui sướng ở
cõi trời cõi người . _ Vua nói : Bạch Thế
Tôn ! Cây
Ni Câu Đà trì giới bố thí cũng được hưởng phước ư ? _ Ta nói cây
ni câu đà chẳng thể
trì giới bố thí, nếu có nó có thể làm được thời cũng được hưởng phước như người. Đây gọi là
phi dụ.
Thế nào là
Tiên dụ ? Trong kinh nói : Như có người
ưa thích hoa đẹp, lúc hái lấy bị nước cuốn trôi,
chúng sanh cũng vậy vì
tham ái ngũ dục mà bị
sanh tử. Đây gọi là
Tiên dụ.
Thế nào là hậu dụ ?
Như
kinh pháp cú nói :
Chớ khinh tội nhỏ,
Cho là không hại.
Giọt nước dầu ít,
Lần đầy lu lớn.
Đây gọi là hậu dụ.
Thế nào là Tiên hậu dụ ?
Ví như cây chuối có
trái thời chết. Người ngu được
lợi dưỡng cũng như vậy. Như
con la có thai thời mạng sống chẳng còn lâu. Đây là Tiên hậu dụ.
Thế nào là
biến dụ ?
Như trong kinh nói
Trời Đao Lợi có cây
Ba Lợi Chất Đa, gốc nó sâu năm do diên, cao một trăm do diên, nhánh lá bủa ra bốn phía năm mươi do diên, lúc lá chín thời màu vàng,
chư Thiên xem thấy sinh lòng
vui mừng. Lá nầy chẳng bao lâu rơi rụng.
Chư Thiên thấy lá rụng lại sanh lòng
vui mừng. Nhánh cây chẳng bao lâu sẽ đổi sắc,
chư Thiên thấy nhánh đổi sắc lại sanh lòng
vui mừng. Nhánh nầy chẳng bao lâu sẽ sanh nụ tròn
chư Thiên thấy nụ sanh lòng
vui mừng. Những nụ nầy chẳng bao lâu sẽ dài nhọn,
chư Thiên lại sanh lòng
vui mừng. Những nụ dài nhọn nầy chẳng bao lâu sẽ nở ra, lúc nụ nở hơi thơm khắp năm mươi do diên, chiếu sáng tám mươi do diên. Lúc đó
chư Thiên ba tháng
mùa hạ chơi vui dưới cây nầy.
Nầy
Thiện nam tử ! Hàng
đệ tử của ta cũng như vậy. Lá sắc vàng dụ cho
đệ tử của ta có
tâm niệm muốn
xuất gia. Lá rụng dụ cho
đệ tử của ta cạo bỏ râu tóc. Nhánh cây đổi sắc dụ cho
đệ tử của ta
bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc. Mới sanh nụ tròn dụ cho
đệ tử của ta
phát tâm Bồ Đề, nụ nhọn dài dụ cho
Thập Trụ Bồ Tát thấy được
Phật tánh. Nở xòe ra dụ cho
Bồ Tát được
vô thượng Bồ Đề.
Mùi thơm dụ cho
vô lượng chúng sanh thọ trì cấm giới, chiếu sáng dụ cho
Như Lai danh hiệu vô ngại cùng khắp
mười phương. Ba tháng
mùa hạ dụ cho ba môn
chánh định.
Chư Thiên chơi vui dụ cho chư Phật ở nơi
Đại Niết Bàn được thường, lạc, ngã, tịnh. Đây gọi là
biến dụ.
Nầy
Thiện nam tử ! Phàm dẫn ví dụ bất tất phải lấy trọn hết, hoặc lấy phần ít, hoặc lấy phần nhiều, hoặc lấy
hoàn toàn. Như nói gương mặt của Phật như
mặt trăng tròn, đây gọi là lấy phần ít.
Ví như có người
chưa bao giờ thấy sữa, hỏi người khác rằng : Sữa là giống gì ? Đáp : Như nước, mật, vỏ ốc ; nước thời là tướng ướt, mật thời vị ngọt, vỏ ốc thời là màu sắc. Dầu dẫu ba
thí dụ nhưng chưa phải thiệt là sữa. Ta nói ví dụ cái đèn đem dụ cho
chúng sanh cũng như vậy. Ta nói lìa nước thời không có con sông,
chúng sanh cũng vậy lìa
năm ấm thời không còn là
chúng sanh. Như ngoài thùng, gọng, trục, bánh, căm thời không còn có cái xe.
Chúng sanh cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu muốn đem pháp hiệp với ví dụ cái đèn kia, thời nên lóng nghe : Tim đèn dụ cho hai mươi lăm cõi, dầu dụ cho
tham ái, ánh sáng dụ cho
trí huệ, trừ bóng tối dụ cho phá
vô minh, hơi nóng dụ cho
thánh đạo. Như đèn hết dầu thời ngọn lửa tắt,
chúng sanh hết
tham ái thời thấy
Phật tánh, tuy có
danh sắc nhưng chẳng
hệ phược được, tuy ở trong hai mươi lăm cõi nhưng chẳng bị các cõi làm
nhiễm ô.
Bạch
Thế Tôn !
Ngũ ấm của
chúng sanh rỗng không chẳng có gì, ai
lãnh thọ giáo pháp tu tập đạo hạnh ?
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh đều có
niệm tâm, huệ tâm,
phát tâm,
tinh tấn tâm,
tín tâm,
định tâm. Những tâm như vậy dầu
niệm niệm diệt nhưng vẫn tương tợ
tương tục chẳng dứt nên gọi là
tu hành.
_ Bạch
Thế Tôn ! Những tâm như vậy đều
niệm niệm diệt,
niệm niệm diệt nầy cũng là tương tợ,
tương tục, thời thế nào có sự
tu tập ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Như
ngọn đèn dầu
niệm niệm diệt mà có ánh sáng trừ bóng tối. Như
chúng sanh ăn uống dầu
niệm niệm diệt nhưng cũng làm cho người đói bụng no. Như thuốc hay dầu
niệm niệm diệt nhưng cũng có thể làm cho bịnh được lành. Như ánh sáng
mặt trời mặt trăng dầu
niệm niệm diệt nhưng cũng có thể làm cho cỏ cây sanh sống.
Ông nói
niệm niệm diệt thế nào
tu tập ?
Nầy
Thiện nam tử ! Vì tâm nối luôn chẳng dứt nên gọi là
tu tập thêm lên. Như người
đọc tụng kinh sách, những chữ những câu
đọc tụng chẳng đồng một
thời gian : Chữ trước chẳng đến giữa, chữ giữa chẳng đến sau, người đọc cùng với chữ và
tâm tướng tất cả đều
niệm niệm diệt, do vì tập lâu mà được
thông thuộc.
Nầy
Thiện nam tử ! Như thợ kim hoàn từ lúc
ban đầu tập nghề nhẫn đến đầu bạc, dầu
niệm niệm diệt trước chẳng đến sau, nhưng do tích tập nên nghề giỏi khéo, do đây được gọi là thợ kim hoàn khéo.
Đọc tụng kinh sách cũng như vậy.
Như hột giống kia, đất chẳng bảo rằng ngươi phải sanh mầm, vì tánh
tự nhiên nên mầm tự mọc lên, nhẫn đến bông cũng chẳng bảo ngươi nên thành trái, vì tánh
tự nhiên mà trái tự thành.
Chúng sanh tu hành cũng như vậy.
Ví như đếm số một chẳng đến hai, hai chẳng đến ba, dầu
niệm niệm diệt mà đếm đến ngàn muôn
chúng sanh tu hành cũng như vậy.
Như
ngọn đèn niệm niệm diệt, ngọn trước diệt chẳng bảo ngọn sau sanh. Như con nghé sanh ra bèn tìm sữa bú,
trí khôn tìm sữa thiệt không ai dại dầu
niệm niệm diệt mà trước thời đói thời lúc sau được no. Do đây nên biết rằng trước và sau chẳng giống nhau thời lẽ ra chẳng sai khác.
Chúng sanh tu hành cũng như vậy, lúc mới tu dầu chưa
tăng tiến nhưng vì
tu tập lâu thời có thể
phá hoại tất cả
phiền não.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như lời Phật nói người được chúng quả
Tu Đà Hoàn rồi, dầu
thác sanh cõi nước hung ác, vẫn
trì giới chẳng
sát sanh trộm cướp,
dâm dật,
vọng ngữ, uống rượu. Thân
ngũ ấm của
Tu Đà Hoàn đã diệt chết ở đây chẳng qua đến nơi cõi nước hung ác, người
tu hành cũng chẳng đến cõi nước hung ác, nếu là tương tợ thời cớ sao chẳng sanh nơi cõi nước
tịnh diệu ? Nếu thân
ngũ ấm ở cõi nước hung ác chẳng phải là
ngũ ấm của
Tu Đà Hoàn, do đâu mà được chẳng gây tạo
nghiệp ác ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Vị
Tu Đà Hoàn dầu
thác sanh cõi nước hung ác nhưng vẫn chẳng mất
danh hiệu Tu Đà Hoàn, thân
ngũ ấm thời chẳng tương tợ, nên ta dẫn con nghé làm dụ vị
Tu Đà Hoàn dầu
thác sanh cõi nước hung ác, do
đạo lực nên chẳng gây tạo
nghiệp ác.
Như núi
Hương Sơn có
Sư Tử chúa, do đây nên tất cả loài phi cầm tẩu thú không dám
đến gần núi nầy. Có lúc
Sư Tử chúa đây đến trong núi Tuyết, tất cả chim thú cũng vẫn chẳng
đến gần núi
Hương Sơn. Vị
Tu Đà Hoàn cũng như vậy, dầu chẳng
tu hành nhưng do
đạo lực nên chẳng gây tạo
nghiệp ác.
Ví như có người uống chất
cam lộ, chất
cam lộ nầy dầu đã tiêu hoá mất, nhưng
thế lực có thể làm cho người uống chẳng già chẳng chết.
Như
núi Tu Di có vị thuốc thượng diệu tên là
Lăng Già Lợi, người uống vị thuốc nầy dầu
niệm niệm diệt, nhưng do
năng lực của thuốc làm cho người uống chẳng bao giờ phải
bịnh khổ.
Như chỗ ngự của
Chuyển Luân Vương, dầu vua chẳng ngự nơi đó nhưng không ai dám
đến gần, đây là do oai lực của vua. Vị
Tu Đà Hoàn cũng như vậy, dầu sanh nơi cõi nước hung ác, chẳng
tu hành nhưng do
đạo lực nên chẳng gây tạo
nghiệp ác.
Thân
ngũ ấm Tu Đà Hoàn chết mất ở đây, dầu sanh
ngũ ấm khác, nhưng vẫn chẳng mất
ngũ ấm Tu Đà Hoàn.
Ví như chúng sanh vì muốn được trái được hột nên đối với hột giống ra công
săn sóc vun phân bón tưới, chưa gặp được trái được hột mà hột giống lại đã hư diệt,
dầu vậy nhưng cũng được gọi là nhơn hột giống mà được trái.
Ngũ ấm của
Tu Đà Hoàn cũng như vậy.
Như có người sản nghiệp to tát, chỉ có một đứa con trai
chết sớm, người con nầy cũng có một đứa con trai ở xứ khác. Lúc người
giàu có nầy qua đời đứa cháu nội
nghe tin bèn
trở về lãnh lấy sản nghiệp, dầu
mọi người đều biết
tài sản đó chẳng phải của nó làm ra, nhưng không ai ngăn trở, vì nó là một họ, cháu ruột của
phú ông.
Ngũ ấm của
Tu Đà Hoàn cũng như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như
bài kệ của Phật nói :
Tỳ Kheo nếu
tu tập.
Giới định và
trí huệ,
Nên biết là
bất thối,
Gần đến
Đại Niết Bàn.
Bạch
Thế Tôn ! Thế nào là tu giới ? Thế nào là tu định ? Thế nào là
tu huệ ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người
trì giới chỉ vì muốn
tư lợi hưởng
thọ sự vui
cõi trời,
cõi người, mà chẳng vì
độ thoát tất cả
chúng sanh, chẳng vì
ủng hộ chánh pháp vô thượng, chỉ vì
lợi dưỡng, sợ ba
ác đạo, vì sống lâu, sắc đẹp,
sức mạnh,
an ổn,
vô ngại biện, vì sợ
luật pháp của vua, vì sợ
tiếng xấu, vì
sự nghiệp thế gian, vì những việc như trên mà
hộ trì giới luật thời chẳng được gọi là
tu tập giới luật.
Thế nào gọi là chơn thiệt
tu tập giới luật ? Lúc
trì giới nếu vì
độ thoát tất cả
chúng sanh, vì
hộ trì chánh pháp để
độ người chưa được độ,
khai ngộ người chưa tỏ ngộ,
quy y người chưa
quy y, người chưa
nhập Niết Bàn làm cho được nhập, lúc
tu tập như vậy chẳng thấy giới, chẳng thấy
giới tướng, chẳng thấy người trì, chẳng thấy
quả báo, chẳng tìm xem hủy phạm.
Nếu có thể được như vậy thời mới gọi là
tu tập giới luật.
Thế nào gọi là
tu tập chánh định ? Lúc tu
tam muội, vì tự độ, vì
lợi dưỡng, mà chẳng vì
chúng sanh, chẳng vì
hộ pháp, vì thấy những lỗi
tham dục ăn uống, vì thấy những căn
nam nữ chín lỗ bất tịnh, vì
tranh đấu cãi cọ đánh đâm, giết hại lẫn nhau. Nếu vì những việc nầy mà tu
tam muội, đây thời chẳng gọi là
tu tập tam muội.
Thế nào gọi là chơn thật tu
tam muội ? Nếu
tu tập tam muội là vì
chúng sanh, đối với
chúng sanh có
tâm bình đẳng, vì làm cho
chúng sanh được pháp
bất thối, được
thánh tâm, được
đại thừa, vì muốn
hộ trì pháp
vô thượng, khiến cho
chúng sanh chẳng
thối tâm Bồ Đề, làm cho
chúng sanh được
Thủ Lăng Nghiêm tam muội, được
Kim Cang tam muội, được
Đà La Ni, được
tứ vô ngại, được thấy
Phật tánh. Lúc thật hành chẳng thấy
tam muội, chẳng thấy tướng
tam muội, chẳng thấy người tu, chẳng thấy
quả báo.
Nếu có thể như vậy thời gọi là
tu tập chánh định.
Thế nào gọi là
tu tập trí huệ ? Nếu có người
tu hành suy nghĩ như vầy : Nếu tôi
tu tập trí huệ nầy thời được
thoát khỏi ba
ác đạo ? Ai có thể làm
lợi ích cho tất cả
chúng sanh ? Ai có thể ở trong đường
sanh tử mà độ
mọi người ? Phật
xuất hiện ra đời khó gặp như
hoa Ưu Đàm, nay tôi có thể dứt
phiền não kiết sử được quả
giải thoát, nên tôi phải siêng năng
tu hành trí huệ, để sớm dứt
phiền não mau
được giải thoát.
Tu tập như vậy chẳng được gọi là
tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là chơn thật
tu tập trí huệ ? Người trí nếu
quan sát sự khổ
sanh lão bịnh tử, tất cả
chúng sanh bị
vô minh che đậy, chẳng biết
tu tập đạo
vô thượng.
Nguyện thân tôi nhận lấy
khổ não thay thế
chúng sanh. Bao nhiêu những sự bần cùng hạ tiện
phá giới, những nghiệp
tham sân si của
chúng sanh, nguyện tất cả đều đến nhóm chất trên thân tôi. Nguyện cho
chúng sanh chẳng tham đắm, chẳng bị
danh sắc trói buộc mau
thoát khỏi sanh tử, chỉ để một thân tôi ở nơi
sanh tử chẳng mõi nhàm. Nguyện cho tất cả
chúng sanh đều được
vô thượng Bồ Đề. Lúc
tu tập như vậy chẳng thấy
trí huệ, chẳng thấy
tướng trí huệ, chẳng thấy người tu, chẳng thấy
quả báo, đây thời gọi là
tu tập trí huệ.
Nầy
Thiện nam tử ! Người
tu tập giới định huệ như vậy thời gọi là
Bồ Tát. Người không thể
tu tập giới định huệ như vậy thời gọi là
Thanh Văn.
Thế nào lại gọi là
tu tập giới hạnh ?Nếu có thể
phá hoại mười sáu
ác luật nghi của tất cả
chúng sanh : Một là vì lợi mà nuôi dê, trừu cho mập để bán, hai là vì lợi mua dê trừu để làm thịt, ba là vì lợi nuôi heo cho mập để bán, bốn là vì lợi mua heo để làm thịt, năm là vì lợi nuôi bò con cho mập để bán, sáu là vì lợi mua bò để làm thịt, bảy là vì lợi nuôi gà cho mập để bán, tám là vì lợi mua gà để làm thịt, chín là câu cá, mười là thợ săn, mười một là cướp giựt, mười hai là thái thịt, mười ba là lưới chim, mười bốn là
lưỡng thiệt, mười lăm là lính giữ ngục, mười sáu là bùa chú bắt rồng. Có thể vì
chúng sanh mà dứt hẳng mười sáu
nghiệp ác như vậy thời gọi là
tu tập giới hạnh.
Thế nào là tu định ? Có thể dứt tất cả
tam muội thế gian, như vô
thân tam muội có thể làm cho
chúng sanh có tâm
điên đảo cho là
Niết Bàn, cùng những
tam muội hữu biên tâm,
vô biên tâm, tịnh tụ, thế biên, thế đoạn, thế tánh, thế
trượng phu,
phi tưởng, phi
phi tưởng, những môn định nầy có thể làm
chúng sanh có tâm
điên đảo cho là
Niết Bàn.
Nếu có thể dứt hẳn những
tam muội như vậy thời gọi là
tu tập chánh định.
Thế nào gọi là
tu tập trí huệ ? Có thể phá những
ác kiến của
thế gian.
Tất cả
chúng sanh đều có
ác kiến : Chấp sắc là ngã là
ngã sở, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, nhẫn đến chấp thức cũng như vậy. Thường tức là ngã, sắc diệt ngã còn. Sắc tức là ngã sắc diệt ngã cũng diệt. Lại có người cho rằng :
Tác giả là ngã,
thọ giả là sắc. Lại có người nói :
Tác giả là sắc,
thọ giả là ngã. Lại có người nói : Không
tác giả, không
thọ giả, tự sanh, tự diệt đều chẳng phải
nhơn duyên. Lại có người nói : Không
tác giả , không
thọ giả, đều là
Tự Tại Thiên chỗ tạo ra. Lại có người nói : Không
tác giả, không
thọ giả, tất cả đều do
thời tiết làm ra. Lại có người nói : Không
tác giả, không
thọ giả. Địa, thủy, hỏa , phong, không, năm đại nầy gọi là
chúng sanh.
Nếu có thể phá hoại những
ác kiến của
chúng sanh như vậy thời gọi là
tu tập trí huệ.
Nầy
Thiện nam tử !
Tu tập giới hạnh để cho thân được
tịch tịnh.
Tu tập chánh định để cho tâm được
tịch tịnh.
Tu tập trí huệ để phá trừ lòng nghi. Phá trừ lòng nghi là để
tu tập Phật đạo. Người
tu tập Phật đạo là để được thấy
Phật tánh. Thấy
Phật tánh để được
vô thượng Bồ Đề. Được
vô thượng Bồ Đề thời được
vô thượng Đại Niêt Bàn. Được
Đại Niết Bàn để dứt tất cả
sanh tử, tất cả
phiền não, tật cả cõi, tất cả đế của tất cả
chúng sanh. Dứt
sanh tử nhẫn đến dứt tất cả đế là để được thường, lạc, ngã tịnh vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như lời Phật nói nếu
bất sanh bất diệt gọi là
Đại Niết Bàn, thời sanh cũng là
bất sanh bất diệt như vậy, cớ sao chẳng được gọi là
Niết Bàn ?
Nầy
Thiện nam tử ! Đúng như lời của ông nói. Sanh dầu cũng là
bất sanh bất diệt nhưng có thỉ có chung.
_ Bạch
Thế Tôn ! Pháp
sanh tử nầy cũng là vô thỉ vô chung. Nếu là vô thỉ vô chung thời gọi là thường,
thường trụ tức là
Niết Bàn, cớ sao chẳng gọi
sanh tử là
Niết Bàn ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Pháp
sanh tử nầy đều có nhơn có quả, vì có nhơn quả nên chẳng được gọi là
Niết Bàn.
Thể tánh của
Niết Bàn vốn không nhơn quả.
_ Bạch
Thế Tôn ! Luận về
Niết Bàn cũng có nhơn quả như
bài kệ của Phật nói :
Từ nhơn nên sanh
cõi trời,
Từ nhơn mà đọa
ác đạo,
Từ nhơn nên được
Niết Bàn,
Do đây nên đều có nhơn.
Xưa kia Phật bảo các
Tỳ Kheo : Nay ta sẽ nói
đạo quả của
Sa Môn. Nói là
Sa Môn đó nghĩa là người có thể
tu tập hoàn toàn đạo hạnh giới định huệ,
đạo hạnh nầy là
bát thánh đạo. Quả của
Sa Môn chính là
Niết Bàn.
Bạch
Thế Tôn !
Niết Bàn như vậy há chẳng phải là quả ư ? Cớ sao hôm nay
đức Phật nói rằng thể của
Niết bàn không nhơn ,
không quả ?
Nầy
Thiện nam tử ! Ta tuyên nói nhơn của
Niết Bàn chính là
Phật tánh, tánh của
Phật tánh chẳng sanh
Niết Bàn, nên ta nói
Niết Bàn không có nhơn. Vì có thể phá
phiền não nên gọi là quả
Đại Niết Bàn.
Niết Bàn nầy chẳng từ nơi
đạo hạnh sanh ra nên gọi là không có quả. Do đây nên
Niết Bàn là không nhơn,
không quả.
_ Bạch
Thế Tôn !
Phật tánh của
chúng sanh là chung có hay là riêng có ? Nếu là chung có thời một người lúc được
vô thượng Bồ Đề lẽ ra tất cả
chúng sanh cũng đồng được. Như hai mươi người đồng có một kẻ oán thù, nếu một người trừ được
kẻ thù, thời mười chín người kia cũng đồng hết người thù.
Phật tánh cũng như vậy, lúc một người đặng thời lẽ ra những người khác cũng đồng đặng.
Nếu mỗi
chúng sanh riêng có
Phật tánh thời
Phật tánh là
vô thường, vì có
thể tính đếm được. Nhưng Phật nói :
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải một chẳng phải hai. Nếu là riêng có, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng chư Phật
bình đẳng, cũng chẳng nên nói rằng
Phật tánh như
hư không.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Phật tánh của
chúng sanh chẳng một chẳng hai. Chư Phật
bình đẳng, dường như
hư không. Tất cả
chúng sanh đồng chung có đó. Nếu người có thể tu
bát thánh đạo, nên biết người nầy được thấy rõ.
Nầy
Thiện nam tử ! Trên núi Tuyết có thứ cỏ tên
nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ nầy thời sanh ra chất
đề hồ,
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy.
_ Bạch
Thế Tôn ! Cỏ
nhẫn nhục đó là một hay là nhiều ? Như là một, bò ăn thời hết. Nếu là nhiều sao Phật lại nói
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy ?
Như Phật nói : Nếu có người
tu tập bát thánh đạo thời được thấy
Phật tánh. Lời đây chẳng đúng nghĩa, vì
thánh đạo nếu là một như cỏ
nhẫn nhục thời lẽ ra phải hết. Nếu
thánh đạo có hết, thời một người tu xong những người khác không có phần.
Thánh đạo nếu là nhiều, thời thế nào nói rằng
tu tập đầy đủ, cũng chẳng được gọi là tác bà nhã trí.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Như đường bằng thẳng, tất cả
chúng sanh đồng đi trên đường không
chướng ngại nhau. Giữa đường có cây to bóng mát, người đi đường nghỉ ngơi dưới bóng cây. Bóng cây nầy vẫn thường như vậy, chẳng
biến đổi, chẳng hư mất, cũng chẳng ai
mang đi.
Đường bằng thẳng dụ cho
chánh đạo, bóng mát dụ cho
Phật tánh.
Ví như thành lớn chỉ có một cửa, dầu đông người đồng do một cửa nầy ra vào nhưng đều không
chướng ngại, cũng không ai
phá hoại hoặc mang đem đi.
Ví như cây cầu nhiều người đi trên đó cũng không
chướng ngại không ai
phá hoại mang đi.
Ví như lương y trị đủ các chúng bịnh, không ai cấm ngăn
lương y nầy trị người đây bỏ người kia.
Thánh đạo và
Phật tánh cũng như vậy.
Bạch
Thế Tôn ! Những điều dụ của Phật dẫn ra đây, theo nghĩa thời chẳng phải. Vì người trước ở trên đường thời trở ngại cho người đi sau, sao lại nói là không
chướng ngại. Những điều dụ khác cũng như vậy.
Thánh đạo cùng
Phật tánh nếu là như vậy, thời lúc một người
tu hành lẽ ra trở ngại những người khác.
Nầy
Thiện nam tử ! Như lời ông vừa gạn hỏi, xét nơi nghĩa thời chẳng
tương ưng. Những điều dụ của ta dẫn ra là dụ phần ít chẳng phải dụ tất cả.
Nầy
Thiện nam tử !
Con đường ở đời thời có
chướng ngại, kia khác với đây, không có
bình đẳng. Đạo
vô lậu thời chẳng như vậy, có thể làm cho
chúng sanh không có
chướng ngại, luôn
bình đẳng không hai, không có kia đây sai khác.
Thánh đạo như vậy có thể làm liễu nhơn cho
Phật tánh của tất cả
chúng sanh, mà chẳng làm sanh nhơn. Như
ngọn đèn sáng soi rõ các đồ vật.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
chúng sanh đều đồng
vô minh làm
nhơn duyên cho
hành nghiệp. Không thể nói rằng một người
vô minh làm
nhơn duyên cho
hành nghiệp rồi những người khác lẽ ra không có. Tất cả
chúng sanh đều có
vô minh làm
nhơn duyên cho
hành nghiệp, do đây nên nói rằng mười hai
nhơn duyên tất cả đều
bình đẳng.
Chúng sanh tu hành đạo
vô lậu cũng như vậy, đồng dứt
phiền não tứ sanh, các cõi các đường, do nghĩa nầy nên gọi là
bình đẳng. Những người đã chứng được, kia đây thấy biết không có
chướng ngại, nên được gọi là
tát bà nhã trí.
_ Bạch
Thế Tôn ! Tất cả
chúng sanh chẳng phải đồng một thân : Hoặc là thân người, thân
súc sanh, thân
ngạ quỉ, thân
địa ngục, những thân sai khác như vậy tại sao nói rằng
Phật tánh là một ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Như có người để chất độc trong sữa, sữa thành lạc nhẫn đến thành
đề hồ,
danh tự dầu
biến đổi nhưng chất độc chẳng mất, nếu uống
đề hồ cũng có thể bị độc mà chết, thật ra chẳng để độc trong
đề hồ.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy dầu ở trong thân sai khác của năm loài, nhưng
Phật tánh nầy vẫn
thường trụ duy nhứt không
biến đổi.
_ Bạch
Thế Tôn ! trong mười sáu nước lớn, có sáu thành lớn : Thành
Xá Bà Đề, thành Bà
Chỉ Đa, thành Chiêm Bà, thành
Tỳ Xá Ly, thành
Ba La Nại, thành
Vương Xá, tại sao
đức Như Lai bỏ những thành lớn ấy mà đến nơi thành
Câu Thi Na nhỏ hẹp
xấu xa nầy để
nhập Niết Bàn ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Ông chẳng nên nói rằng thành
Câu Thi Na là nhỏ hẹp
xấu xa, mà nên nói rằng thành nầy có nhiều
công đức trang nghiêm tốt đẹp, vì chỗ nầy là chỗ mà chư Phật và
Bồ Tát thường đi đến. Như nhà của người dân hèn, nếu có vua đi qua, thời nên
tán thán nhà nầy là
phước đức trang nghiêm, nên nhà vua mới ngự giá đến.
Như người
bịnh nặng uống chất thuốc dơ xấu, uống xong bịnh liền lành, thời nên
vui mừng khen ngợi thuốc nầy là rất hay, rất tốt, chữa lành được bịnh của tôi.
Như người đi ghe ở trong biển lớn, bị ghe hư chìm nhơn ôm
tử thi mà được vào bờ, đã đến bờ rồi thời nên
vui mừng khen ngợi rằng tôi nhờ
tử thi nầy mà được
an ổn.
Thành
Câu Thi Na nầy cũng như vậy, là chỗ đi của chư Phật
Bồ Tát, sao ông lại nói rằng là chỗ hẹp nhỏ
xấu xa.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xa xưa cách đây
hằng hà sa kiếp. Kiếp ấy hiệu là
Thiện Giác. Lúc đó có vị
Thánh Vương họ
Kiều Thi Ca,
bảy báu, ngàn con đều đầy đủ. Vua nầy là người
ban đầu xây dựng thành trì nơi đây, ngang rộng đều mười hai do diên,
bảy báu trang nghiêm, có nhiều con sông, nước sông
trong sạch nhu nhuyễn ngon ngọt :
Sông Ni Liên Thiền, sông Y La
Bạt Đề, sông Hy Liên Thiền, sông Y Sưu Mạc Hoàn, sông
Tỳ Bà Xá Na. Tất cả có năm trăm con sông như vậy. Hai bên bờ sông cây cối rậm rạp, hoa trái sum sê. Người thời ấy sống lâu
vô lượng. Vua
Chuyển Luân Thánh Vương qua khỏi trăm năm bèn xướng lên rằng : Như lời Phật nói tất cả pháp đều
vô thường, nếu ai có thể
tu tập mười pháp lành thời dứt được sự
vô thường khổ não ấy.
Toàn thể nhơn dân nghe
Thánh Vương truyền ra như vậy, đều phụng trì
mười pháp lành. Thuở đó ta nghe
danh hiệu của Phật,
suy nghĩ tu tập mười pháp lành,
ban đầu phát tâm vô thượng Bồ Đề. Ta
phát Bồ Đề tâm rồi lại đem pháp lành nầy chỉ dạy
vô lượng vô biên chúng sanh, giảng nói tất cả pháp đều
vô thường biến hoại.
Do cớ trên đây nên hôm nay ta ở nơi chỗ nầy
tiếp tục giảng nói các pháp đều
vô thường biến hoại, chỉ có thân của Phật là
pháp thường trụ. Ta nhớ
việc đời trước nên đến nơi đây để
nhập Niết Bàn, cũng là muốn đền đáp ơn đời trước chính tại chỗ nầy ta thật
hành pháp lành
phát tâm Bồ Đề. Vì thế nên trong kinh ta nói :
Quyến thuộc của ta
thọ ơn đều có thể
báo đáp.
Nầy
Thiện nam tử ! Thuở xưa lúc
chúng sanh tuổi thọ
vô lượng, thời thành nầy hiệu là Câu Xa
Bạt Đề, ngang rộng năm mươi do diên.
Thuở ấy trong
Diêm Phù Đề người ở khít nhau. Có vua
Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là
Thiện Kiến,
thất bảo và ngàn con đều đầy đủ, cai trị khắp bốn cõi. Vị
Thái Tử thứ nhứt
xuất gia tu hành được thành
Bích Chi Phật.
Thánh Vương thấy
Thái Tử của mình thành
Bích Chi Phật oai đức trang nghiêm,
thần thông hi hữu, liền vất bỏ ngôi vua như nhổ bỏ nước mũi dãy,
xuất gia nơi rừng
Ta La nầy,
trải qua tám muôn năm
tu tập từ tâm, tám muôn năm
tu tập bi tâm, tám muôn năm
tu tập hỷ tâm, tám muôn năm
tu tập xả tâm.
Nầy
Thiện nam tử ! Nên biết rằng
Thánh Vương Thiện Kiến thuở xưa chính là thân của ta. Do đây nên ngày nay ta thường
ưa thích thật hành bốn pháp nầy, bốn pháp nầy gọi là
chánh định. Do nghĩa nầy nên thân
Như Lai là thường , lạc, ngã, tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì cớ trên đây nên hôm nay ta đến nơi thành
Câu Thi Na nầy ở trong rừng
Ta La Song Thọ mà nhập
tam muội chánh định.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xưa cách đây
vô lượng kiếp, thành nầy hiệu là
Ca Tỳ La Vệ, trong thành có vua hiệu là Bạch Tịnh, phu nhơn hiệu là
Ma Da, vua chỉ có một Thái Tu tên là
Tất Đạt Đa. Lúc đó
Thái Tử chẳng học với Thầy, tự mình
tư duy tu tập chứng được
vô thượng Bồ Đề. Có hai người
đệ tử :
Xá Lợi Phật và
Đại Mục Kiền Liên.
Đệ tử thị giả tên là
A Nan.
Đức Thế Tôn ấy ở trong rừng Song Thọ diễn nói
kinh Đại Niết bàn.
Lúc đó ta được dự
pháp hội, nghe Phật nói
chúng sanh đều có
Phật tánh. Nghe xong ta liền được bực
bất thối chuyển, liền
phát nguyện rằng. Nguyện đời
vị lai lúc tôi được
thành Phật, cha, mẹ, cõi nước,
danh hiệu,
đệ tử ,
thị giả,
thuyết pháp giáo hóa, tất cả đều đồng như
đức Thế Tôn. Do
nhơn duyên phát nguyện thuở xưa, nên hôm nay ta đến nơi đây diễn nói
kinh Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc ta mới
xuất gia chưa được
vô thượng Bồ Đề, vua
Tần Bà Ta La sai sứ đến thưa với ta rằng :
Thái Tử Tất Đạt Đa nếu làm
Thánh Vương thời tôi sẽ là hạng thần thuộc. Nếu
Thái Tử xuất gia được
vô thượng Bồ Đề, xin trước đến nơi thành
Vương Xá để
thuyết pháp độ người và
thọ sự cúng dường của tôi : Lúc đó ta yên lặng nhận lời thỉnh của vua
Tần Bà Ta La.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc ta mời được
vô thượng Bồ Đề, bèn đi về hướng nước Kiệt Xà. Lúc đó nơi sông
Y Liên Thiền có nhà
Bà La Môn họ
Ca Diếp cùng năm trăm
đệ tử ở bên sông
cầu đạo vô thượng. Ta vì người nầy nên đến
thuyết pháp.
Ca Diếp nói : Thưa
Cù Đàm ! Nay tôi đã già một trăm hai mươi tuổi, trong nước
Ma Già Đà, tất cả nhơn dân cùng vua
Tần Bà Ta La, đều cho rằng tôi đã
chứng quả A La Hán. Nếu nay tôi ở trước
Cù Đàm mà
nghe pháp thời tất cả
mọi người sẽ sanh lòng
nghi ngờ. Trông mong
Cù Đàm mau đi chỗ khác. Nếu
mọi người biết rõ rằng
công đức của
Cù Đàm hơn tôi,
thời chúng tôi sẽ mất sự
cúng dường.
Lúc đó ta đáp rằng : Nầy ông
Ca Diếp. Nếu ông chẳng
tôn trọng ta, chẳng thích ta ở đây, xin cho ta nghỉ nhờ một đêm sáng sớm sẽ đi.
Ca Diếp nói : Thưa
Cù Đàm, tôi không có lòng gì khác, thật ra tôi rất kính mến
Cù Đàm.
Ngặt vì chỗ ở của tôi có một con
rồng độc tánh nó hung dữ, sợ rằng nó làm hại
Cù Đàm.
Ta nói : Ông
Ca Diếp ! Độc trong các thứ
độc không gì hơn ba thứ độc, nay ta đã dứt, tất cả thứ độc
trong đời ta đều chẳng sợ.
Ca Diếp lại nói : Nếu
Cù Đàm không sợ xin mời đến ở.
Lúc đó ta có ý vì
Ca Diếp mà hiện mười tám
môn thần biến.
Ca Diếp cùng năm trăm
đệ tử thấy
thần thông nghe ta
thuyết pháp đều
chứng quả A La Hán.
Lúc đó
Ca Diếp lại có hai người em :
Già Da Ca Diếp,
Na Đề Ca Diếp. Hai người nầy có năm trăm
đệ tử , nghe ta
thuyết pháp cũng đều
chứng quả A La Hán.
Lúc đó trong thành
Vương Xá, hàng
lục sư ngoại đạo nghe việc nầy, liền sanh lòng rất ác đối với ta. Lúc đó ta nhận lấy lời thỉnh của vua
Tần Bà Ta La đi đến thành
Vương Xá. Giữa đường gặp vua cùng trăm ngàn người
đón rước. Ta vì
đại chúng nầy
thuyết pháp. Tám muôn sáu ngàn
chư Thiên cõi dục
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Mười hai muôn người
đi theo vua
Tần Bà Ta La được quả
Tu Đà Hoàn.
Vô lượng chúng sanh thành tựu nhẫn tâm.
Sau khi ta vào thành, độ ông
Xá Lợi Phất và
Đại Mục Kiền Liên cùng hai trăm năm mươi
đệ tử của hai người, đều khiến bỏ tâm
ngoại đạo theo ta
xuất gia. Ta liền ở nơi thành
Vương Xá nhận lấy sự
cúng dường của vua
Tần Bà Ta La. Hàng
lục sư ngoại đạo hợp nhau qua ở nơi thành
Xá Vệ.
Trong thành
Xá Vệ có một
Trưởng giả tu
Tu Đạt Đa, nhơn việc hỏi vợ cho con nên đến thành
Vương Xá, ngụ ở nhà của
trưởng giả San
Đàn Na. Giữa đêm
Trưởng giả dạy bảo các
quyến thuộc lo quét rửa trần thiết nhà cửa cùng sắm sửa những
thức ăn uống.
Ông
Tu Đạt Đa nghĩ rằng : Nhà nầy hoặc sắp sửa thỉnh vua, hay có lễ gả cưới hội hè gì chăng ? Ông đem ý mình nghĩ mà hỏi
Trưởng giả San
Đàn Na. Được biết sáng ngày sẽ
thỉnh Phật cùng
giáo hội chư Tăng đến phó trai.
Ông
Tu Đạt Đa nghe đến
danh hiệu Phật, cả mình rởn ốc, liền hỏi rằng thế nào gọi là Phật ?
Trưởng giả đáp : Ông chẳng biết ư ! Thành Ca
Tỳ Đàm có
Thái Tử Thích Ca hiệu là
Tất Đạt Đa, họ
Cù Đàm, Phụ Vương là Bạch Tịnh. Lúc
Thái Tử sanh ra, các nhà
tướng sư bàn
quyết định sẽ được làm
Chuyển Luân Thánh Vương. Lớn lên
Thái Tử bỏ sự
giàu sang mà
xuất gia, không thầy được
giác ngộ chứng
vô thượng Bồ Đề, hết tham, sân, si,
thường trụ không
biến đổi, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng còn lo sợ. Đối với
chúng sanh tâm ngài
bình đẳng thương đồng như
cha mẹ thương con một. Dầu cao thượng hơn tất cả mà ngài không
kiêu mạn. Với người kính mến cũng như với người ghét hại, lòng ngài không
phân biệt.
Trí huệ thông suốt đối với tất cả
pháp không chướng ngại, đầy đủ
mười trí lực, bốn
vô sở úy,
năm trí,
đại từ,
đại bi và
tứ niệm xứ, do đầy đủ những
công đức trên đây nên hiệu là Phật. Vì sáng ngày
đức Phật sẽ đến nhà tôi thọ trai nên phải rộn ràng lo
sắp đặt chẳng rỗi rảnh
tiếp đãi nhau.
Tu Đạt Đa nói :
Lành thay ! Thưa
trưởng giả !
Đức Phật thật là
công đức vô thượng, hiện nay Phật ngự tại đâu ?
Trưởng giả đáp : Hiện nay Phật đang ở tại
Trúc Lâm Tịnh xá nơi thành
Vương Xá nầy.
Lúc đó ông
Tu Đạt Đa nhứt tâm nghĩ tưởng đến
công đức của chư Phật. Bổng nhiên có ánh sáng như ban ngày chiếu đến. Ông liền theo ánh sáng đi đến cửa thành, do
thần lực của Phật nên cửa thành tự mở. Ra khỏi cửa thành bên đường có miếu thờ trời, ông
Tu Đạt Đa vô miễu lễ cúng. Lúc đó trời tối lại như cũ, ông sanh lòng sợ sệt bèn muốn
trở về nhà ngủ. Trên cửa thành có
Thiên Thần bảo
Tu Đạt Đa rằng : Nếu ông đến chỗ
đức Như Lai thời sẽ được nhiều
lợi ích lành tốt.
Ông
Tu Đạt Đa thưa với
thiên thần thế nào là
lợi ích lành tốt ?
Thiên Thần đáp : Nầy
Trưởng giả !
Giả sử có người đem trăm xe
châu báu vàng bạc cùng voi ngựa và mỹ nữ, nhà cửa chạm trổ
tốt đẹp, mâm vàng đựng lúa bạc, mâm bạc đựng lúa vàng, mỗi thứ đều đủ số một trăm, đem tất cả những thứ trên đây
bố thí cho một người,
lần lượt bố thí khắp tất cả người trong
Diêm Phù Đề.
Công đức bố thí nầy chẳng bằng có người
phát tâm bước một bước đến chỗ
Như Lai.
Tu Đạt Đa hỏi : Ngài là ai ?
Đáp rằng : Nầy
Trưởng giả ! Tôi là
Thắng Tướng Bà La Môn, bạn cũ của ông. Lúc còn sống, tôi thấy ngài
Xá Lợi Phất và ngài
Mục Kiền Liên sanh lòng
hoan hỷ cung kính, do đó được sanh làm
Thái Tử của
Tỳ Sa Môn Thiên Vương, có bổn phận
hộ trì thành
Vương Xá nầy. Chỉ do
cung kính ngài
Xá Lợi Phất và ngài
Đại Mục Kiền Liên mà tôi còn được thân trời
tốt đẹp thế nầy, huống là được thấy
đức Như Lai để
đảnh lễ cúng dường !
Trưởng giả Tu Đạt Đa liền thẳng đường đến chỗ Phật, từ xa thấy Phật
đi kinh hành thân chiếu sáng màu vàng, ông liền đến
đảnh lễ dưới
chơn Phật. Lúc đó
đức Phật vì ông mà
thuyết pháp. Sau khi
nghe pháp,
Trưởng giả Tu Đạt Đa chứng đặng quả
Tu Đà Hoàn. Ông lại
thỉnh Phật đến thành
Xá Vệ để
giáo hoá mọi người.
Đức Phật hỏi : “ Nước
Xá Vệ của ông có
Tinh Xá có thể
dung nạp giáo hội của ta chăng ?”
Tu Đạt Đa thưa : “ Nếu
đức Phật xót thương hứa khả, tôi xin tận lực về nước lo
xây dựng. Ông lại bạch cùng Phật từ nào tới giờ tôi chưa hiểu cách thức kiến trúc
Tinh Xá. Mong
đức Phật cử một vị đến
Xá Vệ chỉ bày cách thức cho.
Đức Phật liền sai ngài
Xá Lợi Phất theo
Trưởng giả Tu Đạt Đa qua thành
Xá Vệ.
Về đến
Xá Vệ,
Trưởng giả Tu Đạt Đa thỉnh ngài
Xá Lợi Phất chọn khu đất xứng đáng để lập
Tinh Xá. Ngài
Xá Lợi Phất chọn được khu vườn của
Kỳ Đà Thái Tử.
Trưởng giả Tu Đạt Đa liền vào cung thưa với
Thái Tử xin nhường khu vườn ấy để mình lập
Tinh Xá thỉnh Phật về ở.
Thái Tử đáp rằng : Tôi không bán vườn,
hoặc giả có đem vàng lót khắp mặt đất ta sẽ đổi cho.
Trưởng giả Tu Đạt Đa mừng rỡ thưa rằng : “ Khu vườn ấy sẽ thuộc về tôi,
Thái Tử sẽ lấy vàng.”
Thái Tử nói ta không bán vườn.
Trưởng giả Tu Đatï Đa thưa nếu
Thái Tử không bằng lòng xin đến quan đoán sự để
giải quyết.
Quan đoán sự bảo rằng : “
Cứ theo lời của
Thái Tử và
Trưởng giả giao ước
với nhau thời vườn thuộc về
Trưởng giả,
Thái Tử lấy vàng.”
Trưởng giả Tu Đạt Đa liền cho voi ngựa chở vàng đến lót, trong một ngày lót gần khắp cả vườn chỉ còn năm trăm bước.
Thái Tử nói : “ Nếu
Trưởng giả hối hận thời
tùy ý trả vườn lại tôi”.
Trưởng giả thưa : “ Tôi chẳng
hối hận, tôi đương
suy nghĩ coi kho vàng nào đủ lót khoảng đất còn lại.
Thái Tử nghĩ rằng : “ Có lẽ
đức Phật thiệt là
đấng Pháp vương vô thượng, nên khiến ông nầy không tiếc vàng như vậy.
Thái Tử liền bảo
Trưởng giả Tu Đạt Đa thôi đừng đem vàng lót nữa, tôi xin dâng hết đất vườn, và tự
xây dựng cửa ngõ lầu, để
đức Như Lai thường
do nơi đó mà ra vào.
Sau đó
Thái Tử Kỳ Đà xây dựng cửa ngõ lầu.
Trưởng giả Tu Đạt Đa trong bảy ngày dựng xong ba trăm căn phòng lớn, sáu mươi ba tòa thiền, phòng
tịch tịnh, cùng nhà
mùa đông, nhà
mùa hạ, nhà trù, nhà tắm, chỗ rửa chân, nhà đại
tiểu tiện, tất cả cơ sở đều đầy đủ.
Trưởng giả tay bưng
lư hương quỳ hướng về thành
Vương Xá mà bạch rằng :
Tinh Xá xây dựng đã xong, ngưỡng mong
đức Như Lai xót thương vì
chúng sanh mà nhận ở nơi
Tinh Xá nầy.
Lúc đó
đức Phật ở thành
Vương Xá rõ biết
tâm niệm của
Trưởng giả Tu Đạt Đa, liền cùng
đại chúng rời thành
Vương Xá đến nước
Xá Vệ.
Trưởng giả đem tất cả giừơng nhà đã
xây dựng phụng thí nơi Phật. Phật nhận lấy rồi cùng
chúng tăng ở lại
Tịnh xá Kỳ Hoàn.
Lúc đó hàng
lục sư ngoại đạo sanh lòng tật đố, họp nhau đến ra mắt
vua Ba Tư Nặc mà tâu rằng : “ Tâu
Đại Vương, dất nước của
Đại Vương nhàn tịnh bằng thẳng, thiệt đáng chỗ cho người
xuất gia ở tu, nên
chúng tôi mới đến
cư ngụ.
Đại Vương đem phép nước cai trị ngăn trừ sự
tai hoạn cho nhơn dân. Nay có
Sa Môn Cù Đàm tuổi đã nhỏ. Học lực lại kém,
đạo thuật không có gì, nay đến ở nơi thành
Xá Vệ nầy, dùng
ảo thuật phỉnh gạt nhơn dân, nói rằng các pháp đều
vô thường, là khổ , là không, là
vô ngã, là không
tác giả, là không
thọ giả. Trong kinh của
đạo chúng tôi có đoạn nói rằng qua khỏi ngàn năm có một người yêu thuật
huyễn hóa ra đời : Lời trên đây chính là ứng chỉ
Sa Môn Cù Đàm vậy. Cúi mong
Đại Vương cho phép chúng tôi cùng
Sa Môn Cù Đàm so sánh đạo lực. Nếu
Cù Đàm hơn
chúng tôi,
chúng tôi sẽ qui thuộc về
Cù Đàm. Nếu
chúng tôi hơn
Cù Đàm, thời họ phải qui thuộc về
chúng tôi.
Vua bảo : “ Nầy các
Đại Đức ! Các ông đều có
phương pháp tu hành riêng, có chỗ ở riêng. Tôi biết chắc rằng
đức Như Lai không làm trở ngại các ông.
Sáu nhà
ngoại đạo tâu rằng : “ Tâu
Đại vương !
Sa Môn Cù Đàm đối với
chúng tôi có nhiều sự trở ngại, họ dùng
ảo thuật gạt gẫm dụ dỗ nhơn dân, làm cho
mọi người qui phục theo họ đã hết. Xin
Đại vương theo lẽ công bình
cho phép chúng tôi cùng
sa Môn Cù Đàm so sánh đạo lực.
Vua nói : “ Nầy các
Đại Đức ! Bởi các ông chưa biết
đạo lực thần thông cao cả của
đức Như Lai nên mới nài
so sánh. Sợ rằng các ông chẳng bằng được.
_ Tâu
Đại Vương ! Nay có lẽ
Đại Vương đã mắc
ảo thuật của
Sa Môn Cù Đàm. Ngưỡng mong
Đại Vương xét kỹ lại,
chấp thuận lời
yêu cầu của
chúng tôi.
_ Được lắm ! Được lắm ! Ta
chấp thuận lời
yêu cầu của các ông
Sáu nhà
ngoại đạo cùng
đồ chúng vui mừng tạ ơn vua mà
lui về.
Vua Ba Tư Nặc liền xa giá đến
lễ Phật và bạch rằng : “
Thế Tôn ! Vừa rồi sáu nhà
ngoại đạo yêu cầu tôi
cho phép so
đạo lực với
đức Như Lai, tôi mạn phép đã hứa với họ.”
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Đại Vương ! Chỉ có điều là nên ở trong nước nầy tạo lập thêm
Tinh Xá. Vì nếu ta cùng họ
so sánh đạo lực thần thông , thời trong chúng của họ tất sẽ có nhiều người qui phục theo ta,
Tinh Xá Kỳ Hoàn nầy không đủ chỗ để
dung nạp.
Lúc đó,
đức Phật vì muốn
điều phục sáu phái
ngoại đạo, nên trong mười lăm ngày
hiện đại thần thông.
Vô lượng chúng sanh do đây mà
phát tâm vô thượng Bồ Đề,
vô lượng chúng sanh qui tín ngôi
Tam Bảo.
Đồ chúng của sáu nhà
ngoại đạo,
vô lượng người bỏ tâm
tà kiến,
xuất gia theo
chánh pháp.
Vô lượng chúng sanh được
bất thối đạo
vô thượng Bồ Đề.
Vô lượng chúng sanh được
Đà La Ni cùng
chánh định.
Vô lượng chúng sanh chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán.
Lúc đó sáu nhà
ngoại đạo hổ thẹn dắt nhau qua thành Bà
Chỉ Đa để
truyền giáo.
Lúc đó,
đức Phật lên cung
trời Đao Lợi an cư nơi cây
Ba Lợi Chất Đa, để vì mẹ và
chư thiên mà
thuyết pháp.
Sáu nhà
ngoại đạo hay tin mừng lắm, chia nhau đi truyền rao rằng : Nay thật là
hân hạnh, nhà
ảo thuật Cù Đàm đã diệt mất. Họ khuyến dụ
vô số người
tin theo tà kiến.
Vua
Tần Bà Ta La,
vua Ba Tư Nặc và
bốn bộ chúng thưa ngài
Đại Mục Kiền Liên rằng : Bạch
Đại Đức ! Nay cõi
Diêm Phù Đề nầy
tà kiến thạnh hành,
chúng sanh đi vào chỗ tối tăm, thật đáng
thương xót. Ngưỡng mong
Đại Đức lên cung trời
đảnh lễ Thế Tôn , thay lời
chúng tôi bạch cùng
đức Phật : Như con nghé mới sanh,
nếu không nhờ sữa trâu mẹ chắc sẽ phải chết,
chúng tôi và
mọi người cũng như vậy. Ngưỡng mong
đức Như Lai thương xót chúng sanh mà
trở về.
Đại Mục Kiền Liên yên lặng
hứa khả, như
trong khoảng co duỗi cánh tay của
đại lực sĩ, ngài đã lên đến cung
trời Đao Lợi bạch Phật rằng : “
Thế Tôn !
Tứ chúng trong cõi
Diêm Phù Đề khao khát được thấy Phật và được
nghe pháp của
đức Như Lai. Vua
Tần Bà Ta La,
vua Ba Tư Nặc và
đại chúng đồng
đảnh lễ đức Như Lai. Hiện nay
chúng sanh trong cõi
Diêm Phù Đề mê theo
tà kiến, đi trong bóng
tối tăm thật đáng
thương xót, như con nghé mới sanh, nếu rời sữa mẹ chắc sẽ phải chết,
chúng tôi cũng như vậy. Ngưỡng mong
đức Như Lai vì
thương xót chúng sanh mà
trở lại Diêm Phù Đề.
Phật bảo : “ Ông mau
trở về bảo các
Quốc Vương và
bốn bộ chúng rằng : Sau bảy ngày
đức Phật sẽ trở xuống. Vì sáu nhà
ngoại đạo,
đức Phật sẽ đến nơi thành Bà
Chỉ Đa.
Qua bảy ngày,
đức Phật cùng
Đế Thích,
Phạm Vương, với
vô lượng chư thiên rời cung trời xuống đến thành Bà
Chỉ Đa.
Đức Phật tuyên rằng : Chỉ trong
Phật pháp mới thiệt có
Sa Môn và
Bà La Môn. Tất cả các pháp là
vô thường,
vô ngã,
Niết Bàn tịch tịnh rời những lỗi ác, nếu nói
giáo pháp khác cũng có
Sa Môn và
Bà La Môn, có thường, có ngã có
Niết Bàn đó thời không bao giờ đúng.
Khi Phật tuyên những lời như trên,
vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Sáu nhà
ngoại đạo bảo nhau rằng : “ Nếu trong
giáo pháp của
chúng ta thiệt không có
Sa Môn và
Bà La Môn, tại sao lại được người đời
cúng dường. Bấy giờ sáu nhà
ngoại đạo lại tựu hội
đồ chúng đi đến thành
Tỳ Xá Ly.
Một
thời gian sau,
đức Phật đến thành
Tỳ Xá Ly ở trong rừng cây
Am La.
Hay tin đức Phật ở trong rừng nầy, nàng
Am La muốn đến ra mắt
đức Phật.
Lúc đó
đức Phật bảo các
Tỳ Kheo : “ Các ông phải
quán Tứ Niệm Xứ, khéo tu
trí huệ, phải
tinh tấn , chớ
phóng dật.
Thế nào gọi rằng
quán Tứ niệm xứ ? Nếu có Thầy
Tỳ Kheo quan sát trong thân mình chẳng thấy ngã, chẳng thấy
ngã sở,
quan sát ngoài thân và
quan sát cả trong thân ngoài thân, đều chẳng thấy có
ngã và ngã sở.
Quan sát thọ, tâm và pháp cũng như vậy. Đây gọi là
quan sát niệm xứ.
Thế nào gọi là
tu tập trí huệ ? Nếu có Thầy
Tỳ Kheo chơn thật thấy
tứ đế lý :
Khổ tập diệt đạo, đây gọi là Thầy
Tỳ Kheo tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là tâm chẳng
phóng dật ? Nếu có Thầy
Tỳ Kheo niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm Giới,
niệm Xả,
niệm Thiên. Đây gọi là Thầy
Tỳ Kheo tâm chẳng
phóng dật.
Bấy giờ nàng
Am La đến
đảnh lễ và đi
nhiễu Phật ba vòng, rồi ngồi qua một bên.
Đức Phật vì nàng
Am La mà giảng nói
chánh pháp. Nàng
Am La sau khi
nghe pháp liền
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Lúc đó trong thành
Tỳ Xá Ly, có năm trăm
Lê Xa Tử, đồng đến chỗ
Phật đảnh lễ đi nhiễu, rồi ngồi qua một bên.
Đức Phật vì hàng
Lê Xa Tử mà
thuyết pháp rằng : Nầy các
Thiện Nam Tử ! Luận về người
phóng dật có năm kết quả không tốt ; Một là chẳng được
của cải tự tại, hai là
tiếng xấu truyền xa, ba là chẳng thích
bố thí cho người nghèo thiếu, bốn là chẳng thích thấy
bốn bộ chúng, năm là chẳng đặng thân
chư Thiên. Nầy các
Thiện Nam Tử !
Do nơi chẳng
phóng dật có thể sanh ra pháp lành
thế gian và
xuất thế gian. Nếu có người muốn được
vô thượng Bồ Đề nên phải siêng năng tu hạnh chẳng
phóng dật.
Luận về người
phóng dật lại còn có mười ba
quả báo : Một là thích vì đời mà làm lụng, hai là thích nói những lời
vô ích, ba là thường thích nằm lâu ngủ nhiều, bốn là thích nói
việc đời, năm là thích gần gũi bạn ác, sáu là thích biếng lười, bảy là thường bị người khác khinh dể, tám là dầu có
học hỏi liền quên mất, chín là thích ở nơi
biên địa, mười là chẳng thể
điều phục các căn, mười một là ăn chẳng biết đủ, mười hai là chẳng thích vắng vẻ, mười ba là chỗ thấy biết chẳng chơn chánh.
Nầy các
Thiện Nam Tử ! Luận về người
phóng dật dầu được gần Phật và
Thánh chúng, nhưng vẫn là cách xa.
Các
Lê Xa Tử bạch rằng : “
Chúng tôi tự
biết mình là người
phóng dật. Vì nếu
chúng tôi chẳng
phóng dật, đấng
Như Lai Pháp Vương sẽ ra đời trong cõi nước của
chúng tôi.
Lúc đó trong
đại hội có nhà
Bà La Môn tên là
Vô Thắng nói với các
Lê Xa Tử rằng : “ Phải lắm ! Đúng như lời các ông nói . Vua
Tần Bà Ta La được
lợi ích lớn, vì
đức Như Lai Thế Tôn xuất hiện trong cõi nước đó. Như trong ao lớn mọc lên
hoa sen đẹp,
hoa sen dầu mọc trong nước, nhưng nước chẳng vấy lắm được.
Đức Phật cũng như vậy, dầu
xuất hiện trong nước kia mà chẳng bị pháp
thế gian làm trở ngại.
Chư Phật không có
xuất hiện, nhưng vì
chúng sanh mà
xuất hiện ra đời, chẳng bị pháp
thế gian làm
trệ ngại.
Các ông tự mê tham đắm nơi
ngũ dục, chẳng biết gần gũi
đức Như Lai để
nghe pháp, do đó nên gọi là hạng người
phóng dật. Chẳng phải
đức Phật xuất hiện nơi nước
Ma Già Đà mà gọi các ông là người
phóng dật. Vì
đức Như Lai như
mặt trời,
mặt trăng kia, chẳng phải vì một người hai người mà
xuất hiện ra đời.
Năm trăm
Lê Xa Tử nghe ông Đức
Vô Thắng Bà La Môn nói những lời như trên, liền
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Đồng tiếng
tán thán rằng :
Lành thay !
Lành thay ! Vô Thằng
đồng tử nói những lời rất lành, rất hay như vậy. Các
Lê Xa Tử mỗi người cổi y đang đắp trên thân đem cúng thí cho
Vô Thắng.
Vô Thắng nhận lấy đem dâng lên Phật, bạch rằng : “
Thế Tôn ! Những y nầy tôi nhận lấy của hàng
Lê Xa Tử, xin dâng lên
đức Thế Tôn. Ngưỡng mong
đức Thế Tôn vì
thương xót chúng sanh mà nạp thọ.
Đức Phật mở lòng từ bi liền lãnh lấy những y ấy.
Các
Lê Xa Tử đồng
chắp tay bạch rằng ngưỡng mong
đức Như Lai an cư nơi nước nầy một mùa, và nhận sự
cúng dường của
chúng tôi.
Đức Phật yên lặng nhận lời
thỉnh cầu của
Lê Xa Tử.
Lúc đó, sáu nhà
ngoại đạo nghe được việc nầy, thầy trò kéo nhau đi qua thành
Ba La Nại.
Đức Phật lại đi qua thành
Ba La Nại ở bên bờ sông
Ba La.
Nơi thành
Ba La Nại có vị
Trưởng giả tên là Bửu Xưng, ông nầy say mê
ngũ dục chẳng biết
lý vô thường. Do Phật đến ở,
Trưởng giả Bửu Xưng
tự nhiên chứng được
bạch cốt quán : Tự thấy nhà cửa,
điện đường,
vợ con,
quyến thuộc, tôi tớ, đều toàn là
những bộ xương trắng. Lòng ông kinh sợ như sợ dao,
rắn độc, giặc cướp, lửa. Ông liền ra khỏi nhà, thẳng đến chỗ Phật.
Dọc đường, luôn miệng kêu rằng :
Sa Môn Cù Đàm ! Nay tôi như là bị giặc rượt đuổi, lòng tôi quá kinh sợ, xin mau cứu tôi !
Phật bảo Trưởng giả : “ Nầy
Thiện Nam Tử !
Phật pháp và
chúng Tăng vẫn an onå, không sự lo sợ “.
Trưởng giả bạch rằng : “ Nếu trong
Tam Bảo không sự kinh sợ, nay tôi cũng sẽ được
không kinh sợ.”
Đức Phật liền cho
Trưởng giả xuất gia tu hành.
Trưởng giả nầy lại có năm mươi người
bạn thân,
nghe tin Trưởng giả Bửu Xưng
nhàm chán dục lạc trong đời mà
xuất gia, liền cùng nhau đồng
xuất gia.
Sáu nhà
ngoại đạo nghe việc nầy, liền dắt
đồ chúng đi qua thành Chiêm Bà.
Lúc đó tất cả
nhân dân trong nước Chiêm Bà đều cùng nhau
phụng sự sáu nhà
ngoại đạo, họ chưa từng nghe
danh hiệu của Phật, Pháp, Tăng, phần đông gây tạo những nghiệp rất ác.
Đức Phật vì
chúng sanh nên lại đi qua thành Chiêm Bà.
Trong thành nầy có vị đại Trưởng gỉa không con nối giòng, bèn
phụng thờ sáu nhà
ngoại đạo để cầu con.
Thời gian sau vợ
trưởng giả có thai.
Trưởng giả vui mừng đến thưa với sáu nhà
ngoại đạo : Vợ tôi có thai là nam hay nữ ?
Sáu nhà
ngoại đạo đáp rằng : “
Chắc chắn sẽ sanh con gái”.
Trưởng giả nghe lời nầy sanh lòng
sầu não.
Thân hữu hỏi
Trưởng giả : “ Cớ sao ông quá
sầu não như vậy ?”
Trưởng giả đáp vợ tôi có thai chưa biết là nam hay nữ nên tôi đến hỏi
lục sư, các ngài bảo
chắc chắn là con gái. Tôi tự nghĩ tuổi đã già,
sự nghiệp to lớn,
tài sản vô lượng.
Nếu không phải con
trai thời không người
giao phó. Do đây nên tôi
sầu não.
Thân hữu nói rằng : “ Ông không có
trí huệ, ngày trước ông cũng đã nghe rằng ba anh em
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là
đệ tử của ai ?
Đệ tử của Phật hay
đệ tử của
lục sư ? Nếu
lục sư là bực
nhứt thiết trí, sao ba anh em
Ca Diếp bỏ họ mà làm
đệ tử của Phật ? Lại
Xá Lợi Phất,
Đại Mục Kiền Liên, các vị
Quốc Vương như
Tần Bà Ta La, các vị phu nhơn như Bà
Mạt Lợi, các vị đại
Trưởng giả như ông
Tu Đạt Đa, những người ấy chẳng phải là
đệ tử của Phật ư ?
Khoáng Dã
quỉ thần,
vua A Xà Thế, Voi say, Ươn Quật
Ma La ác tâm muốn hại mẹ, những người nầy há chẳng phải nhờ
đức Phật điều phục ư ?
Đức Như Lai Thế Tôn biết rõ tất cả
Pháp không bị
chướng ngại nên hiệu là Phật.
Lời nói ra
duy nhứt, không
dời đổi, nên hiệu là
Như Lai. Dứt hết
phiền não nên gọi là
A La Hán.
Đức Thế Tôn phàm có nói ra trọn không sai.
Lục sư chẳng phải như vậy, đâu
đáng tin được.
Nay
đức Như Lai đang ở nước nầy gần nơi đây, nếu ông muốn biết sự thiệt thời nên đến Phật.
Lúc đó
Trưởng giả cùng
thân hữu đến chỗ
Phật đảnh lễ đi nhiễu ba vòng, rồi quì
chấp tay bạch rằng : “
Đức Thế Tôn đối với
chúng sanh bình đẳng không oán không thân. Tôi còn bị
tham ái ràng buộc, nay muốn hỏi
đức Thế Tôn một việc, nhưng tự mình
hổ thẹn chưa dám nói ra.
Bạch
Thế Tôn ! Vợ tôi có thai,
lục sư bảo rằng
chắc chắn là con gái. Xin
đức Phật phán việc ấy thế nào ?”
Phật nói : “ Nầy
Trưởng giả, vợ ông có thai
quyết định là trai, đứa trẻ nầy sau khi sanh ra thời
phước đức không ai bằng.”
Trưởng giả nghe lời Phật dạy
vui mừng làm lễ tạ
đức Phật mà
trở về nhà.
Sáu nhà
ngoại đạo nghe Phật huyền ký vợ
Trưởng giả quyết định sẽ sanh con trai có
phước đức lớn, lòng họ
ganh ghét, họ liền lấy trái
Am La tẩm thuốc độc, rồi
mang đến nhà biếu
Trưởng giả mà nói rằng : Tốt thay ! Ông
Cù Đàm bàn điều ấy rất hay. Gần ngày sanh vợ ông nên uống thuốc nầy sẽ
bảo đảm cho mẹ cùng con lúc sanh sản không bịnh hoạn.
Trưởng giả mừng lắm nhận lấy thuốc của
lục sư cho vợ uống. Uống xong vợ
Trưởng giả trúng độc mà chết.
Lục sư vui mừng chia nhau đi khắp trong thành truyền rao rằng :
Sa Môn Cù Đàm tự khoe là
nhứt thiết trí, nói vợ
Trưởng giả sẽ sanh con trai
phước đức không ai
sánh bằng, nay con chưa sanh mà mẹ đã chết.
Trưởng giả lại đối với Phật mất cả
lòng tin. Ông liền theo
nghi lễ thế gian tẩn liệm thây vợ, rồi đưa ra ngoài thành chất củi để thiêu.
Do
đạo nhãn thấy rõ việc nầy,
đức Phật bảo
A Nan đem y đến cho Phật đắp và bảo rằng : Ta muốn đến chỗ
hỏa táng để trừ dứt
tà kiến cho
chúng sanh.
Lúc đó
Tỳ Sa Môn Thiên Vương bảo Thiên tướng là Na Ni
Bạt Đà rằng : Nay
đức Như Lai muốn đến khu gò mã, khanh phải mau đến đó sửa sang quét tước trải tòa
sư tử, rải những hoa đẹp hương thơm, trần thiết
trang nghiêm chỗ ấy.
Lục sư thấy Phật đàng xa đi đến họ bảo nhau rằng :
Sa Môn Cù Đàm đến trong gò mã nầy
hoặc giả muốn
ăn thịt ư !
Lúc bấy gìơ nơi ấy có nhóm
Ưu Bà Tắc chưa chứng được
pháp nhãn,
nghe lời nói của
lục sư thời đều
hổ thẹn cùng nhau đón Phật bạch rằng : Vợ của
Trưởng giả đã chết, xin
Thế Tôn chớ đến đó.
A Nan liền nói với các vị
Ưu Bà Tắc : “ Các ông chờ giây lát,
đức Như Lai sẽ
hiển bày cảnh giới của chư Phật.
Phật đến gò mả lên ngồi tòa
Sư Tử.
Trưởng giả đến trước Phật trách rằng : “ Bực
nhứt thiết trí lời nói ra đúng
sự thật không sai mới đáng gọi là
Thế Tôn. Nay mẹ thời đã chết mất làm sao sanh được con trai
phước đức ?”
Phật bảo Trưởng giả : “Hôm trước ông chẳng hỏi tôi về sự
chết sống của bà mẹ. Chỉ hỏi có thai là trai hay gái.
Chư Phật Như Lai phàm
lời nói ra đúng
thật không sai, do đây nên phải biết rằng ông
quyết định sẽ được con trai
phước đức.
Lúc đó lửa thiêu
tử thi bụng nứt ra, có đứa trẻ trai từ trong bụng lọt ra ngồi ngay thẳng trong lửa như chim Oan Ương đậu trên
gương sen.
Lục sư ngó thấy lại to tiếng la lên rằng : “
Sa Môn Cù Đàm là yêu quái khéo làm aỏ thuật.”
Trưởng giả vui mừng quở trách lục sư : Nếu cho là
ảo thuật tại sao các ông chẳng làm. Phật liền bảo
Kỳ Bà : “Ông vào trong lửa bồng đứa bé lại đây.”
Kỳ Bà đi
đến gần đống lửa,
lục sư lật đật đi đến kéo lại nói rằng : “
Sa Môn Cù Đàm làm
ảo thuật chưa ắt là luôn được
hoàn toàn, nếu ông vào trong lửa e không khỏi bị hại. Sao ông lại
quá tin lời của
Cù Đàm.
Kỳ Bà đáp rằng : “
Giả sử đức Như Lai ra vào
địa ngục A Tỳ, lửa dữ trong
địa ngục còn không đốt cháy được huống là lửa trong
thế gian.
Lúc đó
Kỳ Bà đi thẳng vào trong đống lửa như vào trong nước
mát mẻ, bồng đứa trẻ trở ra đến chỗ Phật, hai tay trao đứa trẻ cho Phật.
Đức Phật tiếp lấy đứa trẻ mà bảo
Trưởng giả rằng : “ Tất cả
chúng sanh thọ mạng chẳng quyết địng như bóng nước nổi trên mặt nước. Nếu
chúng sanh không có
nghiệp quả sâu nặng thời lửa chẳng cháy được, độc chẳng hại được.
Phước đức của trẻ nầy chẳng phải là ta làm ra.
Trưởng giả bạch rằng : “
Lành thay ! Bạch
Thế Tôn ! Ngưỡng mong
đức Như Lai đặt tên cho nó”.
Đức Phật nói : Nầy
Trưởng giả ! Trẻ nầy sanh ở trong đống lửa lớn, lửa gọi là
thọ đề, nên đặt tên cho nó là
Thọ Đề.”
Lúc đó
quần chúng hiện diện nghe và thấy việc nầy
vô lượng người
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Sau đó sáu nhà
ngoại đạo kéo nhau đi khắp cả sáu nước lớn không chỗ nào ở yên được, họ lại đến nơi thành
Câu Thi Na, họ chia nhau đi truyền rao rằng :
Mọi người nên biết rằng
Sa Môn Cù Đàm là nhà
đại ảo thuật, phỉnh gạt trong
thiên hạ khắp hết sáu nước lớn. Như nhà
ảo thuật hoá làm
bốn đạo binh chiến xa, chiến mã, voi trận, bộ binh. Lại
biến hoá làm các thứ
châu báu, cung điện, thành trì, sông ngòi , cây cối.
Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy,
huyễn hóa làm ra thân vua để
thuyết pháp, hoặc biến làm
Sa Môn,
Bà La Môn, biến làm thân nam, người nữ, thân nhỏ, thân lớn, hoặc biến làm thân
súc sanh quỉ thần, hoặc nói
vô thường, hoặc nói
thường trụ, có lúc nói là khổ, có lúc nói là vui, hoặc nói có ngã, hoặc nói không ngã, có tịnh, không tịnh, lúc thời nói có lúc lại nói không, đó là những lời
hư vọng nên gọi là
ảo thuật.
Như nhơn hột giống mà có trái,
Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy, do bà
Ma Da sanh ra, mẹ đã là
huyễn ảo thời con không thể chẳng phải là
huyễn ảo.
Sa Môn Cù Đàm không có
tri kiến chơn thật. Các vị
Bà La Môn trải qua nhiều năm
tu tập khổ hạnh giữ gìn cấm giới còn tự nói rằng chưa có
tri kiến chơn thật. Huống là
Cù Đàm tuổi còn trẻ, học lực cạn cợt, chẳng
tu khổ hạnh, làm sao có được
tri kiến chơn thật,
nếu có thể khổ hạnh đủ bảy năm còn chẳng phải là nhiều, huống là
Cù Đàm tu tập khổ hạnh chẳng đầy sáu năm. Có người ngu
vô trí mới tin học theo
giáo pháp của
Cù Đàm. Như nhà huyễn thuật phỉnh gạt người ngu,
Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy. Sáu nhà
ngoại đạo ở trong thành
Câu Thi Na nầy làm cho
chúng sanh thêm nhiều
tà kiến.
Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát : “ Ta thấy việc như vậy sanh lòng
xót thương, nên dùng
thần lực triệu thỉnh các vị
Bồ Tát ở
mười phương vân tập trong rừng nầy chật cả bốn mươi do diên. Nay ở nơi đây ta
hiện đại Sư Tử Hống.
Ở nơi chổ trống trải vắng vẻ dầu có
thuyết pháp nhiều cũng chẳng được gọi là
Sư Tử Hống. Ở trong
đại chúng toàn bực
trí huệ như đây mà
thuyết pháp mới được gọi là chơn thật
đại Sư Tử Hống.
Sư Tử Hống là
thuyết minh tất cả pháp đều
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh. Chỉ nói
Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lục sư lại nói rằng : Nếu
Cù Đàm có ngã ta cũng có ngã. Chỗ nói là ngã đó : Cái thấy gọi là ngã.
Nầy
Cù Đàm !
Ví như có người hướng trong đây thấy đồ vật, ngã cũng như vậy. Hướng là dụ cho con mắt, người thấy dụ cho ngã.
Phật bảo lục sư : “ Nếu nói cái thấy gọi là ngã, thời không đúng nghĩa. Vì điều dụ của các ông vừa dẫn ra nhơn hướng mà thấy, người ở một hướng, sáu căn đều có
tác dụng. Nếu quyết địng có ngã nhơn nơi con mắt mà thấy, sao lại chẳng như trong một
nhãn căn kia đều
nhận biết các
trần cảnh ? Nếu trong một căn chẳng thể
đồng thời nghe cả
sáu trần, phải biết rằng đó là không có ngã. Điều dụ hướng thấy vật, dầu trãi qua trăm năm, người thấy nhơn nơi đó chỗ thấy vẫn không khác.
Nhãn căn nếu như vậy, đến lúc
tuổi già mắt kém lẽ ra không khác. Người cùng hướng khác nhau, thấy trong thấy ngoài,
nhãn căn nếu như vậy lẽ ra cũng trong ngoài đồng một thời đều thấy. Nếu là chẳng thấy, sao lại có ngã.
Lục sư lại nói rằng : “ Nầy
Cù Đàm !
Nếu không có ngã, thời ai có thể thấy ? Phật nói có sắc, có ánh sáng, có tâm, có
nhãn căn, bốn duyên nầy hòa hiệp nên gọi là có thấy. Trong đây thiệt không có người thấy người thọ. Vì
điên đảo nên
chúng sanh cho là có người thấy có kẻ thọ. Do nghĩa nầy nên tất cả
chúng sanh chỗ thấy biết đều
điên đảo, chỗ thấy biết của chư Phật và
Bồ Tát là chơn thật.
_ Nầy
Lục sư ! Nếu nói rằng sắc là ngã thời cũng chẳng phải. Vì sắc thiệt cũng chẳng phải là ngã. Sắc nếu là ngã lẽ ra chẳng nên có hình dạng
xấu xa. Cớ sao lại có bốn tánh sai khác, chẳng đồng một dòng
Bà La Môn ư ? Sao lại có kẻ
nô lệ chẳng
tự do ? Có người tàn tật, lúc sanh ra căn thân chẳng đầy đủ ? Cớ sao chẳng làm thân
chư thiên, mà lại thọ thân
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ ? Nếu chẳng có thể
tùy ý để làm ra thân, nếu biết rằng
quyết định là không có ngã. Do vì không ngã nên gọi là
vô thường,. Vì
vô thường nên phải khổ. Vì khổ nên là rỗng không. Vì rỗng không nên
điên đảo. Vì
điên đảo nên tất cả
chúng sanh lưu chuyển trong vòng sanh tử.
Như sắc, thọ tưởng hành và thức cũng vậy.
Nầy
Lục sư,
Đức Như Lai Thế Tôn dứt hẳn sự
ràng buộc của sắc cũng như dứt hẳn sự
ràng buộc của thức v.v…, vì thế nên
Như Lai gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lại sắc chính là
nhơn duyên. Nếu đã là
nhơn duyên thời gọi là
vô ngã. Nếu là
vô ngã thời gọi là
khổ không.
Thân của
Như Lai chẳng phải
nhơn duyên. Vì chẳng phải
nhơn duyên nên gọi là có ngã. Nếu có ngã thời chính là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lục sư lại nói : “ Nầy
Cù Đàm ! Sắc chẳng phải ngã nhẫn đến thức cũng chẳng phải ngã, thế thì ngã khắp tất cả chỗ như
hư không.
Phật nói : “ Nếâu khắp mọi chỗ đều có ngã, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng : Trước kia tôi chẳng thấy. Nếu trước kia chẳng thấy, thời biết rằng sự thấy nầy trước không nay có, nên gọi là
vô thường. Nếu gọi là
vô thường sao lại nói là khắp được.
Nếu ngã là khắp tất cả chỗ đều có, lẽ ra phải có đủ tất cả thân trong năm loài. Nếu có đủ thân, thời lẽ ra đều
thọ báo. Nếu đã đều
thọ báo, sao lại nói rằng
trở lại thọ thân người thân trời …?
Các ông nói ngã là khắp đó, thời ngã là một hay là nhiều ?
Ngã nếu là một thời lẽ ra không có
cha con,
kẻ thù người thân. Ngã nếu là nhiều, căn thân của tất cả
chúng sanh lẽ ra đều đồng như nhau, bao nhiêu những
việc làm và
trí huệ lẽ ra cũng đồng như vậy, nếu đồng như nhau, sao lại nói rằng có người
thân căn đầy đủ, có người thiếu kém tàn tật,
nghiệp lành nghiệp ác, kẻ ngu người trí khác
nhau ?”
_ Nầy
Cù Đàm ! Ngã của
chúng sanh không có ngằn mé, pháp cùng
phi pháp thời có chừng ngằn.
Chúng sanh thật hành đúng
pháp thời được thân
tốt đẹp. Nếu
chúng sanh thật hành
phi pháp thời mang thân
xấu xa. Do nghĩa nầy nên
nghiệp quả của
chúng sanh chẳng được không sai khác.
_ Nầy
Lục sư !Nếu pháp cùng
phi pháp là như vậy thời ngã chẳng cùng khắp. Nếu ngã là cùng khắp thời lẽ ra đều đến tất cả. Nếu ngã đều đến tất cả thời người thật
hành pháp lành lẽ ra cũng có ác, người thật hành điều ác lẽ ra cũng có lành.
Nếu không như vậy sao lại nói rằng ngã là cùng khắp.
_ Nầy
Cù Đàm ! Như trong một nhà thắp trămngàn
ngọn đèn, mỗi
ngọn đèn tự chiếu sáng chẳng trở ngại nhau. Ngã của
chúng sanh cũng như vậy, thật hành điều lành điều ác chẳng xen lộn nhau.
_ Nầy
Lục sư ! Nếu các ông nói rằng ngã như
ngọn đèn thời không đúng nghĩa. Vì ánh sáng
ngọn đèn kia theo duyên mà có,
ngọn đèn thêm lớn thời ánh sáng cũng thêm nhiều. Ngã của
chúng sanh chẳng phải như vậy. Ánh sáng từ
ngọn đèn chiếu ra, chỗ của ánh sáng khác chỗ với
ngọn đèn. Ngã của
chúng sanh chẳng được từ nơi thân mà ra ở nơi chỗ khác. Áng sáng của
ngọn đèn kia
ở chung chỗ với bóng tối, vì như trong căn nhà tối, lúc thắp một
ngọn đèn chiếu chẳng
sáng tỏ, thắp nhiều
ngọn đèn thời được tỏ sáng. Nếu
ngọn đèn ban đầu phá hết bóng tối thời lẽ ra chẳng cần đến
ngọn đèn sau.
Nếu cần phải nhờ
ngọn đèn sau mới hết bóng tối, thời nên biết rằng áng sáng của
ngọn đèn ban đầu cùng
ở chung chỗ với bóng tối.
_ Nầy
Cù Đàm ! Nếu là không có ngã thời ai làm lành làm ác ?
_ Nếu là ngã tạo tác thời sao lại gọi là thường ? Nếu ngã là thường, tại sao có lúc làm lành, có lúc lại làm ác ? Nếu cho rằng có lúc làm lành, có lúc làm ác, tại sao lại nói rằng
ngã không ngằn mé. Nếu là ngã tạo tác, cớ chi lại tập làm điều ác. Nếu như ngã là
tác giả, là
tri giả, cớ chi lại
sanh nghi rằng
chúng sanh không có ngã.
Do nghĩa trên đây nên biết rằng trong pháp của
ngoại đạo quyết định không có ngã. Nếu nói là ngã, thời nên biết rằng chính là
đức Như Lai, vì thân
Như Lai không ngằn mé, không
ngờ vực, chẳng làm chẳng thọ, nên gọi là
thường trụ.
Như Lai bất sanh bất diệt nên gọi là lạc, vì
Như Lai không có
phiền não nên gọi là tịnh, không có
mười tướng nên gọi là không. Do đây nên
Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, rỗng rang không có các tướng.
Các nhà
ngoại đạo nói rằng : “ Nếu nói
Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh vì không có tướng nên là không, phải biết rằng
giáo pháp của
Cù Đàm nói ra thời chẳng phải là không vậy. Vì thế nên nay
chúng ta phải
cung kính thọ trìLúc đó trong hàng
ngoại đạo có
vô lượng người sanh lòng kính tin
xuất gia theo
Phật pháp.
Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát : “ Nầy
Thiện Nam Tử ! Do
nhơn duyên nên ta ở nơi rừng
Ta La Song Thọ nầy
hiển bày Đại Sư Tử Hống.
Sư Tử Hống gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Cặp cây bên hướng Đông
tiêu biểu rằng phá
vô thường mà được
thường trụ. Cặp cây bên hướng Nam
tiêu biểu rằng phá khổ mà được lạc. Cặp cây bên
hướng Tây tiêu biểu rằng phá
vô ngã mà được chơn ngã. Cặp cây bên hướng Bắc
tiêu biểu rằng phá
bất tịnh mà được chơn tịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh trong đây vì bốn cặp cây Song Thọ nên
bảo hộ rừng
Ta La, chẳng cho người ngoài đến bẻ nhánh hái lá đốt chặt
phá hoại. Ta cũng như vậy, vì bốn
pháp thường, lạc, ngã, tịnh, nên khiến hàng
đệ tử hộ trì Phật pháp.
Bốn cặp Song Thọ nầy
bốn Đại Vương quản trị
săn sóc. Ta vì
bốn Đại Vương
hộ trì chánh pháp của ta, nên ta ở trong đây mà
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử !Bốn cặp
cây Ta La nầy bông trái thường sum sê,
thường có thể
lợi ích cho
vô lượng chúng sanh. Ta cũng như vậy,
thường có thể
lợi ích cho
vô lượng Thanh Văn Duyên Giác. Bông dụ cho ngã, trái dụ cho lạc. Do nghĩa nầy nên ta ở trong rừng
cây Ta La Song Thọ nhập
đại tịch diệt.
Đại tịch diệt đây gọi là
Đại Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Cớ gì
Đức Như Lai nhập Niết Bàn trong tháng hai ?”
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tháng hai gọi là
mùa xuân, tháng
mùa xuân muôn vật đều sanh trưởng, gieo trồng cây cối, bông trái tươi tắn
xinh đẹp, sông rạch đầy nước, trăm thú sanh sản, do đây nên
chúng sanh phần nhiều có
quan niệm là thường là vui.
Vì phá
quan niệm cho là thường như vậy, nên ta nói tất cả pháp đều là
vô thường, chỉ nói
đức Như Lai là
thường trụ chẳng
biến đổi.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ở trong ba mùa sáu tiết,
mạnh đông cây cối khô héo,
mọi người chẳng
ưa thích.
Mạnh xuân hòa ấm
mọi người tham ưa. Vì phá sự tham ưa
thế gian của
chúng sanh nên ta diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh.
Đức Như Lai vì phá thế ngã, thế tịnh, nên nói
Như Lai là chơn thiệt ngã tịnh.
Nói tháng hai là dụ cho hai thứ
pháp thân của
Như Lai.
Mùa đông chẳng
ưa thích, là người trí chẳng thích
Như Lai vô thường nhập Niết Bàn. Tháng hai
mùa xuân vui thích, là dụ cho người trí
ưa thích Như Lai : Thường, lạc, ngã, tịnh. Gieo trồng dụ cho
chúng sanh nghe pháp vui mừng phát tâm vô thượng Bồ Đề,
vun trồng các căn lành. Sông rạch là dụ cho các
Đại Bồ Tát ở
mười phương đến chỗ ta nghe học
kinh Đại Niết Bàn.
Trăm thú sanh sản là dụ cho hàng
đệ tử của ta sanh các căn lành.
Bông là dụ cho
bảy giác chi. Trái là dụ cho bốn
đạo quả.
Do những nghĩa nầy, nên ta
nhập Niết Bàn trong tháng hai.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn !
Đức Như Lai lúc sơ sanh,
xuất gia,
thành đạo chuyển pháp luân đều ở vào ngày mùng tám, cớ cho riêng
nhập Niết Bàn ở đêm rằm ?
Phật bảo : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
mặt trăng rằm tròn đầy không khuyết,
chư Phật Như Lai cũng như vậy, nhập
Đại Niết Bàn không có kém khuyết. Vì thế nên
Như Lai nhập Niết Bàn vào đêm rằm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như đêm rằm, lúc
mặt trăng tròn có mười một điều : Một là phá
tối tăm ; hai là khiến
chúng sanh thấy rõ đường sá, ba là khiến
chúng sanh thấy đường ngay đường cong ; bốn là trừ nóng nực được
mát mẻ ; năm là phá lòng cao ngạo của lửa đom đóm ; sáu là dứt tất cả tưởng niệm trộm cướp ; bảy là trừ lòng sợ
ác thú của
chúng sanh ; tám là có thể làm cho
hoa sen xanh nở ; chín là làm cho
hoa sen búp lại ; mười là dẫn phát lòng tiến lên của kẻ đi đường ; mười một là làm cho
chúng sanh thích
ngũ dục được nhiều khoái lạc.
Như Lai cũng như vậy : Một là
phá hoại vô minh ; hai là
diễn thuyết chánh pháp,
tà pháp ; ba là chỉ bày
sanh tử là tà hiểm,
Niết bàn là bằng thẳng ; bốn là làm cho người
xa lìa phiền não tham,
sân si ; năm là
phá hoại ánh sáng của
ngoại đạo ; sáu là
phá hoại giặc
kiết sử ; bảy là trừ tâm lo sợ
ngũ cái ; tám là làm nẩy nở lòng
vun trồng căn lành của
chúng sanh ; chín là che trùm tâm
ngũ dục của
chúng sanh ; mười là
phát khởi hạnh
tiến tu công hạnh Đại Niết Bàn cho
chúng sanh ; mười một là làm cho
chúng sanh thích tu hạnh
giải thoát.
Do đây nên ta nhập
Đại Niết Bàn vào ngày rằm.
Dầu vậy, nhưng thật ra ta chẳng có nhập
Đại Niết Bàn. Trong hàng
đệ tử của ta, những kẻ
ngu si, kẻ ác cho rằng
Như Lai quyết định nhập Niết Bàn.
Như bà mẹ kia có đông con. Một hôm bà mẹ bỏ đi đến nước khác, trong
thời gian chưa
trở về, các con đều nói rằng mẹ đã chết mất, nhưng thật ra bà mẹ nầy không chết.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Hạng
Tỳ Kheo nào có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ nầy ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo nào
thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, văn nghĩa đúng,
thông đạt thâm nghĩa,
giải thuyết cho
mọi người, chỗ
thuyết pháp trước sau giữa đều lành hay, vì muốn
lợi ích cho
vô lượng chúng sanh mà
diễn thuyết phạm hạnh.
Tỳ Kheo nầy có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
_ Bạch
Thế Tôn ! Như chỗ tôi hiểu nghĩa của
Đức Phật vừa dạy, thời
Tỳ Kheo A Nan chính là người
trang nghiêm vậy. Vì
A Nan thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, vì
đại chúng mà khai thị
diễn thuyết, lời cùng nghĩa đều chơn chánh.
Như đem nước rót vào bình,
A Nan cũng như vậy, đúng như chỗ đã nghe nơi
đức Phật đem
diễn thuyết lại cho
mọi người.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo đặng
thiên nhãn thanh tịnh, thấy
đại thiên thế giới ở
mười phương như thấy trái
am ma lặc trong bàn tay,
Tỳ Kheo nầy cũng có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời
Tỳ Kheo A Nâu Lâu Đà chính là người
trang nghiêm, vì
A Nâu Lâu Đà có
thiên nhãn thấy rõ
đại thiên thế giới, tất cả những loài những vật
cho đến thân trung ấm đều thấy
rõ ràng không
chướng ngại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo thiểu dục tri túc, tâm thích
tịch tịnh, siêng tu
tinh tấn chánh niệm,
chánh định, chánh huệ,
giải thoát,
Tỳ Kheo nầy có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời
Tỳ Kheo Đại Ca Diếp chính là người
trang nghiêm, vì
Đại Ca Diếp khéo tu những
công hạnh thiểu dục tri túc v.v…
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
Tỳ Kheo vì lợi ích chúng sanh chẳng vì
lợi dưỡng mà
tu tập thông đạt vô tránh tam muội,
thánh hạnh,
không hạnh,
Tỳ Kheo nầy thời có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
_ Bạch
Thế Tôn ! nếu như vậy thời
Tỳ Kheo Tu Bồ Đề chính là người
trang nghiêm. Vì
Tu Bồ Đề khéo
tu tập hạnh
vô tránh,
thánh hạnh,
không hạnh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo khéo
tu tập thần thông,
trong khoảng một niệm có
thể hiện các thứ
thần thông biến hoá, một tâm một định có
thể hiện làm hai thứ là nước với lửa,
Tỳ Kheo nầy thời có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời
Tỳ Kheo Đại Mục Kiền Liên chính là người
trang nghiêm. Vì
Đại Mục Kiền Liên khéo tu
thần thông biến hoá vô lượng.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo tu tập đại trí,
lợi trí,
tập trí,
giải thoát trí,
thậm thâm trí,
quảng trí,
vô biên trí,
vô thắng trí,
thật trí,
thành tựu đầy đủ
trí huệ như vậy,
tâm bình đẳng đối với người thân
kẻ thù nghe
đức Như Lai nhập Niết Bàn chẳng lo buồn, nếu nghe
Như Lai thường trụ chẳng
nhập Niết Bàn cũng chẳng mừng rỡ,
Tỳ Kheo nầy thời có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời
Tỳ Kheo Xá Lợi Phất chính là người
trang nghiêm. Vì
Xá Lợi Phất khéo
thành tựu đầy đủ
đại trí huệ như vậy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo có thể nói
chúng sanh đều có
Phật tánh, được
thân Kim Cang không có ngằn mé, thường, lạc, ngã, tịnh,
thân tâm vô ngại được tám môn
tự tại.
Tỳ Kheo nầy thời có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Thọ.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời chỉ có
đức Như Lai mới là người
trang nghiêm. Vì thân
Như Lai là
thân Kim Cang không ngằn mé, là thường, lạc, ngã, tịnh,
thân tâm vô ngại đủ tám môn
tự tại.
Bạch
Thế Tôn ! Chỉ có
đức Như Lai mới có thể
trang nghiêm rừng
Ta La Song Tho,
nếu không đức Như Lai thời chẳng
trang nghiêm. Ngưỡng mong đấng
Đại Từ Bi vì
trang nghiêm mà thường ở trong rừng
Ta La nầy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả các
pháp tánh vốn trụ nơi
vô trụ, sao ông lại cầu mong
đức Như Lai trụ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Phàm nói rằng trụ đó thời gọi là
sắc pháp từ nơi
nhơn duyên mà sanh, nên gọi là trụ.
Nhơn duyên không nơi chỗ nên gọi là
vô trụ.
Đức Như Lai đã dứt tất cả sự
ràng buộc của sắc, sao lại nói rằng
Như Lai trụ ? Như
sắc pháp,
thọ tưởng hành thức cũng vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trụ gọi là
kiêu mạn, vì
kiêu mạn nên chẳng
được giải thoát, vì chẳng
được giải thoát nên gọi là trụ. Ai có
kiêu mạn ? Từ chỗ nào mà đến ? Do đây nên được gọi là trụ nơi
vô trụ.
Đức Như Lai đã dứt tất cả
kiêu mạn, sao lại nói rằng ngưỡng mong
đức Như Lai trụ ?
Trụ đó gọi là
pháp hữu vi,
đức Như lai đã dứt
pháp hữu vi, nên là chẳng trụ.
Trụ đó gọi là
pháp không,
Đức Như Lai đã dứt
pháp không như vậy nên được thường, lạc, ngã, tịnh. Tại sao nói rằng ngưỡng mong
đức Như Lai trụ ?
Trụ đó gọi là hai mươi lăm cõi.
Đức Như lai đã dứt hai mươi lăm cõi. Sao lại nói rằng ngưỡng mong
đức Như Lai trụ ?
Trụ đó chính là tất cả
phàm phu. Các bực thánh nhơn thời không khứ, không lai, không trụ.
Đức Như Lai đã dứt những tướng khứ, lai, trụ. Sao lại nói rằng ngưỡng mong
đức Như Lai trụ ?
Luận về
vô trụ gọi là
vô biên thân. Vì thân
vô biên nên chớ nói rằng ngưỡng mong
đức Như Lai trụ nơi rừng
Ta La. Nếu trụ nơi rừng nầy thời là
hữu biên. Nếu là
thân hữu biên thời là
vô thường.
Đức Như Lai là thường, sao lại nói rằng trụ ?
_ Luận về
vô trụ gọi là
hư không, tánh của
Như Lai đồng với
hư không, sao lại nói rằng trụ ?
Lại
vô trụ gọi là
Kim Cang Tam Muội.
Kim Cang Tam Muội phá hoại tất cả trụ.
Kim Cang Tam Muội chính là
Như Lai, sao lại nói rằng trụ ?
Lại
vô trụ gọi là huyễn,
Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ ?
Lại
vô trụ gọi là vô chung vô thỉ, tánh
Như Lai không có
thỉ chung, sao lại gọi rằng trụ.
Lại
vô trụ là
pháp giới vô biên,
pháp giới vô biên chính là
Như Lai, sao lại nói rằng trụ ?
Lại
vô trụ gọi là
Thủ Lăng Nghiêm tam muội.
Tam muội nầy biết tất cả pháp mà
không chấp trước, vì
không chấp trước nên gọi là
Thủ Lăng Nghiêm.
Đức Như Lai đầy đủ
chánh định Thủ Lăng Nghiêm, sao lại gọi rằng trụ ?
Lại
vô trụ gọi xứ phi xứ
trí lực.
Đức Như Lai thành tựu trí lực nầy, sao lại gọi rằng
trụ ?
Lại
vô trụ gọi là
Đàn Ba La Mật. Nếu
Đàn Ba La Mật mà có trụ thời chẳng đến được
Thi La Ba La Mật, nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật, do nghĩa nầy nên
Đàn Ba La Mật gọi là
vô trụ.
Đức Như Lai chẳng trụ
Đàn Ba La Mật nhẫn đến chẳng trụ
Bát Nhã Ba La Mật, sao lại nguyện rằng
đức Như Lai thường trụ nơi rừng
Ta La.
Lại
vô trụ gọi là
tu pháp Tứ Niệm Xứ. Nếu
đức Như Lai trụ nơi pháp
Tứ Niệm Xứ, thời không thể được Vô Thựơng
Bồ Đề, đây gọi là trụ nơi chẳng trụ.
Lại
vô trụ gọi là
chúng sanh giới vô biên.
Đức Như Lai đã đến tột ngằn mé
vô biên của tất cả
chúng sanh giới mà không chỗ trụ.
Lại
vô trụ gọi là không nhà cửa, không nhà cửa gọi là không chỗ có, không chỗ có gọi là
vô sanh,
vô sanh gọi là vô diệt, vô diệt gọi là
vô tướng,
vô tướng gọi là không hệ phước, không
hệ phược gọi là
không chấp trước,
không chấp trước gọi là
vô lậu,
vô lậu chính là thiện,
thiện chính là
vô vi,
vô vi chính là
Đại Niết Bàn,
Đại Niết Bàn chính là thường, thường chính là ngã, ngã chính là tịnh, tịnh chính là lạc. Thường, lạc, ngã, tịnh chính là
Như Lai.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
hư không chẳng trụ
mười phương,
đức Như Lai cũng như vậy chẳng trụ
mười phương.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có ai nói rằng thân, khẩu, ý ác mà được quả lành thời là không đúng. Thân, khẩu, ý lành mà được quả ác cũng là không đúng.
Nếu nói
phàm phu đặng thấy
Phật tánh còn
Thập Trụ Bồ Tát chẳng được thấy,
lời nói nầy không đúng.
Nếu nói hạng Nhứt
Xiển Đề phạm tội ngũ nghịch, hủy báng
kinh Đại Thừa phá bốn giới trọng mà được
Vô Thượng Bồ Đề,
lời nói nầy cũng không đúng.
Nếu nói
lục trụ Bồ Tát do
phiền não mà đọa ba
ác đạo, lời nòi nầy cũng không đúng.
Nếu nói
Đại Bồ Tát dùng thân người nữ thật mà được
Vô Thượng Bồ Đề,
lời nói nầy cũng không đúng.
Nếu nói Nhứt
Xiển Đề là thường còn,
Tam Bảo là
vô thường,
lời nói nầy cũng không đúng.
Nếu nói
đức Như Lai trụ nơi thành
Câu Thi Na, là
vô thường ,
lời nói nầy cũng không đúng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nay
đức Như Lai ở nơi thành
Câu thi Na nầy nhập Đại
Tam Muội, vào trong hang
thiền định thậm thâm. Vì
chúng sanh chẳng thấy
Như Lai nên gọi là
Đại Niết Bàn.
_ Bạch
Thế Tôn !
Đức Như lai cớ chi vào nơi hang
thiền định ?
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì muốn
độ thoát chúng sanh : Người chưa gieo trồng căn lành làm cho được gieo trồng. Người đã gieo trồng căn lành nay được
tăng trưởng. Người quả lành chưa
thành thục làm cho được
thành thục.
Đức Như Lai vì người căn lành đã
thành thục mà nói thu hướng
Vô Thượng Bồ Đề. Làm cho người khinh tiện pháp lành sanh lòng
tôn trọng. Làm cho những kẻ
phóng dật rời bỏ sự
phóng dật. Vì cùng
Văn Thù Sư Lợi các vị
Đại Bồ Tát luận bàn diệu nghĩa. Vì muốn
giáo hoá người thích
đọc tụng làm cho
ưa thích thiền định. Vì đem
thánh hạnh,
phạm hạnh,
thiên hạnh giáo hóa chúng sanh. Vì
quan sát pháp tạng bất cộng thậm thâm. Vì muốn
quở trách hàng
đệ tử phóng dật.
Đức Như Lai thường tịch tịnh mà còn
ưa chuộng thiền định, huống là các ông chưa dứt hết
phiền não mà sanh lòng
phóng dật. Vì muốn
quở trách các
Tỳ Kheo ác nhận tám thứ vật
bất tịnh, mà chẳng biết
thiểu dục, chẳng biết
tri túc. Vì khiến
chúng sanh tôn trọng pháp
thiền định đã nghe. Do những
nhơn duyên trên đây nên
đức Như Lai vào hang
thiền định.
Bạch
Thế Tôn !
Chánh định vô tướng gọi là
Đại Niết Bàn, nên
Đại Niết bàn gọi là
vô tướng. Do
nhơn duyên gì gọi là
vô tướng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì không có
mười tướng : Sắc, thinh, hương, vị, xúc, sanh, trụ, hoại, nam, nữ, đây gọi là
mười tướng. Vì không
mười tướng như vậy nên gọi là
vô tướng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Luận về người
chấp tướng thời hay sanh ra si, vì si mà sanh ái, vì ái nên
ràng buộc, vì
ràng buộc nên thọ sanh, vì sanh nên có tử, vì tử nên là
vô thường. Người chẳng
chấp tướng thời chẳng sanh si, vì không si nên không ái, vì không ái nên không
ràng buộc, vì không
ràng buộc nên chẳng thọ sanh, vì chẳng thọ sanh nên không có tử, vì không có tử nên gọi là thường. Do nghĩa nầy nên
Niết Bàn gọi là thường.
_ Bạch
Thế Tôn !
Tỳ Kheo nào có thể dứt được
mười tướng ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Tỳ Kheo luôn luôn
tu tập ba tướng nầy thời dứt được
mười tướng : Luôn luôn
tu tập tướng
tam muội chánh định, luôn luôn
tu tập tướng trí huệ, luôn luôn
tu tập tướng xả.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào gọi là tướng
chánh định,
tướng trí huệ và tướng xả ?
Chánh định là
tam muội, tất cả
chúng sanh đều có
tam muội, tại sao nay mới nói rằng
tu tập tam muội ?
Nếu
tâm duyên ở một cảnh thời gọi là
tam muội, nếu lại duyên cảnh khác thời chẳng gọi là
tam muội. Nếu như chẳng định thời chẳng phải là
nhứt thiết trí, chẳng phải là
nhứt thiết trí sao lại gọi là định ? Nếu do một hạnh mà được
tam muội, những hạnh khác thời chẳng phải là
tam muội, nếu chẳng phải là
tam muội, thời chẳng phải là
nhứt thiết trí, nếu chẳng phải
nhứt thiết trí sao lại gọi rằng
tam muội ?
Tướng trí huệ và tướng xả cũng như vậy.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Như lời ông nói duyên nơi một cảnh được gọi là
tam muội, nếu duyên các cảnh khác chẳng gọi là
tam muội,
lời nói nầy không đúng nghĩa. Vì duyên những cảnh khác như vậy cũng vẫn là một cảnh. Do một hạnh cùng những hạnh khác cũng như vậy.
Ông lại nói
chúng sanh trước đã có
tam muội chẳng
cần tu tập, lời nầy cũng chẳng phải. Vì nói
tam muội đây, là nói thiện
tam muội, thật ra tất cả
chúng sanh chưa có sao lại nói rằng chẳng
cần tu tập ? Do trụ trong thiện
tam muội như
vậy mà quan sát tất cả
pháp thời gọi là tướng
thiện trí huệ. Chẳng thấy tướng
tam muội cùng
tướng trí huệ sai khác nhau thời gọi là tướng xả.
Lại nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
chấp tướng sắc, không thể
quan sát tướng thường tướng
vô thường của sắc thời gọi là
tam muội.
Nếu có thể quan sát tướng thường và tướng
vô thường của sắc thời gọi là
tướng trí huệ.
Tam muội cùng
trí huệ đồng
quan sát tất cả
pháp thời gọi là tướng xả.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như người đánh xe bốn ngựa giỏi, điều khiển chậm mau phải lúc.
Bồ Tát cũng như vậy, nếu
tam muội nhiều thời
tu tập trí huệ, nếu
trí huệ nhiều thời
tu tập tam muội.
Tam muội cùng
trí huệ đồng nhau thời gọi là xả.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Thanh Văn và
Duyên Giác sức
tam muội nhiều sức
trí huệ ít, do đây nên chẳng thấy
Phật tánh.
Thập trụ Bồ Tát sức
trí huệ nhiều sức
tam muội ít, nên thấy
Phật tánh chẳng
rõ ràng. Chư
Phật Thế Tôn vì
tam muội cùng
trí huệ đồng, nên thấy
Phật tánh rõ ràng không
chướng ngại như xem trái
am ma lặc trong bàn tay. Thấy
Phật tánh gọi đó là tướng xả.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Xa ma tha gọi là hay dứt trừ, vì hay dứt trừ tất cả
phiền não. Lại
xa ma tha gọi là hay
điều phục, vì hay
điều phục những căn ác chẳng lành. Lại
xa ma tha gọi là
tịch tịnh, vì có thể làm cho thân, khẩu, ý đều
tịch tịnh. Lại
xa ma tha gọi là
viễn ly, vì có thể làm cho
chúng sanh xa lìa ngũ dục. Lại
xa ma tha gọi là hay lóng trong, vì hay lóng trong ba pháp nhơ đục
tham dục,
sân khuể,
ngu si. Do những nghĩa nầy nên gọi là tướng
chánh định.
Tỳ Bà Xá Na gọi là
chánh kiến, cũng gọi là
liễu kiến, năng kiến, biến kiến,
thứ đệ kiến,
biệt tướng kiến, đây gọi là
trí huệ.
Ưu Tất Xoa gọi là
bình đẳng, cũng gọi là
vô tránh, vô quán ,
vô hành, đây gọi là xả.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có hai thứ
Xa Ma Tha :
Thế gian và
xuất thế gian.
Lại có hai thứ : Chẳng
thành tựu và
thành tựu. Chẳng
thành tựu là nói
Thanh Văn cùng
Bích Chi Phật.
Thành tựu là nói chư Phật và
Bồ Tát.
Lại có ba thứ : Hạ, trung, và thượng. Hạ là nói hàng
phàm phu. Trung là nói
Thanh Văn và
Duyên Giác. Thượng là nói chư Phật và
Bồ Tát.
Lại có bốn thứ : Một là thối, hai là trụ, ba là tấn, bốn là có thể
lợi ích lớn.
Lại có năm thứ chính là
năm trí tam muội : Một là vô thực
tam muội, hai là
vô quá tam muội, ba là thân
ý thanh tịnh
nhứt tâm tam muội, bốn là nhơn quả câu lạc
tam muội, năm là
thường niệm tam muội.
Lại có sáu thứ : Một là
quán cốt tam muội, hai là từ
tam muội, ba là quán
thập nhị nhơn duyên tam muội, bốn là
xuất tức nhập tức
tam muội, năm là
chánh niệm giác quán tam muội, sáu là quán
sanh trụ dị diệt tam muội.
Lại có bảy thứ chính là
bảy giác chi : Một là
niệm xứ giác chi, hai là
trạch pháp giác chi, ba là
tinh tấn giác chi, bốn là
hỉ giác chi, năm là
trừ giác chi, sáu là
định giác chi, bảy là
xả giác chi.
Lại có bảy thứ : Một là
Tu Đà Hoàn tam muội, hai là
Tư Đà Hàm tam muội, ba là
A Na Hàm tam muội, bốn là
A La Hán tam muội, năm là
Bích Chi Phật tam muội, sáu là
Bồ Tát tam muội, bảy là
Như Lai giác tri
tam muội.
Lại có tám thứ : Chính là tám môn
giải thoát tam muội : Một là trong có
sắc tướng, ngoài quán sắc
giải thoát tam muội, hai là trong
không sắc tướng, ngoài quán sắc
giải thoát tam muội, ba là tịnh
giải thoát thân chứng
tam muội, bốn là
không xứ giải thoát tam muội, năm là thức xứ
giải thoát tam muội, sáu là
vô sở hữu xứ giải thoát tam muội, bảy là
phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ
giải thoát tam muội, tám là
diệt tận định xứ
giải thoát tam muội.
Lại có chín thứ chính là
cửu thứ đệ định :
Tứ thiền,
tứ không và
diệt tận định tam muội.
Lại có mười thứ chính là mười nhứt thiết xứ
tam muội : Một là địa nhứt thiết xứ
tam muội, hai là thủy nhứt thiết xứ
tam muội, ba là phong nhứt thiết xứ
tam muội, bốn là thanh nhứt thiết xứ
tam muội, năm là huỳnh nhứt thiết xứ
tam muội, sáu là xích nhứt thiết xứ
tam muội, bảy là bạch nhứt thiết xứ
tam muội, tám là không nhứt thiết xứ
tam muội, chín là thức nhứt thiết xứ
tam muội, mười là
vô sở hữu nhứt thiết xứ
tam muội. Lại có
vô số thứ chính là chư Phật và
Bồ Tát. Đây gọi là tướng
tam muội.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Huệ có hai thứ :
Thế gian và
xuất thế gian. Lại có ba thứ :
Bát Nhã,
Tỳ Bà Xá Na và
Xà Na.
Bát Nhã gọi là tất cả
chúng sanh.
Tỳ Bà Xá Na là tất cả thánh nhơn.
Xà Na là chư Phật và
Bồ Tát. Lại
Bát Nhã gọi là
biệt tướng,
Tỳ Bà Xá Na gọi là
tổng tướng,
Xà Na gọi là phá tướng.
Lại có bốn thứ huệ, chính là quán
tứ chơn đế.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì ba việc mà tu
Xa Ma Tha : Một là vì chẳng
phóng dật, hai là vì
trang nghiêm đại trí, ba là vì được
tự tại.
Lại vì ba việc mà tu
Tỳ Bà Xá Na : Một là vì quán
quả báo ác của
sanh tử, hai là vì muốn
tăng trưởng các căn lành, ba là vì phá tất cả
phiền não.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như trong kinh nói nếu
Tỳ Bà Xá Na có thể phá
phiền não cớ gì lại
tu tập Xa Ma Tha ?
Phật nói : Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói
Tỳ Bà Xá Na phá
phiền não, lời nầy không đúng. Vì lúc có
trí huệ thời không
phiền não, lúc có
phiền não thời không
trí huệ. Sao lại nói rằng
Tỳ Bà Xá Na có thể phá
phiền não ?
Ví như lúc sáng thời không tối, lúc tối thời không sáng. Nếu nói rằng sáng có thể phá tối, thời không đúng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ai có
trí huệ ? Ai có
phiền não ? Sao lại nói rằng
trí huệ có thể phá
phiền não. Nếu
phiền não là không thời không chỗ phá.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu nói
trí huệ có thể phá
phiền não, là đến mà phá, hay chẳng đến mà phá ? Nếu chẳng đến mà phá thời lẽ ra
phàm phu cũng phá được. Nếu đến mà phá thời niệm
ban đầu lẽ ra đã phá. Nếu niệm
ban đầu chẳng phá thời niệm sau cũng chẳng phá. Nếu niệm
ban đầu đến bèn đã phá đây thời là chẳng đến. Sao lại nói rằng
trí huệ hay phá
phiền não ? Nếu nói rằng đến cùng chẳng đến mà có thể phá đó thời không đúng nghĩa.
Lại
Tỳ Bà Xá Na phá
phiền não đó, là
đơn độc có thể phá hay là có bạn mới phá ? Nếu
đơn độc có thể phá cớ gì
Bồ Tát tu
bát chánh đạo ? Nếu có bạn mới phá thời nên biết rằng
đơn độc chẳng phá được. Nếu
đơn độc chẳng phá được thời bạn cũng chẳng phá được. Như một người mù chẳng thấy được màu sắc, dầu dắt cả lũ bạn mù cũng chẳng thấy được. TỳBà Xá Na cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
địa đại thời tánh chất là cứng,
hỏa đại tánh chất là nóng,
thủy đại tánh chất là ướt,
phong đại tánh chất là động. Tánh chất cứng của
địa đại nhẫn đến tánh chất động của
phong đại, chẳng phải
nhơn duyên làm ra, tánh của nó
tự như v ậy. Như tánh chất của
tứ đại,
phiền não cũng vậy, tánh của nó là tự phải dứt mất. Nếu là tự dứt mất sao lại nói rằng
trí huệ hay dứt. Do nghĩa nầy nên biết rằng
Tỳ Bà Xá Na quyết định chẳng thể phá các
phiền não.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như chất muối là mặn làm cho vật khác mặn. Chất mật là ngọt làm cho vật khác ngọt, chất nước là ướt làm cho vật khác ướt. Tánh của
trí huệ là diệt làm cho các
pháp diệt, nghĩa nầy chẳng đúng. Vì nếu
pháp không diệt thời
trí huệ làm thế nào diệt được. Nếu nói muối mặn làm cho vật khác mặn, tánh
trí huệ là diệt cũng làm cho pháp khác diệt, lời nầy cũng chẳng đúng. Vì tánh của
trí huệ niệm niệm diệt. Nếu
niệm niệm diệt thời đâu có
thể diệt pháp khác. Do nghĩa nầy nên biết rằng tánh
trí huệ chẳng phá
phiền não.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả các pháp có hai thứ diệt : Một là tánh diệt, hai là
rốt ráo diệt. Nếu là tánh diệt sao lại nói rằng
trí huệ có
thể diệt.
Nếu nói
trí huệ có
thể diệt phiền não như lửa đốt cháy đồ vật, nghĩa nầy chẳng đúng. Vì như lửa đốt cháy đồ vật thời có tro tàn,
trí huệ nếu như vậy thời lẽ ra cũng còn có tàn dư. Như búa chặt cây, chỗ bị chặt có thể thấy được,
trí huệ nếu như vậy thời có gì là có thể thấy được ?
Trí huệ nếu có thể làm cho
phiền não rời lìa đó, thời
phiền não kia lẽ ra
hiện ra chỗ khác. Như các
ngoại đạo rời sáu thành lớn mà hiện đến ở nơi thành
Câu Thi Na. Nếu
phiền não nầy chẳng
hiện ra nơi khác, thời biết rằng
trí huệ chẳng có thể làm cho
phiền não rời lìa.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả các pháp nếu tánh nó tự không, thời ai có thể làm cho nó sanh ? Ai có thể làm cho nó diệt ? Sanh khác diệt khác, không ai tạo tác. Nếu người
tu tập chánh định thời được biết được thấy chơn chánh như vậy. Do nghĩa nầy nên trong kinh ta nói : Nếu có
Tỳ Kheo tu tập chánh định, thời có thể thấy tướng
sanh diệt của
ngũ ấm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu chẳng
tu tập chánh định, thời việc
thế gian còn không thể rõ biết huống là ở nơi đạo
xuất thế. Nếu người không có
chánh định, thời té ngã nơi đất bằng,
tâm duyên pháp khác, miệng nói lời khác, tai nghe tiếng khác, ý hiểu nghĩa khác, muốn đọc chữ khác, tay biên văn khác, muốn đi đường khác thân bước nẻo khác. Nếu người có
tu tập tam muội chánh định thời được
lợi ích lớn nhẫn đến được
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát đầy đủ hai
pháp thời có
lợi ích lớn : Một là định, hai là trí.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như cắt cỏ ống nếu kéo mạnh quá thời đứt.
Đại Bồ Tát tu tập hai pháp nầy cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như nhổ cây cứng, trước dùng tay lay động, lúc sau nhổ lên dễ.
Bồ Tát cũng như vậy, trước dùng định để động, rồi sau dùng trí để nhổ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như giặt y dơ, trước dùng
nước tro, sau dùng nước trong,
thời y được sạch sẽ.
Định huệ của
Bồ Tát cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như trước
đọc tụng rồi sau hiểu nghĩa.
Định huệ của
Bồ Tát cũng như vậy.
Như người
dũng kiện trước dùng khôi giáp đao trượng để tự võ trang, rồi sau ra trận có thể phá tan quân địch.
Định huệ của
Đại Bồ Tát cũng như vậy.
Như người thợ dùng kềm cùng khuôn để gắp và đựng vàng
tự tại theo
ý muốn : Khuấy trộn đốt cháy.
Định huệ của
Bồ Tát cũng như vậy.
Ví như gương sáng chói rõ mặt mắt.
Định huệ của
Bồ Tát cũng như vậy.
Như trước dọn đất rồi sau mới gieo giống, trước theo thầy học rồi sau mới
suy nghĩ nghĩa lý.
Định huệ của
Bồ Tát cũng như vậy.
Do những nghĩa trên đây, nên
Đại Bồ Tát tu tập hai pháp nầy thời được
lợi ích rất lớn.
Đại Bồ Tát tu tập hai
pháp định huệ nầy, điều nhiếp năm căn,
kham nhẫn các sự khổ : Đói, khát, lạnh, nóng, đánh đập, mắng nhục,
thú dữ cắn, muỗi mòng chích, thường
nhiếp tâm mình chẳng cho
phóng dật, chẳng vì
lợi dưỡng mà làm việc
phi pháp,
khách trần phiền não chẳng
nhiễm ô được, chẳng bị những thuyết tà ngoại làm
mê lầm,
thường có thể
xa lìa những
ác giác quán, chẳng bao lâu sẽ
thành tựu vô thượng Bồ Đề, vì muốn
thành tựu lợi ích tất cả
chúng sanh.
Đại Bồ Tát tu hai
pháp định huệ nầy thời bốn luồng gió dữ
tứ đảo chẳng thể thổi động, như
núi Tu Di. Các
tà ma dị thuật chẳng thể phỉnh lầm. Thường hưởng
thọ sự vui
vi diệu thứ nhứt. Có thể hiểu nghĩa
bí mật rất sâu của
Như Lai. Được vui chẳng mừng gặp khổ chẳng buồn.
Chư thiên và người đời
cung kính tán thán. Thấy rõ
sanh tử và chẳng
sanh tử. Có thể rõ biết
pháp giới pháp tánh pháp thân thường, lạc, ngã, tịnh, đây thời gọi là
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Định tướng gọi là
không tam muội. Huệ tướng gọi là
vô nguyện tam muội.
Xả tướng gọi là
vô tướng tam muội.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Đại Bồ Tát biết rành
thời gian định,
thời gian huệ,
thời gian xả, và biết
phi thời, đây gọi là
Đại Bồ Tát thật
hành đạo Bồ Đề.
Bạch
Thế Tôn ! Thế nào là
Bồ Tát biết thời cùng
phi thời ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát vì hưởng
thọ sự vui mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì
thuyết pháp mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì
tinh tấn mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì hiểu nghĩa
vấn đáp giỏi mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì gần bạn ác mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì
bố thí nhiều mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì có
công đức lành
thế gian mà sanh lòng
kiêu mạn, hoặc vì được người
giàu sang cung kính mà sanh lòng
kiêu mạn, nên biết những lúc như vậy chẳng nên
tu tập trí huệ, mà phải
tu tập chánh định, đây gọi là
Bồ Tát biết thời cùng
phi thời.
Nếu có
Bồ Tát tinh tấn tu hành chưa được quả
Niết Bàn an lạc, vì chẳng được mà sanh lòng
hối hận, vì
độn căn nên chẳng
điều phục được
ngũ căn, vì
thế lực phiền não thạnh, vì tự nghi
giới luật có kém tổn, nên biết rằng lúc như vậy chẳng nên tu
chánh định, mà phải
tu tập trí huệ, đây gọi là
Bồ Tát biết thời và
phi thời.
Nếu có
Bồ Tát hai
pháp định huệ chẳng
bình đẳng, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, lúc
định huệ bình đẳng thời nên tu hạnh xả, đây gọi là
Bồ Tát biết thời và
phi thời.
Nếu có
Bồ Tát lúc
tu tập định huệ nếu có
phiền não khởi lên, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, mà phải
đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh,
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm Thiên,
niệm thí xả, đây gọi là tu xả.
Nếu có
Bồ Tát tu tập ba
pháp tướng như vậy, do
nhơn duyên nầy đặng
vô tướng Niết Bàn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Vì không
mười tướng gọi là
Đại Niết Bàn là
vô tướng. Lại do
nhơn duyên gì gọi là
vô sanh, vô xuất,
vô tác, là nhà cửa, cồn bãi, chỗ về, là
an ổn,
diệt độ Niết Bàn,
tịch tịnh không các
bịnh khổ, là không chỗ có ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì không
nhơn duyên nên gọi là
vô sanh, vì
vô sanh nên gọi là vô xuất. Vì không tạo nghiệp nên gọi là
vô tác. Vì chẳng vào năm thứ
tà kiến nên gọi là nhà cửa. Vì rời lìa bốn dòng nước mạnh nên gọi là cồn bãi. Vì
điều phục chúng sanh nên gọi là
quy y. Vì
phá hoại giặc
phiền não nên gọi là
an ổn. Vì lửa
kiết sử tắt nên gọi là
diệt độ. Vì lìa
giác quán nên gọi là
Niết Bàn. Vì xa ồn náo nên gọi là
tịch tịnh. Vì dứt hẳn
sanh tử nên gọi là không
bịnh tử. Vì tất cả không có nên gọi là không chỗ có. Nếu
Đại Bồ Tát quan sát như vậy thời đặng thấy rõ
Phật tánh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Đại Bồ Tát thành tựu bao nhiêu pháp thấy được
vô tướng Niết Bàn như vậy nhẫn đến không chỗ có.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát thành tựu mười
pháp thời thấy rõ
Niết Bàn vô tướng, nhẫn đến không chỗ có : Một là
tín tâm đầy đủ, nghĩa là
thâm tín Phật, Pháp, và Tăng là
thường trụ,
thập phương chư Phật
phương tiện thị hiện. Tất cả
chúng sanh và Nhứt
Xiển Đề đều có
Phật tánh. Chẳng tin
đức Như Lai là
sanh lão bịnh tử và
tu khổ hạnh. Chẳng tin
Đề Bà Đạt Đa là thật
phá Tăng làm thân Phật ra máu. Chẳng tin
đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn,
chánh định diệt hết. Đây gọi là
Bồ Tát đầy đủ
tín tâm.
Hai là đầy đủ
tịnh giới : Nếu có
Bồ Tát tự nói rằng
giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng với người nữ kia hòa hiệp, lúc thấy người nữ hoặc cùng nhau nói chuyện cợt đùa cười giỡn
Bồ Tát như vậy thành
dục pháp hủy phá
tịnh giới ô nhục phạm hạnh khiến giới tạp uế chẳng được gọi là đầy đủ
tịnh giới. Lại có
Bồ Tát tự nói
giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa giỡn cười nhưng cách vách nghe những tiếng vòng vàng
chuỗi ngọc của người nữ khua động, trong lòng sanh niệm
ái trước,
Bồ Tát như vậy, làm thành
dục pháp hủy
phá giới thanh tịnh,
ô nhục phạm hạnh, làm cho giới tạp uế chẳng được gọi là đầy đủ
tịnh giới. Lại có
Bồ Tát tự nói
giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa giỡn cười nghe tiếng khua động, nhưng lúc thấy người nam
đi theo người nữ, hoặc lúc thấy người nữ
đi theo người nam, bèn sanh niệm tham đắm.
Bồ Tát như vậy làm nên pháp dục, hủy phá
tịnh giới,
ô nhục phạm hạnh khiến giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ
tịnh giới. Lại có
Bồ Tát tự nói
giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa nghe tiếng khua thấy
nam nữ theo nhau, nhưng lại muốn sanh
cõi trời thọ vui
ngũ dục.
Bồ Tát như vậy làm nên pháp dục, hủy phá
tịnh giới ô nhục phạm hạnh khiến giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ
tịnh giới.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
Bồ Tát trì giới thanh tịnh mà chẳng vì giới, chẳng vì
Thi La Ba La Mật, chẳng vì
chúng sanh, chẳng vì
lợi dưỡng, chẳng vì
Niết Bàn, chẳng vì
Bồ Đề, chẳng vì
Thanh Văn và
Bích Chi Phật, chỉ vì
đệ nhứt nghĩa tối thượng mà
hộ trì cấm giới, đây gọi là
Bồ Tát đầy đủ
tịnh giới.
Ba là gần gũi
thiện tri thức : Nếu có người có thể nói tín, giới,
đa văn,
bố thí,
trí huệ, làm cho
mọi người thọ trì thật hành, đây gọi là
Bồ Tát thiện tri thức vậy.
Bốn là
ưa thích nơi
tịch tịnh, nghĩa là
thân tâm tịch tịnh quan sát pháp tánh thậm thâm của các pháp.
Năm là
tinh tấn : Nghĩa là
nhiếp tâm quán bốn
chơn đế,
giả sử lửa cháy trên đầu cũng chẳng
buông bỏ.
Sáu là đầy đủ
chánh niệm : Nghĩa là
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm Thiên,
niệm thí xả.
Bảy là nhuyến ngữ : Nghĩa là
lời nói chơn thật,
lời nói hòa dịu,
hỏi thăm trước, nói phải thời, nói chơn chánh.
Tám là
hộ pháp : Nghĩa là mến thích
chánh pháp, thường ưa
diễn thuyết,
đọc tụng, biên chép,
tư duy ý nghĩa,
tuyên dương sâu rộng làm cho
chánh pháp được
lưu bố, nếu thấy người khác biên chép
giải thuyết đọc tụng,
tán thán tư duy ý nghĩa, vì sanh sống mà
cúng dường y phục, ẩm thục, đồ nằm thuốc men, vì
hộ pháp nên chẳng tiếc
thân mạng.
Chín là
Đại Bồ Tát thấy có bạn
đồng học đồng giới
thiếu thốn đồ
cần dùng, như
y phục, thuốc men, đồ uống ăn, phòng nhà v.v…, thời đi khất xin người khác để
cung cấp các vị ấy.
Mười là đầy đủ
trí huệ : Nghĩa là
quan sát nơi
đức Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh,
quan sát hai
tướng không và
bất không của các pháp, thường cùng
vô thường, lạc cùng vô lạc, ngã cùng
vô ngã, tịnh cùng
bất tịnh, pháp khác có thể dứt, pháp khác chẳng thể dứt, pháp khác từ
duyên sanh, pháp khác từ duyên thấy, pháp khác từ
duyên thành quả, pháp khác chẳng phải
duyên thành quả, đây gọi là đầy đủ
trí huệ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đây gọi là BồTát đầy đủ mười pháp, có thể thấy rõ
Niết Bàn vô tướng .
_ Bạch
Thế Tôn ! Như trước kia
đức Phật bảo
Thuần Đà : Nay ông đã được thấy
Phật tánh, được
Đại Niết Bàn, thành
vô thượng Bồ Đề, lời đó nghĩa thế nào ?
Bạch
Thế Tôn ! Như trong kinh nói : Nếu
bố thí cho
súc sanh thời được phước báu trăm lần hơn
bố thí cho Nhứt Xiển Để được
phước báo ngàn lần hơn,
bố thí cho người
trì giới được
phước báo trăm ngàn lần hơn,
bố thí cho người
ngoại đạo dứt
phiền não được
phước báo vô lượng, dưng cúng cho bực
tứ hướng nhẫn đến bực
tứ quả cùng
Bích Chi Phật thời được
phước báo vô lượng, dưng cúng cho bực
Bất Thối Bồ Tát, bực
Đại Bồ Tát thân rốt sau, chư
Phật Thế Tôn, thời đặng
phước báo vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
thể tính đếm.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu ông
Thuần Đà hưởng thọ
vô lượng như vậy,
phước báo nầy
vô tận, thời
chừng nào ông sẽ được
vô thượng Bồ Đề?
Bạch
Thế Tôn ! Trong kinh lại có nói nếu có người do tâm ân trọng mà tạo nghiệp
thiện nghiệp ác,
chắc chắn được
quả báo : Hoặc hiện đời, hoặc đời kế hoặc
đời sau. Nay ông
Thuần Đà do tâm ân trọng mà tạo nghiệp thiện,
quyết định được
phước báo. Nếu
quyết định được
phước báo thời thế nào chứng được
vô thượng Bồ Đề ? Thế nào lại được thấy
Phật tánh ?
Bạch
Thế Tôn ! Trong kinh lại nói :
Bố thí cho ba hạng người thời được
phước báo vô tận : Một là người bịnh, hai là
cha mẹ, ba là
chư Phật Như Lai.
Bạch
Thế Tôn ! Và lại trong kinh
đức Phật bảo
A Nan : Tất cả
chúng sanh nếu không có nghiệp cõi dục thời được
vô thượng Bồ Đề không có nghiệp cõi sắc cõi
vô sắc cũng như vậy.
Bạch
Thế Tôn ! Như
bài kệ trong
kinh pháp cú :
Chẳng phải
hư không, trong biển cả.
Chẳng phải vào núi, trong kẹt đá,
Tất cả
mọi nơi, tất cả chỗ,
Không chỗ nào
thoát khỏi quả báo.
Lại thuở kia
A Nậu Lâu Đà bạch Phật : Tôi nhớ đời trước nhờ
bố thí một
bữa ăn mà trong muôn kiếp chẳng đọa
ác đạo.
Bạch
Thế Tôn !
Bố thí một
bữa ăn còn được
phước báo như vậy, huống là
Thuần Đà do
tâm kính tin mà
cúng dường Phật thành tựu đầy đủ
Đàn Ba La Mật.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu
phước báo lành là
vô tận, thời hủy báng
Đại Thừa phạm tội ngũ nghịch phá bốn giới trọng, tội Nhứt
Xiển Đề thế nào hết được? Nếu chẳng hết được thời thế nào có thể được thấy
Phật tánh, thành
vô thượng Bồ Đề ?
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện Nam Tử ! Chỉ có hai hạng người có thể được
vô lượng vô biên công đức chẳng
thể tính đếm chẳng
thể tính nói, có thể cạn giòng sông
sanh tử,
hàng phục ma oán,
vô ngã tràng ma, có thể
chuyển pháp luân vô thượng : Một là người khéo hỏi, hai là người khéo đáp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
mười trí lực của Phật,
nghiệp trí lực là rất sâu hơn cả.
Có những
chúng sanh ở trong
nghiệp duyên lòng khinh dể chẳng tin, vì độ họ mà Phật nói
như vầy : Tất cả nghiệp gây tạo ra, có nghiệp nhẹ, có
nghiệp nặng. Hai nghiệp lại đều có hai : Một là
quyết định, hai là
bất định.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Hoặc có người cho rằng
ác nghiệp không quả, nếu nói
ác nghiệp quyết định có
quả báo, tại sao Khí Hứ
Chiên Đà La mà được sanh lên trời ? Ươn Quật
Ma La được quả
giải thoát ? Do đây nên biết tạo nghiệp có
quyết định được
quả báo và chẳng
quyết định được
quả báo.
Ta vì
trừ tà kiến nầy, nên trong kinh ta nói rằng tất cả nghiệp tạo ra không nghiệp nào chẳng có
quả báo.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Hoặc có nghiệp nhẹ có thể làm cho nặng. Chẳng phải tất cả người chỉ có ngu và trí. Do đây nên biết chẳng phải tất cả nghiệp đều
quyết định có quả, dầu chẳng
quyết định có quả nhưng cũng chẳng phải là chẳng có.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh có hai hạng : Người trí và kẻ ngu. Người trí nhờ sức
trí huệ có thể làm cho nghiệp
địa ngục rất nặng
trở thành quả báo nhẹ hiện đời. Người
ngu si thời hoặc lại làm cho nghiệp nhẹ hiện đời
trở thành quả báo nặng nơi
địa ngục.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời chẳng nên cầu
phạm hạnh thanh tịnh cùng quả
giải thoát.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu tất cả nghiệp
quyết định có quả thời chẳng nên cầu
phạm hạnh giải thoát. Vì nghiệp
bất tịnh nên phải tu
phạm hạnh và quả
giải thoát.
Nấy
Thiện Nam Tử ! Nếu
xa lìa được tất cả
nghiệp ác thời được quả lành. Nếu
xa lìa nghiệp lành thời mang
quả báo ác. Nếu tất cả nghiệp
quyết định có quả, thời chẳng nên
cần tu tập
thánh đạo, nếu chẳng nên tu
thánh đạo thời không
được giải thoát. Tất cả thánh nhơn sở dỉ
tu tập thánh đạo vì để
phá hoại định nghiệp thành quả báo nhẹ và làm cho nghiệp
bất định không có
quả báo. Nếu tất cả nghiệp
quyết định có quả, thời chẳng nên cầu
tu tập thánh đạo. Nếu ai
xa lìa thánh đạo thời không bao giờ
được giải thoát. Chẳng
được giải thoát thời không được
Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu tất cả nghiệp
quyết định có ngã, thời
một đời tạo nghiệp thuần thiện lẽ ra phải
mãi mãi thường hưởng thọ quả an vui.
Một đời gây tạo
tội ác rất nặng lẽ ra cũng
mãi mãi chịu quả khổ lớn. Nếu
nghiệp quả như vậy thời không có sự tu
thánh đạo cùng
giải thoát và
Niết Bàn, người làm người thọ :
Bà La Môn làm
Bà La Môn thọ. Nếu như vậy thời lẽ ra chẳng có giòng hạ tiện người hạ tiện. Người lẽ ra luôn luôn là người,
Bà La Môn lẽ ra
mãi mãi là
Bà La Môn. Lúc nhỏ tạo nghiệp lẽ ra lúc nhỏ
thọ báo chẳng nên đến lúc trung niên và lúc già mới thọ. Lúc già tạo
nghiệp ác khi sanh vào trong
địa ngục, thân
địa ngục lúc trẻ lẽ ra chẳng chịu khổ. Nếu lúc già chẳng
sát sanh chẳng nên thuở tráng niên được sống còn, nếu thuở tráng niên chẳng sống còn thời thế nào có
tuổi già, vì nghiệp không mất, nếu nghiệp không mất thế nào mà có
tu hành thánh đạo đến quả
Niết bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có hai thứ nghiệp : Định và
bất định.
Định nghiệp có hai : Báo định và thời định. Hoặc có báo định mà
thời gian bất định, lúc duyên hiệp thời
thọ báo, hoặc ba
thời gian thọ báo nghĩa là đời
hiện tại thọ, đời kế thọ,
đời sau thọ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
định tâm làm những
nghiệp lành,
nghiệp ác, làm rồi sanh lòng rất tin
vui mừng, nếu
phát nguyện cúng dường Tam Bảo, đây gọi là
định nghiệp.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Người
trí căn lành sâu chắc khó lay động nên có thể làm cho
nghiệp nặng thành nhẹ. Người
ngu si điều
bất thiện sâu dày nên có thể làm cho nghiệp nhẹ
trở thành quả báo nặng. Do nghĩa nầy nên tất cả nghiệp chẳng gọi là
quyết định.
Đại Bồ Tát không có nghiệp
địa ngục, vì
chúng sanh mà
phát nguyện sanh trong
địa ngục.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Thuở xưa lúc
chúng sanh tuổi thọ trăm năm, có
hằng sa chúng sanh bị
quả báo địa ngục, lúc đó ta thấy như vậy liền
phát nguyện thọ thân
địa ngục. Nên biết rằng lúc đó
Bồ Tát thiệt không có nghiệp
địa ngục, vì
chúng sanh mà thọ thân
địa ngục. Ở trong
địa ngục cả
vô lượng năm, và vì những người tội mà
phân biệt giảng nói
mười hai bộ kinh. Những người tội được nghe
kinh pháp thoát khỏi quả báo ác làm cho
địa ngục trống không, trừ hạng Nhứt
Xiển Đề.
Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải nơi đời
hiện tại, đời kế,
đời sau thọ lấy
nghiệp ác.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Hiền kiếp nầy có
vô lượng chúng sanh đọa trong loài
súc sanh chịu phải
nghiệp báo ác. Ta thấy như vậy, vì muốn
thuyết pháp độ
chúng sanh, nên
phát nguyện làm cheo, nai, gấu, khỉ, rồng, voi, kim súy điểu,
bồ câu, cá, trạnh, thỏ, rắn , bò , ngựa.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát thiệt không có nghiệp
súc sanh như vậy, vì
nguyện lực muốn độ
chúng sanh, nên hiện thọ thân
súc sanh. Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế,
đời sau thọ nghiệp ác như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! trong
Hiền kiếp nầy, lại có
vô lượng vô biên chúng sanh đọa trong loài
ngạ quỉ, hoặc ăn đờm dãi, mỡ, thịt, máu, mũ, phẩn dãi,
thọ mạng vô lượng trăm ngàn muôn năm, không bao giờ nghe đến tên nước huống là con mắt
ngó thấy mà được uống.
Giả sử thấy nước đằng xa trong lòng muốn đến để uốntg, nhưng khi
đến gần thời nước
biến thành lửa đỏ và
máu mủ. Hoặc có lúc nước chẳng biến khác, nhưng lại có nhiều người tay cầm binh khí
ngăn cản không
cho đến uống . Hoặc có lúc trời mưa, nước mưa rớt đến thân họ liền
biến thành lửa. Đây gọi là
nghiệp báo ác.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát thiệt không những
nghiệp quả ác như vậy, vì
hoá độ chúng sanh llàm cho
được giải thoát, nên
phát nguyện thọ những thân như vậy. Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế,
đời sau thọ lấy
nghiệp quả ác như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Hiền kiếp nầy, ta từng sanh vào nhà hàng thịt, nuôi gà, nuôi heo, nuôi bò, dê, đi săn bắn, lưới chim, bắt cá, sanh trong nhà
Chiên Đà La, làm
kẻ cướp,
kẻ trộm.
Đại Bồ Tát thiệt không
nghiệp ác như vậy, vì muốn độ
chúng sanh cho
được giải thoát, nên dùng
nguyện lực lớn thọ những thân như vậy. Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế,
đời sau thọ nghiệp báo ác như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Hiền kiếp nầy, ta lại sanh vào chốn
biên địa, làm nhiều việc
tham dục,
sân khuể,
ngu si,
quen làm những điều
phi pháp, chẳng tin
Tam Bảo và
quả báo đời sau, chẳng
cung kính cha mẹ tôn trưởng. Thiệt ra lúc đó
Bồ Tát không có những
ác nghiệp như vậy. Vì muốn làm cho
chúng sanh được giải thoát, nên dùng
nguyện lực lớn mà thọ sanh. Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế,
đời sau thọ
ác nghiệp như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Hiền kiếp nầy ta lại thọ lấy thân nữ, thân ác, thân tham, thân sân , thân si, thân tật đố, thân
bỏn xẻn, thân
ảo thuật, thân
dối trá, thân
đần độn. Thiệt ra lúc đó
Bồ Tát không có những nghiệp như vậy chỉ vì muốn độ
chúng sanh cho
được giải thoát , nên dùng
nguyện lực lớn mà được thọ sanh. Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế,
đời sau thọ lấy
nghiệp ác như vậy.
Đại Bồ Tát hiện thọ những thân huỳnh môn, không căn, hai căn, và căn
bất định cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
Hiền kiếp nầy, ta lại học tập
giáo pháp của
ngoại đạo Ni Kiền Tử, tin
thọ giáo pháp của họ : Không
bố thí, không
thờ phụng, không báo
bố thí thờ phụng, không nghiệp thiện,
nghiệp ác,
không quả báo
thiện ác, không đời
hiện tại, không đời
vị lai, không đây không kia, không thánh nhơn, không thân
biến hoá, không đạo
Niết Bàn. Thiệt ra
Bồ Tát không có những
ác nghiệp như vậy, vì muốn độ
chúng sanh cho
được giải thoát , nên dùng
nguyện lực lớn mà thọ học những
tà pháp như vậy. Đây gọi là
Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế,
đời sau, thọ những
ác nghiệp như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta nhớ thuở xưa cùng
Đề Bà Đạt Đa đồng làm chủ đoàn con buôn, mỗi người đều có năm trăm khách buôn, đem nhau đến trong biển lớn để tìm lấy
châu báu. Vì
nghiệp duyên ác nên
dọc đường gặp gió to ghe thuyền hư bể, khách buôn đều chết cả. Lúc đó ta cùng
Đề Bà Đạt Đa nhờ
nghiệp duyên bất sát được
quả báo trường thọ, nên gió thổi tắp vào
đất liền.
Đề Bà Đạt Đa vì
tham tiếc của cải châu báu, nên quá
sầu khổ mà khóc lóc. Ta bảo
Đề Bà Đạt Đa chẳng nên kêu khóc.
Đề Bà Đạt Đa liền nói với ta rằng : Như có người nghèo cùng khốn khổ, đến trong gò mã tay nắm
tử thi mà nói rằng trông mong người
bố thí sự chết vui cho ta, ta sẽ
bố thí đời sống nghèo cùng nầy cho người. Lúc đó
tử thi liền ngồi dậy bảo người nghèo cùng rằng :
Đời sống nghèo cùng người tự thọ lấy, nay ta rất thích sự chết vui nầy thiệt chẳng ham
đời sống nghèo cùng của người.
Đề Bà Đạt Đa nói tiếp: Nhưng ngày nay tôi đã không được chết vui mà lại gồm cả sự nghèo cùng, bảo tôi chẳng khóc sao được.
Lúc đó ta lại
an ủi rằng : Ông chớ
sầu khổ, hiện nay tôi còn được hai viên
bảo châu giá trị vô lượng, tôi sẽ chia cho ông. Ta liền chia một viên
bảo châu cho
Đề Bà Đạt Đa, rồi đến nằm ngũ dưới một cội cây.
Vì quá
tham lam nên
Đề Bà Đạt Đa sanh
ác tâm đâm đui hai mắt của ta để cướp lấy viên
bảo châu còn lại rồi bỏ đi.
Lúc đó vì quá
đau đớn nên ta rên rỉ. Có một cô gái nghe tiếng rên đến gạn hỏi ta. Ta liền đem tất cả việc trước thuật lại. Cô gái nghe rồi lại hỏi ta : “ Ông
danh hiệu là gì ? ta đáp rằng : Tôi tên là
Thật Ngữ. Cô gái nói : Làm thế nào biết được ông là
Thật Ngữ. Ta liền phát thệ rằng : Nếu hiện nay tôi có lòng quấy nói vu cho
Đề Bà Đạt Đà, thời cặp mắt tôi phải
mù lòa vĩnh viễn, nếu tôi không
hư dối thời xin đôi mắt sáng lại như cũ. Ta phát thệ vừa xong thời đôi mắt ta
bình phục như cũ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Đây gọi là
Đại Bồ Tát nói về
quả báo đời
hiện tại.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ta nhớ thuở xưa ta sanh trong nhà
Bà La Môn nơi thành
Phú Đơn Na ở
Nam Thiên Trúc. Thuở đó có
Quốc Vương tên
Ca La Phú tánh tình hung dữ tự cao tự mạn,
tuổi trẻ say đắm sắc đẹp
ngũ dục.
Vì muốn độ
chúng sanh, nên ta ở ngoài thành
ngồi yên lặng
tham thiền. Lúc đó
Quốc Vương cùng với cung nhơn thể nữ ra ngoài thành dạo chơi, dừng ở dưới rừng nầy. Các thể nữ nhơn đi chơi giỡn bỏ
Quốc Vương mà đến chỗ ta
ngồi thiền. Ta liền vì các thể nữ
thuyết pháp cho họ bỏ lòng
tham dục.
Quốc Vương đi tìm các thể nữ, thấy họ đang ngồi quì
xung quanh ta.
Quốc Vương giận dữ hỏi ta rằng : Nay nhà ngươi đã
chứng quả A La Hán chưa ? Ta nói chưa chứng.
Quốc Vương lại hỏi nhà ngươi đã được qủa
A Na Hàm chưa ? Ta đáp chưa được.
Quốc Vương lại nói : “ Nay nhà ngươi chưa được hai quả ấy thời là người còn đầy đủ
tham dục, tại sao nhà ngươi dám
buông lung nhìn ngó các thể nữ của ta ?”
Ta liền thưa rằng : “
Đại Vương nên biết cho, nay tôi dầu chưa dứt
phiền não tham dục, nhưng trong tâm tôi thiệt không có niệm tham đắm.”
Quốc Vương nói : “ Ngưới
ngu si !
Trong đời có các tiên nhơn
khổ hạnh thấy sắc đẹp còn tham, huống là nhà ngươi tuổi còn trai trẻ, chưa dứt
tham dục, làm sao thấy sắc đẹp mà chẳng tham đắm ?”
_ Tâu
Đại Vương ! Người thấy sắc đẹp chẳng tham đắm, thiệt chẳng phải do khổ
hạnh , mà do
nhiếp tâm quán
vô thường bất tịnh.
Quốc Vương nói : “ Nếu khinh khi người khác mà
phỉ báng, thời thế nào đặng gọi là
tu trì tịnh giới ?
_ Tâu
Đại Vương ! Nếu có tâm
đố kỵ thời có
phỉ báng, tôi
không tâm đố kỵ thời đâu có
phỉ báng.
Quốc Vương nói : “Nầy
Đại Đức ! Thế nào gọi là giới ?”
_ Tâu
Đại Vương !
Nhẫn nhục gọi là giới.
Quốc Vương nói nếu
nhẫn nhục là giới, ta sẽ cắt lỗ tai của nhà ngươi ; nếu nhà ngươi nhẫn chịu được thời biết là nhà ngươi
trì giới.
Quốc Vương liền cắt hai tai. Ta dầu bị cắt tai, nhưng
nhan sắc chẳng
biến đổi. Các quan theo vua thấy việc như vậy liền
can gián rằng : Bực
đại sĩ như vậy,
Đại Vương chẳng nên làm hại.
Quốc Vương càng thêm giận bảo các quan : Tại sao các khanh biết là bực
đại sĩ ?
_ Tâu
Đại Vương ! Vì lúc bị cắt hai tai,
chúng tôi thấy dung sắc chẳng
biến đổi.
Quốc Vương nói : Ta sẽ thí nghiệm coi dung sắc
biến đổi hay chẳng
biến đổi. Nói xong ,
Quốc Vương liền thẻo mũi chặt tay, chặt chưn của ta.
Vì
Bồ Tát đã
trải qua vô lượng vô biên đời
tu tập từ bi thương xót chúng sanh, nên không khổ cũng không giận.
Lúc đó
Tứ Thiên Vương bất bình liền làm mưa cát mưa đá.
Quốc Vương sợ hãi quì trước ta mà thưa rằng : Ngưỡng mong
xót thương cho tôi
sám hối.
Ta nói : ‘
Đại Vương ! Trong lòng của rôi không
sân hận cũng
như không tham đắm.”
Quốc Vương nói : Nầy
Đại Đức ! Làm thế nào biết được rằng tâm
Đại Đức không
sân hận ?
Ta liền phát thệ : “ Nếu tôi thiệt không
sân hận nguyện cho thân của tôi
bình phục như cũ.
Phát nguyện vừa xong
thân thể của ta liền
bình phục.
Đây gọi là
Đại Bồ Tát nói
quả báo đời
hiện tại.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Nghiệp lành có
quả báo đời kế,
quả báo đời sau, nghiệp chẳng lành cũng như vậy.
Đại Bồ Tát lúc được
vô thượng Bồ Đề, tất cả các nghiệp đều được
quả báo hiện tại.
Nghiệp ác chẳng lành mắc lấy
quả báo hiện tại như
Quốc Vương làm ác bị trời mưa cát mưa đá. Cũng như có người chỉ chỗ ở của gấu và nai bảo sắc, tay người chỉ liền rụng rớt. Đây gọi là
nghiệp ác thọ lấy
quả báo trong
hiện tại.
Đời kế thọ
quả báo, như Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội trọng và tội ngũ ngghịch.
Quả báo đời sau, như người
trì giới phát nguyện lớn : Nguyện đời
vị lai thường được
giới thân thanh tịnh như vậy. Như có
chúng sanh lúc tuổi thọ trăm năm, tám chục năm, trong
thời kỳ sẽ làm
Chuyển Luân Thánh Vương giáo hóa chúng sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu là nghiệp
quyết định được
quả báo trong hiện đời, thời không thể được
quả báo đời kế cùng
đời sau.
Đại Bồ Tát tu nghiệp nhơn
ba mươi hai tướng tốt, thời không thể được
quả báo trong đời hiện tại. Nếu là nghiệp chẳng thọ lấy ba thứ
quả báo như vậy thời gọi là nghiệp
bất định.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu cho rằng những nghiệp nhơn
quyết định có
quả báo, thời chẳng được có sự
tu tập phạm hạnh,
giải thoát Niết Bàn. Nên biết rằng người nói lời nầy chẳng phải là
đệ tử của Phật mà chính là
quyến thuộc của ma.
Nếu nói rằng các nghiệp có
định nghiệp và
bất định nghiệp.
Định nghiệp thời có
quả báo hiện tại,
quả báo đời kế,
quả báo đời sau.
Bất định nghiệp thời lúc
nhơn duyên hội hiệp bèn
thọ báo, chẳng hội hiệp thời chẳng
thọ báo. Do đây nên có tu
phạm hạnh,
giải thoát Niết Bàn. Nên biết rằng người nói lời nầy thiệt là
đệ tử Phật.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh gây tạo nghiệp
bất định thời nhiều, tạo
định nghiệp thời ít. Vì thế nên có
tu tập đạo hạnh. Do
tu tập đạo hạnh nên
định nghiệp trọng có thể làm cho
thọ báo nhẹ, những nghiệp
bất định chẳng thọ
quả báo đời kế.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có hai hạng người : Một là hạng người với nghiệp
bất định làm
thành quả báo
quyết định,
quả báo hiện đời làm
thành quả báo đời kế,
quả báo nhẹ làm
thành quả báo nặng,
đáng lẽ thọ báo trong
loài người mà lại
thọ báo ở
địa ngục. Hai là hạng người với
định nghiệp làm thành
bất định nghiệp,
đáng lẽ thọ báo đời kế làm cho
thọ báo đời
hiện tại, báo nặng làm thành báo nhẹ, đáng
thọ báo địa ngục làm cho
thọ báo nhẹ trong
loài người. Hai hạng nầy : Một là kẻ ngu, một là người trí. Người trí làm thành nhẹ. Người ngu khiến cho nặng.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người mắc tội với nhà vua, người có
quyến thuộc đông đảo thời tội tất sẽ nhẹ, người
quyến thuộc ít
tội nhẹ trở thành nặng. Người trí kẻ
ngu si cũng như vậy : Người trí nhờ
nghiệp lành nhiều nên tội trọng mà thọ
quả báo nhẹ. Người ngu vì
nghiệp lành ít nên
tội nhẹ mà thọ
quả báo nặng.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người một thời mập mạnh, một thời
gầy yếu. Hai người nầy đều té xuống bùn sâu. Người mập mạnh lên được, người
gầy yếu thời lún mất.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người đồng uống thuốc độc. Một người có
thần chú và thuốc a dà đa. Một người không có. Người có
thần chú và thuốc thời độc chẳng làm hại được. Người không có bị chất
độc hại chết.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người đồng uống nước trái cây ép : Một người nhiệt lực thạnh, một người
suy yếu. Người nhiệt lực nhiều thời
tiêu hóa được. Người
suy yếu thời bị nước ấy làm thành bịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người bị nhà vua bắt trói : Một người có
trí huệ, một người thời
ngu si. Người có trí thời có thể được
thoát khỏi. Người
ngu si thời không có
thời kỳ thoát khỏi.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người đồng đi trên đường
hiểm trở. Một thời mắt sáng. Một thời
mù lòa. Người mắt sáng
đi thẳng qua không hại gì. Người mù bị sụp té xuống hố sâu.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người đồng uống rượu. Một thời ăn nhiều. Một thời ăn ít. Người ăn nhiều uống rượu không bị hại. Người ăn ít uống rượu thời thành bịnh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người đều đối địch với giặc thù. Một người thời võ trang đầy đủ, một người thời tay không. Người có võ trang ắt phá được
kẻ thù. Người tay không tất chẳng khỏi bị hại.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Ví như hai người bị phẩn nhơ vấy vào
y phục. Một người vừa biết liền giặt
y phục. Một người biết mà chẳng chịu giặt. Người giặt liền đó
thời y phục sạch sẽ. Người chẳng chịu giặt thời nhơ uế càng tăng thêm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lại có hai người đều ngồi xe. Một xe có trục có căm, một xe thời không trục không căm. Người ngồi xe có trục có căm thời
tùy ý mà đi. Người ngồi xe không trục không căm thời không đi đâu được.
Lại có hai người đều đi trên đường
hoang vắng. Một người có mang lương thực, một người thời đi không. Người có mang lương thời qua khỏi được
con đường hiểm. Người đi không ắt chẳng qua được.
Lại có hai người bị
kẻ cướp giựt. Một người có kho báu kín, một người thời không. Người có kho báu kín thời không lo rầu. Người không có kho báu thời
sầu khổ.
Kẻ ngu người trí cũng như vậy : Người trí có kho báu lành nên
nghiệp nặng mà
thọ báo nhẹ. Người không có báu lành thời nghiệp nhẹ phải
thọ báo nặng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Như lời Phật nói chẳng phải là tất cả nghiệp đều
thành quả nhứt định cũng chẳng phải tất cả
chúng sanh quyết định thọ báo. Bạch
Thế Tôn !
Chúng sanh làm thế bào khiến
quả báo nhẹ
hiện tại phải
thọ báo nặng ở
địa ngục ? Làm thế nào khiến
quả báo nặng
địa ngục trở thành báo nhẹ
trong đời hiện tại ?”
Phật nói : “ Có hai hạng
chúng sanh : Một là trí hai là ngu.
Nếu có thể tu tập thân, giới, tâm, huệ, nơi tâm thời gọi là người trí. Nếu chẳng thể
tu tập thời gọi là kẻ ngu.
Nếu chẳng thể điều nhiếp năm căn thời gọi là chẳng
tu thân. Nếu chẳng thể
thọ trì bảy thứ
tịnh giới thời gọi là chẳng tu giới. Vì chẳng điều tâm nên gọi là chẳng
tu tâm. Chẳng
tu tập thánh hạnh thời gọi là chẳng
tu huệ.
Lại người chẳng
tu thân thời không thể đầy đủ
giới thể thanh tịnh. Người chẳng tu giới thời nhận chứa tám thứ vật
bất tịnh. Người chẳng
tu tâm thời chẳng thể
tu tập ba thứ tướng. Người chẳng
tu huệ thời chẳng
tu tập phạm hạnh.
Lại người chẳng
tu thân thời chẳng thể
quán thân, quán sắc, và quán
sắc tướng, chẳng
quán thân tướng, chẳng
biết thân số, chẳng
biết thân nầy từ đây đến kia, ở trong chẳng phải thân mà tưởng là thân, ở trong chẳng phải sắc mà tưởng là sắc, do đây nên tham đắm thân và thân số, đây gọi là chẳng
tu thân.
Người chẳng tu giới nếu thọ
hạ giới thời chẳng gọi là tu giới,
thọ trì biên giới, giới gì
tự lợi, giới gì tự
điều phục, chẳng thể làm cho khắp
chúng sanh được an vui, chẳng phải vì
hộ trì chánh pháp vô thượng, vì sanh lên
cõi trời hưởng thọ
ngũ dục, đây chẳng gọi là tu giới.
Người chẳng
tu tâm thời
tâm tán loạn không thể
chuyên nhứt duyên nơi tự cảnh. Tự cảnh chính là
tứ niệm xứ. Cảnh khác là nói
ngũ dục.
Nếu không thể
tu tập tứ niệm xứ thời gọi là chẳng
tu tâm.
Ở trong
nghiệp ác nếu chẳng khéo
giữ gìn tâm niệm thời gọi là chẳng
tu huệ.
Lại người chẳng
tu thân thời không thể
quan sát thấu đáo thân nầy là
vô thường, là
vô trụ, là mỏng manh, là
niệm niệm diệt hoại, là
cảnh giới của ma.
Người chẳng thể tu giới thời không thể đầy đủ
Thi La Ba La Mật. Người chẳng
tu tâm thời không thể đầy đủ
Thiền Na Ba La Mật. Người chẳng
tu huệ thời không thể đầy đủ
Bát Nhã Ba La Mật.
Lại người chẳng
tu thân thời tham đắm thân ta và thân
sở hữu của ta, cho rằng thân ta
thường hằng không có
biến đổi. Người chẳng tu giới thời vì tự thân mà tạo
mười nghiệp ác. Người chẳng
tu tâm thời ở trong nghiệpo ác không thể
nhiếp tâm. Người chẳng
tu huệ do vì không
nhiếp tâm nên không
phân biệt được những
pháp thiện ác.
Lại người chẳng
tu thân thời chẳng dứt
ngã kiến. Người chẳng tu giới thời không dứt được
giới thủ. Người chẳng
tu tâm thời tạo nghiệp tham sân mà phải đọa
địa ngục. Người chẳng
tu huệ thời không dứt được tâm si.
Lại người chẳng
tu thân thời không thể
quán thân, dầu thân không
lỗi lầm nhưng nó luôn là kẻ oán thù.
Ví như có người bị
kẻ thù theo dỏi, nếu người nầy có trí thời
cẩn thận giữ gìn,
nếu không thận trọng ắt bị
kẻ thù làm hại, thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy, thường phải dùng đồ uống món ăn, đồ lạnh đồ ấm để
nuôi dưỡng, nếu chẳng khéo
giữ gìn nuôi dưỡng thời nó sẽ tan rả.
Như
Bà La Môn kính thờ Lửa, họ thường dưng
hương hoa tán thán lễ bái, hạn kỳ phải đủ trăm năm, nếu lúc chạm đến liền đốt cháy tay người. Dầu lửa nầy được
cung kính cúng dường như vậy, nhưng trọn không một niệm
báo ân cho người
phụng sự. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy, dầu trong nhiều năm dùng
hương hoa châu ngọc y phục đồ uống ăn đồ nằm, thuốc men tẩm bổ mà
cung cấp đó, nếu gặp những duyên xấu hoặc trong hoặc ngoài thời liền
hoại diệt, nó trọn chẳng nhớ tưởng đến ơn
cung cấp ngày trước.
Ví như có
Quốc Vương nuôi
bốn con rắn độc trong một cái rương,
giao phó cho một người bảo phải nuôi nấng
săn sóc. Trong bốn con rắn nầy, nếu một con
nổi giận thời có thể giết hại chết người. Người có phận sự
săn sóc rắn luôn luôn lo sợ thường tìm món ăn
thức uống giữ gìn nuôi nấng.
Thân tứ đại của tất cả
chúng sanh cũng như vậy, nếu một đại
nổi giận thời có thể làm cho thân phải hư hoại.
Như người mang bịnh lâu phải nên
hết lòng tìm y sĩ chữa trị, nếu chẳng siêng lo
điều trị ắt phải chết. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy, thường phải
nhứt tâm chẳng nên
buông lung, nếu
buông lung thời
hoại diệt.
Ví như bình đất chưa hầm thời không chịu được gió mưa đập ném dằn đè. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy, chẳng chịu được
đói khát lạnh cóng, gió mưa đánh đập
mắng nhiếc.
Như mụn nhọt chưa muồi phải thường
giữ gìn chớ cho người chạm đến, nếu để đụng chạm thời
đau đớn lắm. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy.
Ví như con la mang thai nghén thời tự hại lấy thân nó. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy, nếu trong thân có phong lãnh thời thân phải bị hại.
Ví như cây chuối trổ buồng thời phải khô chết. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy.
Như cây chuối không có lõi cứng. Thân của tất cả
chúng sanh cũng như vậy.
Như rắn, chuột, chó sói, mỗi con thường sanh lòng oán hại lẫn nhau.
Tứ đại của
chúng sanh cũng như vậy.
Ví như con ngỗng chúa chẳng thích gò mả.
Bồ Tát cũng như vậy, đối với
thân thể cũng chẳng
ưa thích.
Như giòng
Chiên Đà La bảy đời nối nhau chẳng bỏ nghiệp hèn, đo đây nên bị người khinh tiện.
Chủng tử của thân nầy cũng như vậy, tinh huyết hôi tanh
hoàn toàn bất tịnh. Vì
bất tịnh nên chư Phật và
Bồ Tát quở khinh. Thân nầy chẳng phải như núi
Ma La Da mọc cây
Chiên đàn, cũng chẳng thể sanh
hoa Ưu Bát La, hoa Phân Đà Lợi, hoa Chiêm Bà, hoa
Ma Lợi Ca, hoa
Bà Sư Ca.
Chín lỗ của nó thường chảy ra
máu mủ bất tịnh, chỗ nó sanh hôi dơ
xấu xa đáng gớm, nó thường cùng các loài trùng đồng ở một chỗ.
Ví như trong đời dầu có vườn rừng
thanh tịnh xinh đẹp, nhưng trong nhà chứa
tử thi thời là
bất tịnh,
mọi người đều
lìa bỏ chẳng
ưa thích. Cõi sắc cũng như vậy, dầu là
thanh tịnh tốt đẹp, nhưng vì có thân nên bị chư Phật cùng
Bồ Tát lìa bỏ đó.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người chẳng thể
quan sát như vậy thời chẳng thể gọi là
tu thân.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu chẳng thể
quan sát giới luật là thần thang của tất cả pháp lành, cũng là cội gốc của tất cả pháp lành, như mặt đất là chỗ dựa nương của tất cả cây cối, là đạo thủ của các
thiện căn, như
thương chủ dẫn dắt đoàn người buôn. Giới là thắng tràng của tất cả pháp lành như thắng tràng của
Thiên Đế Thích dựng. Giới có thể dứt hẳn tất cả
nghiệp ác và ba
ác đạo, có thể trị lành những bịnh dữ như dược thọ. Giới là
tư lương trên
con đường hiểm
sanh tử. Giới là giáp trượng
đánh dẹp những giặc
phiền não hung ác. Giới là
thần chú hay diệt
rắn độc kiết sử. Giới là cây cầu đi qua khỏi
nghiệp ác. Nếu chẳng thể
quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu giới.
Nếu không thể
quan sát tâm niệm động chuyển lăng xăng, khó nắm lấy khó
điều phục, lung chạy như voi dữ, nệm niệm mau chóng như chớp nháng,
nhảy nhót chẳng dừng
như khỉ vượn,
như huyễn, như dương diệm,
tâm niệm nầy là cội gốc của tất cả điều ác,
ngũ dục khó
vừa lòng như lửa thêm củi, như biển cả nuốt hết các giòng sông, như núi
Mạn Đà cỏ cây quá nhiều, chẳng thể thấy biết
sanh tử hư vọng,
mê lầm say đắm đến nỗi thành bịnh, như cá nuốt lưỡi câu. Thường
đi trước dẫn theo những
tội nghiệp như con
bối mẫu dắt đàn con. Tham đắm
ngũ dục chẳng thích
Niết Bàn, như lạc đà ăn mật nhẫn đến chết chẳng đoái cỏ non. Quá tham đắm sự vui
hiện tại chẳng nhìn đến
lỗi lầm ngày sau, như bò tham ăn lúa mạ chẳng sợ roi gậy. Chạy khắp hai mươi lăm cõi, như giùo mạnh thổi bông nâu la. Chỗ chẳng đáng tìm cầu mà cầu đó không nhàm đủ như người
vô trí cầu lửa không nóng. Thường thích
sanh tử chẳng ưa
giải thoát, như trùng nhiệm bà thích cây nhiệm bà.
Mê lầm tham đắm
sanh tử hôi nhơ, như kẻ ngục tù thích gái
ngục tốt, cũng như heo trong chuồng ưa chỗ
bất tịnh. Nếu có người không thể
quan sát như vậy thời gọi là chẳng
tu tâm.
Người chẳng
tu huệ, chẳng
quan sát trí huệ có
thế lực lớn, như
kim sí điểu có thể hoại
nghiệp ác, như ánh sáng
mặt trời phá tan
tối tăm,
trí huệ có thể nhổ cây
ngũ ấm như nước đẩy trôi đồ vật, đốt cháy
tà kiến như lửa hừng
trí huệ là cội gốc của tất cả pháp lành, là
chủng tử của Phật và
Bồ Tát.
Nếu không thể
quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu
trí huệ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
đệ nhứt nghĩa, nếu thấy thân,
thân tướng, thân nhơn, thân quả, nhiều thân, thân một, thân hai, thân đây, thân kia, thân diệt,
thân bình đẳng, thân tu, người tu, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng
tu thân.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu thấy giới,
giới tướng, giới nhơn, giới quả, giới thượng, giới hạ, giới tụ, giới một, giới hai, giới đây, giới kia, giới diệt, giới
bình đẳng, giới tu, người tu,
giới Ba La Mật, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu giới.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu thấy tâm,
tâm tướng, tâm nhơn, tâm quả, tâm tu,
tâm vương,
tâm sở, tâm một, tâm hai, tâm đây, tâm kia,
tâm diệt,
tâm bình đẳng, tâm tu, người tu, tâm thượng trung hạ, tâm thiện, tâm ác, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng
tu tâm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu thấy huệ, huệ tướng, huệ nhơn,
huệ quả, huệ tu, huệ một, huệ hai, huệ đây, huệ kia, huệ diệt, huệ
bình đẳng, huệ thượng trung hạ, huệ lợi, huệ độn, huệ tu, người tu, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng
tu huệ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu chẳng
tu thân giới
tâm huệ, những người như vậy ở nơi
nghiệp ác nhỏ mà mắc phải
quả báo lớn. Do vì
khủng bố nên thường nghĩ rằng : Tôi thuộc người
địa ngục làm hạnh
địa ngục. Dầu nghe người trí nói khổ,
địa ngục, thường nghĩ rằng như sắt đập sắt, như đá
trở lại đập đá, như gỗ tự đập gỗ, như
vi trùng lửa thích lửa, thân
địa ngục trở lại giống
địa ngục, nếu giống
địa ngục thời có gì là khổ.
Ví như con lằn xanh bị dính nơi nước miếng chẳng thể bay được, người nầy cũng vậy ở trong tội nhỏ không thể
thoát khỏi, trọn không lòng
ăn năn, chẳng thể
tu pháp lành, che giấu
tội lỗi, dầu có tất cả
nghiệp lành thuở
quá khứ, nhưng đều bị tội nầy làm cấu nhơ, người nầy có báo nhẹ
đáng lẽ hiện đời thọ lấy mà
trở lại thành quả báo rất nặng nơi
địa ngục.
Như trong chậu nước nhỏ để vào một thăng muối, nước đó mặn, chát khó uống được,
tội nghiệp của người nầy cũng như vậy.
Ví như có người
mắc nợ một tiền chẳng trả được nên thân bị
trói buộc chịu nhiều sự khổ,
tội nghiệp của người nầy cũng như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! Cớ gì người nầy làm cho
quả báo nhẹ hiện đời
trở thành quả địa ngục ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh nếu đủ năm việc thời làm cho
quả báo nhẹ hiện đời
trở thành quả địa ngục : Một là vì
ngu si, hai là vì căn lành kém ít, ba là vì
ác nghiệp sâu nặng, bốn là vì chẳng
sám hối, năm là vì chẳng tu
nghiệp lành hiện đang
tu tập.
Lại có năm việc : Một là vì
tu tập nghiệp ác, hai là vì
không giới đức, ba là vì
xa lìa căn lành, bốn là vì chẳng
tu thân giới
tâm huệ, năm là vì gần gũi bạn ác.
Nầy
Thiện nam Tử ! Do vì đủ những việc trên đây, nên
chúng sanh làm cho
quả báo nhẹ hiện đời
thành quả báo
địa ngục.
_ Bạch
Thế Tôn ! Những người nào có thể chuyển báo
địa ngục thành quả báo nhẹ hiện đời ?
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có người
tu tập thân giới tâm huệ như đã nói ở trên, có thể thấy các pháp đồng với
hư không, chẳng thấy
trí huệ cũng như chẳng thấy người trí, chẳng thấy
ngu si cũng như chẳng thấy kẻ ngu, chẳng thấy
tu tập và người
tu tập, đây gọi là người trí. Người nầy có thể
tu tập thân giới tâm huệ. Người nầy có thể làm cho báo
địa ngục trở thành quả nhẹ hiện đời :
Giả sử người nầy gây tạo
ác nghiệp rất nặng, nhờ
tư duy quan sát có thể làm cho
nghiệp nặng thành nhẹ. Người nầy nghĩ rằng : Nghiệp của ta dầu nặng nhưng chẳng bằng
nghiệp lành. Như bông vải dầu nhiều nặng cả trăm cân, nhưng chẳng thể
sánh bằng một lượng vàng ròng. Như đem một thăng muối ném vào trong
sông hằng, nước sông không vị mặn người uống chẳng biết. Như người giàu to dầu thiếu người ngàn muôn
vật báu cũng không ai bắt bớ làm khổ được. Như
đại hương tượng có thể bức dây
xích sắt mà đi
tự tại. Người
trí huệ cũng như vậy, thường
suy nghĩ rằng
công đức lành của tôi nhiều,
nghiệp ác yếu kém, tôi có thể
phát lồ sám hối trừ hết
tội ác, tôi có thể
tu tập trí huệ làm cho sức
trí huệ nhiều, sức
vô minh ít.
Nghĩ như vậy rồi, gần gũi bạn lành
tu tập chánh kiến,
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh. Sanh lòng
cung kính đối với những người trì tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, và đem những
y phục, đồ uống ăn, phòng nhà , giường nệm, thuốc men, hoa hương mà
cúng dường, thường
tôn trọng tán thán, đi đến đâu cũng đều khen ngợi
hạnh lành của người đó, chẳng nói đến việc kém dở của người đó. Thường
cúng dường Tam bảo kính tin pháp
Đại Thừa kinh Đại Niết Bàn. Tin
đức Như Lai thường hằng không có
biến đổi. Tin tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Người nầy có thể làm cho báo nặng
địa ngục trở thành quả nhẹ hiện đời.ï
Nầy
Thiện Nam Tử ! Do những nghĩa trên đây nên chẳng phải tất cả nghiệp đều
quyết định có quả, cũng chẳng phải tất cả
chúng sanh đều
quyết định thọ báo.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu tất cả nghiệp chẳng
quyết định có quả, tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, lẽ ra phải
tu tập tám thánh đạo, cớ gì tất cả
chúng sanh đều chẳng được
Đại Niết Bàn nầy ?
Bạch
Thế Tôn ! Nếu tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh thời sẽ
quyết định được
vô thượng Bồ Đề, cần gì phải
tu tập tám thánh đạo?
Bạch
Thế Tôn ! Như trong kinh nầy nói người có bịnh nếu gặp đặng thuốc hay và người khám bịnh
tùy theo bịnh mà cho
ăn uống, hoặc chẳng được như vậy tất cả cũng đều được
lành mạnh. Tất cả
chúng sanh cũng như vậy, nếu gặp
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, Chư Phật ,
Bồ Tát những bực
thiện tri thức, nghe
chánh pháp,
tu tập thánh đạo hoặc chẳng được gặp được nghe, được
tu tập, cũng đều sẽ được thành
vô thượng Bồ Đề. Tại sao vậy ? Vì do
Phật tánh vậy .
Bạch
Thế Tôn !
Ví như không ai có thể ngăn
mặt trời,
mặt trăng đi vòng khắp bốn châu
thiên hạ, tất cả
chúng sanh cũng như vậy, không ai có thể ngăn trở làm cho có thể được đến
vô thượng Bồ Đề. Tại sao vậy ? Vì do
Phật tánh vậy.
Bạch
Thế Tôn !
Cứ theo nghĩa nầy thời tất cả
chúng sanh chẳng
cần tu hành, do
năng lực của
Phật tánh đều đáng được
vô thượng Bồ Đề.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội trọng
năm tội nghịch chẳng được
vô thượng Bồ Đề lẽ ra
cần phải tu tập, vì do
Phật tánh quyết định sẽ được, chẳng phải do
tu tập rồi sau mới được.
Bạch
Thế Tôn !
Ví như đá nam châm dầu cách xa sắt, nhưng do sức của nó mà sắt bị hút dính.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, nên chẳng cần siêng năng
tu tập thánh đạo.
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện Nam Tử ! Như bên
sông Hằng có bảy hạng người hoặc vì tắm rửa, hoặc vì sợ giặc cướp, hoặc vì hái hoa mà vào trong sông :
Người thứ nhứt vào nước thời chìm, vì
yếu đuối lại chẳng biết lội.
Người thứ hai dầu bị chìm lại nổi lên nổi rồi lại chìm, vì người nầy có
sức mạnh nên có thể nổi lên, vì chẳng biết lội nên lại chìm.
Người thứ ba chìm rồi liền nổi lên, nổi lên chẳng chìm nữa, vì người nầy thân nặng nên chìm, do
sức mạnh nên nổi lên, vì biết lội nên không bị chìm nữa.
Người thứ tư vào nước bèn chìm, chìm rồi lại nổi lên, nổi lên rồi bèn chẳng chìm nữa mà ngó khắp bốn phương, vì người nầy thân nặng nên chìm,
sức mạnh lại nổi lên, biết lội nên không chìm nữa, chẳng biết lên phía nào nên ngó khắp bốn phương.
Người thứ năm vào nước liền chìm, lại nổi lên rồi không chìm nữa, nhìn ngó
phương hướng mà lội đi, vì có lòng sợ sệt.
Người thứ sáu vào nước liền lội đi, đến chỗ cạn thời đứng lại, vì để xem giặc cướp gần hay xa.
Người thứ bảy đã qua đến bờ kia leo lên núi lớn không còn sợ sệt,
thoát khỏi giặc cướp lòng rất
vui sướng .”
Nầy
Thiện Nam Tử ! Sông lớn
sanh tử cũng như vậy, có bảy hạng người vì sợ giặc
phiền não mà muốn lội qua sông
sanh tử, nên
xuất gia cạo tóc thân mặc
pháp phục. Đã
xuất gia rồi gần gũi bạn ác nghe theo lời của họ mà
lãnh thọ tà pháp. Họ bảo rằng thân
chúng sanh tức là
năm ấm,
năm ấm gọi là năm đại,
chúng sanh nếu chết thời năm đại dứt hẳn, đã dứt hẳn cần gì
tu tập những hạnh
nghiệp lành dữ, do đây nên biết rằng không có
lành dữ cũng
như không có
quả báo lành dữ. Hạng ngừoi nầy gọi là Nhứt
Xiển Đề, gọi là dứt căn lành, vì căn lành đã dứt nên chìm trong sông
sanh tử không thể ra được, vì
nghiệp ác của họ quá nặng, vì họ không có
đức tin, như người thứ nhứt bên
bờ sông Hằng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nhứt
Xiển Đề có sáu
nhơn duyên phải chìm trong
ba đường ác không thể thoát được : Một là vì tâm ác quá thạnh, hai là vì chẳng thấy
đời sau, ba là vì ưa
huân tập phiền não, bốn là vì
xa lìa căn lành, năm là vì
nghiệp ác ngăn cách, sáu là vì gần gũi bạn ác. Lại có năm điều khiến họ chìm trong
ba đường ác : Một là làm việc
phi pháp đối với các
Tỳ Kheo, hai là làm việc
phi pháp đối với các
Tỳ Kheo Ni, ba là
tự do dùng của vật của
chúng Tăng, bốn là làm việc
phi pháp với mẹ, năm là sanh sự
thị phi đối với
năm bộ tăng. Lại có năm điều làm cho họ chìm trong
ba đường ác : Một là nói
không quả báo
thiện ác, hai là giết
chúng sanh phá Bồ Đề tâm, ba là ưa nói
lỗi lầm của
pháp sư, bốn là
chánh pháp nói là
phi pháp, còn
phi pháp nói là
chánh pháp, năm là vì tìm lỗi của
chánh pháp mà đến nghe học. Lại có ba điều làm cho họ chìm trong
ba đường ác : Một là nói
Đức Như Lai vô thường nhập diệt vĩnh viễn, hai là nói
chánh pháp vô thường dời đổi, ba là nói
chúng tăng thiệt có thể
hoại diệt.
Người thứ hai muốn qua khỏi sông lớn
sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm không thoát được. Nói rằng
thoát khỏi tức là gần gũi bạn lành thời được
tín tâm, chính lá tin
bố thí và quả
bố thí, tin
nghiệp lành và quả lành, tin
nghiệp ác và quả ác, tin
sanh tử là khổ, là
vô thường hư hoại. Do được
tín tâm nên
tu tập tịnh giới, trì tụng, biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, thường thích
bố thí, khéo tu
trí huệ. Vì
độn căn nên lại gặp bạn ác, do đây nên không thể
tu tập thân giới tâm huệ,
trở lại thọ lấy
tà pháp, hoặc gặp
thời kỳ ác ở nơi cõi nước ác, nên dứt mất những căn lành mà phải chìm luôn trong
sanh tử, như người thứ hai bên
sông Hằng.
Người thứ ba muốn qua khỏi sông
sanh tử, vì dứt mất căn lành nên
chìm đắm ở trong sông. Người nầy gần gũi bạn lành nên được nổi lâu, tin
Đức Như lai là bực
nhứt thiết trí thường hằng không
biến đổi, vì
chúng sanh mà nói đạo
vô thượng, tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh,
Như lai chẳng phải
diệt độ, Pháp và Tăng cũng không
hoại diệt. Nhứt
Xiển Đề nếu chẳng dứt
ác pháp của họ thời trọn không thể được
vô thượng Bồ Đề. Phải biết rằng
cần phải xa lìa rồi sau mới đặng. Do
tín tâm nên tu
tịnh giới, tu
tịnh giới rồi
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, vì
chúng sanh mà rộng
tuyên dương lưu bố, ưa
bố thí,
tu tập trí huệ, do căn trí
lanh lợi nên trụ vững nơi
tín huệ không thối chuyển, như người thứ ba bên
sông Hằng.
Người thứ tư muốn qua khỏi sông
sanh tử, vì dứt căn ành nên chìm trong sông, vì gần gũi bạn lành nên được
tín tâm đây gọi là nổi lên. Vì được
tín tâm nên được
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì
chúng sanh mà rộng
tuyên dương lưu bố, ưa
bố thí,
tu tập trí huệ, do
lợi căn nên đứng vững nơi
tín huệ tâm không thối chuyển,
quán sát khắp bốn phương,
quán sát bốn phương đây là nói bốn quả
Sa Môn, như người thứ tư bên
sông Hằng.
Người thứ năm muốn lội qua sông
sanh tử, vì dứt mất căn lành nên phải chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành nên được
tín tâm đây gọi là nổi lên, do
tín tâm nên
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì
chúng sanh mà rộng
tuyên dương lưu bố, ưa
bố thí,
tu tập trí huệ vì
lợi căn nên đứng vững nơi
tín huệ không thối chuyển,
không thối chuyển rồi bèn thẳng đến trước, thẳng đến trước, đây là nói quả
Bích Chi Phật, dầu có thể tự độ nhưng chẳng độ đến
chúng sanh, đây gọi là đi, như người thứ năm bên
sông Hằng.
Người thứ sáu muốn qua khỏi sông
sanh tử, vì mất
thiện căn nên chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành mà được
tín tâm, đây gọi là nổi lên, do
tín tâm nên
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì
chúng sanh mà rộng
tuyên dương lưu bố, ưa
bố thí,
tu tập trí huệ cho
lợi căn nên đứng vững nơi
tín huệ không thối chuyển, rồi bèn thẳng đến trước gặp chỗ cạn đứng lại chẳng đi nữa. Đứng lại chẳng đi là nói
Bồ Tát vì muốn độ
chúng sanh nên trụ lại
quán sát phiền não, như người thứ sáu bên
sông Hằng.
Người thứ bảy muốn
thoát khỏi sông
sanh tử vì mất căn lành nên chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành mà được
tín tâm đây gọi là nổi lên, do
tín tâm nên
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì
chúng sanh mà rộng
tuyên dương lưu bố, ưa
bố thí ,
tu tập trí huệ, do
lợi căn nên đứng vững nơi
tín huệ không thối chuyển, liền thẳng đến bờ kia, leo lên núi cao, lìa khỏi những sự
khủng bố, hưởng nhiều sự an vui.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Núi cao bên bờ kia dụ cho
đức Như Lai, hưởng sự an vui dụ cho Phật
thường trụ, núi cao lớn dụ cho
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Những người ở bên
bờ sông Hằng kia đều có đủ tay chân mà không thể qua được. Tất cả
chúng sanh cũng như vậy, thiệt có Phật, Pháp, Tăng,
Tam Bảo,
đức Như Lai thường nói
pháp yếu, có
tám thánh đạo, có
Đại Niết Bàn, mà
chúng sanh đều chẳng thể được, đây chẳng phải lỗi của
Như Lai cũng chẳng phải lỗi của
thánh đạo và
chúng sanh, nên biết rằng đều là lỗi ác của
phiền não, do đây nên tất cả
chúng sanh chẳng được
Đại Niết Bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
lương y biết rõ bịnh nói phương thuốc, người bịnh chẳng chịu uống, đây chẳng phải là lỗi của
Lương Y.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có
thí chủ đem
tiền của bố thí cho
mọi người, có người chẳng chịu nhận lấy, đây chẳng phải là lỗi của
thí chủ.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
mặt trời mọc lên những
chỗ tối tăm đều tỏ sáng, mà người
mù lòa kia chẳng thấy đường sá, đây chẳng phải là lỗi của
mặt trời.
Nầy ThiệnNam Tử ! Như
nước sông Hằng có thể
giải trừ sự khát nước, có kẻ khát nước chẳng chịu uống, đây chẳng phải là lỗi của nước.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như mặt đất
bình đẳng nuôi sống tất cả cây cỏ, có nông phu kia chẳng chịu gieo trồng, đây chẳng phải là lỗi của mặt đất.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai khắp vì tất cả
chúng sanh mà rộng mở bày
phân biệt mười hai bộ kinh,
chúng sanh chẳng chịu tin thọ, đây chẳng phải là lỗi của
Như Lai.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu người
tu tập thánh đạo thời được
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam Tử ! Vừa rồi ông nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh đáng được
vô thượng Bồ Đề , như đá nam châm hút sắt.
Lành thay !
Lành thay ! Do có
năng lực nhơn duyên của
Phật tánh nên
chúng sanh được
vô thượng Bồ Đề.
Nhưng nếu nói rằng chẳng
cần tu tập
thánh đạo thời không đúng.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có người đi trong đồng
hoang vắng khát nước gặp giếng, giếng nầy sâu thẳm tối đen, người nầy dầu chẳng thấy nước nhưng biết rằng chắc có nước, người nầy tìm dây gầu múc lên thời thấy nước.
Phật tánh cũng vậy, tất cả
chúng sanh mặc dầu đều có, nhưng
cần phải tu tập vô lậu thánh đạo rồi sau mới đặng thấy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như người có hột mè thời tất được thấy dầu, nhưng rời bỏ
phương tiện thời chẳng thấy được. Nơi mía thấy đường cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như cung
trời Đao Lợi và Bắc Cu Lô Châu dầu là có, nhưng
nếu không nghiệp lành, hoặc
thần thông, hoặc
đạo lực, thời chẳng thấy được.
Như rễ cỏ trong đất, như mạch nước
dưới đất, vì đất che nên
chúng sanh chẳng thấy.
Phật tánh cũng vậy, vì chẳng
tu tập thánh đạo nên chẳng thấy được.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như vừa rồi ông nói
trong đời có người bịnh nếu gặp được
lương y, thuốc hay, người khám bịnh giỏi,
ăn uống phải cách, hoặc chẳng gặp, đều được
lành mạnh.
Nầy
Thiện Nam Tử 1 Đó là ta vì bực
lục trụ Bồ Tát mà nói nghĩa ấy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
hư không đối với
chúng sanh, nó chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, vì không phải trong ngoài nên cũng không trở ngại.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như có người để
tài sản ở xứ khác, dầu
của cải không
hiện có, nhưng người nầy vẫn được
tùy ý thọ dụng. Có người hỏi đến
tiền của, người nầy đáp rằng tôi hứa cho. Tại sao vậy ? Vì người nầy
quyết định có của.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, chẳng phải đây chẳng phải kia, vì
quyết định được nên ta nói tất cả
chúng sanh đều có.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
chúng sanh gây tạo các nghiệp, hoặc
nghiệp lành, hoặc
nghiệp ác, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nghiệp tánh nầy chẳng phải có chẳng phải không, lại cũng chẳng phải là trước không mà nay có, cũng chẳng phải không nhơn mà có ra, chẳng phải đây làm rồi đây thọ, chẳng phải đây làm mà kia thọ, chẳng phải kia làm mà kia thọ, nghiệp tánh nầy không
tác giả không
thọ giả, lúc
thời tiết hòa hiệp thời có
quả báo.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, chẳng phải là trước không mà nay có, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải đây chẳng phải kia, chẳng phải chỗ khác đến, chẳng phải không
nhơn duyên, cũng chẳng phải là tất cả
chúng sanh chẳng thấy, có những
Bồ Tát lúc
thời tiết nhơn duyên hòa hiệp mà được thấy.
Thời tiết đây là nói bực
Thập Trụ Bồ Tát tu
tám thánh đạo được
tâm bình đẳng đối với
chúng sanh, lúc bấy giờ được thấy
Phật tánh, chẳng gọi là tạo tác.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Ông nói rằng như đá nam châm hút sắt, cứ nơi nghĩa thời chẳng đúng. Tại sao vậy ? Vì đá ấy chẳng hút sắt, bởi đá ấy
không tâm nghiệp. Nầy
Thiện Nam Tử ! Do pháp kia có nên pháp nầy sanh ra, do pháp kia không nên pháp nầy diệt hoại không có
tác giả cũng không có hoại giả.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như ngọn lửa mạnh chẳng thể đốt cháy củi, lửa ra củi hư gọi đó là cháy củi.
Như bông quì xoay theo
mặt trời,
dầu vậy nhưng bông quì nầy không có tâm
cung kính, không thức cũng không nghiệp, vì tánh chất riêng của nó mà tự xoay chuyển.
Như cây chuối nhơn
tiếng sấm mà được
tăng trưởng, cây nầy không lỗ tai, không có
tâm ý thức, do vì có pháp kia nên pháp nầy
tăng trưởng, vì
không pháp kia nên pháp nầy hư hoại.
Như cây
a thúc ca, người nữ rờ đụng đến thời cây nầy
trổ bông, cây nầy
không tâm ý, cũng không
giác xúc, do vì có pháp kia nên pháp nầy sanh ra, vì
không pháp kia nên pháp nầy hư hoại.
Như cây quít được
tử thi thời trái thêm nhiều, cây quít nầy
không tâm ý cũng không
giác xúc, vì có pháp kia nên pháp nầy thêm nhiều, vì
không pháp kia nên pháp nầy hư hoại.
Như cây an
thạch lựu do phân gạch xương thời trái thêm nhiều, cây an
thạch lựu nầy cũng
không tâm ý không
giác xúc, vì có pháp khác nên pháp nầy thêm nhiều, vì pháp khác không nên pháp nầy hư hoại.
Như đá nam châm hút sắt cũng như vậy, do pháp nầy có nên pháp kia sanh, vì pháp nầy không nên pháp kia hư hoại.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, chẳng thể đến được
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Vô minh chẳng thể hút lấy
hành nghiệp, hành cũng chẳng thể hút lấy thức,
dầu vậy nhưng cũng gọi là
vô minh duyên hành,
hành duyên thức.
Hoặc có Phật hay không Phật,
pháp giới vẫn
thường trụ. Nếu nói rằng
Phật tánh ở trong
chúng sanh, nên biết rằng
pháp thường hằng thời
vô trụ, nếu có chỗ ở thời là
vô thường. Như mười hai
nhơn duyên không chỗ ở nhứt định, nếu có chỗ ở thời mười hai
nhơn duyên chẳng được gọi là thường.
Pháp thân của
Như lai cũng không chỗ ở.
Pháp giới,
pháp nhập, pháp ấm,
hư không đều không chỗ ở.
Phật tánh cũng không chỗ ở như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như
tứ đại dầu
thế lực đồng nhau, nhưng có cứng, có nóng, có ướt, có động, có nặng, có nhẹ, có đỏ, có trắng, có vàng, có đen, mà
tứ đại nầy cũng không có nghiệp, vì
pháp giới khác nên đều chẳng giống nhau.
Phật tánh cũng như vậy vì
pháp giới khác đến
thời kỳ thời hiện.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Vì tất cả
chúng sanh chẳng thối mất
Phật tánh nên gọi là có, vì
bất thối chuyển, vì sẽ có, vì
quyết định được, vì quyết địnhh sẽ thấy, nên gọi là tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Ví như có
Quốc Vương bảo một đại thần dắt một con voi đem chỉ cho người mù. Đại thần được lịnh
Quốc Vương liền họp bọn người mù đến bên con voi. Lúc đó bọn người mù đều lấy tay
rờ voi. Đại thần
trở về tâu với
Quốc Vương đã đem voi chỉ cho bọn người mù rồi.
Quốc Vương liền kêu bọn người mù đến hỏi riêng từng người. Con voi hình dạng như thế nào ? Trong bọn người mù kia, kẻ rờ ngà bèn nói voi hình như củ cải ; kẻ rờ tai nói rằng voi giống như cái ki ; kẻ rờ đầu nói rằng voi giống như khối đá, kẻ rờ vòi nói rằng voi giống như cái chày ; kẻ rờ chân nói rằng voi giống như cái cối gỗ ; kẻ rờ lưng nói rằng voi như cái giường ; kẻ rờ bụng nói rằng voi như cái lu ; kẻ rờ đuôi nói voi như sợi dây.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Bọn người mù kia chẳng nói trúng
thân hình của voi, nhưng cũng chẳng phải là chẳng nói, các
hình tướng đó đều chẳng phải hình voi, nhưng rời ngoài những hình nầy lại không có voi.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Quốc Vương là dụ cho
Như Lai đấng
chánh biến tri vậy. Đại thần dụ cho
kinh Đại Thừa Đại Niết bàn. Voi dụ cho
Phật tánh. Bọn mù dụ cho tất cả
chúng sanh vô minh.
Những
chúng sanh nầy cho rằng Phật đã nói xong, hoặc có kẻ nói sắc là
Phật tánh, vì sắc nầy dầu diệt, nhưng
tuần tự nối luôn do đây được
ba mươi hai tướng tốt vô thượng của
Như Lai,
sắc tướng Như Lai là thường, vì
sắc tướng Như Lai thường hằng chẳng dứt, do đây nên nói sắc là
Phật tánh, như vàng thật, chất vàng dầu thay đổi nhưng màu sắc vẫn thường chẳng đổi khác, hoặc làm vòng, làm roi, làm mâm, màu vàng vẫn không đổi khác.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, tánh chất dầu
vô thường mà sắc là thường, do đây nên nói sắc là
Phật tánh.
Hoặc có kẻ nói thọ là
Phật tánh, vì do thọ mà được chơn lạc của
Như Lai, thọ của
Như Lai là thọ
rốt ráo, là thọ
đệ nhứt nghĩa. Tánh thọ của
chúng sanh dầu là
vô thường nhưng nó
tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được
lạc thọ chơn thường của
Như Lai. Như người họ
Kiều Thi Ca thân người dầu
vô thường mà họ vẫn thường, trãi qua ngàn muôn đời không đổi khác.
Phật tánh chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói
thọ ấm là
Phật tánh.
Lại có kẻ nói
tưởng ấm là
Phật tánh, vì do tưởng mà được chơn thật tưởng của
Như Lai. Tưởng của
Như Lai gọi là tưởng mà
không tưởng chẳng phải tưởng của
chúng sanh, chẳng phải tưởng của nam của nữ, chẳng phải tưởng trong sắc
thọ tưởng hành thức, chẳng phải
tâm tưởng dứt tưởng như tưởng của
chúng sanh. Dầu tưởng nầy
vô thường nhưng
do tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được tưởng
thường hằng của
Như Lai. Như mười hai
nhơn duyên của
chúng sanh, dầu
chúng sanh diệt mất mà
nhơn duyên vẫn rthường.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, do đây nên nói tưởng là
Phật tánh.
Lại có kẻ
nói hành ấm là
Phật tánh, vì hành gọi là
thọ mạng.
Thọ mạng làm
nhơn duyên nên được
thọ mạng thường trụ của
Như Lai.
Thọ mạng của
chúng sanh dầu là
vô thường, nhưng vì
tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được
thọ mạng chơn thường của
Như Lai. Như mười
bộ kinh, người nói người nghe dầu là
vô thường, nhưng
kinh điển nầy thường còn chẳng
biến đổi.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên
nói hành là
Phật tánh.
Lại có kẻ nói
thức ấm là
Phật tánh. Do thức làm
nhơn duyên mà được
tâm bình đẳng của
Như Lai.
Ý thức của
chúng sanh dầu là
vô thường, nhưng thức
tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được tâm chơn thường của
Như Lai. Như lửa tánh nóng dầu ngọn lửa
vô thường, nhưng tánh nóng chẳng phải
vô thường.
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói thức là
Phật tánh.
Lại có kẻ nói rời
năm ấm có ngã, ngã nầy là
Phật tánh, vì ngã làm
nhơn duyên mà được ngã
tự tại của
Như Lai. Có các nhà
ngoại đạo nói rằng : Đứng đi thấy nghe buồn vui nói năng chính đó là ngã,
ngã tướng ấy dầu
vô thường nhưng ngã của
Như Lai chơn thiệt
thường trụ. Như ấm nhập giới dầu là
vô thường nhưng vẫn gọi là thường.
Phật tánh của
chúng sanh cũng vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử !Như bọn mù kia mỗi người tự nói
hình tướng của voi, dầu chẳng được đúng, nhưng chẳng phải là chẳng nói tướng của voi.
Những người nói
Phật tánh cũng như vậy,
Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp, nhưng cũng chẳng ly sáu pháp. Vì thế nên ta nói
Phật tánh của
chúng sanh chẳng phải sắc chẳng phải ly sắc, nhẫn đến chẳng phải ngã, chẳng phải ly ngã.
Có các nhà
ngoại đạo dầu nói có ngã, nhưng thiệt ra không có ngã. Ngã của
chúng sanh chính là
ngũ ấm, rời ngoài
ngũ ấm không có ngã riêng biệt.
Ví như cọng, cánh, tua, gương hiệp lại làm
hoa sen, lìa ngoài những thứ nầy thời không có
hoa sen riêng biệt. Ngã của
chúng sanh cũng như vậy.
Như tường, vách, gỗ, tranh hoà hiệp gọi đó là nhà, lìa ngoài những thứ nầy thời không có nhà riêng biệt.
Như cây
Khư đà la, cây
Ba la xa, cây
Ni câu đà, cây Uất đàm bát hiệp lại thành rừng, rời ngoài những thứ nầy thời không có rừng riêng biệt.
Như chiến xa, voi, ngựa, bộ binh hiệp lại thành quân đội, rời ngoài những thứ nầy thời không có quân đội riêng biệt.
Như những chỉ năm màu hiệp lại dệt thành vải
ngũ sắc, rời ngoài những chỉ nầy thời không có vải
ngũ sắc riêng biệt.
Như bốn họ hiệp lại gọi là
đại chúng, rời ngoài những người nầy thời không có
đại chúng riêng biệt.
Ngã của
chúng sanh cũng như vậy, rời ngoài
năm ấm thời không có ngã riêng biệt.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Như Lai thường trụ thời gọi là ngã.
Pháp thân của
Như Lai là
vô biên vô ngại, là chẳng sanh chẳng diệt, được đủ tám
tự tại nên gọi là ngã.
Thiệt ra
chúng sanh không có ngã như vậy, chỉ vì
quyết định sẽ được
rốt ráo đệ nhứt nghĩa không, nên gọi là
Phật tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại từ đại bi gọi là
Phật tánh, vì
đại từ đại bi thường
theo dõi Bồ Tát như bóng theo hình.Tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được
đại từ đại bi, do đây nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Đại từ đại bi gọi là
Phật tánh,
Phật tánh gọi là
Như Lai.
Đại hỷ đại xả gọi là
Phật tánh, vì
Đại Bồ Tát nếu chẳng xả được hai mươi lăm cõi, thời không thể được
vô thượng Bồ Đề. Bởi
chúng sanh quyết định sẽ được, do đây nên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Đại hỷ đại xả chính là
Phật tánh,
Phật tánh chính là
Như Lai.
Phật tánh gọi là
đại tín tâm. Vì do
tín tâm mà
đại Bồ Tát được đầy đủ
Đàn Ba La Mật nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật. Tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được
đại tín tâm, do đây nên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Đại tín tâm chính là
Phật tánh,
Phật tánh chính là
Như Lai.
Phật tánh gọi là nhứt tử địa. Vì do nhứt tử địa nên
Bồ Tát được
tâm bình đẳng đối với tất cả
chúng sanh. Tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được nhứt tử địa, do đây nên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Nhứt tử địa chính là
Phật tánh,
Phật tánh chính là
Như Lai.
Phật tánh gọi là
trí lực thứ tư. Vì do
trí lực thứ tư, nên
Bồ Tát có thể
giáo hóa chúng sanh. Tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được
trí lực thứ tư, do đây nên nói tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Trí lực thứ tư chính là
Phật tánh,
Phật tánh chính là
như Lai.
Phật tánh gọi là mười hai
nhơn duyên. Vì do
nhơn duyên nên
đức Như Lai được
thường trụ. Tất cả
chúng sanh quyết định có mười hai
nhơn duyên như vậy, do đây nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Mười hai
nhơn duyên chính là
Phật tánh,
Phật tánh chính là
Như Lai.
Phật tánh gọi là bốn trí
vô ngại. Do bốn trí
vô ngại nên
giảng thuyết chữ nghĩa vô ngại. Do
chữ nghĩa vô ngại nên có thể
giáo hóa chúng sanh. Bốn trí
vô ngại chính là
Phật tánh,
Phật tánh chính là
Như Lai.
Phật tánh gọi là đảnh
tam muội.Vì do tu đảnh
tam muội nầy nên có thể tổng nhiếp tất cả
Phật pháp, do đây nên nói đảnh
tam muội gọi là
Phật tánh.
Thập Trụ Bồ Tát tu
tam muội nầy chưa được đầy đủ, nên dầu thấy
Phật tánh mà chẳng
rõ ràng. Vì tất cả
chúng sanh quyết định được, nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như các thứ pháp đã nói ở trên, vì tất cả
chúng sanh quyết định sẽ được, nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu ta nói sắc là
Phật tánh,
chúng sanh nghe lời nầy tất sanh
tà kiến điên đảo, do
tà kiến điên đảo tất sẽ phải đọa
A Tỳ địa ngục.
Đức Như Lai thuyết pháp để dứt
địa ngục nên chẳng nói sắc là Phật tángh, nhẫn đến chẳng nói thức là
Phật tánh cũng như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu
chúng sanh thấy rõ
Phật tánh thời chẳng
cần tu tập
thánh đạo.
Thập Trụ Bồ Tát tu
tám thánh đạo còn thấy
Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư !
Nầy
Thiện Nam Tử ! Các vị
Đại Bồ Tát như
Văn Thù Sư Lợi tu tập thánh đạo đã
trải qua vô lượng đời nên thấy rõ
Phật tánh. Hàng
Thanh Văn Duyên Giác làm thế nào biết
Phật tánh được !
Nếu
chúng sanh muốn biết rõ
Phật tánh, thời phải
nhứt tâm thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết cúng dường cung kính tôn trọng tán thán kinh Đại Niết Bàn nầy. Thấy người nào trì tụng nhẫn đến
tán thán kinh Đại Niết Bàn nầy thời phải đem bốn thứ
cúng dường thật tốt mà
cung cấp cho người ấy, cùng
tán thán lễ bái hỏi thăm.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có người nào đã
trải qua vô lượng vô biên đời gần gũi
cúng dường vô lượng chư Phật trồng sâu các căn lành, rồi sau mới đặng nghe tên của kinh nầy.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Phật tánh chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng,
Tam Bảo cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, nhưng chẳng biết được
dầu vậy mà cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Như Lai thường lạc ngã tịnh cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Tất cả
chúng sanh nếu ai tin được
kinh Đại Niết bàn nầy, kẻ ấy chẳng thể nghĩ bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch
Thế Tôn ! Như lời
đức Phật nói tất cả
chúng sanh có thể tin
kinh Đại Niết Bàn chẳng thể nghĩ bàn như đây. Bạch
Thế Tôn ! Trong
đại chúng nầy có tám muôn năm ngàn ức người không có
lòng tin đối với kinh nầy, do đây nên người nào tin kinh nầy thời gọi người đó chẳng thể nghĩ bàn.
_ Nầy
Thiện Nam Tử ! Số người trên đây đến đời
vị lai cũng sẽ
quyết định tin được
kinh điển nầy, được thấy
Phật tánh và được
vô thượng Bồ Đề.
_ Bạch
Thế Tôn ! Thế nào
Bất Thối Bồ Tát tự biết
quyết định có tâm
bất thối.
_ Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát sẽ dùng
khổ hạnh để thí nghiệm lấy tâm của mình : Mỗi ngày ăn một hột mè trọn bảy ngày ; gạo trằng, đậu xanh đậu trắng v.v… mỗi thứ bảy ngày, mỗi ngày một hột cũng như vậy.
Lúc ăn một hột mè,
Bồ Tát nghĩ rằng :
Khổ hạnh như vậy đều không
lợi ích, việc không
lợi ích còn làm được huống việc
lợi ích mà lại không làm.
Đối với việc không
lợi ích, trong lòng có thể nhẫn được sự khổ chẳng thối chẳng chuyển, do đây nên quyết đặng
vô thượng Bồ Đề.
Trong những ngày
tu khổ hạnh như vậy,
da thịt ốm khô lần lần, như cắt trái bầu tươi phơi trong nắng. Mắt của
Bồ Tát thụt sâu vào như đáy giếng. Hết thịt lòi gân như nhà tranh hư mục, xương sống lộ lên như dây thừng, chỗ
Bồ Tát ngồi như
dấu chân ngựa. Muốn ngồi thời mọp xuống, muốn đứng thời ngã nghiêng. Dầu chịu lấy sự khổ, không
lợi ích như vậy, nhưng chẳng
thối chuyển tâm
Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát vì phá các sự khổ, ban sự an vui cho
chúng sanh, nên có thể
xả thí của, vật, ngoài thân trong thân đến
thân mạng của mình như bỏ cỏ khô.
Nếu có thể chẳng tiếc
thân mạng như vậy,
Bồ Tát nầy tự biết
quyết định có tâm
bất thối, tự biết tôi
quyết định sẽ được
vô thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát vì pháp mà khoét thân làm đèn lấy tô vu đổ vào đặt tim để đốt.
Lúc
Bồ Tát thọ sự khổ lớn như vậy tự trách tâm mình rằng : Sự khổ nầy đối với sự khổ ở
địa ngục trăm ngàn
muôn phần chưa bằng một phần. Ở trong
vô lượng trăm ngàn kiếp, ta chịu nhiều sự
khổ não đều không đem lại
mảy may lợi ích, nếu ta không chịu được sự khổ nhẹ nầy, thời làm sao có thể ở nơi trong
địa ngục để có thể
cứu khổ chúng sanh.
Lúc
Bồ Tát suy nghĩ như vậy thời thân chẳng biết khổ, tâm chẳng
thối chuyển, do đây
Bồ Tát tự biết chắc rằng tôi
quyết định sẽ được
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Lúc đó
Bồ Tát còn đầy đủ
phiền não, vì
chánh pháp mà có thể đem đầu mắt óc tủy tay chưn máu thịt
bố thí cho người, lấy đinh đóng trên thân, nhảy từ gộp đá cao xuống, nhảy vào lửa. Dầu chịu lấy
vô lượng sự khổ như vậy, nhưng nếu trong lòng chẳng có niệm
thối chuyển,
Bồ Tát nầy nên biết rằng nay tôi
quyết định có tâm
bất thối, sẽ được
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát vì phá trừ
khổ não cho tất cả
chúng sanh, nên nguyện làm thân
súc sanh to lớn, đem máu thịt
bố thí cho
chúng sanh.
Lúc
chúng sanh đến lấy máu ăn,
Bồ Tát lại sanh lòng
thương xót, lúc đó
Bồ Tát nín hơi chẳng thở làm như chết, để cho những kẻ đến lấy thịt chẳng có
quan niệm giết hại.
Dầu BồTát thọ thân
súc sanh nhưng trọn chẳng tạo nghiệp
súc sanh. Vì
Bồ Tát đã được tâm
bất thối chuyển, thời trọn chẳng gây tạo
ác nghiệp. Nếu đời
vị lai Bồ Tát có
nghiệp quả ác nhỏ nhặt
bất định, do sức nguyện lớn vì độ
chúng sanh nên đều thọ lấy đó. Như người bịnh bị quỉ dựa
ở ẩn trong thân, do
oai lực của chú thuật, nên liền
hiện tướng quỉ : Hoặc nói hoặc cười, hoặc mừng hoặc giận, hoặc mắng hoặc khóc.
Đại Bồ Tát thọ lấy
nghiệp quả đời
vị lai cũng như vậy.
Lúc
Bồ Tát thọ lấy thân gấu, thường vì
chúng sanh mà diễn nói
chánh pháp. Hoặc lúc thọ thân chim Ca Tân
Xà La, lúc thọ thân Cù Đà thân nai, thân thỏ, thân voi, thân dê núi, thân khỉ vượn, thân
bồ câu trắng, thân kim súy điểu, thân rồng, thân rắn, lúc thọ những thân
súc sanh như vậy, nhưng trọn chẳng gây tạo
nghiệp ác súc sanh, mà thường vì những
súc sanh khác
diễn thuyết chánh pháp, làm cho những
súc sanh kia nhờ
nghe pháp mà được mau khỏi thân
súc sanh.
Lúc
Bồ Tát thọ thân
súc sanh mà chẳng gây tạo
nghiệp ác nên biết rằng
quyết định có tâm
bất thối.
Đại Bồ Tát ở đời
đói khát, thấy
chúng sanh đói khát, nên nguyện làm thân cá lớn dài nhiều do diên, lại nguyện những
chúng sanh nào lấy thịt của tôi, lấy rồi liền sanh
trở lại, ai
ăn thịt của tôi thời được khỏi đói khỏi khát, tất cả đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề,
do nơi tôi mà kẻ nào được khỏi
đói khát, thời đời
vị lai họ sẽ mau được
xa lìa khổ hoạn
đói khát trong hai mươi lăm cõi.
Lúc
Đại Bồ Tát chịu sự khổ như
vậy mà tâm chẳng
thối chuyển, thời nên biết
quyết định sẽ được
vô thượng Bồ Đề.
Nhằm đời tật dịch,
Bồ Tát thấy nhiều người phải
bịnh khổ, bèn
suy nghĩ rằng như cây
Dược thọ, nếu người bịnh lấy rễ lấy cây, lấy nhánh, lấy lá, lấy bông, lấy trái, lấy vỏ đều trị được lành bịnh.
Nguyện thân của tôi đây cũng như vậy, nếu người bịnh nghe tiếng chạm đến thân
ăn thịt uống máu, nhẫn đến xương tủy đều trị lành bịnh. Nguyện
chúng sanh lúc
ăn thịt tôi chẳng sanh lòng ác, đều có
quan niệm như
ăn thịt con. Tôi trị cho họ được lành bịnh rồi sẽ thường vì họ mà
thuyết pháp. Nguyện họ
nghe pháp kính tin
lãnh thọ suy gẫm rồi đem dạy lại người khác.
Bồ Tát đầy đủ
phiền não lúc chịu sự khổ nơi thân như vậy vẫn chẳng thối cghuyển tâm
Bồ Đề, nên biết
quyết định được tâm
bất thối, sẽ thành
vô thượng Bồ ĐềNếu có
chúng sanh bị quỉ làm bịnh,
Bồ Tát thấy việc nầy liền
phát nguyện làm thân quỉ to lớn mạnh mẽ,
quyến thuộc đông, khiến người bịnh kia nghe thấy liền hết bịnh quỉ.
Đại Bồ Tát vì độ
chúng sanh nên siêng
tu khổ hạnh, dầu có
phiền não nhưng tâm chẳng
nhiễm ô.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát dầu
tu hành Lục Ba La Mật, cũng chẳng cầu quả
Lục Ba La Mật.
Lúc
tu hành Lục Ba La Mật vô thượng,
Bồ Tát nguyện rằng : Nay tôi đem
Lục Ba La Mật nầy
bố thí cho tất cả
chúng sanh, mỗi
chúng sanh nhận lấy sự
bố thí của tôi rồi thời đều sẽ được thành
vô thượng Bồ Đề. Tôi cũng tự vì
Lục Ba La Mật mà siêng
tu khổ hạnh chịu những sự
khổ não. Lúc đương chịu khổ nguyện tôi chẳng
thối tâm Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát lúc
suy gẫm phát nguyện như vậy thời gọi là tướng chẳng
thối chuyển tâm
Bồ Đề.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, vì biết rõ
sanh tử, có nhiều
tội lỗi,
quan sát Đại Niết Bàn có
công đức lớn, vì
chúng sanh mà ở nơi
sanh tử chịu những sự
khổ tâm chẳng
thối chuyển, do đây nên gọi là
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đại Bồ Tát không có
nhơn duyên mà vẫn sanh lòng
thương xót tất cả
chúng sanh, thiệt chẳng
thọ ơn mà còn ghi ơn. Dầu thi ơn mà chẳng cần đền trả, do đây nên lại gọi
Đại Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Hoặc có
chúng sanh vì lợi ích cho mình mà tu các
khổ hạnh.
Đại Bồ Tát vì lợi ích cho người cho
chúng sanh mà
tu khổ hạnh,
dầu vậy nhưng vẫn gọi là
lợi ích cho mình, do đây nên
Đại Bồ Tát lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát đầy đủ
phiền não, vì
phá hoại quan niệm kẻ oán người thân nên thọ những sự khổ để
tu tâm bình đẳng, do đây nên
Bồ Tát lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát nếu thấy những
chúng sanh hung ác thời hoặc
quở trách, hoặc nói dịu ngọt, hoặc đuổi, hoặc bỏ.
Với những kẻ tánh ác,
Bồ Tát thị hiện nói
lời dịu dàng.
Với kẻ
kiêu mạn,
Bồ Tát thị hiện làm
ngã mạn lớn, nhưng trong tâm của
Bồ Tát thiệt không
kiêu mạn. Đây gọi là
phương tiện của
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát đầy đủ
phiền não, lúc
của cải ít mà người
cầu xin nhiều, lòng
Bồ Tát trọn chẳng hẹp nhỏ. Đây gọi là
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc
Đức Phật ra đời,
Bồ Tát biết
công đức của Phật, nhưng vì
chúng sanh mà thọ thân
biên địa nơi chỗ không Phật, như đui, như điếc, như què, như thọt. Đây gọi là
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát biết rõ
chúng sanh có những
tội lỗi, vì muốn độ họ nên
Bồ Tát thường cùng đi chung với họ, dầu làm theo ý của họ nhưng vẫn không nhiễm lấy
tội lỗi. Do đây nên lại gọi
Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát thấy biết
rõ ràng không tướng chúng sanh, không
phiền não nhiễm ô, không người
tu tập thánh đạo xa lìa phiền não. Dầu vì
Bồ Đề nhưng
không hạnh Bồ Đề, cũng không có người
thành tựu hạnh
Bồ Đề, không người thọ khổ và người phá khổ mà cũng có thể vì
chúng sanh phá hoại sự khổ thật hành hạnh
Bồ Đề. Do đây nên gọi
Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát thọ thân rốt sau ở
cung trời Đâu Suất, đây cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì
trời Đâu Suất là hơn tất cả trong cõi dục,
cõi trời dưới thời tâm
phóng dật,
cõi trời trên thời
căn tánh ám độn, do đây nên
trời Đâu Suất gọi là hơn. Tu thí, tu giới thời được thân trời cõi trên và cõi dưới. Tu thí, tu giới và tu định thời được thân
trời Đâu Suất.
Tất cả
Bồ Tát đã tự
phá hoại tất cả cõi, trọn chẳng tạo nghiệp
trời Đâu Suất để thọ thân nơi
cõi trời đó. Vì
Bồ Tát nếu ở nơi các cõi khác, cũng đều có thể
giáo hóa thành tựu chúng sanh, thiệt không có
dục tâm mà lại sanh vào cõi dục, do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát sanh ở
trời Đâu Suất có ba việc
thù thắng : Một là mạng, hai là sắc, ba là danh.
Đại Bồ Tát thiệt chẳng cầu mạng, sắc và danh, dầu không có tâm mong cầu mà chỗ được lại
thù thắng.
Đại Bồ Tát rất
ưa thích Niết Bàn, nhưng có
nhơn duyên nên mạng, sắc và danh cũng
thù thắng. Do đây nên lại gọi chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát mạng, sắc, và danh dầu hơn
Chư Thiên, nhưng
Chư Thiên đối với
Bồ Tát chẳng có lòng giận, lòng
ganh ghét, lòng
kiêu mạn,
thường có lòng
hoan hỷ.
Bồ Tát đối với
Chư Thiên cũng chẳng
kiêu mạn, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát chẳng tạo nghiệp nhơn
thọ mạng, mà ở nơi
trời Đâu Suất kia,
Bồ Tát được
thọ mạng rốt ráo, đây gọi là mạng
thù thắng.
Bồ Tát không tạo nghiệp nhơn sắc đẹp, mà
thân sắc của
Bồ Tát xinh đẹp đầy đủ ánh sáng, đây gọi là sắc
thù thắng.
Bồ Tát ở
cung trời Đâu Suất chẳng ưa
ngũ dục chỉ làm
pháp sự, nên
tiếng đồn khắp cả
mười phương, đây gọi là danh
thù thắng. Do đây nên lại gọi
Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc
Đại Bồ Tát từ
trời Đâu Suất giáng sanh, cả
đại địa sáu thứ chấn động, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì lúc
Bồ Tát giáng sanh,
chư Thiên cõi dục và cõi sắc đều đến hầu hạ đưa đi, lớn tiếng
tán thán Bồ Tát, do hơi gió nơi miệng
chư Thiên làm cho
đại địa chấn động. Lại lúc
Bồ Tát mới
nhập thai, có các
Long Vương ở dưới
đại địa nầy hoặc
khủng bố, hoặc
hoan hỷ, nên
đại địa chấn động. Do đây nên lại gọi
Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát biết rõ lúc
nhập thai, lúc trụ thai, lúc
xuất thai, biết cha, biết mẹ, chẳng
nhiễm ô bất tịnh,
như bảo châu màu xanh trên búi tóc của
Đế Thích nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Kinh Đại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Như biển cả có tám điều chẳng thể nghĩ bàn : Một là lần lần càng sâu, hai là sâu khó đến đáy, ba là đồng một vị mặn, bốn là thủy triều chẳng
quá hạn, năm là có nhiều thứ kho báu, sáu là những
chúng sanh thân to lớn ở trong đó, bảy là chẳng chứa
tử thi, tám là tất cả muôn dòng đổ về cùng mưa to xối xuống mà biển vẫn chẳng thêm chẳng bớt.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Biển lần lần càng sâu là vì có ba điều : Một là
phước lực của
chúng sanh, hai là
thuận theo gió mà chảy, ba là vì nước trong sông đổ ra. Nhẫn đến chẳng thêm chẳng bớt cũng đều có ba việc.
Kinh Đại Niết Bàn nầy cũng có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như vậy : Một là lần lần càng sâu, nghĩa là từ giới
Ưu Bà Tắc,
giới Sa Di,
giới Tỳ Kheo, giới
Bồ Tát, quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La hán, quả
Bích Chi Phật, quả
Bồ Tát, quả
Vô Thượng Bồ Đề.
Kinh Đại Niết Bàn nầy
thuyết minh những
pháp như vậy, đây gọi là lần lần càng sâu.
Hai là sâu khó đến đáy :
Đức Như Lai Thế Tôn bất sanh bất diệt, chẳng được
vô thượng Bồ Đề, chẳng
chuyển pháp luân, chẳng ăn chẳng thọ, chẳng thật hành
bố thí, do đây nên đặng
thường lạc ngã tịnh.
Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh,
Phật tánh nầy chẳng phải sắc
thọ tưởng hành thức, chẳng rời sắc
thọ tưởng hành thức, là
thường trụ có thể thấy : Là liễu nhơn chẳng phải tác nhơn.
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Bích Chi Phật sẽ được
vô thượng Bồ Đề, cũng không
phiền não, cũng không trụ xứ, dầu không
phiền não nhưng chẳng gọi là thường, do đây nên nói là sâu.
Trong kinh nầy hoặc có lúc nói là ngã, hoặc có lúc nói
vô ngã, hoặc có lúc nói là thường, hoặc có lúc nói là
vô thường, hoặc có lúc nói là tịnh, hoặc có lúc nói là
bất tịnh, hoặc có lúc nói là lạc, hoặc có lúc nói là khổ, hoặc có lúc nói là không, hoặc có lúc nói là
bất không, hoặc có lúc nói tất cả đều có, hoặc có lúc nói tất cả đều không, hoặc nói
nhị thừa hoặc nói
nhứt thừa, hoặc nói
ngũ ấm tức là
Phật tánh, là
Kim Cang Tam Muội, là
Trung Đạo,
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, mười hai
nhơn duyên ,
đệ nhứt nghĩa không,
từ bi bình đẳng đối với
chúng sanh, đảnh trí,
tín tâm,
trí lực biết các căn , trí không
chướng ngại đối với tất cả pháp, dầu có
Phật tánh nhưng chẳng nói
quyết định. Do đây nên gọi là rất sâu.
Ba là đồng một vị : Tất cả
chúng sanh đồng có
Phật tánh, đều
đồng nhứt thừa, đồng một
giải thoát một nhơn một quả, đồng một
cam lộ, tất cả đều sẽ được
thường lạc ngã tịnh, đây gọi là đồng một vị.
Bốn là thủy triều chẳng
quá hạn : Như trong kinh nầy chế các
Tỳ Kheo chẳng được lẫn chứa
tám vật bất tịnh. Nếu
đệ tử của ta có thể
thọ trì đọc tụng biên chép
giải thuyết phân biệt kinh Đại Niết Bàn nầy, thà chết chớ trọn chẳng hủy phạm, đây gọi là thủy triều chẳng
quá hạn.
Năm là có nhiều thứ kho báu : Kinh nầy tức là kho báu
vô lượng, nghĩa là
Tứ Niệm Xứ,
Tứ Chánh Cần,
Tứ Như Ý Túc,
Ngũ Căn,
Ngũ Lực,
Thất Giác Chi,
Bát Thánh Đạo,
Anh Nhi Hạnh,
Thánh Hạnh,
Phạm Hạnh,
Thiên Hạnh, những thiện
phương tiện,
Phật tánh của
chúng sanh,
công đức của
Bồ Tát,
công đức của
Như Lai,
công đức của
Thanh Văn,
công đức của
Duyên Giác,
Lục Ba La Mật,
vô lượng Tam Muội,
vô lượng Trí Huệ, đây gọi là những kho báu.
Sáu là
chúng sanh thân to lớn ở trong đó : Vì chư Phật và
Bồ Tát có
trí huệ lớn nên gọi là
chúng sanh lớn, vì thân lớn, vì tâm lớn, vì
trang nghiêm lớn, vì
điều phục lớn, vì
phương tiện lớn, vì
thuyết pháp lớn, vì
thế lực lớn, vì
đồ chúng lớn, vì
thần thông lớn, vì
từ bi lớn, vì thường chẳng
biến đổi, vì tất cả
chúng sanh thân không
chướng ngại, vì dung thọ tất cả
chúng sanh. Đây gọi là chỗ ở của những
chúng sanh thân to lớn.
Bảy là chẳng chứa
tử thi,
tử thi là nói Nhứt
Xiển Đề phạm bốn tội trọng năm tội
vô gián,
phỉ báng Đại Thừa,
tà pháp nói là
chánh pháp,
chánh pháp nói là
tà pháp, nhận chứa tám thứ vật
bất tịnh,
tùy ý dùng vật của Phật, vật của Tăng, đối với
Tỳ Kheo, với
Tỳ Kheo Ni làm việc
phi pháp, đây gọi là
tử thi,
kinh Đại Niết Bàn nầy lìa những việc như vậy nên gọi rằng chẳng chứa
tử thi.
Tám là chẳng thêm chẳng bớt, vì không ngằn mé, vì không
thỉ chung, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải tạo tác, vì là
thường trụ, vì chẳng
sanh diệt, vì đều
bình đẳng với tất cả
chúng sanh, vì tất cả đồng một tánh
Phật tánh, đây gọi là không thêm không bớt. Do đây nên
kinh Đại Niết Bàn nầy có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như biển cả kia.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng : “
Thế Tôn ! nếu cho rằng
Như Lai bất sanh bất diệt là
thậm thâm đó, thời tất cả
chúng sanh có
bốn loài sanh : Noãn, thai, thấp, hóa. Trong
bốn loài sanh nầy thời
loài người có đủ, như
Tỳ Kheo Thi
Bà La,
Tỳ Kheo Ưu Bà Thi
Bà La, mẹ của
Trưởng giả Di Ca La, mẹ của
Trưởng giả Ni Câu Đà, mẹ của
Trưởng giả Bán
Xà La, mỗi người đều sanh năm trăm con trai đồng là
noãn sanh. Do đây nên biết rằng trong
loài người cũng có
noãn sanh.
Trong
loài người mà
thấp sanh, như Phật từng nói rằng :
Thuở trước lúc ta tu hạnh
Bồ Tát làm
Đảnh Sanh Vương và Thủ Sanh Vương, và như nay cô gái
Am La, cô gái Ca Bất Ba, nên biết rằng trong
loài người cũng có
thấp sanh.
Thuở
kiếp sơ tất cả
chúng sanh đều là
hóa sanh.
Đức Thế Tôn đã được tám thứ
tự tại, do
nhơn duyên gì mà chẳng
hóa sanh ?
Phật nói : “ Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh từ nơi
bốn loài sanh mà sanh ra, khi đã được
thánh pháp thời chẳng được
noãn sanh và
thấp sanh như trước.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Chúng sanh thuở
kiếp sơ, thảy đều
hoá sanh, trong
thời kỳ đó, không có Phật ra đời.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Nếu có
chúng sanh lúc mang
bịnh khổ thời cần thầy, cần thuốc, thuở
kiếp sơ chúng sanh đều
hoá sanh dầu có
phiền não nhưng bịnh
phiền não chưa phát, do đây nên
đức Như lai chẳng
hiện ra đời. Lại
chúng sanh thuở
kiếp sơ,
thân tâm của họ chẳng phải
pháp khí, nên
đức Như Lai chẳng
hiện ra trong
thời kỳ đó.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Phàm tất cả
sự nghiệp của
đức Như Lai đều hơn
chúng sanh, như giòng họ,
quyến thuộc,
cha mẹ. Do hơn
chúng sanh, nên chỗ
thuyết pháp của
Như Lai mọi người đều tin thọ. Do đây nên
đức Như Lai chẳng
hóa sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả
chúng sanh, hoặc là cha làm theo nghề nghiệp của con, hoặc là con làm theo nghề nghiệp của cha.
Đức Như Lai nếu
hóa sanh thời không có
cha mẹ,
nếu không có
cha mẹ thời làm sao khiến tất cả chúng thật hành những
nghiệp lành. Do đây
đức Như Lai chẳng
hóa sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Trong
chánh pháp của Phật có hai thứ
hộ trì : Một là nội hai là ngoại.
Nội hộ là
giới cấm.
Ngoại hộ là
thân tộc,
quyến thuộc. Nếu
đức Như Lai hóa sanh thời không
ngoại hộ. Do đây nên
đức Như Lai chẳng
hóa sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Có người ỷ
dòng họ mà sanh
kiêu mạn. Vì phá sự
kiêu mạn như vậy, nên
đức Như Lai giáng sanh trong
dòng họ cao sang, mà chẳng
hóa sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử !
Đức Như Lai có
cha mẹ thật, cha là Vua
Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng Hậu
Ma Da, mà còn có
chúng sanh nói rằng
Như Lai là người
huyễn hóa, như thế thời đâu nên
hóa sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! nếu
Như Lai hóa sanh, thời làm thế nào có
thân thể nát ra thành
Xá Lợi.
Đức Như Lai vì muốn cho
chúng sanh tăng trưởng phước đức, nên nát rã
thân thể mình thành
Xá Lợi để cho
chúng sanh cúng dường. Do đây nên
đức Như Lai chẳng
hóa sanh.
Nầy
Thiện Nam Tử ! Tất cả chư Phật đều không
hóa sanh, thời làm sao ta lại riêng mình
hóa sanh.”
Sư Tử Hống Bồ Tát liền qùy
chắp tay nói
kệ tán thán Phật :
Như Lai có
vô lượng công đức, Tôi chẳng thể trình bày đủ hết, Nay vì
chúng sanhnói một phần, Xin Phật
xót thương cho tôi nói :
Chúng sanh đi trong tối
vô minh,
Chịu đủ
vô biên trăm thứ khổ, Phật có thể khiến họ
xa lìa, Nên đời gọi Phật là
đại bi.
Chúng sanh đi trên dây
sanh tử,
Phóng dật mê hoan không an vui. Phật có thể
ban cho an vui, Do đây dứt hẳn dây
sanh tử. Vì Phật cho
chúng sanh an vui, Nên chẳng tham đắm vui của mình, Phật vì
chúng sanh tu khổ hạnh, Nên
trong đời đều
cúng dường Phật. Thấy người chịu khổ thân run rẩy, Nên ở
địa ngục chẳng biết đau, Phật vì
chúng sanh chịu khổ nhiều, Nên là
vô lượng không ai hơn. Phật vì
chúng sanh tu khổ hạnh, Đầy đủ sáu môn
Ba La Mật, Ở trong gió
tà tâm chẳng động, Nên hơn được
đại sĩ trong đời.
Chúng sanh thường muốn được an vui, Mà chẳng biết tu nhơn an vui, Phật có thể
dạy bảo tu tập, Dường như cha lành thương con một, Phật thấy
chúng sanh khổ
phiền não, Lòng khổ như mẹ lo
con bịnh, Thường nghĩ những
phương tiện lìa bịnh, Nên thân Phật hệ thuộc nơi người. Tất cả
chúng sanh làm điều khổ, Lòng họ
điên đảo cho là vui, Phật diễn nói khổ vui chơn thật, Nên đời gọi Phật là
đại bi. Đời đều ở trong vỏ
vô minh, Không có mỏ trí mổ lủng được, Mỏ trí của Phật mổ lủng được, Nên gọi Phật là mẹ lớn nhứt. Chẳng bị nhiếp trì trong
ba đời, Không có
danh tự và hiệu giả,
Hiểu biết nghĩa sâu của
Niết Bàn, Nên gọi Phật là bực
Đại Giác.
Ba cõi xoay chuyển nhận
chúng sanh,
Vô minh mù lòa chẳng biết ra,
Phật tự độ mình độ được người, Nên gọi Phật là
đại thuyền sư. Biết rõ được tất cả nhơn quả, Cũng lại
thông đạt đạo
tịch diệt, Thường ban
pháp dược cho
chúng sanh, Nên đời gọi Phật là
Y Vương.
Ngoại đạo tà kiến nói
khổ hạnh, Nhơn hạnh nầy được vui
vô thượng,
Đức Phật diễn nói hạnh chơn lạc, Làm cho
chúng sanh hưởng an vui,
Như Lai Thế Tôn phá đạo tà, Chỉ dạy
chúng sanh đường chơn chánh, Ai đi đường nầy được an vui, Nên đời gọi Phật là
Đạo Sư. Chẳng phải mình và người làm ra, Chẳng phải chung làm vô nhơn làm,
Đức Phật giảng nói những sự khổ, Đúng
thật không như các
ngoại đạo.
Thành tựu đầy đủ
giới định huệ, Cũng đem pháp nầy dạy
chúng sanh, Đem
pháp bố thí không lẫn tiếc,
Phật hiệu là Đấng
Vô Duyên Từ. Không tạo tác cũng không
nhơn duyên, Chứng đặng báo không nhơn
không quả, Do đây tất cả bực
trí giả, Khen nói
đức Phật chẳng cầu báo. Thường cùng
thế gian hành
phóng dật,
Mà thân chẳng làm
phóng dật hạnh, Nên gọi Phật là Bất Tư Nghì.
Tám pháp thế gian chẳng
nhiễm ô.
Như Lai Thế Tôn không thân thù, Nên tâm của Phật thường
bình đẳng, Tôi
Sư Tử Hống,
tán thán Phật, Rống như
vô lượng sư tử rống.