KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Đăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
01. PHẨM TỰ THỨ NHẤT
(Hán bộ trọng quyển thứ nhất)
Như vậy, tôi nghe : một lúc nọ, đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật ở tại rừng Ta-La Song-Thọ nơi thành Câu-Thi-Na (1), cùng với tám mươi ức trăm ngàn vị đại Tỳ-Kheo.
Bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai vào lúc sáng sớm sắp nhập niết-bàn,
đức Phật dùng
thần lực vang ra tiếng lớn thấu khắp các nơi, suốt đến trời Hửu-đãnh (2) theo từng ngôn-ngữ của mỗi loài mà bảo rằng : “ Đưc Như-Lai Vô-Thượng-Đẳng, Chánh-giác
thương mến che chở chúng-sanh, là ngôi nhà to rộng cho
chúng sanh, về nương, xem chúng-sanh đồng như La-Hầu-La.
Đấng Đại-Giác Thế-Tôn sắp nhập Niết-bàn, tất cả chúng-sanh nếu có chổ nghi nay đều nên bạch hỏi, củng là lần hỏi cuối cùng!
Từ mắt, mũi, miệng, đức Thế-Tôn phóng ra các thứ ánh sáng. Những ánh sáng ấy có nhiều mầu : Xanh, vàng, đỏ, trắng, màu pha-lê, màu mã- não, chiếu khắp cõi đại-thiên (3), cũng lại chiếu suốt cả
mười phương. Lục-đạo chúung-sanh (4), ai gặp được ánh sáng nầy chiếu đến mình thời tất cả tội- cấu phiền-não đều
tiêu trừ. Những
chúng sanh nầy thấy ánh sáng cùng
nghe lời tuyên-bố trên đây, tất cảđều rầu lo, buồn khóc nức nở : “Than ôi! còn gì đấng Từ-Phụ : Thương thay khổ thay !”
Lúc đó khắp đại-địa, núi non biển cả thảy đều
chấn động.
Các
chúng sanh bảo nhau rằng : “
Chúng ta gắng
dằn lòng chớ quá buồn khổ. Phải kíp đến thành Câu-Thi-Na, nơi rừng Ta-La
đảnh lễ Phật,
cầu thỉnh đức Như-Lai trụ thế thêm một thờigian “.
Mọi người lại nắm tay nhau mà nói rằng : “Chúng sanh hết phước,
thế gian trống rỗng, những
ác nghiệp thêm nhiều.
Đức Như-Lai sắp nhập Niết-bàn. Các ngài mau đến hầu Phật”.
Rồi lại cùng than rằng :”Thế gian trống rỗng !
Thế gian trống rỗng !
Chúng ta từ nay không chỗ
phụng thờ, không ai
cứu hộ,
côi cút nghèo cùng. Một mai
xa lìa đấng Vô-Thượng-Giác, nếu có chỗ nghi lầm,
chúng ta sẽ bạch hỏi với ai ?”
Bấy giờ các vị đại Tỳ-kheo (5) : Tôn-giả Ma-Ha-Ca-Chiên-Diên, Tôn-giả Bạc-Câu-La, Tôn-giả Ưu-Ba Nan-Đà v.v… chạm phải ánh sáng của Phật, thân của các ngài liền run giật,
tâm tưởng mê loạn, hốt hoảng
kêu la.
Lại có tám trăm vạn vị Tỳ-kheo đều là bực vô-lậu A-La-Hán, tâm được
tự tại, chỗ làm đã xong, rời các phiền-não, điều-phục các căn, có oai-đức lớn,
thành tựu không-huệ, đã khỏi
sanh tử, tất cả đều là chơn Phật-tử. Sáng hôm ấy, lúc
mặt trời vừa mọc, các ngài đang nhăn nhành dương, thấy ánh sáng của Phật chiếu đến, các ngài hối nhau súc miệng, rửa tay.
Toàn thân của các ngài đều rởn óc máu nổi đỏ như bông ba-la-xa, hai mắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ. Vì muốn lợi-lạc cho
chúng sanh,
thành tựu hạnh đệ-nhứt-không của Đại-thừa, cùng muốn hiển phát giáo-pháp
phương tiện bí mật của Như-Lai, để các cuộc
thuyết pháp chẳng
đoạn tuyệt và cũng vì muốn làm
nhơn duyên điều phục chúng sanh, nên các ngài vội đến trước Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật,
nhiễu Phật trăm ngàn vòng, rồi
chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Lại có sáu mươi ức vị Tỳ-kheo-ni, như Thiện-Hiền Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba Nan-Đà Tỳ-kheo-ni, Hải-Y Tỳ- kheo-ni, v.v…., đều là bực Đại-A-La-Hán, đả sạch phiền-não, tâm được
tự tại, chỗ làm đã xong, các căn điều –phục có
oai đức lớn,
thành tựu không –huệ.
Các Tỳ-kheo-ni ấy cũng vào buổi sáng sớm, lúc
mặt trời vừa mọc,
toàn thân rởn ốc, máu nổi đỏ như bông ba-la-xa, đôi mắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ, cũng vì muốn
lợi lạc cho
chúng sanh, và làm
nhơn duyên điều-phục, nên các Tỳ-kheo-ni ấy vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật,
nhiễu Phật trăm ngàn vòng, rồi
chắp tay cung kính, ngồi qua một bên. Trong chúng Tỳ-kheo-ni nầy, có những vị Bồ-Tát đến bực thập-địa an-trụ bất-động. Vì
hóa độ chúng sanh nên
hiện thân phụ nữ, nhưng thường
tu tập bốn tâm vô-lượng (6), đặng sức tự-tại có thể biến-hóa
làm Phật.
Bấy giờ lại có một hằng-hà-sa đại Bồ-Tát (7) chứng bực
thập địa an trụ
bất động,
phương tiện hiện thân.
Danh hiệu của các vị
Thượng thủ là :
Hải Đức Bồ tát,
Vô Tận Ý Bồ Tát v.v… Các ngài thảy đều
kính trọng Đại thừa, an trụ
Đại thừa, hiểu sâu
Đại thừa,
ưa thích Đại thừa,
gìn giữ Đại thừa. Các ngài khéo
tùy thuận được tất cả
thế gian mà
lập thệ rằng : “ Những ai chưa
giải thoát, sẽ làm cho được giải thoát”.
Các ngài
từ vô lượng kiếp về
quá khứ tu trì giới pháp thanh tịnh, khéo đem chỗ đã làm dạy lại cho người chưa hiểu, nối thạnh ngôi
Tam Bảo (8) làm cho chẳng
đoạn tuyệt, sau này sẽ
chuyển pháp luân, dùng
đại trang nghiêm mà tự
trang nghiêm,
thành tựu vô lượng công đức như thế, xem
chúng sanh đồng như con một. Các vị
đại Bồ Tát này cũng vào lúc sáng sớm gặp ánh sáng của Phật chiếu đến cả mình rởn ốc, máu đỏ nổi kên như bông ba-la-xa, đôi mắt tràn lệ, lòng rất
đau xót, vì muốn
lợi lạc cho
chúng sanh,
thành tựu hạnh
đệ nhứt không của
Đại thừa, hiển phát
giáo pháp phương tiện bí mật của Như –Lai, cho các cuộc
thuyết pháp chẳng
đoạn tuyệt, cùng làm
nhơn duyên điều phục cho
chúng sanh, nên các ngài vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật, đi
nhiễu Phật trăm ngàn vòng,
chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Bấy giờ lại có hai hằng -ha-sa vị Ưu-bà-tắc (9)
thọ trì ngũ giới (10) đầy đủ
oai nghi, các ôÂâng
Oai Đức Ưu-Bà-Tắc ,
Thiện Đức Ưu-Bà-Tắc v.v… làm thượng-thủ trong số ấy. Tất cả đều thích
quan sát sâu kỹ các môn đối-trị như các môn khổ, vui, thường, vô-thường, tịnh, bất-tịnh, ngã,
vô ngã, thiệt, bất thiệt,
qui y, phi
qui y,
chúng sanh, phi
chúng sanh, hằng, phi hằng, an, phi an, vi,
vô vi, đọan,
bất đoạn,
niết bàn, phi
niết bàn,
tăng thượng, phi
tăng thượng v.v…. Cũng thích muốn nghe vô- thượng đại-thừa, nghe rồi có thể giảng lại cho người khác, khéo
giữ gìn giới luật thanh tịnh,
khát ngưỡng đại- thừa, đã tự đầy đủ lại có thể làm đầy đủ kẻ khác, khéo
nhiếp thủ trí-huệ vô-thượng,
ưa thích và
gìn giữ đại-thừa. Khéo
tùy thuận tất cả
thế gian,
độ người chưa được độ, dạy người chưa được hiểu, nối giống Tam-Bảo cho khỏi
đoạn tuyệt, sau nầy sẽ chuyển pháp-luân, dùng đại trang-nghiêm mà tự trang-nghiêm, tâm các vị ấy luôn say sưa nơi giới-hạnh thanh-tịnh, thành-tựu nhữngø
công đức như thế, đối với
chúng sanh phát tâm đại-bi bình-đẳng xem nhu con một.
Sáng sớm hôm ấy, vì muốn làm lễ trà-tỳ (11) thân của Như-lai, nên mỗi người đem vạn bó
gỗ thơm : gỗ chiên-đàn trầm-thủy, gỗ ngưu-đầøu chiên-đàn, gỗ thiên -mộc-hương v.v…. Do
thần lực của Phật nên các bó
gỗ thơm áy chiếu ra nhiều màu xanh vàng đỏ trắng rất sáng đẹp.
Gỗ thơm ấy đều ướp bằng các thứ dầu thơm. Các thứ
hoa sen đơm trên những bó gỗ, cùng treo những lá phan năm màu mịn đẹp. Chở gỗ là các thứ xe bằng loại
thất bảo (12) thắng bốn ngựa hùng tráng. Trên xe tàn lọng che giăng, rủ những
tràng hoa sen đẹp đủ màu, làm bằng
vàng ròng và
kim cương,
các loại ong đen
vui vẻ bu họp trong hoa vang ra tiếng diễn nói những pháp vô-â thường, khổ, không, vô –ngã và thuật
đạo hạnh của Bồ- Tát
tu tập ngày trước. Lại có các thứ
âm nhạc hòa tấu thành tiếng buồn than : “Khổ thay ! Khổ thay !
Thế gian trống rỗng !” Trước mỗi xe có Ưu-Bà-Tắc bưng hương-án bằng vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê, trên án xông các thứ hương thơm thượng hảo, cùng chưng các thứ
hoa sen đẹp đủ màu. Các vị Ưu- Bà-Tắc nầy vì muốn
cúng dường Phật cùng
chư tăng, nên đã dự sắmõ các thứ
thực phẩm nấu bằng củi chiên-đàn
trầm thủy. Những
thực phẩm ấy thơm ngon đủ
sáu vị : mặn, ngọt, chua, cay, đắng, lạt cùng đủ ba đức ; mềm dẽo, sạch sẽ, đúng pháp. Khi đến rừng Ta-La, họ lấy mạt
vàng ròng rải khắp các nơi, rồi trải gấm lụa lên trên rộng đến mười hai do-tuần. Họ thiết tòa
sư tử cao lớn bằng
bảy báu để
thỉnh Phật và
chư Tăng ngồi. Họ đem dầu thơm quý thoa vào thân cây trong rừng rồi treo các lá phan, các tàn lọng
xinh đẹp họ rải những thứ hoa đẹp thơm vào các khoảng giữa cây
cách nhau. Các Ưu-Bà-Tắc nầy đều
suy nghĩ rằng :
“ Tất cả
chúng sanh nếu ai có chỗ
thiếu hụt : cần
thức ăn, tôi sẽ cho ăn; cần uống, cho uống; cầnđầu, cho đầu; cần mắt, cho mắt; bất luận là
cần dùng thứ gì, tôi sẽ cho thứ ấy. Lúc bố-thí như thế tôi sẽ không có lòng tham sân
ác độc nhơ-nhớp. Tôi không hề móng niệm cầu
phước lộc thế gian mà chỉ
nhứt tâm cầu quả vô-thượng bồ-đề”.
Các vị Ưu-Bà-Tắc nầy đều đã an-trụ nơi đạo bồ-đề. Các ông
nghĩ thầm : Hôm nay đức Như-Lai thọ thực của
chúng tôi xong sẽ nhập Niết-Bàn”. Vừa nghĩ đến đây, cả mình các ông đều rởn ốc, máu đỏ nổi lên như bông ba-la-xa, đôi mắt tràn lệ, lòng rất buồn khổ. Các ông
lật đật đem những đồ
cúng dường dâng lên
đức Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vòng, khóc lóc nức nở,
tiếng động trời đất, nước mắt như mưa. Các ông than
với nhau rằng :
Thế gian sẽ trống rỗng,
thế gian sẽ trống rỗng, rồi cac ông lại nhào lăn trước Phật, vừa khóc vừa
bạch Phật :” Cúi xin Đức Như-Lai
xót thương chúng con mà nhận lễ
cúng dường cuối cùng nầy”.
Đức Thế-Tôn biết giờ nên yên-lặng không nhận. Các ông
yêu cầu ba phen mà Phật vẫn không hứa nhận. Không được
đức Phật nhận, các ông rất
đau khổ như người có con một phải bệnh chết vừa mới chôn xong. Các ông đem những đồ cúng
an trí một nơi rồi cùng nhau ngồi qua một bên.
Bấy giờ lại có ba hằng-hà-sa Ưu-Ba-Di thọ-trì ngũ-giới đầy đủ
oai nghi, trong số đó có tám vạn bốn ngàn vị thượng –thủ, như các bà Thọ-Đức Ưu-Bà-Di, Đức-Man Ưu-Bà-Di, Tỳ-Xá-Khư Ưu-Ba-Di v.v…Chư Ưu-Bà-Di nầy đều kham
hộ trì chánh pháp, vì độ
chúng sanh mà
hiện thân phụ nữ. Thường
chê trách gia pháp. Tự xem thân mình như bốn
rắn độc : thân nầy thường là món ăn của
vô số vi trùng, thân nầy hôi thúi bị ràng trong ngục
tham dục, thân nầy
đáng ghét dường như thây chó chết, thân nầy nhơ nhớp,
chín lỗ chảy luôn. Thân nầy như thành trì : da mỏng bọc trên máu thịt gân xương, tay chân là gậy gộc ngăn địch, đôi mắt là lỗ hở, đầu là cung điện chỗ của
tâm vương ngự. Những
ác quỷ gian tham,
dâm dục,
sân hận, thù ghét,
si mê,
tà kiến cư ngụ trong thành nầy. Đây là chổ vất bỏ của chư
Phật Thế Tôn, ma
phàm phu ngu si lại mê say. Thân nầy là vật không bền chắc, khác nao bọt nước, cây chuối, cọng lau. Thân nầy
vô thường niệm niệm không dừng như làn chớp, nước dốc,
như ảo thuật, ngọn lửa, lằn vẽ trên nước. Thân này dễ hư rã như cây bên bờ sông lở. Thân nầy không mấy chốc sẽ là
thức ăn của sói, cồn quạ, kên, chó đói. Có ai là người trí mà
ưa thích thân nầy. Đem hết nước biển đựng trong
dấu chân trâu còn không khó bằng kể cho đủ những sự
vô thường, nhơ nhớp hôi thúi của thân nầy. Vò
quả địa cầu làm cho nhỏ lại bằng trái táo, bằng hạt
đình lịch, bằng
hạt bụi, là việc dễ hơn kể hết những
tội lỗi tai hại của thân nầy. Thế nên phải nhàm bỏ thân nầy như nhàm bỏ đàm mũi, vì những
nhơn duyên ấy, các Ư-Bà-Di đây thường
tu pháp không, vô-tướng, vô-nguyện. Các bà rất thích
học hỏi kinh điển đại –thừa,
thủ hộ đại thừa và cũng có thể giảng dạy lại cho người khác. Dầu là
hiện thân nữ, mà các bà đều là Bồ-Tát, khéo hay
tùy thuận tất cả
thế gian,
độ người chưa được độ, dạy người chưa được hiểu. Các bà nối giống Tam-Bảo khiến chẳng
đoạn tuyệt, sẽ chuyển pháp –luân nơi đời
vị lai, dùng
đại trang nghiêm để tự
trang nghiêm. Đối với
chúng sanh phát tâm đại bi bình dẳng,
xem như con một. Sáng sớm hôm ấy, các bà bảo nhau đến rừng Ta- La. Các bà đem rất nhiều đồ
cúng dường cùng đến trước Phật, cúi đầu lễ
chơn Phật, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi
bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Hôm nay chúng con sắm sửa đồ
cúng dường kính dưng lên đức Thế-Tôn và
chư Tăng. Ngửa mong Đức Như-Lai
thương xót nhận cho”. Các bà ba phen khẩn cầu mà
đức Phật yên lặng không nhận. Các bà
than thở ngồi qua một bên.
Bấy giờ nơi thành Tỳ-Gia-Ly, các quyến-thuộc trai gái già trẻ của dòng Ly-Xa và những
quyến thuộc của vua chúa ở các nước, vì cầu
chánh pháp nên khéo tu
giới hạnh, đầy đủ oai- nghi, trừ dẹp các môn
dị học làm
tổn hại chánh phápø. Họ thường bảo nhau rằng :”
Chúng ta phải dùng
vàng bạc kho đụn làm cho tạng chánh-pháp thâm-áo còn mãi nơi đời. Nguyện cho
chúng ta thường được
tu học. Nếu có ai khinh chê
chánh pháp của
Phật thời phải cắt lưỡi người đó”. Họ lại nguyện rằng :” Người
xuất gia nếu
phá hư giới cấm,
chúng ta bắt phải thôâi tu, huờn tục, để làm tôi mọi. Còn bực hộ-trì
chánh pháp giới đức tinh nghiêm,
chúng ta phải
kính trọng phụng thờ như
cha mẹ. Nếu
chư Tăng có thể tu theo
chánh pháp,
chúng ta phải
tùy hỉ tán trợ cho những vị ấy được thế lực”. Những
hoàng tộc nầy rất thích nghe
kinh điển đại thừa, và cũng có thể
giảng giải lại cho người khác những pháp
đại thừa mà họ đã được nghe. Tất cả đều
thành tựu những
công đức như vậy.
Danh hiệu của họ là : Tịnh
Vô Cấu Tạng
Ly Xa Tử. Tịnh
Bất Phóng Dật Ly Xa Tử,
Vô Cấu Tịnh Đức Ly Xa Tử, v.v… Họ bảo nhau kíp đến chỗ Phật cùng đem
vô số đồ
cúng dường với
vô số châu
minh nguyệt,
gỗ trầm,
chiên đàn, chở bằng những thớt tượng lớn và những cỗ xe báu
tứ mã. Trên xe
trang hoàng vô số phang lọng. Lúc đến trước Phật, họ cúi đầu lạy
chơn Phật, đi nhiễu trăm ngàn vòng, rồi bạch rằng :”
Thế Tôn ! Hôm nay chúng con sắm các phẩm vật
cúng dường đức Phật và
chư Tăng. Ngửa mong
đức Như Lai thương xót nhận cho”.
Đức Phật yên lặng không hứa nhận. Các
hoàng tộc chẳng được toai nguyện, lòng rất buồn khổ, do
thần lực của Phật, họ bay lên cao cách đất bảy
cây đa la rồi yên lặng mà trụ giữa
hư không.
Bấy giờ lại có
vô số Đại Thần
Trưởng Giả kính trọng đại thừa,
ủng hộ đại thừa, dẹp trừ các phái
dị học, như mưa đá tuôn nát cỏ cây. Các ông Nhựt Quang
Trưởng giả, Hộ Thế
Trưởng giả,
Hộ Pháp,
Trưởng giả, v.v… là bực
thượng thủ trong hàng người ấy. Họ sắm
vô số đồ
cúng dường cùng đem nhau đến trước Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi bạch rằng :”
Thế Tôn ! Hôm nay chúng con sắm các phẩm vật dưng cúng
đức Phật và
chư Tăng. Ngửa mong
đức Như Lai thương xót nhận cho”.
Đức Phật yên lặng chẳng hứa nhận. Các vị
Trưởng giả không được
toại nguyện, lòng rất buồn khổ. Do
thần lực của Phật, họ bay lên cao cách đất bảy
cây đa la rồi yên lặng trụ giữa
hư không.
Bấy giờ vua thành Tỳ-Xá-Ly và vua các nước, trừ vua A-Xà-Thế và phu nhơn, mỗi vua cùng với các bà phu nhơn và thần dân
đem theo vô số cúng phẩm đến rừng Ta-La.ù Các vua và phu nhơn đây đều đã an trụ nơi
chánh pháp,
kính trọng và rất mến
đại thừa, thương
chúng sanh đồng như con một. Lúc đến trước Phật, các vua và phu nhơn bạch rằng :”
Bạch đức Thế Tôn ! Hôm nay chúng con sắm phẩm vật dưng cúng
đức Phật và
chư Tăng.Ngửa mong
đức Như Lai thương xót nhận cho”.
Đức Phật tự biết chưa phải lúc, nên cũng chẳng hứa nhận. Các vua và phu nhơn không được
toại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Bấy giờ có
vô số Thiên –Nữ.
Thượng thủ Quảng-Mục Thiên-Nữ bảo rằng :” Chị em xem kia !
Đại chúng sắm phẩm vật muốn
cúng dường Phật và
chư Tăng.
Chúng ta cũng nên đem phẩm vật dưng lên đức õPhật,
đức Phật thọ xong sẽ nhập Niết-bàn. Chị em nên biết, Phật
xuất thế rất khó, được
cúng dường Phật lần
cuối cùng càng khó hơn. Nếu Phật
nhập Niết bàn thời
thế gian sẽ trống rỗng”.
Hàng
Thiên Nữ nầy đều
giữ gìn giới hạnh, đầy đủ
oai nghi, rất thích
tu học và
hộ trì đại thừa, khéo hay
tùy thuận tất cả
thế gian,
độ người chưa được độ, dạy người chưa được hiểu, sẽ
chuyển pháp luân ở
vị lai, dùng
đại trang nghiêm để tự
trang nghiêm bình đẳng thương
chúng sanh đồng như con một. Vì muốn
lợi lạc cho
chúng sanh,
thành tựu hạnh đệ-nhứt-nghĩa-không của
đại thừa hiển phát
giáo pháp phương tiện bí mật của
Như Lai, mà cũng muốn các sự
thuyết pháp không
đoạn tuyệt, nên các
Thiên Nữ sắm
vô số đồ
cúng dường ở
cõi trời và
vô số thứ hương trời, chở trên những xe báu trần thiết
vô số lọng báu, phan báu, bửu châu,
kỹ nhạc, rải
vô số hoa trời, cùng nhau đến trước Phật, khóc lóc lạy
chơn Phật, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi bạch rằng :” Ngửa mong
đức Như Lai thương xót nhận phần
cúng dường cuối cùngcủa chúng con”.
Đức Phật yên lặng chẳng nhận. Các
Thiên Nữ chẳng được
toại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Bấy giờ có
vô số chư Thiên- Tử, Thiên- Vương, tứ Thiên- Vương,
vô số Thiên Thần, Tỳ- Sa-Môn- Thiên-Vương làm thượngû thủ;
vô số Long Vương Hòa-Tu-Kiết-Long- Vương, Nan-Đà-Long-Vương, Bạt-Nan-Đa Long-Vương làm
thượng thủ;
vô số Kim-Sí-Điểu- Vương, Hàng-Oán-Điểu- Vương làm
thượng thủ;
vô số Càn-Thát Bà- Vương Na-La- Đạt- Vương làm
thượng thủ;
vô số Khẩn-Na-La- Vương, Thiện-Kiến- Vương làm
thượng thủ;
vô số Ma-Hầu-La-Già Vương, Đại-Thiện-Kiến Vương làm
thượng thủ;
vô số A-Tu-La Vương, Viêm-Bà-Lợi- Vương làm
thượng thủ;
vô số Đà-Na-Bà- ø Vương, Vô-Cấu-Hà-Thủy-Vương, Bạt-Đề-Đạt-ĐaVương làm
thượng thủ,
vô số La-Sát- Vương, Khả- Úy- Vương làm
thượng thủ;
vô số Thọ-Lâm-Thần-Vương, Lạc-Hương-Vương làm
thượng thủ;
vô số Hải- Thần, Hà-Thần,
vô số Trì-Chú-Vương, Đại-Huyễn-Vương làm
thượng thủ;
vô số Quỷ-My, Thiện- Kiến-Vương làm
thượng thủ,
vô số Quỷ-Vương, Bạch-Thấp-Vưong làm
thượng thủ;
vô số Tượng- Vương;
vô số Sư-Tử-Vương;
vô số Điểu-Vương;
vô số Ngưu-Vương;
vô số Phong-Vương;
vô số Vân-Vũ-Vương;
vô số Thần-Tiên v.v… Đại- chúng trên đây đều đem
vô số phẩm vật,
vô số hương hoa,
vô số nhũ mật
hảo hạng đến
lễ Phật cúng dường.
Đức Như-Lai đều chẳng hứa nhận. Họ rất buồn khổ ngồi qua một bên.
Chư Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni thảy đều họp đủ, chỉ thiếu mặt hai chúng Ma-Ha-Ca-Diếp va A-Nan- Đa.
Hôm ấy toàn rừng Ta-La bỗng đổi màu trắng như lông
bạch hạc. Trên
hư không tự nhiên có tòa nhà thất bửu, dưới tòa nhà có ao suối mọc đầy
hoa sen xinh đẹp, như vườn
hoan hỉ ở Thiên-cung Đao- Lợi. Cả rừng Ta-La cũng
biến thành trang nghiêm xinh đẹp khác thường.
Trời Đế-thích, cũng như Tứ-Thiên-Vương, và
chư thiên trong
dục giới đều đem phẩm vật thượng hảo dưng lên
đức Phật, mong Phật nhận phần
cúng dường cuối cùng của mình hầu được sớm
thành tựu pháp bố- thí ba-la-mật, nhưng
đức Phật vẫn không hứa nhận. Chư Thiên-Dục
giới không được
toại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Đại Phạm-Thiên-vương cùng
Chư Thiên sắc giới đến
lễ Phật, tha thiếtá dưng phẩm vật cõi sắc. Phật không hứa nhận. Đại Phạm-Thiên và Chư-Thiên
sắc giới không được
toại nguyện, lòng rất buồn khổ ngồi qua một bên.
Bấy giờ Ma-Vương Ba-Tuần cùng
quyến thuộc vô lượng đại chúng mở
cửa địa ngục ban nước thanh- tịnh, nhơn đó bảo
đại chúng rằng : Nay đây các người không làm gì được, chỉ nên
chuyên niệm Như- Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, trần thiết lễ
tùy hỉ cúng dường cuối cùng, các người sẽ được an vui mãi mãi” . Liền đó, Ma-Ba-Tuần
dẹp bỏ dao gươm v.v… , những độc cụ trong
địa ngục cùng làm mưa to
dập tắt ngọn lửa đang cháy hừng. Do
thần lực của Phật, Ma-Vương lại
phát tâm lành truyền lệnh cho
toàn thể quyến thuộc ma đều bỏ hết binh khí, rồi mang
vô số cúng phẩm cùng nhau đến chổ Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật mà bạch rằng :’ Chúng con từ nay
ưa thích và
gìn giữ đại thừa. Bạch Thế- Tôn ! Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn vì
cúng dường, vì sợ hải, vì phỉnh người, vì
tiền của, vì
tùy theo người v.v… mà thọ lấy pháp
đại thừa này hoặc chơn hoặc ngụy chúng con nói chú nầy để
trừ diệt sợ hải của người đó : “ Sá chỉ, trá trá la sá chỉ, lô ha lệ,
ma ha lô ha lệ, a la, giá la,
đa la, tóa ha”.
Bài chú nầy có thể làm cho người
điên cuồng, người kinh sợ, người
thuyết pháp, người chẳng dứt
chánh pháp đều được
an ổn. Vì
hàng phục ngoại đạo, vì
gìn giữ thân mình, vì
hộ trì chánh pháp, vì
hộ trì đại-thừa, mà chúng con nói bài chú nầy. Nếu người nào
thọ trì chú nầy thời không còn sợ voi dữ làm hại; hoặc đi đến rừng hoang, đầm trống, những nơi nguy hiểm chẳng sanh sự kinh sợ; cũng không có những
tai nạn nước, lửa,
sư tử, cọp, sói, trộm, cướp, vua, quan. Bạch đức Thế-Tôn ! Nay đây, chúng con không vì
dua nịnh mà nói những việc nầy. Ai
thọ trì bài chú nầy thời con sẽ
chí thành ủng hộ làm cho thêm
thế lực. Ngửa mong đức Như-Lai
thương xót nhận phần
cúng dường cuối cùng của chúng con”.
Đức Phật bảo Ma-Vương Ba-Tuần rằng :” Như-Lai không nhận
thực phẩm của nhà ngươi dưng, mà chỉ nhận lấy
thần chú của người nói, vì Như-Lai muốn cho
chúng sanh và
bốn bộ chúng được an vui”.
Ma Vương cầu thỉnh ba lần, mà
đức Phật vẫn không hứa nhận. Ma Ba-Tuần không được
toại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Đại-Tự-Tại-Thiên-Vương cùng
vô lượng Chư-Thiên sắm những cúng phẩm trội hơn tất cả thứ phẩm vật của các
đại chúng trời người đã thuật ở trước,
cho đến phẩm vật của Phạm-Thiên Đế- Thích sánh với những cúng phẩm nầy thời như khối mực đen sánh với đống
châu ngọc, một cây lọng báu nhỏ nhứt giương ra có thể che trùm cả cõi
đại thiên. Đại-Tự-Tại
Thiên Vương cùng Chư-thiên đem những cúng phẩm ấy đến chỗ Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi bạch rằng :” Thế-Tôn ! Cúng phẩm của chúng con dưng lên đây rất
hèn mọn khác nào con muỗi dưng cho Chu-Thiên. Lại cũng như đem một bụm nước đổå vào biển lớnù , thắp một cây đèn nhỏ giúp sáng cho trăm ngàn
mặt trời, cầm một cái bông thêm vào vườn bông giữa
mùa xuân muôn hoa đua nở, đặt một hột
đình lịch thêm lớn cho núi Tu-Di. Nào có ích gì cho biển rộng,
mặt trời, vườn hoa, núi lớn. Cúng phẩm của chúng con đối với
đức Phật cũng như thế.
Dầu mang cả
hương hoa,
kỹ nhạc, phan lọng đầy khắp cõi
đại thiên đến
cúng dường Như-lai còn không
đáng kể. Vì sao vậy ? Vì đức Như-Lai thường ở
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh trong các
ác thú thọ nhiều sự khổ để cứu vớt mọi loài. Xin đức Thế-tôn
thương xót nhận phần
cúng dường của chúng con.
Đức Phật yên lặng không hứa nhận. Đại-Tự-Tại Thiên-vương cùng
chư Thiên không được
toại nguyện lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Bấy giờ phương đông cách đây
vô lượng vô số a-tăng-kỳ
hằng hà sa vi trần thế giới, nơi cõi Ý- Lạc-Mỹ-Âm, có
Phật hiệu Hư-Không-Đẳng Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri Minh-Hạnh- Túc Thiện-Thế Thế gian-giải Vô-thượng-sĩ
Điều ngự trượng-phu Thiên-nhơn-sư Phật Thế-Tôn, bảo vị
đệ tử lớn nhứt là Vô-Biên-Thân Bồ-Tát rằng : “ Thiện- nam- tử nên qua
Tây phương Ta-Bà thế giới. Cõi ấy có Phật Thích-Ca-Mâu-Ni đủ mười
đức hiệu sắp
nhập niết bàn. Ông đem cơm thơm ăn vào
an ổn nơi
cõi nầy qua dưng lên Phật Thích-Ca-Mâu-Ni,
Phật thọ rồi sẽ
nhập niết bàn. Nhơn đó ông có thể
lễ kính Phật cầu
giải quyết những điều nghi”.
Vô-Biên-Thân Bồ-Tát tuân
lời Phật dạy, liền cùng
vô lượng chúng Bồ-Tát đồng đến cõi Ta- Bà.
Lúc ấy toàn cõi Ta-Bà
chấn động sáu cách.
Đại chúng nơi rừng Ta-La : Phạm-Thiên Đế-thích, Tứ Thiên- Vương, Ma-Vương-Ba-Tuần, Đaiï-Tự-Tại-Thiên v.v… Thấy đất rúng động, cả mình rỡn ốc, cổ lưỡi khô khan tự thấy thân mình không còn ánh sáng mất cả
oai đức,
kinh hãi run rẫy đều muốn giải tán.
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát liền đứùng dậy bảo
đại chúng rằng :”Mọi người chớ sợ ! Cách đây về phương đông
vô lượng vô số a-tăng-kỳ hằng-hà-sa vi-trần
thế giới (13) có cõi Ý-lạc-Mỹ- Âm. Phật Hư- Không-Đẳng đủ cả mười
đức hiệu. Nơi cõi đó có đại Bồ-tát tên Vô-Biên-Thân cùng
vô lượng Bồ-Tát sắp đến đây. Bởi
oai đức của đại Bồ-Tát ấy làm oai quang của
mọi người phải ẩn đi.
Mọi người nên
vui mừng đừng kinh sợ”.
Liền đó
mọi người đều thấy rõ chúng đại Bồ-tát nơi cõi Mỹ-Âm, như nhìn trong gương tự thấy thân mình.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại bảo
đại chúng : “ Nay đây,
mọi người thấy chúng đại Bồ-Tát đó như thấy
đức Phật Thích-Ca. Do
thần lực của Phật sẽ được thấy vô-lượng chư Phật ở chín phương”.
Bấy giờ
đại chúng đều thấy Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng
quyến thuộc của ngài. Nơi mỗi lỗ chơn lông của Vô-Biên-Thân Bồ-Tát đều xuất sanh một
hoa sen lớn, mỗi
hoa sen đều có bảy muôn tám ngàn thành ấp rộng như thành Tỳ-Gia-Ly. Vách thành hào thành toàn bằng
thất bảo, cây báu hàng liệt bông trái sum sê.
Gío nhẹ thổi động vang ra tiếng
hòa nhã như tiếng
nhạc trời. Nhơn dân trong những thành ấy nghe
tiếng gió reo liền đặng hưởng tho nhiều sự
vui vẻ. Nước trong hào thành
trong sạch thơm tho như chơn luy-ly, trên mặt nước có thuyền
thất bảo, chúng nhơn ngồi thuyên dạọ chơi tắm gội rất mực
vui sướng. Trong hào lại có
vô lượng hoa sen đủ màu : xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe. Trên bờ hào lại có vườn rừng, trong mỗi vườn có năm ao suối đầy
hoa sen bốn màu, hương thơm ngào ngạt. Nưóc ao sạch trong có các loài chim bơi lội. Trong vườn lại có nhiều lâu đài, mỗi tòa lâu đài rộng bốn do-tuần, vách cột mặt đất toàn bằng các chất báu, vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê, trong ấy có nhiều ao suối
thất bảo, bực thang bằng
vàng ròng,
vàng Diêm-Phù-Đàn làm cây, không khác vườn Hoan-ỷ ở cung trời Đao-Lợi. Nơi mỗi thành ấp ấy có
vô số dân chúng luôn luôn
vui sướng. Dân chúng nầy chỉ nghe tiếng pháp vô- thượng đại-thừa, không nghe danh từ gì khác. Có vị
quốc vương ngự trên tòa
sư tử (14) dùng pháp đại-
thừa giáo hóa nhơn dân.Và nhơn dân biên chép
đọc tụng,
tu hành theo
kinh điển đại-thừa. Nhờ
thần lực của Bồ-Tát mà
đại chúng được thấy các sự
biến hóa ấy. Thân của Bồ-Tát cao lớn vô-lượng vô-biên đồng
hư không, trừ Phật, không ai có thể thấy ngằn mé thân của ngài. Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng vô-lượng Bồ-Tát thị-hiện thần-thông như thế rồi, đem
vô lượng cúng phẩm và
thức ăn thơm ngon đến chỗ Phật, ai ngửi đến
mùi thơm của
thức ăn nầy thời
phiền não đều
tiêu diệt,
đảnh lễ chơn Phật mà bạch rằng :” Ngửa mong đức Thế-Tôn
thương xót nhận đồ
cúng dường của chúng con”.Các Bồ-Tát ba phen dưng bạch,
đức Phật biết chưa phải lúc nên không hứa nhận. Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng chúng Bồ-Tát ngồi qua một bên.
Các
cõi Phật ở Nam-phương, Tây-phương, Bắc-phương, cũng có
vô lượng Vô-Biên-Thân Bồ- Tát va vôø lượng đại Bồ-Tát ở
mười phương đều đến rừng Ta-La.
Bốn bộ chúng ở Diêm-Phù- Đề (15) hội về đông đủ, trừ Ma-Ha-Ca-Diếp, A-Nan-đà, vua A-Xà-Thế và
quyến thuộc của vua nầy. Thần Đà- Na-Bà, A-Tu-La nhẫn đến mười sáu loài
ác độc, rắn, rít, bò cạp, bọ hung v.v… đều bỏ
ác niệm mà sanh
lòng nhân từ xem nhau như
cha mẹ, chị em. Tất cả
chúng sanh trong cõi Đại- thiên sanh
lòng nhân từ đối
với nhau cũng như thế, trừ hạng nhứt-xiển-đề.
Hôm ấy, cả
đại thiên thế giới do
thần lực của Phật,
biến thành trang nghiêm đẹp sáng như cõi
Cực lạc của Đức Vô-Lượng-Thọ Phật ở phương Tây (16). Đại-chúng trong pháp-hội Ta-La đều thấy rõ các
thế giới của chư Phật ở
mười phương, như thấy mình trong
gương sáng.ï
Lúc ấy ánh sáng năm màu từ mặt Phật phóng ra bao trùm
đại hội rồi thâu vào miệng Phật. Cả chúng-hội trời, người, a-tu-la v.v… thấy ánh sáng thâu vào miệng Phật, thời cả kinh mà nói rằng : “Đức Phật phóng ánh sáng rồi thâu vào nơi miệng, chắc có
duyên cớ. Hay chính là tướng sắp nhập Niết-Bàn khổ thay !
Khổ thay ! Sao Đức Thế-Tôn lại rời bỏ bốn tâm vô-lượng, chẳng nhận sự
cúng dường của Trời, của ngươiø.
Mặt trời Thánh-huệ từ nay sắp tắt hẳn, thuyền pháp vô-thượng từ nay sắp chìm mất.
Thế gian rất khổ. Than ôi !
Đau lòng lắm thay ! Than xong,
đại chúng nhào lăn kêu khóc, nước mắt hòa máu rơi đầy nơi đất.
THÍCH NGHĨA
(1 ) Rừng cây Ta-La, cũng đọc là Sa-La, vì chỗ Phật ngự, bốn phía có tán cây Ta-La chia làm bốn cặp nên gọi là Ta-La Song-Thọ Câu-Thi-Na
(2) HỮU ĐẢNH gọi đủ là “Tam hữu chi đảnh” – Cõi trời cao nhất trong tam giới, tức là sắc Cứu-Cánh-Thiên.
(3) CÕI ĐẠI-THIÊN, nói đủ là Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới : Một Thái-dương-hệ gọi là một tiểu thế- giới, gồm một từng trời Sơ Thiền và một cõi dục.
Một ngàn tiểu thế giới hiệp lại cùng một từng trời Nhị-Thiền, gọi là một Tiểu-Thiên Thế- giới ( 1 T H. G x 1000 = 1 Tiểu Thiên )
Một ngàn Tiểu Thiên hiệp lại cùng một từng trời Tam-Thiền. Gọi là một Trung-Thiên Thế- Giới ( 1 T. TH. G. x 1000 = 1 T. TH x 1000 = 1 Trung Thiên )
Một ngàn Trung-Thiên hiệp lại gồm một từng trời Tứ-Thiền, gọi là một Đại-Thiên Thế-Giới ( 1 T. TH. G x 1000 = 1 TH x 1000 = 1 TR. TH x 1000 = 1 Đại-Thiên)
Từ một Thái-dương-hệ hay một Tiểu Thế-giới phải ba lần nhơn ngàn chồng lên mới thành một Đại- Thiên Thế-Giới, tức là 1.000.000.000 Tiểu thế giới cùng 1.000.000 trời Nhị-Thiền, 1.000 Trời Tam- Thiền và một từng Trời Tứ-Thiền, nên cũng có chổ gọi Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới.
(4) -Trong toàn cõi Đại-Thiên có vô số loài hữu tình chúng sanh. Đại khái chia làm 6 : Trời, Người, A-Tu-La, Qủy, Súc sanh, và Địa ngục. Có chỗ thêm Tiên thành bảy loài. Có chỗ lược A-Tu- La thành năm loài gọi là “ Ngũ-Thú”.
(5) - TỲ-KHƯU có ba nghĩa : Khất-sĩ, Phá ác và Bố-ma.
Có ba trường hợp thành Tỳ-Kheo :
I – Người chứng Thánh quả vô-lậu gọi là pháp tánh Tỳ-kheo.
II- Được Phật hiện diện, gọi là Thiện-Lai Tỳ-kheo, thời thành Tỳ-kheo.
III-Chư Tăng hòa hợp đúng pháp bạch tứ yết- ma trao giới Tỳ-kheo, đây gọi là Tác-pháp Tỳ-kheo.
(6) - TỨ VÔ-LƯỢNG-TÂM : Từ, Bi, Hỉ, Xả. Vận dụng bốn tâm trên đây bủa khắp vô- lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới, nên gọi là bốn tâm vô lượng.
(7)- Nói đủ là Bồ-Đề-Tát-Đỏa có nghĩa là Hữu-tình đã giác ngộ và giác ngộ các hữu tình khác. Bắt đầu từ khi mới phát tâm bồ đề vô thượng : “ nguyện thành Phật độ muôn loài “, tu lục độ vạn hạnh, phá hai chướng, chứng pháp thân. Tất cả có 57 bực Bồ-Tát : những bực Thập Địa đã chứng Pháp thân gọi là Đại-Bồ-Tát ( Bồ-Tát Ma-Ha-Tát)
(8)- TAM BẢO : Ba ngôi báu quý nhứt ở thế gian : Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.
(9)- Ưu-Bà-Tắc ; Cận-sự-nam. ƯU-BÀ-DI : Cận-sự-nữ. Hai phái tại gia thường gần gũi hộ trì Tam-Bão. Bắt đầu qui-y Tam-Bảo thời được danh hiệu nầy.
(10)-NGŨ-GIỚI : năm điều giới của hàng tại gia : không được sát sanh, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được vọng ngữ, không được uống rượu say.
(11)- TRÀ-TỲ : Lễ thiêu thi hài lấy tro để thờ.
12)- THẤT-BẢO : vàng, bạc, lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc hổ phách, trân châu
(13)- A-TĂNG-KỲ : vô số HẰNG-HÀ-SA : Sông Hằng (Gange).là con sông to, nguồn từ Hy-Mã- Lạp-Sơn (Himalaya) chảy qua trung châu Ấn-Độ đổ ra Ấn-Độ-Dương. Bờ sông và đáy sông này có nhiều cát mịn. Khi thuyết pháp, Phật thường dùng số hột cát của sông Hằng để thay một số lớn.
VI-TRẦN : Bụi nhỏ. Số nhiều như bụi nhỏ không thể tính đếùm đươc.
THẾ-GIỚI : Mỗi thế-giới là cả một Đại-Thiên, phạm vi giáo hóa của một Đức Phật.
(14)-TÒA SƯ-TỬ : Chỗ ngồi chạm hình sư tử tiêu biểu oai đức tự tại đối vớiđại chúng, như sư tử oai khiếp quần thú.
(15)-DIÊM-PHÙ-ĐỀ cũng gọi là Nam Thiệm-Bộ-Châu, tức là quả địa cầu nầy.
(16) A-Di-PHẬT, Phạm-âm, Tàu dịch là Vô-Lượng-Thọ-Phật, hoặc Vô- Lượng-Quang-Phật, giáo chủ cõi Cực-Lạc, cũng gọi cõi An-Lạc cõi An-Dưỡng. Cõi nầy cách cõi Ta-Bà đây mười muôn ức cõi về phương Tây.