Phạm Thiên Thư
KINH HIỀN
HỘI HOA ĐÀM
Thi Hóa Tư Tưởng Kinh Hiền Ngu
Cơ sở Văn Chương Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất năm 1973
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM tái bản năm 2014
1. Kệ khai kinh 2. Cơ duyên 3. Hội Phật dưới hoa 4. Giữa đài mây toả 5. Ngàn ngọn hương dâng 6. Trăm con hạc trắng 7. Hoa đơm hố lửa 8. Huỷ thân cầu đạo 9. Chim tiên cầu đạo 10. Rũ áo hồng trần 1. Khai kinhkhơi lò trầm
thanh tịnhngâm dòng thơ
cúng dườnghào quang mười phương Phật
tỏa áng kinh
hiền lươngnguyện
ba đời cõi pháp
tuyên lưu giải thoát hươngNam mô Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tát
2. Cơ duyênKhơi trầm thơm
tụng kinh Hiền,
Núi Đông thoát hiện một viền gương nga.
Vườn nhài đơm trắng ngàn hoa,
Tầm hương chim cũng la đà bay sang.
Nến rơi lã chã giọt vàng,
Trang kinh lấp lánh đôi hàng sao in.
Gió lay tờ nguyệt im lìm,
Mỗi dòng chữ mở cánh chim
hiền từ.
Theo vào mộng thực cõi hư
Phiến trăng mở cánh
chân như tuyệt vời:
Là đây
cõi Phật cung trời,
Là đây non núi vọng lời
tuyết sương.
Hồn như khói thoảng, mây vương
Nổi nênh giữa chốn
chân thường tịch không
Mở ra mười cõi
mênh mông,
Khép vào lại thắm một bông sương vàng.
Tỉnh thôi khói cuộn mê đàng,
Ngoài hiên còn lại đôi hàng hoa lay
Soi trăng chênh chếch mái Tây,
Đem kinh diệu nghĩa diễn bày thành thơ.
Ai hay tâm thể nghìn xưa
Vẫn như vầng nguyệt trên bờ nước mau,
Qua sông thì mượn đò, cầu,
Chuyển mê, khải ngộ: tâm mầu hiện soi.
Mười phương Bồ-tát thuận đời,
Chuyển
khai Pháp nhãn không ngoài một tâm.
Nương
vô thường, chuyển
vô thường,
Mở tung
giả ngã muời phương
đại đồng.
Kết thơ nên chiếc bè hồng,
Đẩy sào
tín nguyện vượt dòng vọng mê.
Tử sinh chẳng khác Bồ-đề,
Pháp không tự tánh đi về ngại chi.
Kìa bông sen trắng
lưu ly,
Dâng hương thanh tịnh xá gì bùn hôi.
3. Hội Phật dưới hoaChính tôi nghe kể một thời,
Bên thành Xá-vệ giữa nơi
đạo trường.
Vì
nguyện độ chúng
mười phương,
Cùng vào trí Phật, lòng thương vô bờ.
Trải bao năm lắng tâm tu,
Nằm sương, gối cỏ cho dù khổ đau.
Giơ tay
xô đổ thành sầu,
Dứt tham, mê, giận, tâm
mầu nhiệm khai.
Phật ngồi trên nệm cỏ dài,
Hào quang vô lượng cõi ngoài sáng soi.
Hoa thơm khắp mấy từng trời
Cúng dường trải xuống quanh người trầm tư.
Thương
chúng sinh chốn
ao tù,
Đảo điên ý nghiệp, mịt mù
vọng tâm.
“Mà đây
chính đạo cao thâm,
Nói ra người
chấp mê lầm, chẳng tin.
Chi bằng ta nhập Niết-bàn,
Thiền oai,
nguyện lực, chuyển đàng vọng mê.”
Biết Phật dưới cội Bồ-đề,
Phạm thiên vương thoắt hiện về dưới hoa.
Chắp tay, dòng lệ nhạt nhòa
Bạch Thầy: “nỡ bỏ Ta-bà đi sao?
Chẳng
khai hóa đạo nhiệm mầu,
Chúng sinh rồi biết nương đâu trở về!
Đành quên nguyện lớn
xưa kia,
Cứu đời
thoát khỏi lầm mê,
đọa đày.
Kể từ lập cõi cao dầy,
Sáng nay muôn loại có ngày vàng son.
Xin vì tha thiết lòng con,
Ngài khai
chính đạo, cho tròn hạnh duyên.”
Phật truyền: “đáng bực chân tiên,
Lòng thương ông trải khắp miền
thế gian.
Ý tôi muốn nhập Niết-bàn,
Nói chi thêm để
trần hoàn chấp nê.”
Bạch Thầy: “hạt chắc Bồ-đề,
Muôn lao ngàn khổ có nề hà chi!
Dù
chúng sinh đắm mê si,
Sen thơm kia cũng hẳn vì đầm tanh.
Nhớ xưa trải mấy cao xanh,
Ngài từng góp nhặt pháp lành dài lâu.
Quên
thân mạng để tìm cầu
Đạo vàng, luật ngọc cao sâu nghìn trùng.
Gương
vô lượng kiếp còn trong,
Sáng soi như
mặt trời hồng
cõi tiên.”
4. Giữa đài mây tỏaRằng xưa có một vua hiền,
Trần-lan-ba, ấy là tên họ nhà.
Ngài trị châu Diêm-phù-đề,
Khắp muôn cõi nước theo về cậy trông.
Vương phi trăm tía ngàn hồng;
Đại thần, một vạn quan trông nước trời.
Thái bình an lạc nơi nơi,
Mưa hòa, gió thuận, lòng người hoan ca.
Một sớm vua dạo xem hoa,
Ngắm sương từng hạt vùa sa chói ngời.
Thoáng đâu về gợn gió trời,
Chùm sương như thể rụng
rơi lệ vàng.
Nhà vua ngộ lẽ
vô thường,
Hỏi thầm đời khác chi sương khói này.
Mà người đắm giấc mê say,
Cuốn theo
tham dục, tháng ngày lặng trôi.
Thân như gỗ mục, sóng nhồi,
Sinh, già, bệnh, chết,
đời đời chuyển xoay.
Nhủ lòng: ta phải tìm ngay
Con đường thoát khổ, đưa người qua sông.
Sáng sau chim mới gọi Đông,
100. Nhà vua hoa ướp, trầm xông sạch mình.
Trên bệ ngọc, giữa triều đình,,
Ân cần vua ngỏ
chân tình thiết tha:
“Các khanh hãy chỉ giùm ta
Con đường cứu khổ giúp nhà giúp dân.
Cầu chi, ta chẳng ngại ngần,
Dù ban vàng ngọc như
trần sa kia.”
Lệnh vua truyền khắp sơn khê,
Tin đi đã lắm, tin về còn lơi.
Năm sau một vua
trên trời –
Tứ thiên – hiện xuống cõi đời,
xem qua.
Liền
biến thành quỷ Dạ-xoa,
Mặt xanh, mắt đỏ như là máu tươi.
Nanh nhe, tóc dựng rợn người,
Mồm
phun lửa đỏ, nói cười lao xao.
Trình rằng: “thần biết đạo mầu.”
Vua nghe lòng bặt
ưu sầu, ra nghinh.
Trà ban mấy chén ngọc quỳnh,
Suốt đêm kề nguyệt,
chân tình hỏi han.
Sáng sau kiệu ngọc, tàn vàng,
Rước Thầy lên ngự
pháp đàn trầm sa.
Mây hồng phấp phới quanh tòa,
Muôn dân trụ lại trải hoa
cúng dường.
Gối quì đảnh lể
pháp vương,
Nhà vua dưới bệ
trầm hương thỉnh cầu.
Thầy truyền: “muốn
học đạo mầu,
Hãy dâng hoàng hậu, con đầu ta ăn.”
Ai nghe, chẳng hãi vô ngần,
Riêng vua
hoan hỉ, lui chân xuống tòa.
Ngỏ cùng con ngọc, vợ hoa:
“Hy sinh là
đạo đức nhà trị dân.
Muốn cầu
chính đạo độ nhân,
Lễ Thầy, cần đến tấm thân hai người.”
Cúi đầu hoàng hậu nghẹn lời,
Dắt tay
thái tử lên nơi
đạo trường.
Giữa tòa
nghi ngút trầm hương,
Thầy ăn một thoáng máu xương chẳng còn.
Người quanh xiết đỗi kinh lòng,
Xót thương, ai chẳng dòng dòng lệ sa.
Cỏ sầu cũng héo dung hoa,
Mây sầu mấy dải quanh tòa vấn tang.
Pháp sư cao giọng ngâm rằng:
”Thế gian tan hợp
thường hằng như mây.
Sinh ra khổ cực
đọa đày,
Năm ngăn,
không tướng, hợp vầy
duyên sinh.
Thân ta: xương máu một bình,
Của ta: cũng lại muôn
hình tướng không.”
Vua nghe như cởi tấm lòng.
Truyền đem sao chép dán cùng nơi nơi.
Pháp sư sắc diện
sáng ngời,
150.
Tự nhiên hiện tướng tuyệt vời cõi tiên.
“Quý thay! Ta gặp vua hiền,
Biết thờ
chính pháp,
ưu phiền sạch không.
Chẳng còn bao kiếp trần hồng,
Ngài
thành Phật đạo, sáng
lòng từ bi.”
Vua trời cưỡi hạc bay đi,
Lạ thay:
thái tử hiện kề
phu nhân.
Xin thưa: chính bực vua hiền,
Kiếp xa xưa đó là thân trước Ngài.
5. Ngàn ngọn hương dângNgày xưa lại cũng châu này,
Một vua
hiền đức là ngài Lý Sa.
Trị muôn cõi nước gấm hoa,
Bốn phương như thể một nhà an vui.
Thái bình thịnh trị nơi nơi,
Dân coi vua thể như người cha yêu.
Ngài thường sớm tối đăm chiêu,
Cái thân
hoại khổ diễm kiều mà chi.
Gieo nhân lành kiếp
xưa kia,
Trăm năm
phước báo, còn
gì nữa đây.
Làm sao tận
diệt khổ này,
Độ mình đến khắp muôn người qua sông.
Một hôm vua ngự bệ rồng,
Lệnh truyền xuống khắp muôn vùng dân gian.
Cầu người,
chứng ngộ đạo vàng,
Phò vua
giáo hóa con đàng dân sinh.
Ban cho phú quý
hiển vinh,
Đất đai muôn dặm, ngọc vàng muôn xe.
Một hôm có khách phương xa,
Tính danh người nọ xưng là Đỗ Sai,
Ngựa dừng yên trước thành ngoài,
Quì tâu: “xin hiến một vài
pháp môn.”
Vua hiền
rất đỗi vui mừng,
Tự tay đỡ dậy tận tình hỏi han.
Dốc vò ngự tửu thưởng ban,
Cấp riêng lầu ngọc huy hoàng gấm hoa.
Lại truyền dựng một
pháp tòa,
Hôm sau cùng thỉnh Thầy ra
đạo trường.
Vua quì dưới bệ
dâng hương,
Cầu xin mở đức
dẫn đường chúng nhân.
Sư rằng
diệu pháp chính chân,
Muốn nghe vua phải
muôn phần tôn nghinh.
Khoét ngàn lỗ thịt trên mình,
Đổ dầu, đốt ngọn lửa
minh thần này.
Vua nghe,
hoan hỉ nhận ngay,
Khất sư
cho phép bảy ngày sửa sang.
Sứ truyền rao khắp
nhân gian,
Dân hay
đại nguyện cúng dàng nhà vua.
Việc chưa hay thấy bao giờ,
Dù năm biển lớn sao vừa nguyện kia.
Ai nghe, lệ chẳng đầm đìa,
200. Ngựa xe như nước tràn về bỗng dưng.
Quạt tàn như núi như rừng,
Dâng lên sớ thỉnh xin đừng hoại thân.
Còn ai lo nước lo dân,
Bầy con dại thiếu mẹ hiền được đâu.
Vua
chiêu an: “chớ
buồn rầu,
Trẫm dâng
thân mạng tìm
cầu pháp tu.
Dẫu rằng
vạn kiếp phù du,
Nguyện đem
chính đạo đền bù các ngươi.”
Ý vua đã quyết chẳng dời,
Thần dân khắp một gầm trời ủ ê.
Đến ngày hủy mạng cầu sư,
Vua quì trước bệ dáng như núi trầm.
Cầu nghe
diệu pháp cao thâm,
Khoét thân, thắp bấc cúng dâng lửa thần.
“Tôi xin hủy
giả hợp thân,
Cầu
thanh tịnh đạo cứu dân, độ đời.”
Cầm dao vua khoét một hồi,
Ai ai mà chẳng
rụng rời khóc than.
Vua rằng: “lửa thắp, hồn tan,
Trước xin Thầy mở pháp vàng độ tôi.”
Pháp sư ngâm giọng
bồi hồi:
“Thường rồi đều hết, cao rồi thấp ngay.
Hợp tan một thoáng mây bay,
Vừa sinh thoắt đã đến ngày
tử vong.”
Nhà vua
cung kính nghe xong
Tự tay châm lửa, thân rồng
an nhiên.
Khởi lòng
thanh tịnh vua nguyền:
“Khổ thân để dứt
triền miên khổ tình.
Đốt thân cầu lửa trí minh,
Phá ngu si cứu
chúng sinh mọi loài.”
Nguyện vua chuyển cả cung trời,
Thần tiên hiện xuống quanh nơi lửa hồng.
Tàn hoa che kín
hư không,
Kim thân Bồ-tát dốc lòng cầu sư.
Lệ tiên nhỏ xuống thành mưa,
Ngàn hoa theo gió cũng đưa hương về.
Vua trời Đế-thích hầu kề,
Rằng: “ngài quyết
vượt sông mê, qua dòng?
Bây giờ, nuối tiếc chi không?”
Vua cười: “phát nguyện một lòng không hai.”
Thiên vương gặng hỏi: “thưa ngài,
Lấy gì
chứng cớ cho lời nguyền kia?”
Nghe xong, vua phát
lời thề:
“Tâm tôi như trước chưa hề chuyển lay,
Thì xin lỗ tẩm dầu này,
Trên thân xác lại vẹn đầy như xưa.”
Lòng thành cảm đến
Phật thừa,
Quán Thế Âm hóa giải mưa biến thần.
Chợt nghìn ngọn lửa trên thân,
Nở thành sen quý xanh ngần cánh hương.
Lòng như ngọc, trí như gương,
Sáng như
nhật nguyệt chân thường như lai.
Thưa rằng: “vua đó là Ngài,
Đốt thân để sáng muôn loài
si mê.”
6. Trăm con hạc trắngNgày xưa châu Diêm-phù-đề,
Có vua thánh trị là Lê
Thái Bình.
Núi sông hùng vĩ
quang vinh,
Hậu cung
rực rỡ muôn cành sắc hương.
Với bao hoàng tử
siêu phàm,
Lại thêm
văn võ bách quan trung thành.
Phồn hoa lầu các như tranh,
Đồng quê thảm lúa trải xanh mượt mà.
Ơn cao thắm đượm nhà nhà,
Bốn phương trong cảnh thái hòa an vui.
Xe vua thường dạo khắp nơi,
Miền sông biển, chốn rừng đồi ngại chi.
Tìm nghe
chính pháp từ bi,
Giúp nền
giáo hóa, trị vì năm châu.
Lại đem yết bảng tìm cầu,
Đón người
đắc pháp nhiệm mầu chính chân.
Một hôm có bậc
đạo nhân,
Từ non cao xuống trước sân khấu đầu.
Rằng “tôi
tu học dầy lâu,
Nhập thâm Phật lý nhiệm mầu, ghé chơi.”
Nhà vua
hoan hỉ đón mời,
Lập đàn
thuyết pháp giữa nơi
đại thành.
Tin truyền đến khắp vùng quanh,
Ai mong
nghe pháp, trọn lành đều qua.
Đến ngày khai mở đạo tòa,
Nhà vua quì dưới thiết tha ngỏ bày
Rằng “tôi
mê chấp sâu dầy,
Duyên may lại gặp được thầy độ cho.”
Sư rằng “đáy bể khôn dò,
Biết ai đã quyết nương đò qua sông.
Mà, ôi! biển khổ
mênh mông,
Nếu chưa
đại lực đại hùng khó sang.
Thân rồng, xin đóng đanh vàng,
Một trăm chiếc thử đá vàng
xem sao.”
Vừa nghe
đại chúng nhôn nhao,
Nhưng vua dưới bệ
gật đầu kính vâng.
Bảy ngày sau hẹn xin dâng
Tin truyền xóm trúc thôn tùng đều hay.
Cáo rằng “trẫm hủy thân này,
Quyết tìm đạo lớn chuyển xoay vận đời.
Nguyện đóng trăm đinh trên người,
Phát tâm dũng mãnh cầu lời chính chân.”
Tin nghe
xúc động lòng dân,
Kéo về từ khắp thành gần làng xa.
Non cao cũng rũ, giang hà
300. Sông buồn nước cũng la đà sóng xô.
Ngựa xe dàn chật kinh đô,
Đêm dong đèn đuốc
mơ hồ bốn bên
Người chung một ý tâu lên
”Chúng con thay mặt muôn miền gấm hoa.
Ơn vua trải mấy sơn hà,
Chăn dân là mẹ,
quốc gia là vì.
Thánh hoàng nay
bỏ ra đi,
Rồi muôn cõi nước còn gì ngưỡng trông.
Để mà noi tấm gương trong,
Bốn phương giữ mãi
trong vòng anh em.
Xin trên
thương xót con hiền,
Ở ngôi
nhật nguyệt giữ gìn muôn dân.”
Lại thêm
hoàng tộc quần thần
Rập đầu thềm ngọc muôn lần khóc can.
Vua rằng “xin chớ bi than,
Trong cơn
trường mộng muôn vàn tử sinh.
Dòng sông
hư ngụy chưa đình,
Chiếc thân bọt nổi, mặc tình sóng đưa.
Thân ta từ kiếp xa xưa,
Chất nên
cho đến bây giờ thành non.
Máu xưa góp chảy đá mòn;
Lệ xưa, đọng lại nay còn sóng lay.
Cũng vì
tham vọng mê say,
Uổng bao kiếp sống
đọa đày trần gian.
Trẫm nay
phát nguyện cúng dàng,
Hủy thân
cầu đạo, tuyệt đàng
tử sinh.
Nguyện
thành Phật, phá
vô minh,
Thề
dìu dắt chúng hữu tình qua sông.
Việc này
vì lợi ích chung,
Gác bi oán nọ, xin đừng can chi.”
Thần âm đã chuyển mê kia,
Lệ người còn chảy đầm đìa áo tơ.
Hôm sau vừa sáng tinh mơ,
Hoa thơm trải khắp đường mờ sương bay.
Ngựa xe chật cứng thành ngoài,
Mười phương tụ lại quanh đài trầm lan.
Nhà vua lên
đỉnh pháp đàn,
Thỉnh
nghe pháp trước, đanh vàng đóng sau.
Đạo hiền tụng biến mưa mau:
”Thế gian như thể dưới cầu nước xuôi.
Vô thường chuyển khắp trời, người,
Sinh ra khổ lụy nào rời tấm thân.
Cõi đời, ôi, áng phù vân!
Hợp tan, tan hợp bao lần có không.
Thân ta
một nắm bụi hồng,
Khác chi lòng suối in dòng chim bay.”
Nghe xong
diệu pháp khai bày,
Chép kinh thơ nọ sai người tụng rao.
Trăm đinh trăm ngọn máu đào,
350. Khóc lên dậy đất, lệ trào nát hoa.
Đức vua mặt vẫn
hiền hòa,
Sáu lần chuyển động mây lòa
hào quang.
Thần tiên hiện trải hoa hương,
Cảm vì đức lớn
cúng dường cao sâu.
Vua trời Đế-thích rầu rầu
Hỏi rằng “Ngài nguyện
mai sau làm gì?
Ma vương, hay
Phạm vương ư?
Thánh vương? Đế-thích? Nguyện từ hôm nay!
Vua rằng “hủy giả thân này
Nguyện
thành Phật đạo cứu người
đảo điên.
Chẳng cầu
phúc báo nhân thiên,
Tử sinh ba cõi, dưới trên sá gì.”
Vua trời lại tỏ lòng nghi:
”Thân đau ngài có còn gì hối không?”
Xin thưa “nguyện tựa
vàng ròng,
Như chim hồng lạc thoát vòng gió mây.”
“Thế thì bằng cớ chi đây?
Chứng cho
lời nguyện cao dầy làm tin!”
Nhà vua nghe lại thệ nguyền:
“Giờ xin
vô lượng vô biên chứng giùm.
Nếu con sau trước một lòng
Thì cho nguyên vẹn mình rồng
xưa nay.”
Hào quang sáng rực phương mây,
Định thành trăm cánh hạc bay trắng ngần.
Lại lành nguyên cả châu thân,
Tiếng reo dậy đất quân thần ngợi ca.
Bạch Thầy
tâm nguyện sâu xa,
Thái Bình kiếp trước chính là người xưa.
Lòng như biển lớn vô bờ,
Thân như mây trắng
vật vờ hư không.
Chí như nghìn ngọn thác hồng,
Phá tan tập kiến một
lòng từ bi.
7. Hoa đơm hố lửaBạch Thầy: một kiếp
xưa kia,
Lê Thiên vua cõi Phù-đề châu Diêm
Hạ sinh thái tử ngoan hiền
Muôn muôn cõi dậy Lê Kiền
danh thơm.
Thiên năng
trí tuệ phi thường,
Riêng nơi động núi hoa vườn
tĩnh tâm.
Lòng ưa
chính pháp cao thâm,
Thường đi khắp nước suy tầm đó đây.
Kể gì Nam Bắc Đông Tây,
Tìm đạo
giải thoát khai bày trí minh.
Giúp cho dân nước
thanh bình,
Tấm thân dầu dãi mặc tình gió sương.
Mải mê tìm
đạo chân thường,
Hương pha áo cỏ, mây vương gót lành.
Lòng ngài cảm đến cao xanh,
Vua trời Đế-thích
hiện thành đạo nhân.
Một chiều quảy gói
phù vân,
400. Hương bay mình hạc, mây ngần
dâng hoa.
Gót dời lãng đãng mưa sa,
Tiếng như suối ấm la đà rừng thu.
Thành ngoài ghé bước
vân du,
Truyền khai lẽ sáng, pháp
tu đạo lành.
Danh thơm đồn đãi vùng quanh,
Một chiều
thái tử vượt thành tìm nghe.
Bên rừng đôi mái nhà che,
Đạo sư thiền tọa bên hè cúc lan.
Vừa nhìn dáng hạc tiên nhan,
Pháp mầu tỏ ngộ,
bàng hoàng tâm mê.
Thương mình si đắm chưa lìa,
Trăng lên lệ vẫn đầm đìa giọt ngân.
Về thành tâu lại
phụ thân,
Dựng đàn
bảy báu đủ phần
uy nghi.
Thái tử thân kéo xe đi,
Lọng tàn giát ngọc
lưu ly chói lòa.
Suốt đường trải gấm phơi hoa,
Hai bên mỹ nữ đàn hòa sáo vang.
Thỉnh sư về ngự
thiền đường,
Có tòa
mã não, có giường bích châu.
Chọn ngày mở
tạng kinh mầu,
Vượt sông tham dục, dựng cầu
thanh tâm.
Sáng sau nắng mới hoe vầng,
Chim muôn sắc tụ hót mừng hội khai.
Mây hồng tía khắp phương ngoài
Kết thành tán gấm trải dài
hư không.
Nhạc thần cũng tự không trung,
Êm êm như thoảng mấy từng hoa vương.
Thái tử quì trước án hương
Chắp tay đảnh lễ tỏ tường trình thưa:
“Thân con ở chốn mê mờ,
Tấm hình bọt sủi
vật vờ sóng lay.
Bây giờ được gặp duyên may,
Xin
ân đức lớn khai bày
chân thân.”
Ba phen
cầu thỉnh ân cần.
Sư rằng “mối đạo suy tầm dầy lâu.
Trải bao nắng ải mưa dầu,
Ngó non mây nổi, soi cầu nước xuôi.
Gối cây, chiếu cỏ, màn trời,
Cơm rau nước suối ẩn nơi động thần.
Ngài muốn
cầu đạo độ dân,
Phát tâm phải dứt
hồng trần nghiệp duyên.
Trước lo mình sạch
ưu phiền,
Sau vì mê
khổ nhân thiên
độ trì.
Nếu ngài quyết diệt tham si,
Cầu
tâm đạo chớ tiếc gì giả thân.
Cho đào hố nhóm than lên,
Nhảy vào lửa để dứt liền tóc tơ.”
Việc chưa từng thấy bao giờ,
450. Vừa nghe, ai chẳng sững sờ ngó trông.
Chỉ riêng
thái tử thuận lòng,
Phụ vương, mẫu hậu tuôn dòng lệ can:
“Sao con nỡ hủy thân vàng,
Chẳng lo
gánh vác giang san sau này.
Ngai rồng ai sẽ lên thay,
Kho tàng
châu báu vơi đầy uổng đi.
Lại bao lân quốc nể vì
Vẫn hằng cẩu khẩn hiện về thành vương.
Mẹ, cha giờ tóc điểm sương,
Tuổi già còn biết đâu nương ngày thừa.”
Nghe lời lệ nhỏ như mưa,
Chàng quì dưới gối, giọng thưa rầu rầu:
“Thân con lụy nghiệp dầy sâu,
Tử sinh như bọt dưới cầu réo sôi.
Kể từ
vô thủy luân hồi,
Nương lòng
tham dục sáu loài quẩn quanh.
Dù muôn tuổi thọ thiên đình,
Dù mang kiếp sống mỏng manh nhân hoàn.
Dù hầm ngục lửa kêu than,
Đọa thân
ngạ quỉ vô vàn khổ đau.
Dù làm kiếp ngựa kiếp trâu,
Bò, bay, máy, cựa cũng
sầu khổ thay.
Nay con được gặp duyên may
Cầu
diệu pháp cứu muôn loài tham si.
Kiếp phù du có kể gì,
Nguyện
thành đạo lớn chuyển mê độ đời.”
Song thân thấy đức
tuyệt vời,
Còn đâu mong chuyện đổi dời tâm tư.
Đến ngày cung thỉnh
đạo sư,
Pháp đàn hoa kết, ngọc lư ùn trầm.
Vây quanh tàn quạt quần thần,
Dưới đàn ngọn lửa cũng dần bốc cao.
Từ xa
nổi tiếng khóc gào,
Nghe ra ai chẳng nao nao tấc lòng.
Ngài quì trên thảm gấm hồng,
Vừa coi tưởng lả một bông tuyết trời.
Cầu nghe
chính giáo diệu vời,
Gió lay hoa chợt rụng rơi cánh vàng.
Đạo sư cao giọng ngâm vang
Lời thơ hồ tưởng gieo vàng rơi châu.
Rằng “sinh tử nước xuôi mau,
Chết trong thây sống tham cầu mà chi!
Một lòng tâm khởi
trí biTrừ sân, tưởng hại huyễn mê nào còn.
Lấy
chúng sinh làm thân mình,
Dù
mười phương lớn cũng hình thể tâm.
Tu hành làm chốn
vui mừng,
Khiến
tam thế mộng tan bừng ánh dương.
Giúp người vượt thoát mê trường,
500. Là tâm Bồ-tát
yêu thương độ đời.”
Nghe xong
thái tử mừng vui,
Truyền đem sao chép sai người tụng rao.
Rập đầu lễ trước đài cao,
Thì từ đâu tiếng khóc gào dấy lên.
Phạm thiên vương đứng chờ bên
Cầm tay
thái tử Lê Kiền hỏi han:
“Vị gì nhảy xuống hố than,
Hiếu tâm đã bỏ, ngai vàng thì sao?
Chi bằng nước mạnh dân giàu,
Nệ gì pháp kệ nhiệm mầu này thôi.”
Thái tử rằng “chớ can tôi,
Cũng vì thương chốn
luân hồi mê sân.
Vả chăng nghĩa lợi
phù vân,
Ngọc vàng nào chữa tâm thân bệnh dầy.
Nguyện đem đạo lớn độ đời,
Nguyện thiêu thân để thức người
trần lao.”
Dứt lời từ đỉnh đàn cao,
Như hoa nguyệt quế gieo vào lửa thiêng.
Nguyện người chuyển khắp cõi thiên,
Hào quang như tỏa một viền trăng soi.
Lạ thay hầm lửa ngút trời
Biến thành ao ngọc
sáng ngời lưu ly.
Một bông sen nở diệu kỳ,
Gió thơm thoảng sạch
sân si lòng người.
Thái tử ngồi giữa hoa cười,
Ánh mây hồng tía lưng trời vừa sa.
Tiếng hò reo nổ tung ra,
Tin vui đến khắp muôn nhà
ngợi khen.
Đại sư biến thành vua tiên
Thưa rằng “như đóa
hồng liên đại hùng.
Lòng thương ngài thật
vô cùng,
Quyết sau
thành đạo qua sông mê trường.”
Vua xưa là Tịnh-phạn vương,
Hoàng hậu ngày đó là
thân mẫu ngài.
Thái tử chính
đức Như Lai,
Ơn sâu suốt cả đất trời còn vang.
Tâm kia sáng ngọc tươi vàng,
Chí như chim lạc thẳng hàng bay lên.
Một nguyện
cứu độ nhân thiênTrong hồ mê trược hiện viền
thái hư.
Dưới hoa
đức Phật trầm tư,
Nghe xong
đứng dậy áo như ráng hường.
Trông về thung lũng mù sương,
Bước đi mỗi bước
chân thường Như Lai.
Cánh hoa tuyết rụng trên vai,
Đường về thơm một dặm dài khói hương.
8. Hủy thân cầu đạoLại nghe một thuở xa kia,
Cách
vô lượng kiếp Phù-đề châu nay,
Có nước hào rộng thành dầy,
Có non hoa tía ngày ngày ngậm sương.
Là nơi thạch động mây vương,
Bên dòng suối bạc, cạnh nương liễu đào.
Năm trăm
tu sĩ thanh cao
Ẩn trong động núi
tiêu dao tháng ngày.
Ông Phạm Ngọc Lan là thầy,
Dù theo tiên đạo vui vầy trúc mai.
Lại thường
cầu đạo như lai,
Gót chân mài khắp phương trời
biên cương.
Tìm nơi động khói rừng hương,
Ý mong gặp
đấng pháp vương một lần.
Ngày kia có
vị đạo nhân,
Áo gai mình hạc dừng chân động ngoài.
Quảy thêm túi xách trên vai,
Tuyết pha mây bạc, hoa cài tóc thưa.
Rằng: “là
cơ pháp duyên xưa
Muốn cầu
giải thoát qua bờ
trần sa.
Bút dùng thì chẻ xương ra,
Giấy dùng thì lóc da ngà trên vai.
Cắt máu chép
pháp Như Lai,
Đó là
đại nguyện của người cầu tu.”
Rập đầu lễ tạ
đạo sư:
“Thầy đem ánh sáng
đại từ xuống đây.
Thân con
nghiệp chướng sâu dầy,
Quẩn quanh sáu nẻo dẫy đầy
vô minh.
Duyên may thoát
kiếp phù sinh,
Dù cho trả cái giả hình
mê tân.”
Rồi cầm dao tự hủy thân,
Lóc da vai, chặt một chân tức thì.
Bút xương chấm máu đầm đìa,
Ngàn hoa dường cũng thân lìa hồn tan.
Thầy ngồi dưới cội lau vàng,
Sau lưng như dựng mấy hàng ngọc trâm.
Môi như sen thắm trong đầm,
Tiếng ai như thoảng hương trầm dâng xanh.
“Phải thường thâu
nhiếp tâm hành,
Sát-dâm-trộm-dối: bốn nhành sông lơi.
Xa lìa tà kiến, vọng lời,
Là Bồ-tát hạnh cứu đời
tham mê.”
Chép xong tâm kệ Bồ-đề,
Nhìn lên sư
hóa thân về phương nao.
Dải
mây ngũ sắc trên cao,
Thinh không thoảng tiếng hạc nào lên tiên.
Rồi đem mấy lá kinh hiền,
Chiếc thân tấp tểnh quanh miền hóa khai.
Độ người mê tỉnh
trần ai,
vất vơ
sinh tử, lạc loài khói mây.
Ngọc Lan xưa lại về đây,
Xả thân vì nghiệp sâu dầy
chúng sinh.
9. Chim tiên cầu đạoLại thưa cũng ở châu Diêm,
Thuở xa xưa có vua hiền Tạ Thi.
Núi sông nghìn cõi quy về,
Triều đình, vương quốc Bạt-đề cậy oai.
Lúa ngô xanh ngát chân trời,
Miền miền
an lạc, người người âu ca.
Ơn vua thắm cỏ tươi hoa,
Dù nơi hải
giác thiên nha cũng từng.
Mỗi lần
thức giấc nghe sương,
Vua thường
suy nghĩ tìm phương giúp đời.
Mỗi chiều ngó nắng vàng rơi.
600. Nhà vua tự kiểm ý lời ngày qua.
Nghiệp lành gió thuận mưa hòa,
Chìm vui tiếng hót la đà
triền miên.
Ngày kia Đế-thích vua tiên,
Tới hồi nghiệp tận
ưu phiền dung hoa.
Cận thần có ý
xem qua,
Tâu lên: khí sắc sao mà khác xưa?
Vua rằng: “khanh đã hay chưa,
Đêm qua sao rụng báo giờ
tử vong.
Tiếc thay sống
cõi trần hồng,
Như Lai chẳng gặp
thỏa lòng y nương.
Mà thân móc đọng sương vương,
Biết đâu
chính pháp soi đường tịnh tu.”
”Thưa ngài: dưới cõi Diêm-phù,
Vua Tạ Thi nọ
chuyên tu đạo vàng.
Bồ-tát hạnh
hóa nhân gian,
Xóa bờ nhân, ngã, một đàng
trí bi.
Nếu ngài tới đó
quy y,
Viên thành Phật đạo ngại gì
tử vong.”
Vua truyền: “quả đúng như lòng,
Thì muôn nghìn cõi mây hồng cũng qua.
Thử xem người có hơn ta,
Nhập thâm
giáo lý Phật-đà cao sâu.
Vậy khanh hóa làm chim câu,
Ta làm chim cắt đuổi nhau mấy vòng.
Tới nơi điện ngọc thành trong,
Nhà ngươi đậu nấp mình rồng áo mây.
Cầu vua
cứu thoát nạn này,
Còn ta sẽ hỏi xin người lại ăn.
Xem ngài
giải quyết sao đành,
Đôi bên cho được đẹp lành đôi bên.
Thử lòng vàng đá cương kiên,
Xem ra đáng bực
đại hiền sẽ nương.”
Nói rồi giữa cõi mây vương,
Một đôi chim nọ thẳng đường tung bay.
Thoáng thôi, lầu các hiện đầy,
Vàng châu lấp lánh như bầy sao sa.
Chim câu đáp xuống thềm hoa,
Nhà vua đang ngự trên tòa thưởng hương.
Chim câu gọi: “bớ
đại vương,
Cứu tôi
thoát khỏi tai ương lần này.”
Chim cắt đậu trên cành cây
Cũng thưa: “xin trả vật này cho tôi.”
Vua nghe dạ những
bồi hồi,
Xót thay nợ máu bao đời trả vay.
Truyền rằng: “nguyện cứu muôn loài,
Lẽ đâu ta đuổi chim này mi ăn?”
Cắt kêu: “ngài xét cho mình,
Tôi không phải loại
hữu tình hay sao?
Đói thịt tươi, khát máu đào,
650. Cứu chim kia lại nỡ nào hại tôi!”
Vua rằng “gạo trắng trái tươi,
Cứ gì máu thịt một loài ăn nhau?”
Cắt thưa “tập nhiễm dầy lâu,
Người kia đâu khát lệ sầu máu hôi?
Tôi tìm thịt để ăn thôi,
Người giết nhau để mua cười ích chi?”
Vua trầm nét mặt
từ bi,
Cứu hai mạng sống đền nghì thân ta.
Ngài rằng “xin thế thịt da,
Nếu ưng, sẽ lóc thịt ra đền bồi?”
Cắt thưa “thì cũng chìu lời,
Đổi sao cho xứng thịt người thịt chim.”
Lưỡi dao cắt thấu con tim,
Bên đùi tách miếng thịt in máu hồng.
Đặt trên một dĩa cân đồng,
Lạ thay, khối thịt nhẹ bồng hơn chim!
Vua liền lóc cả đôi chân,
Thịt da sao đọ phép thần cho đang.
Bên chim nặng tựa non vàng,
Xương da nào dễ
so bằng lượng kia.
Nén đau nhích lại gần kề,
Phục lên dĩa nọ đầm đề máu tuôn.
Lạ sao: vẫn nhẹ như thường!
Nhà vua
ngã xuống chân tường
mê man.
Hiên rồng một vũng máu loang,
Chừng nghe lãng đãng
mơ màng khói sương.
Nghĩ thân lẩn quất
vô thường,
Cánh bèo nhân ảnh
sáu đường nổi trôi.
Vì tham mạng sống khôn dời,
Giữ mình nên hại muôn loài kể chi.
Rốt thôi, nấm cỏ xanh rì,
Đất trời kia hỏi còn gì bóng mây.
Trải ra bón cỏ đơm cây,
Tự thân xả nắm bụi này dễ đâu.
Quyết vượt
ngã chấp dài lâu,
Hiến mình đổi mạng chim câu
một lần.
Là đường
thể nhập pháp thân,
Mười phương thế giới chuyển vần trăng sao.
Bỗng dưng
tỉnh giấc mộng đào,
Mắt như
nhật nguyệt rực
hào quang soi.
Đứng lên
dũng mãnh tươi cười,
Bước đi mỗi bước cung trời ngả nghiêng.
Gió thành đàn sáo
thiên tiên,
vu gieo nhạc quanh miền thành hoa.
Lệ thần cũng thoáng mưa sa,
Hô như rụng ngọc rơi ngà đó đây.
Dù cho trời rộng đất dầy,
Ngàn năm muốn có nguyện này dễ đâu.
Xả thân chuộc mạng chim câu.
Còn chăng ánh sáng nhiệm mầu
đại bi.
Lòng thành nhiếp phục chim kia,
Hiện ra nguyên dạng một vì
thiên vương.
Gối quì lạy trước thềm hương,
“Tôi từ Đao-lợi
tìm đường qua đây.
Biến làm chim cắt thử ngài,
Lòng từ kia hẳn vượt ngoài cõi mê.
Kiếp sau thành đạo Bồ-đề,
Ứng thân ba cõi đi về hóa khai.”
Tay tiên như búp
hoa đài,
Lạy xong cõi đất tỏa ngời
hào quang.
Nghìn bông sen ánh hồng vàng,
Giữa
hư không trải theo hàng phượng qua.
Cánh mầu che khắp Ta-bà,
Dựng nên một chiếc quạt hoa diệu vời.
Mấy từng mây khói chơi vơi,
Phật Di-đà ngự đỉnh trời ngó trông.
Hoa thơm phủ khắp thềm rồng,
Thân vua nguyên vẹn như
hồng như mai.
Tạ Thi xưa chính là Ngài,
Trải muôn
ức kiếp khai bày cõi mê.
10. Rũ áo hồng trầnLại tôi được thấy
tỏ tường,
Một thời Phật ngự trong vườn Cấp Cô,
Dưới cây
thái tử Kỳ-đà,
Bốn mùa cây cỏ ra hoa
cúng dường.
Sáng kia Xá-vệ thành sương,
Cửa ngoài nở
mặt trời hường sáng soi.
Phật mang y, bát rạng ngời
Bước
chân tịch mặc
trong đời tham mê.
A-nan
hiền giả gần kề,
Ôm bình theo giữa bốn bề mây vương.
Trên cành hoa sớm
dâng hương,
Gió lay rụng những đóa sương diệu kỳ.
Vào thành, đứng lại phố kia,
Gặp ba tử tội đầm đìa châu sa.
Ngựa dong điệu trước một già,
Giáo gươm tỏa ánh chói lòa rợn oai.
Đàng sau áp dẫn hai trai,
Mẹ con ác tặc đến ngày đầu rơi.
Gặp Phật
hóa độ tới nơi,
750. Quan trên dừng lại nghiêng người nể nang.
Nhác trông
rực rỡ y vàng,
Tử tù quì xuống giữa đàng
van xin.
Hỏi ra mới rõ tội tình,
Phật xin quan hãy vì mình thả ra.
Vâng lời dạy, vội ân tha,
Giao cho về với đức cha
đại hiền.
Mẹ con được thả ra liền,
Quì ôm
chân Phật hóa duyên, khóc dài.
Rằng “ơn
cứu tử của Ngài,
Sống ghi tạc dạ, chết vùi theo sâu.
Thầy ơi! trăm khổ ngàn sầu,
Con xin
sám hối quay đầu
quy y.”
Phật rằng “oan trái thân kia,
Gieo nhân,
hái quả, mau lìa
nghiệp duyên.
Từ nay
cố gắng tu chuyên,
Ắt sau hưởng
phúc nhân thiên
đời đời.
Các con hãy nhớ ghi lời,
Mười điều
tu thiện là nơi cậy nhờ.
Duyên nay để chuyển nhân xưa,
Chỉ bây giờ biết bây giờ giới trai.”
Nói xong Phật gọi “Thiện lai!”
Lạ thay tóc phủ ngang vai rụng liền.
Áo gai đang mặc trên mình,
Hào quang tỏa chiếu
biến thành cà-sa.
Tham mê gội sạch lòng hoa,
Con thành La-hán, mẹ là
Bất lai.
Làu làu trí nhiệm mầu khai,
Tâm như ngọc kết trên đài
đau thương.
Theo Phật về tới
đạo trường,
Cơ duyên kia thật lạ thường ai hay.
Tôi hầu dưới thềm hoa lay,
Căn xưa, xin Phật khai bày xem sao?
Phật rằng “nhân quả theo nhau,
Xem ngày nay biết ngày sau những là
Thuở xưa vua hiền Lý Nha,
Lân bang
kiêng nể, dân nhà cậy trông.
Sinh ba hoàng tử hào hùng,
Người tên Lý Nhã rộng
lòng từ bi.
Một hôm vua dẫn con đi
Lên non chọn suối
lưu ly ngâm mình.
Anh em vào núi tìm quỳnh,
Lội theo dòng biếc in hình trời cao.
Bỗng đâu gặp dưới cội đào
Mẹ con hổ đói khác nào khung xương.
Mẹ nằm
ảo não bi thương,
Hai con nhai sữa bên sườn đét da.
Thương tình, ai ngẩn ngơ hoa,
Nhủ thầm hỏi lấy chi mà cứu đây!
Khổ ơi sao khổ thế này,
800. Kéo lê một tấm thân gầy vì con.
Thâm tình như núi như non,
Ngàn năm nước chảy vẫn còn
uy nghi.
Nghĩ hoài chẳng biết lấy chi,
Cứu ba mạng sống đành thì cho thân.
Hai anh giục giã dời chân,
Trở về kẻo để
phụ thân buồn rầu.
Nhã thưa: “em sẽ về sau.”
Hai anh
hờn giận kéo nhau vội rời.
Nhịn cọp mẹ sắp tắt hơi,
Thế là tự nguyện
tới nơi cọp nằm.
Rã rời chẳng thề vồ ăn,
Nhìn như
cảm tạ ân nhân dạt dào.
Hoàng tử liền rút lưỡi dao,
Tự đâm ngập cổ máu đào vọt lên.
Hổ mẹ liếm láp tỉnh dần,
Lần hồi ăn hết xác thân đỏ lòm.
Dắt nhau lủi trốn vào non,
Máu loang xương trắng vẫn còn dưới hoa.
Hai anh về gặp vua cha,
Hoàng hậu thấy vắng hỏi là “em đâu?”
“Nhã còn lội suối về sau.”
Vua rằng “sao để rừng sâu một mình?”
Đập bàn thét gọi vệ binh,
Truyền mau lên núi đón nghinh Nhã về.
Vừa tìm đến cội hoa kia,
Thấy đầu hoàng tử đầm đìa máu loang.
Tin như sét dội
kinh hoàng,
Hai thân gieo xuống long sàng lịm hơi.
Bỗng
nghe văng vẳng từng trời
“Con xin
phụ mẫu kịp rời về kinh.
Vì nguyện
cứu độ chúng sinh,
Đem thân nuôi cọp thoát hình
đảo điên.
Bây giờ
sinh hóa cõi thiên,
Tầng trời Đâu-suất, là miền
thảnh thơi.
Lầu cung ngọc sáng vàng ngời,
Thấy cha
đau đớn, con vời hạc sang.
Tiếc chi
một nắm bụi vàng,
Có hình, có hoại, tiếp đàng tử sanh.
Thiện nhân:
sinh hóa cõi lành,
Ác nhân:
địa ngục quẩn quanh dãi dầu.
Mẹ cha
tinh tấn đạo mầu,
Mốt mai con lại được hầu mẹ cha.”
Trên không cánh hạc la đà,
Song thân vừa cũng tỉnh ra
bàng hoàng.
Truyền đem hòm ngọc quách vàng
Thu
hài cốt nọ vội mang
lên đường.
Tháp xây mấy ngọn
cúng dường,
Tạc bia ghi chuyện lạ thường
xưa nay.
Lý Nhã nay lại về đây,
850. Lý Nha vua trước: ngày rày
phụ thân.
Ba
mẹ con hổ rừng xuân,
Sáng nay, nguyện xả
bụi trần xuất gia.
Bây giờ, như cánh chim qua,
Thoát lên từ chốn bạo tà tanh hôi.
Thềm lan Phật vẫy gọi tôi,
Vỗ vai nhắn nhủ đôi lời kể đây.