21. PHẨM ANH NHI HẠNH THỨ HAI MƯƠI MỐT
(Hán bộ phần sa quyển thứ mười tám)
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát : “ Thế nào gọi là
Anh Nhi Hạnh ?
Nầy
Thiện nam tử ! Chẳng có thể
đứng dậy, đi tới,
đi lui, nói chuyện, đây gọi là
Anh Nhi. Cũng vậy
đức Như Lai chẳng thể khởi dậy, vì
Như Lai trọn chẳng khởi các
pháp tướng. Cũng chẳng thể đứng dừng, vì
Như Lai chẳng
chấp trước tất cả pháp. Chẳng thể đến vì
thân hình của
Như Lai không có lay động. Cũng chẳng thể đi vì
Như Lai đã đến
Đại Niết Bàn. Chẳng thể nói, vì
Như Lai dầu nói pháp cho tất cả
chúng sanh nhưng thật ra không chỗ nói. Bởi có chỗ nói thời gọi là
pháp hữu vi, do đây nên không chỗ nói. Lại không
ngôn ngữ, như
Anh Nhi ngôn ngữ chưa rõ, dầu có
ngôn ngữ thật ra không
ngôn ngữ. Cũng vậy,
ngôn ngữ chưa rõ chính là lời
bí mật của chư Phật, dầu có nói,
chúng sanh cũng chẳng hiểu nên gọi là không
ngôn ngữ. Lại như
Anh Nhi gọi tên những đồ vật chẳng
duy nhất, vì chưa biết rõ tên chánh, dầu gọi tên đồ vật chẳng
duy nhất rõ tên chánh chưa biết nhưng chẳng phải chẳng nhân nơi đây mà đặng biết đồ vật. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh, giống loại, nơi chỗ,
ngôn ngữ chẳng đồng.
Như Lai phương tiện thuận theo tiếng của họ mà nói, cũng làm cho tất cả loài, nhân nơi đó đặng
hiểu biết.
Lại
Anh Nhi có thể nói được chữ cái.Cũng vậy,
đức Như Lai nói chữ cái, như nói “Bà” “Hòa”. “Hòa” là
hữu vi, “Bà” là
vô vi, đây gọi là
Anh Nhi. “Hòa” là
vô thường, “Bà’ là thường.
Như Lai nói thường,
chúng sanh nghe rồi vì
cầu pháp thường mà dứt
vô thường, đây gọi là
Anh Nhi Hạnh. Lại
Anh Nhi chẳng biết khổ, vui, ngày, đêm,
cha mẹ. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh nên chẳng biết khổ vui,
không tướng ngày đêm,
tâm bình đẳng đối với
chúng sanh nên không có
cha mẹ thân sơ sai khác.
Lại
Anh Nhi chẳng thể tạo tác những việc lớn việc nhỏ. Cũng vậy,
Bồ Tát chẳng tạo nghiệp
sanh tử, đây gọi là chẳng làm việc lớn, việc lớn tức là tội
ngũ nghịch. Việc nhỏ tức là tâm
Thanh Văn Duyên Giác.
Bồ Tát trọn chẳng
thối tâm Bồ Đề mà tu hạnh
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Lại như
Anh Nhi lúc keu khóc,
cha mẹ liền lấy lá dương vàng mà bảo rằng : Nín đi đừng khóc ! Vàng đây ta cho con.
Anh Nhi thấy lá dương vàng tưởng là vàng thật bèn thôi không khóc nữa. Nhưng đây là lá dương chẳng phải là vàng thật. Trâu gỗ, ngựa gỗ,
người gỗ,
Anh Nhi cũng tưởng là trâu, ngựa, người thật, liền chẳng khóc nữa. Do vì chẳng phải thật trâu, ngựa v.v… mà tưởng là thật trâu, ngựa v.v… nên gọi là
Anh Nhi.
Đức Như Lai cũng như vậy. Nếu có
chúng sanh muốn tạo
tội ác đức Như Lai vì họ mà nói
trời Đao Lợi Thiên là cõi
tốt đẹp an vui
tự tại.
Chúng sanh nghe cõi vui đẹp như vậy, sanh lòng
ưa thích bèn thôi chẳng tạo
tội ác, mà siêng thật hành những
nghiệp lành. Nhưng thật ra
cõi trời Đao Lợi là
sanh tử chẳng phải thật là an vui
tự tại.
Lại như có
chúng sanh nhàm khổ
sanh tử,
đức Như Lai vì họ nói hạnh quả
nhị thừa, nhưng thật ra quả
nhị thừa chẳng phải
rốt ráo chân thật, vì hàng
nhị thừa biết lỗi
sanh tử, thấy vui
Niết Bàn bèn có thể tự biết có dứt cùng chẳng dứt, có
chân thật cùng chẳng
chân thật, có tu cùng chẳng tu, có chứng đặng cùng chẳng chứng đặng. Như
Anh Nhi kia đối với vật chẳng phải vàng mà tưởng là vàng thật.
Đức Như Lai ở trong chỗ
bất tịnh mà nói là tịnh, vì đã chứng được
đệ nhất nghĩa đế nên
Như lai không có
hư vọng.
Như
Anh Nhi kia đối với những vật không phải trâu ngựa mà tưởng là trâu ngựa thật. Nếu có
chúng sanh ở nơi
phi đạo mà tưởng là
chân đạo,
Như Lai cũng nói
phi đạo là đạo, nơi
phi đạo thật không có đạo, vì có thể làm chút ít
nhân duyên sanh ra đạo nên nói
phi đạo là đạo.
Như
Anh Nhi kia đối với
người gỗ mà tưởng là người thật. Cũng vậy,
Như Lai biết chẳng phải
chúng sanh mà nói tướng
chúng sanh, nhưng thật ra không có tướng
chúng sanh. Nếu
Như Lai nói không
chúng sanh thời tất cả
chúng sanh sẽ đọa tàkiến. Do đây nên
Như Lai nói có
chúng sanh, những người đối với
chúng sanh mà tưởng là
chúng sanh, thời không thể phá tướng
chúng sanh. Nếu ở nơi
chúng sanh phá được tướng
chúng sanh, người nầy có thể đặng
Đại Niết bàn. Do đặng
Đại Niết Bàn như vậy nên chẳng còn kêu khóc nữa. Đây gọi là
Anh Nhi Hạnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người
thọ trì đọc tụng thơ tả
giải thuyết năm hạnh nầy, nên biết rằng người nầy
quyết định sẽ được
năm hạnh như vậy.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng : “
Thế Tôn !
Theo như chỗ tôi hiểu,
y cứ theo lời của Phật dạy, thời tôi cũng
quyết định sẽ đặng
năm hạnh nầy.”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử ! Chẳng riêng gì ông đặng
năm hạnh như vậy, nay trong hội nầy có chín mươi ba muôn người cũng đồng được
năm hạnh như ông.”
HẾT TẬP I