04. PHẨM TRƯỜNG THỌ THỨ TƯ
(Hán bộ phần đầu quyển thứ hai)
Đức Phật lại bảo các vị Tỳ-kheo : “Các thầy ở nơi
giới luật có chỗ nào
Nghi ngờ ,
cho phép các thầy hỏi Như-Lai sẽ
giải thích cho. Tất cả các pháp bổn- tánh không-tịch. Như-Lai đã
tu học rành rẽ
thông đạt. Các thầy chớ nghĩ rằng Như-Lai chỉ tu các pháp bổn-tánh không-tịch. Ở nơi
giới luật có chỗ nào
nghi ngờ, các thầy nên hỏi”.
Các Tỳ-kheo
bạch Phật :” Bạch Thế-Tôn ! Chúng con không đủ
trí huệ để hỏi đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri. Vì
cảnh giới của Như-Lai không thể nghĩ bàn,
thiền định của Như-Lai không thể nghĩ bàn, lờI phán dạy của
Như lai không thể nghĩ bàn. Vì cớ ấy nên chúng con là hạng không đủ
trí huệ để hỏi đức Như-Lai.
Bạch Thế-Tôn !
Ví như ông già trên trăm tuổi đang phải bịnh
trầm trọng nằm liệt trên giường sẽ chết mất nay mai. Một người giàu kia có
duyên sự muốn đến xứ khác, đem trăm cân vàng gởi cho ông già ấy mà giao ước rằng : hoặc mười năm hoặc hai mươi năm
chừng nào tôi
trở về thời ông huờn số vàng nầy lại cho tôi. Ông già nhận giữ vàng, không bao lâu thời chết, ông già lại không người kế tự, số vàng gởi kia đều thất lạc cả. Lúc người chủ vàng
trở về không biết đòi hỏi ai, đành chịu mất vàng. Chủ vàng là kẻ
vô trí, khi gửI vàng không biết chọn nơi đáng gửI, nên phảI mất vàng. .
Cũng vậy, hàng Thanh-Văn chúng con dầu nghe đức Như-Lai
ân cần dạy bão mà chúng con không thể
thọ trì khiến
chánh pháp được
bền lâu, khác nào ông già kia nhận vàng của người gởi, rồi không sống được mà
giữ gìn. Chúng con
vô trí, ở nơi
giới luật sẽ hỏi những gì !”
Đức Phật nói : “ Nếu nay các thầy hỏi Như-Lai thời có thể đem lại sự
lợi ích cho
chúng sanh, nên Như-Lai mớI bảo các thầy có chỗ nào nghi thờI
cho phép hỏi”.
Các Tỳ-kheo
bạch Phật :” Bạch Thế-tôn !
Ví như một người trai trẻ khỏe mạnh lối hai mươi lăm tuổi, nhà giầu có,
cha mẹ vợ con quyến thuộc đông đủ.. Có người đem
vàng bạc đến gởi cho người trai trẻ nầy mà nói rằng :” Tôi có
duyên sự cần phải đi xa. Khi tôi
trở về, anh sẽ huờn số
vàng bạc nầy lại cho tôi.” Người trai trẻ nhận
vàng bạc và cất giữ kỹ-lưỡng. Ít lúc phải bịnh, người trai trẻ dặn
thân quyến rằng số
vàng bạc nầy là của ông già gởi, khi nào ông ấy đến hỏi thời giao đủ cho ông ấy.
Thời gian sau, người gởi
vàng bạc trở về được
thân quyến của người trai trẻ huờn đủ số đã gửi. Đây là người có trí, biết chọn chỗ đáng gởi nên khỏi mất của.
Cũng vậy, nếu đức Thế-Tôn đem pháp-bảo
giao phó cho A-Nan và các Tỳ-kheo ắt chẳng đặng
lâu dài, vì tất cả hàng Thanh-Văn và Ma-Ha-Ca-Diếp đều sẽ
vô thường, như ông già trước kia. Đức Như-Lai nên đem
Phật pháp vô-thượng
giao phó cho Bồ-Tát. Vì hàng Bồ-Tát đủ
trí huệ có thể hỏi Như-Lai,
pháp bảo sẽ được
lâu dài hưng thạnh
lợi ích cho
chúng sanh, như người trai trẻ trước kia. Vì những lẽ ấy, nên chỉ có hàng Bồ- tát là có thể hỏi đức Như-Lai thôi.
Trí huệ của chúng con như mòng muỗi, làm sao hỏi được pháp
thâm diệu của
Như lai.”
Bạch xong, các Tỳ-kheo đều
ngồi yên lặng.
Đức Phật khen các Tỳ-kheo rằng :”
Lành thay !
Lành thay ! Các thầy khéo được tâm
vô lậu, tâm A-La-Hán. Như-Lai cũng đã
suy xét hai
duyên cớ mà các thầy vừa trình bày, nên đem pháp
đại thừa giao phó cho hàng Bồ-Tát, khiến
diệu pháp nầy được còn lâu nơi đời”.
Đức Phật bảo
toàn thể đại chúng :” Thọ-mạng của Như-Lai không
thể tính lường,
biện tài cũng chẳng thể
cùng tận.
Đại chúng phải nên
tùy ý bạch hỏi hoặc nơi
giới luật, hoặc nơi pháp quy-y”.
Đức Phật tuyên bố luôn ba lần như vậy.
Bấy giờ trong
đại chúng có một vị đại Bồ-Tát tuổi còn trẻ, vốn là người trong tụ-lạc Đa-La, họ Đại-Ca-Diếp giòng Bà-La-Môn, do
thần lực của Phật, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, trịch vai áo bên hữu,
cung kính nhiễu Phật, gối hữu chấm đất,
chắp tay hướng Phật mà bạch rằng :” Nay con có chút việc muốn bạch hỏi, xin đức Thế-Tôn
hứa khả cho”.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát :” Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri
cho phép ông hỏi.
Như Lai sẽ
giảI quyết chỗ nghi của ông, cho ông
vui mừng. “.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật :” Đức Thế-Tôn
xót thương đã
cho phép, nay con sẽ hỏi . Nhưng
trí huệ của con rất kém.
Đạo đức của Thế-Tôn cao
vòi vọi, thân của Như-lai như chơn
kim cang màu như ngọc
lưu ly. Trong
đại hội đây, các vị đại Bồ-Tát thảy đều
thành tựu vô lượng vô biên thâm diệu công đức. Ở trước một
đại hội như thế nầy, đâu dám bạch hỏi. Nay con nương sức
thần thông của Phật và nhơn thiện-căn oai-đức của
đại chúng mà bạch hỏi ít điều thôi”.
Ca-Diếp Bồ-Tát liền ở trước Phật, nói kệ rằng :
Thế nào được
trường thọThân kim cang chẳng hoại ?
Lại do
nhơn duyên gì
Đặng sức
kiên cố lớn ?
Thế nào rơi kinh nầy
Rốt ráo đến bờ kia?
Nguyện Phật vì
chúng sanhGiảng bày nghĩa kín nhiệm.
Thế nào đặng rộng lớn
Làm y-chỉ cho chúng ?
Thiệt chẳng phải La-Hán
Mà đồng hàng La-Hán ?
Thế nào biết
thiên maLàm lưu nạn cho chúng ?
Lời Phật, lời Ba-Tuần,
Thế nào
phân biệt biết ?
Thế nào bực Điều-Ngự
Hoan hỷ nói
chơn đếĐủ
thành tựu chánh thiện
Diễn nói
bốn điên đảo ?
Làm
nghiệp lành thế nào
Xin Thế-Tôn
dạy bảo.
Thế nào các Bồ-tát
Thấy được tánh khó thấy ?
Nghĩa mãn-tự, bán-tự
Phải hiểu như thế nào ?
Thế nào cộng
thánh hạnhNhư chim Ta-La-Ta ?
Thế nào chưa
phát tâmMà gọi là Bồ-Tát ?
Thế nào giữa
đại chúngMà đặng
không kinh sợ
Như
vàng Diêm-Phù-ĐànKhông ai
chỉ trích được ?
Thế nào ở đời trược
Chẳng nhơ như
hoa sen ?
Thế nào ở
phiền nãoPhiền não chẳng nhiễm được,
Như y-sư trị bịnh
Chẳng bị bịnh truyền lây ?
Thế nào làm lái thuyền
Ở giữa biển
sanh tử ?
Thế nào thoát
sanh tửNhư rắn lột da cũ ?
Thế nào xem Tam-Bảo
Dường như cây Thiên-Ý ?
Ba thừa nếu
vô tánhThế nào mà nói đặng,
Như sự vui chưa có
Sao lại nói thọ vui ?
Thế nào các Bồ-Tát
Mà đặng chứng bất-hoại ?
Thế nào vì người mù
Mà làm người
chỉ đường ?
Thị hiện nhiều đầu kia
Xin Phật giải rõ cớ.
Thế nào người
thuyết phápThêm lớn như trăng mọc
Thế nào lại
thị hiệnRốt ráo nơi Niết-bàn ?
Thế nào bực
dũng kiệnHiện nhơn, thiên, ma, đạo ?
Thế nào biết
pháp tánhMà thọ nơi
pháp lạc ?
Thế nào các Bồ-Tát
Xa lìa tất cả bịnh ?
Thế nào vì
chúng sanhDiễn thuyết nơi
bí mậtThế nào nói
rốt ráoVà cũng chẳng
rốt ráo ?
Như kia dứt lưới nghi
Tại sao n ói
bất định ?
Thế nào là đặng gần
Đạo
tối thắng vô thượng ?
Con nay thỉnh Như-Lai
Vì các hàng Bồ-Tát
Giảng nói pháp
thậm thâmCác hạnh vi-diệu thảy
Trong tất cả các pháp
Đều có tánh
an lạcCúi xin đấng Thế-tôn
Phân biệt dạy chúng con.
Bực nương tựa của chúng
Diệu-dược Lưỡng-Túc-Tôn !
Nay muốn hỏi các ấm
Mà con không
trí huệCác Bồ-Tát
tinh tấnCũng lại chẳng biết được.
Cảnh giới của chư Phật
Rất sâu mầu như vậy.
Đức Phật khen Ca-Diếp Bồ-tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Nay ông chưa được nhứt thiết
chủng trí, Như-Lai đã được, nhưng
bí tạng rất sâu của ông vừa hỏI đồng như chỗ hỏI cùa bực
nhất thiết trí.
Này
thiện nam tử ! Lúc ta mới
thành đạo chánh giác nơi cội Bồ-đề, có
vô lượng Bồ-Tát ở
mười phương thế giới cũng từng đến hỏi Như-Lai những nghĩa
thậm thâm ấy. Văn nghĩa
công đức đã hỏi ngày trước cùng với của ông hôm nay đồng nhau không khác.
Hỏi như vậy có thể đem sự
lợi ích lại cho
vô lượng chúng sanh”.
Ca- Diếp Bồ-Tát
bạch Phật: “Bạch
Thế Tôn ! Con không đủ trí để hỏi
Như Lai về những thâm nghĩa ấy.
Ví như muỗi mòng chẳng thể bay qua đến bờ kia của biển cả, cùng lượn khắp
hư không. Cũng vậy, con không thể bạch hỏi
Như Lai về những nghĩa biển cả
trí huệ và
hư không pháp tánh rất sâu như vậy.
Ví như quốc vương đem
viên minh châu trong búi tóc giao cho quan giữ kho. Quan giữ kho lãnh châu
hết lòng cung kính gìn giữ. Cũng vậy, con
hết lòng cung kính giữ gìn nghĩa lý đại thừa rất sâu của Như-Lai truyền dạy. Vì
nghĩa lý ấy làm cho con được
trí huệ sâu rộng”.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Lóng nghe ! Lóng nghe ! Như –Lai sẽ vì ông mà nói nghiệp nhơn
trường thọ của Như-Lai đã được.
Do nơi nghiệp nhơn nầy mà
Bồ Tát được
thọ mạng dài lâu. Nếu hạnh nghiệp có thể làm nhơn cho quả Bồ-Đề thời phải nên
thành tâm nghe kỹ và
lãnh thọ nghĩa ấy. Đã tự
lãnh thọ rồi nói lại cho người khác. Do
tu tập hạnh nghiệp ấy mà Như-Lai đặng thành vô thöôïng chaùnh giaùc. Nay lạI vì ngườI mà giảng rộng
ý nghĩa ấy.
Ví như vương tử
phạm tội bị giam vào ngục, nhà vua rất nhớ thương con, đích thân ngự đến ngục thất. Cũng vậy, muốn được
trường thọ,
Bồ Tát phải nên
hộ niệm tất cả
chúng sanh,
xem như con ruột, sanh lòng
đại từ,
đại bi,
đại hỉ,
đại xả, truyền cho giới bất sát, dạy cho
tu pháp lành. Cũng nên để tất cả
chúng sanh ở nơi
ngũ giới thập thiện. Lại đến
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, a-tu-la v.v…, để cứu vớt những kẻ
khổ não trong các nơi ấy.
Giải thoát kẻ chưa
giải thoát,
cứu độ người chưa được
cứu độ. Người chưa chứng
Niết bàn làm cho chứng
Niết bàn.
An ủi tất cả người đang ở trong cảnh kinh sợ. Do các nghiệp nhơn trên đây mà
Bồ Tát được
thọ mạng dài lâu. Nơi các
trí huệ được
tự tại. Sau khi maïng chung sanh lên cõi trên”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật: “Bạch
Thế Tôn ! Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
bình đẳng xem
chúng sanh đồng như con ruột, nghĩa ấy rất sâu, con chưa hiểu được.
Đức Thế Tôn chẳng nên nói
Bồ Tát đối với
chúng sanh tu tâm bình đẳng xem đồng như con, vì trong
Phật pháp có người
phá giới, có kẻ
phạm tội nghịch, có kẻ hủy báng
chánh pháp. Sao lại với những hạng ấy mà xem đồng như con ?”.
Phật dạy: “Phải đấy !
Như Lai đối với
chúng sanh thiệt xem đồng là con nhö La-Hầu-La”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật: “Trước kia ngày rằm lúc
Chư Tăng đang
bố tát . Có một đứa trẻ không khéo
tu tập ba nghiệp thân, khẩu, ý, núp ở chỗ kín rình nghe chư Tỳ-kheo-tăng
thuyết giới. Mật-Tích Lực-Sĩ nương
thần lực của Phật lấy chày
kim cang đập đứa trẻ ấy nát ra như bụi. Bạch
Thế Tôn ! Vị thần
Kim Cang ấy rất là
bạo ác mới giết được đứa trẻ. Thế sao
Như Lai xem các
chúng sanh đồng như là
La Hầu La?”
Phật dạy: “Ông không nên nói như vậy.
Đứa trẻ ấy chính là người
biến hóa, chẳng phải người thiệt. Vì muốn
xua đuổi những kẻ
phá giới hủy pháp ra ngoài
chư Tăng nên hiện như vậy. Thần
Kim Cang kia cũng là
biến hóa thôi. Hạng hủy báng
chánh pháp cùng nhứt- xiển-đề hoặc có người
sát sanh nhẫn đến
tà kiến, và
cố ý phạm giới,
Như Lai đối với những hạng ấy đều
thương xót như con là La-Hàu-La.
Như
quốc vương đối với bầy tôi phạm phép thời cứ tội tru lục mà chẳng tha. Như-Lai Thế-Tôn không phải như vậy; với hạng hủy pháp, làm pháp yết-ma khu-khiển,
quở trách, cử tội v.v…
Sở dĩ Như-Lai làm các pháp yết-ma
trừng trị những hạng hủy báng
chánh pháp như vậy là vì muốn chỉ rõ những người
ác hạnh thờI có
quả báo.
Ông phải biết Như-Lai là vị ban bố sự
vô úy cho
chúng sanh ác. Nếu Như-Lai phóng ra một
tia sáng, hoặc hai, năm
tia sáng, kẻ nào gặp được thời đề
xa lìa tất cả các điều ác. Nay
Như lai đầy đủ
vô lượng thế lực như vậy.
Pháp chưa được thấy, nếu ông muốn thấy, nay sẽ vì ông nói
tướng mạo đó. Sau khi Như-Lai
nhập niết bàn, nơi nào có Tỳ-Kheo
trì giới đầy đủ
oai nghi hộ trì chánh pháp, thấy người
hoại pháp bèn có thể khu-khiển
quở trách trừng trị. Phải biết
Tỳ kheo ấy đặng phước
vô lượng không
thể tính kể.
Ví như quốc vương chuyên làm việc
bạo ác, rồi mang bệnh nặng. Vua nước láng giềng nghe biết
tình hình đem binh đến đánh, trách tội muốn giết. Vua ác bịnh ấy vì không
thế lực sợ hãi ăn năn chừa lỗi mà làm lành. Vua láng giềng kia được phước
vô lượng. Cũng vậy,
Tỳ kheo giữ phép khu-khiển
quở trách người
phạm giới cho họ chừa lỗi làm lành thời đặng phước
vô lượng.
Ví như nhà cửa ruộng vườn của ông
trưởng giả mọc lên những cây gai độc.
Trưởng giả biết được bèn chặt đốn sạch cả.
Lại như người trai trẻ đầu có
tóc bạc, vì hỗ thẹn nên nhổ bỏ chẳng cho ra dài.
Cũng vậy,
Tỳ kheo giữ pháp thấy có người
phá giới hủy hoại
chánh pháp, bèn nên khu-khiển
quở trách cử tội.
Tỳ kheo nầy là
đệ tử của Như-Lai, là chơn thật Thanh-Văn. Nếu thấy mà bỏ qua, thời nên biết
Tỳ kheo nầy là người hại Phật pháp”.
Ca-Diếp Bồ-Tát lại
bạch Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn ! Cứ như
lời Phật dạy thời là không
bình đẳng xem tất cả
chúng sanh đồng như con là La-Hầu-La. Bạch
Thế Tôn ! Nếu có một người cầm dao hại Phật, lại có một người đem nước
chiên đàn thoa thân Phật. Như-Lai đối với hai người nầy nếu là
tâm bình đẳng, sao lại bảo rằng phải
trừng trị kẻ
phạm luật. Nếu
trừng trị kẻ
phạm luật thời lời dạy kia có lỗi.”
Phật nói : “ Như
quốc vương, đại thần tể tướng có bốn người con trai diện mạo khôi ngô,
thông minh sáng suốt, đem giao cho giáo sư dạy dổ và dặn rằng : Thầy gắng dạy
chúng nó cho đựơc
toàn vẹn cả tài lẫn đức. Nếu
chúng nó ngỗ nghịch, thầy phải
nghiêm trị, dầu ba đứa bị đòn chết, còn một đứa được nên,
chúng tôi cũng
vui lòng.
Nầy Ca-Diếp ! Như vậy thời cha và thầy của các trẻ có phải tội
sát sanh chăng ?
Ca-Diếp Bồ-Tát thưa : “ Bạch Thế-Tôn, không ! Vì lòng thương muốn cho các trẻ được nên, chớ chẳng phải
ác tâm. Dạy dỗ như thế đặng phước vô lượng”.
Phật nói : “ Cũng vậy, Như-Lai đối với kẻ
phạm pháp xem đồng như con cả. Nay Như-Lai đem
chánh pháp vô thượng phó chúc các vua, đại thần, tể tướng, Tỳ-kheo, Ty-ø kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di. Các vua, quan và
bốn bộ chúng phải nên khuyên răn khích lệ các học chúng, khiến đặng
tăng thượng giới, định,
trí huệ. Nếu người nào không
tu học ba phẩm pháp nầy lười biếng
phá giới, hủy hoại
chánh pháp, thời vua quan,
bốn bộ chúng phải nên
nghiêm trị.
Nầy Ca-Diếp ! Như vậy các vua, quan,
bốn bộ chúng có mắc tội chăng?’
Ca-Diếp Bồ-tát thưa : “Bạch
Thế Tôn. Không !”
Phật nói : “ Các vua quan và
bốn bộ chúng ấy còn không tội, huống là Như-lai.
Nầy Ca-Diếp ! Như-Lai khéo
tu đức bình đẳng như vậy, xem các
chúng sanh đồng là con cả. Tu như vậy gọi là Bồ-Tát
tu tâm bình đẳng nơi các
chúng sanh xem đồng là con. Bồ-Tát
tu tập hạnh nghiệp
bình đẳng nầy thời được
thọ mạng lâu dài, lại cũng khéo biết những
việc đời trước”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Như
lời Phật dạy nếu Bồ-Tát
tu tâm bình đẳng đối với
chúng sanh xem như con ruột thời được
thọ mạng dài lâu. Đức Như-Lai chẳng nên dạy như thế.
Như người biết phép, có thể giảng nói các hạnh
hiếu thuận, khi về đến nhà lại lấy ngói đá ném đánh
cha mẹ. Mà
cha mẹ là
ruộng phước lớn có ơn nhiều nên phải
cúng dường,
trở lại đánh đập, thời người biết phép nầy
lời nói cùng hành động trái ngược nhau.
Lời dạy của Như-Lai cũng vậy. Bồ-Tát
tu tâm từ
bình đẳng được
thọ mạng dài lâu biết được
túc mạng, thường ở nơi đời không có đổi dời. Nay đây do
duyên cớ gì mà đức Thế-Tôn
thọ mạng rất ngắn đồng nhơn-gian ư ? Hay là Như-Lai có oán ghét chi
chúng sanh ? Ngày trước Như-Lai làm
nghiệp ác gì, giết chết mấy mạng, mà mắc báo đoản thọ sống không đầy trăm tuổi ư ?”
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát : “ Nay
duyên cớ gì mà ông nói lời thô ở trước Như-Lai như thế ? Như-Lai
trường thọ rất hơn hết trong các tuổi thọ. Như-Lai chứng được
pháp thường trụ hơn hết trong các
pháp thường trụ”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “Bạch Thế-Tôn ! Đức Như-Lai được
thọ mạng dài lâu thế nào?”
Phật nói : “ Như tám con sông lớn : một là
sông Hằng, hai là sông Diêm-Ma-La, ba là sông Tát-La, bốn là sông A-Lợi-La, năm là sông Ma-Ha, sáu là sông Tân-Đầu, bảy là sông Bác-Xoa, tám là sông Tất-Đà. Tám con sông nầy cùng các sông nhỏ đều chảy vào biển lớn.
Cũng vậy, tất cả con sông
thọ mạng của người, của trời, của đất, của
hư không, đều vào trong biển
thọ mạng của Như-Lai.
Vì vậy, nên Như-Lai
thọ mạng vô lượng.
Ví nhu ao A-Nậu chảy ra thành
bốn con sông lớn. Cũng vậy, Như-Lai xuất sanh tất cả
thọ mạng.
Ví như trong các
pháp thường trụ,
hư không là
đệ nhứt. Cũng vậy, ở trong các
pháp thường trụ, Như-Lai là
đệ nhứt.
Như trong các vị thuốc, vị đề-hồ là
đệ nhứt. Cũng vậy, trong các
chúng sanh,
thọ mạng của Như-Lai là
đệ nhứt.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Nếu
thọ mạng của Như-lai dài lâu như vậy, thời Như-Lai nên ở nơi đời hoặc một kiếp, hoặc ít hơn để thường tuyên
diệu pháp, như tuôn mưa lớn”.
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! ông chẳng nên ở nơi Như-Lai có
quan niệm là diệt tận.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu có Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo ni, Ưu-Bà-tắc, Ưu-Ba-Di, nhẫn đến
ngoại đạo ngũ thông thần tiên, hạng được
tự tại, hoặc sống một kiếp hay ít hơn, ở giữa
hư không đi đứng nằm ngồi
tự tại, nách tả
phun lửa, nách hữu vọt nước, thân tuôn khói lửa, nếu muốn sống lâu, thời được
như ý muốn. Đối với mạng sống hoặc dài hoặc ngắn đều
tự tại. Người được
ngũ thông còn đặng
thần lực tùy ý như vậy, huống là Như-Lai đặng sức
tự tại đối với tất cả pháp, mà lại không thể ở đời hoặc nửa kiếp, hoặc một, hai kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc
vô lượng kiếp sao ? Vì những nghĩa ấy, phải biết rằng Như-Lai là
pháp thường trụ chẳng
biến đổi. Thân của Như-Lai đây là thân
biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì dộ
chúng sanh nên
thị hiện đồng với chúng.
Vì vậy, nên
thị hiện bỏ thân mà nhập Niết-bàn.
Ông nên biết rằng Phật là
pháp thường trụ, là
pháp không biến đổi.Ở trong
đệ nhứt nghĩa nầy, các ông phải nên siêng năng
tinh tấn nhứt tâm tu tập. Mình đã
tu tập và vì người khác mà giảng nói”.
Ca-Diếp Bồ-Tá thưa : “ Bạch Thế-Tôn ! Có sự sai khác gì giữa xuất-thế-pháp cùng
thế pháp ? Như
lời Phật dạy : Phật là
pháp thường trụ, là
pháp không biến đổi. Người đời cũng nói Phạm-Thiên là thường, Tự-Tại-Thiên là thường, không
biến đổi, họ cũng nói Ngã là thường, Tánh là thường, Vi-Trần cũng thường.
Nếu nói Như-Lai là
pháp thường trụ, cớ sao Như-lai chẳng thường hiện nơi đời ?
Nếu không thường hiện nơi đời thời có khác gì nghĩa thường của
thế gian . Vì Phạm-Thiên nhẫn đếùn
vi trần cũng chẳng hiện”.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát :
Ví như nhà
trưởng giả kia có nuôi nhiều bò, màu lông khác nhau, đồng chung một bầy.
Trưởng giả giao bầy bò cho người chăn thả đi ăn cỏ uống nước, chỉ vì vị đề-hồ chớ chẳng cầu sữa bơ. Người chăn ấy vắt sữa rồi tự uống.
Trưởng giả chết, bao nhiêu bò đều bị bọn cướp đoạt cả. Bọn cướp tự vắt sữa ra uống, rồi bàn
với nhau rằng ông
Trưởng giả nuôi bầy bò nầy chỉ muốn đặng vị đề-hồ chớ không cầu sữa bơ.
Chúng ta làm cách gì để đặng đề-hồ. Đề-hồ là phẩm vật quý nhứt
trong đời.
Chúng ta không có gì đựng, dầu vắt được sữa cũng không chỗ chứa. Chúng lại bàn đựng sữa trong túi da. Dầu có đồ đựng nhưng vì không biết cách làm, nên bơ còn không được thành, huống là đề-hồ . Vì muốn được đề-hồ, bọn cướp đổ thêm nước vào túi sữa, vì quá nhiều nước nên chẳng những không được đề-hồ, bơ,
mà cả sữa cũng mất.
Phàm phu cũng vậy, dầu có pháp lành nhưng đều là pháp thừa của Như-Lai. Sau khi Thế-Tôn nhập Niết-bàn, họ trộm pháp lành thừa của Như-Lai hoặc, giới, định, hoặc huệ. Như bọn cướp đoạt bầy bò. Hạng
phàm phu dầu lại đặng giới, định,
trí huệ, nhưng không có
phương tiện nên chẳng
giải thuyết được. Vì nghĩa nầy nên họ không thể đặng thường giới, thường định, thường
huệ giải thoát. Như bọn cướp kia chẳng biết
phương tiện không được đề-hồ, rồi vì đề-hồ mà đổ nước vào sữa. Cũng vậy, hạng
phàm phu vì
giải thoát mà nói Ngã hoặc Phạm-Thiên, Tự-Tại-Thiên, nhẫn đến Phi-Tưởng, Phi-Phi-Tưởng-Thiên chính là Niết-bàn kỳ thiệt họ chẳng
được giải thoát Niết-bàn. Như bọn cướp kia không được đề-hồ.
Hạng
phàm phu ấy có chút ít
phạm hạnh,
cúng dường cha mẹ, nhờ đây được sanh lên trời hưởng một ít
an lạc, như bọn cứop kia được sữa pha với nước. Mà hạng
phàm phu ấy thiệt chẳng biết là do tu ít
phạm hạnh,
cúng dường cha mẹ đặng sanh lên
cõi trời, họ lại chẳng biết được giới, định,
trí huệ, quy-y Tam-bảo, rồi do chẳng biết mà nói thường, lạc, ngã, tịnh. Dầu lại nói thường, lạc, ngã, tịnh, mà thiệt ra thời họ chẳng biết. Vì thế nên sau khi ra đời, Như-Lai vì
chúng sanh mà diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh.
Như vua Chuyển-Luân ra đời, do sức
phước đức của vua nên bọn cướp tan vỡ, bầy bò vẫn còn nguyên vẹn. Nhà vua bèn giao bầy bò cho người chăn rành nghề, do đó mà được đề-hồ, và nhờ đề-hồ ma nhơn dân khỏi
bịnh khổ.
Lúc đấng Pháp-Vương ra đời, hạng
phàm phu không thể
diễn thuyết giới, định,
trí huệ kia liền tan rã như bọn cướp. Bấy giờ Như-Lai khéo giảng thế-pháp và xuất-thế-pháp. Vì
chúng sanh mà khiến các vị Bồ-tát theo đó để
diễn thuyết. Chư đại Bồ-tát đã được đề-hồ, lại làm cho
vô số chúng sanh được pháp-vị cam-lộ vô-thượng, tức là thường, lạc, ngã, tịnh, của Như-lai.
Nầy Ca-Diếp 1 Vì những nghĩa ấy, nên Như-Lai là thường, là
pháp không biến đổi. Chẳng đồng hạng người ngu
trong đời gọi Phạm-Thiên v.v… là
pháp thường còn.
Gọi là
pháp thường trụ thời phải là Như-Lai chớ chẳng phải pháp nào khác. Ông phải
hiểu biết thân Như-Lai là như vậy.
Nầy Ca-Diếp !
Mọi người nên thường chuyên lòng tu hai chữ nầy : Phật là “Thường-trụ”. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn nào tu hai chữ nầy, nên biết người ấy
đi theo đường Phật đi, đến chỗ Phật đến.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu người
tu tập hai chữ nầy làm tướng
tịch diệt, nên biết Như-Lai thời là nhập Niết-bàn đối với người ấy.
Nầy Ca-Diếp ! Nghĩa Niết-bàn chính là
pháp tánh của chư Phật”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn !
Pháp tánh của chư Phật nghĩa thế nào ? Nay con muốn biết nghĩa của
pháp tánh. Cúi mong Đức Như-Lai
xót thương giải rộng cho.
Vả
pháp tánh tức là
xả thân,
xả thân gọi là vô-sở-hữu, nếu vô-sở-hữu thời thân làm sao còn. Thân nếu còn tại sao lại nói thân có
pháp tánh ? Thân có
pháp tánh sao thân lại còn ?
Nay con phải hiểu như thế nào về nghĩa ấy ?”
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Nay ông chẳng nên nói diệt là
pháp tánh.
Pháp tánh không có diệt.
Ví như vô-tưởng-thiên
thành tựu sắc ấm mà không có sắc tưởng. Chẳng nên hỏi rằng các ông trời ấy
sung sướng hưởng vui thế nào ?
Nghĩ tưởng những gì ? Thấy nghe thế nào ?
Nầy Ca-Diếp !
Cảnh giới của Như-lai chẳng phải là chỗ biết của Thanh-Văn Duyên-Giác. Chẳng nên nói rằng thân của Như-Lai là
pháp diệt.
Nầy Ca-Diếp !
Pháp diệt như thế là
cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng Thanh-Văn Duyên-Giác biết được.
Nay ông không nên nghĩ lường Như-Lai ở chỗ nào, đi chỗ nào, thấy chỗ nào, vui chỗ nào ? Những nghĩa ấy, cũng chẳng phải các ông biết được.
Pháp thân của Phật, các thứ
phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy Ca-Diếp ! Nên phải
tu tập Phật, Pháp và Tăng mà
quán tưởng là thường. Ba pháp ấy không có dị tưởng.
Không vô thường tưởng, không biến dị tưởng. Nếu ở nơi ba pháp tu dị-tưởng, phải biết rằng
tam quy thanh tịnh của những người nầy thời không chỗ y-nương,
cấm giới của họ đều chẳng đầy đủ. Trọn chẳng chứng được quả Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Đề.
Nếu có thể ở nơi bất khả tư-nghị nầy tu thường-tưởng thời có chỗ quy-y.
Nầy ca-Diếp !
Ví như nhơn nơi cây thời có bóng cây. Cũng vậy, vì Như-Lai có
pháp thường trụ thời có chỗ quy-y, chớ chẳng phải là
vô thường. Nếu cho rằng Như-Lai là
vô thường thời Như-Lai không phải là chỗ quy-y của người và của trời”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn !
Ví như trong tối có cây mà không có bóng”.
Phật nói : “Này Ca-Diếp ! Ông không nên nói có cây mà không có bóng, Chỉ vì
nhục nhãn không thấy đó thôi. Cũng vậy, tánh Như-lai là
thường trụ, la không
biến đổi. Người không có con mắt
trí huệ thời không thấy được. Như trong tối không thấy bóng cây. Cũng vậy, sau khi Phật
nhập diệt, hạng
phàm phu nói Như-Lai là
vô thường. Nếu cho rằng Phật khác với Pháp và Tăng thời chẳng thành chỗ của ba Pháp quy- y. Như
cha mẹ của ông mỗi mỗi sai khác, nên thành vô thườntg”.
Ca-Diếp Bồ-Tát lại
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Bắt đầu từ nay, con sẽ đem ba
pháp thường trụ Phật, Pháp và Tăng để
khai ngộ cho
cha mẹ, nhẫn đến
cha mẹ trong bảy đời đều khiến phụng trì.
Bạch Thế-Tôn ! Nay con phải học Phật, Pháp, Tăng bất-khả-tư-nghị. Tự mình học rồi lại sẽ vì người mà
giảng giải những nghĩa ấy. Nếu người nào không tin không nhận, thời nguời đó là kẻ
tu pháp vô thường đã lâu. Con sẽ làm sương móc, làm mưa giá cho hạng người nầy”.
Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát : “Lành thay !
Lành thay ! Nay ông khéo có Thể
hộ trì chánh pháp.
Hộ pháp như vậy thời là không khinh khi người.
Do nơi nghiệp nhơn không khinh khi người mà được
quả báo trường thọ, biết rành những đời đã qua”