20. PHẨM PHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI
(Hán bộ trọn quyển 14, 15, 16, 17 và phần đầu quyển thứ 18)
Nầy
Thiện nam tử ! Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát tu
phạm hạnh như thế nào ? Bồ-Tát-Ma- Ha-Tát trụ nơi Đại-thừa
Đại Niết Bàn, trụ bảy pháp lành thời
phạm hạnh đầy đủ.
Bảy pháp lành là : Một là biết pháp, hai là biết nghĩa, ba là biết giờ, bốn
là biết
tri túc, năm là
biết mình, sáu là biết chúng, bảy là biết tôn ty.
Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát như thế nào gọi là biết pháp. Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát nầy biết
mười hai bộ kinh tức là
Tu Đa La,
Kỳ Dạ,
Thọ Ký, Dà Đà,
Ưu Đà Na,
Ni Đà Na,
A Ba Đà Na,
Y Đế Mục Đà Na, Xà Đà Dà,
Tỳ Phật Lược,
A Phù Đà Đạt Ma,
Ưu Bà Đề Xá.
Đây là
khế kinh Tu Đa La : Từ “
như thị ngã văn nhẫn đến câu
hoan hỷ phụng hành” tất cả như vậy gọi là
Tu Đa La kinh (
trường hàng). Đây là Kỳ-dạ :
Phật bảo các
Tỳ kheo ngày xưa ta cùng các ông
ngu si không
trí huệ, chẳng thể thấy bốn
chơn đế đúng
như thật, nên
lưu chuyển mãi trong biển khổ
sanh tử. Bốn
chơn đế là :
Khổ Đế,
Tập Đế,
Diệt Đế, và
Đạo Đế.
Ngày xưa đức Phật vì các
Tỳ Kheo nói
khế kinh xong lại có hàng
chúng sanh căn trí
sáng tỏ, vì muốn
nghe pháp nên đến chỗ Phật hỏi
mọi người rằng,
đức Như Lai vừa rồi nói những việc gì ? Lúc đó Phật vì hàng
chúng sanh ấy đem kinh vừa giảng nói thành
kệ tụng :
Ta xưa cùng các ông, Chẳng thấy bốn
chơn đế, Nên phải
lưu chuyển mãi, Trong biển khổ
sanh tử, Nếu thấy được bốn đế, Thời dứt đặng
sanh tử.
Sanh tử đã hết rồi, Chẳng còn thọ thân nữa.
Kệ tụng trên đây gọi là Kỳ-Dạ kinh (
trùng tụng).
Những gì gọi là
thọ ký ? Như có lúc
đức Như Lai nói kinh hay luật, vì các hàng trời hay người mà
thọ ký sẽ
làm Phật. Như nói : “
Đời sau có vua hiệu là Nhương Khư, ông
A Dật Đa sẽ ở
cõi nầy thành bực
chánh giác hiệu là
Di Lặc Phật. Đây gọi là
thọ ký kinh.
Những gì gọi là Dà Đà ? Trừ
trường hàng và các
giới luật, ngòai ra những
bài kệ bốn câu như :
Các điều ác chớ làm,
Phụng hành những điều lành, Lóng sạch tâm ý mình, Là lời dạy của Phật.
Trên đây gọi là Dà Đà kinh ( kệ
cô khởi).
Những gì gọi là
Ưu Đà Na ? Như
đức Phật lúc xế chiều nhập
thiền định, vì
chư thiên giảng rộng các
pháp yếu. Lúc đó các Tỳ- kheo đều nghĩ rằng : Giờ đây
đức Như Lai đang làm việc gì ?
Sáng ngày sau,
đức Như Lai xuất định, không ai hỏi, dùng
tha tâm trí mà tự nói rằng : Nầy các Tỳ-kheo : Tất cả
chư thiên thọ mạng rất dài.
Lành thay ! Các Tỳ- kheo biết vì người, chẳng cầu
tư lợi, biết
thiểu dục, biết
tri túc, được
tịch tịnh.
Những kinh như trên đây không ai hỏi
đức Phật tự giảng nói đó gọi là
Ưu Đà Na kinh (tự thuyết).
Những gì là
Ni Đà Na ? Như trong các kinh do
nhơn duyên Phật vì người khác diễn nói. Lệ như : Trong nước
Xá Vệ có một chàng trai giăng lưới bắt chim, bắt đặng chim nhốt trong lồng, cho ăn lúa uống nước rồi lại thả đi.
Đức Thế Tôn biết
nhơn duyên đó mà nói kệ rằng:
Chớ khinh tội nhỏ, Cho là không họa, Giọt nước dầu nhỏ, Lần đầy lu lớn.
Như trên đây gọi là
Ni Đà Na kinh (
nhơn duyên).
Những gì là
A Ba Đà Na ? Như những
thí dụ trong luật nói.
Những gì là
Y Đế Mục Đa Dà ! Lệ như
đức Phật nói : Nầy các Tỳ-kheo ! Lúc ta
xuất thế những điều ta
dạy bảo gọi là
giới kinh. Lúc đức
Câu Lưu Tôn Phật xuất thế lời Phật dạy gọi là trống Cam-lồ . Lúc
đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế lời Phật dạy gọi là
Pháp cảnh.
Lúc
đức Phật Ca Diếp xuất thế lời Phật dạy gọi là
Phân biệt không.
Như trên đây gọi là
Y Đế Mục Đa Dà kinh (
bổn sự).
Những gì là Xà Đà Dà ? Lệ như
đức Phật xưa kia làm vị
Bồ Tát tu khổ hạnh. Như Phật nói : Nầy các
Tỳ kheo ! Thuở
quá khứ ta từng làm nai, làm gấu, làm cheo, làm thỏ, làm
quốc vương, làm
Chuyển Luân Thánh Vương, làm rồng, làm kim súy điểu v.v… Như trên đây gọi là Xa Đà Dà kinh (bổn sanh).
Những gì là
Tỳ Phật Lược ? Tức là những
kinh điển thuộc về
Đại thừa Phương đẳng nghĩa lý rộng lớn dường như
hư không (
phương quảng).
Những gì là
vị tằng hữu ? Lệ như lúc đức
Bồ Tát mới
sanh không ai đỡ dắt mà tự đi bảy bước,
phóng quang minh lớn ngó khắp
mười phương. Lệ như con vượn tay bưng bát mật dâng cúng
đức Như Lai,. Lệ như chó cổ trắng đến bên Phật
nghe pháp. Lệ như
ma vương Ba Tuần biến làm trâu xanh đi trong bát sành, làm cho các bát sành đụng chạm lẫn nhau mà không nứt bể. Lệ như Phật lúc mới sanh lúc vào thiên miếulàm cho thiên tượng
đứng dậy bước xuống đảnh lễ.
Những đoạn kinh như trên đây gọi là
Vị Tằng Hữu kinh.
Những gì là
Ưu Ba Đề Xá ? Lệ như
đức Phật lúc nói kinh hoặc
luận nghĩa cùng
phân biệt giảng rộng
biện luận các
tướng mạo, đây gọi là
Ưu Ba Đề Xá kinh (
luận nghị).
Bồ Tát nếu có thể rõ biết
mười hai bộ kinh như vậy thời gọi là biết pháp.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết nghĩa ? Nếu
Bồ Tát ở nơi tất cả
văn tự ngữ ngôn biết rộng những
ý nghĩa thời gọi là biết nghĩa.
Bố Tát Ma Ha Tát thế nào là biết giờ ?
Bồ Tát khéo biết trong những giờ như vậy có thể tu
tịch tịnh, trong những giờ như vậy có thể tu
tinh tấn, trong những giờ như vậy có thể tu
xả định, trong những giờ như vậy có thể
cúng dường Phật, trong những giờ như vậy có thể
cúng dường Sư trưởng, trong những giờ như vậy có thể tu hạnh
bố thí,
trì giới nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định, đầy đủ
Bát Nhã Ba La Mật. Như trên đây gọi là biết giờ.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là
tri túc ?
Bồ Tát biết đủ đối với những việc dưới đây :Uống ăn,
y phục, thuốc men, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói, nín. Như trên đây gọi là
tri túc.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là
biết mình ? Vị
Bồ Tát nầy tự biết rằng ta có
đức tin như vậy, có giới như vậy, có
đa văn như vậy, có xả như vậy, có huệ như vậy, có đi đến như vậy, có
chánh niệm như vậy, có
hạnh lành như vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy, như trên đây gọi là
biết mình.
Bồ Tát Ma Ha Tát như thế nào gọi là biết người ?
Bồ Tát nầy biết những người đây là hàng
Sát Đế Lợi, là hàng
Bà La Môn, là hàng
Cư Sĩ, là hàng
Sa Môn. Nên ở trong chúng nầy đi đến như vậy, ngồi đứng như vậy,
thuyết pháp như vậy, hỏi đáp như vậy. Như trên đây gọi là biết người.
Bồ Tát Ma Ha Tát thế nào gọi là biết người bực tôn bực ty ? Người có hai hạng : Một là có
tín tâm, hai là chẳng có
tín tâm.
Bồ Tát phải biết người có
tín tâm thời là người lành, người chẳng có
tín tâm thời chẳng gọi là người lành.
Người có
tín tâm lại có hai hạng: Một là người thường đến chùa chiền, hai là người chẳng đến chùa,
Bồ Tát phải biết người đến chùa là lành, người chẳng đến chùa thời chẳng gọi là lành.
Người đến chùa lại có hai hạng : Một là
lễ bái, hai là chẳng
lễ bái,
Bồ Tát phải biết người
lễ bái là lành, người chẳng
lễ bái thời chẳng gọi là lành.
Người
lễ bái lại có hai hạng : Một là
nghe pháp, hai là chẳng
nghe pháp.
Bồ Tát phải biết người
nghe pháp là lành, người chẳng
nghe pháp thời chẳng gọi là lành.
Người
nghe pháp lại có hai hạng : Một là
hết lòng lóng nghe, hai là chẳng
hết lòng.
Bồ Tát phải biết người
hết lòng nghe thời gọi là lành, người chẳng
hết lòng nghe thời chẳng gọi là lành.
Hết lòng nghe pháp lại có hai hạng : Một là
suy gẫm ý nghĩa, hai là chẳng
suy gẫm ý nghĩa.
Bồ Tát phải biết người gẫm nghĩa là lành, người chẳng gẫm nghĩa thời chẳng gọi là lành.
Người gẫm nghĩa lại có hai hạng : Một là đúng như
lời nói thật hành, hai là chẳng thật hành đúng như
lời nói. Người thật hành gọi là lành, người chẳng thật hành thời chẳng gọi là lành.
Thật hành đúng như
lời nói lại có hai hạng : Một là cầu quả
Thanh Văn chẳng có thể
lợi ích an lạc tất cả
chúng sanh khổ não, hai là
hồi hướng Đại thừa vô thượng,
lợi ích mọi người làm cho đặng
an lạc.
Bồ Tát phải biết
lợi ích mọi người làm cho đặng
an lạc là điều lành
vô thượng.
Nầy
Thiện nam tử ! Như trong các
châu báu,
như ý bảo châu tốt đẹp hơn tất cả. Như trong các
mùi vị, chất
cam lồ là hơn hết.
Bồ Tát nầy ở nơi trong hàng trời người là bực hơn tất cả không gì ví dụ được.
Như trên đây gọi là bực
Đại Bồ Tát trụ nơi
kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn an trụ nơi bảy pháp lành.
Bồ Tát trụ nơi bảy pháp lành nầy thời đặng đầy đủ
phạm hạnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Lại có
phạm hạnh gọi là từ, bi, hỷ, xả.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nếu người tu hạnh từ có thể dứt
sân khuể. Người tu lòng bi cũng dứt được
sân khuể. Sao lại nói là
bốn tâm vô lượng. Xét theo nghĩa đó thời lẽ ra chỉ có ba.
Thế Tôn !
Lòng từ có ba duyên : Một là duyên
chúng sanh, hai là duyên nơi pháp, ba thời duyên không. Lòng bi, hỷ, xả, cũng ba duyên như vậy, nếu theo nghĩa nầy thời lẽ ra chỉ có ba chẳng nên có bốn .
Duyên
chúng sanh là duyên nơi thân
ngũ ấm nguyện cho họ được vui. Duyên nơi pháp là những vật
chúng sanh cần dùng đem
ban cho họ. Không duyên tức là duyên nơi Như-Lai.
Lòng từ thời phần nhiều duyên nơi
chúng sanh nghèo cùng.
Đức Như Lai Đại Sư lìa hẳn sự nghèo cùng hưởng sự vui
đệ nhứt. Nếu duyên
chúng sanh thời chẳng duyên nơi Phật, Pháp cũng như vậy. Vì do nghĩa nầy nên duyên
Như Lai gọi là không duyên.
Thế Tôn !
Lòng từ duyên tất cả
chúng sanh, như duyên
cha mẹ,
vợ con,
thân thuộc. Do nghĩa nầy nên gọi là
chúng sanh duyên.
Pháp duyên là chẳng thấy
cha mẹ,
vợ con,
thân thuộc. Thấy tất cả pháp đều từ nơi
duyên sanh ra. Đây gọi là
pháp duyên.
Vô duyên là chẳng trụ nơi
pháp tướng và
chúng sanh tướng.
Từ, bi, hỷ, xả, đều duyên như vậy, vì thế nên lẽ ra chỉ có ba chẳng nên có bốn.
Thế Tôn ! Người có hai hạng : Một là
kiến hành, hai là
ái hành. Người
kiến hành nhiều tu
từ bi, người
ái hành nhiều tu
hỉ xả. Vì thế nên
đáng lẽ có hai chẳng nên có bốn.
Thế Tôn ! Luận về
vô lượng gọi là
vô biên. Vì chẳng thể được biên bờ nên gọi là
vô lượng. Nếu là
vô lượng thời lẽ ra nên có một chẳng nên nói là bốn.
Nếu nói là bốn đâu đặng
vô lượng. Vì thế nên là một chẳng nên là bốn vậy”.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát : “ Nầy
Thiện nam tử !
Chư Phật Như Lai vì mọi loài
chúng sanh mà giảng nói
pháp yếu. Lời của Phật
bí mật khó
hiểu biết được. Hoặc vì
chúng sanh nói một
nhơn duyên. Như nói những gì là một
nhơn duyên tức là tất cả
pháp hữu vi.
Hoặc nói hai thứ là nhơn cùng quả.
Hoặc nói ba thứ là
phiền não, nghiệp và khổ.
Hoặc nói bốn thứ là
vô minh, hành, sanh, và
lão tử.
Hoặc nói năm thứ là thọ, ái, thủ, hữu và
vô sanh.
Hoặc nói sáu thứ là nhơn quả
ba đời.
Hoặc nói bảy thứ là thức,
danh sắc,
lục nhập xúc, thọ, ái, và thủ. Hoặc nói tám thứ là trong mười hai
nhơn duyên trừ
vô minh, hành, sanh và
lão tử.
Hoặc nói chín thứ như trong
Thánh kinh nói mười hai
nhơn duyên trừ
vô minh, hành và thức.
Hoặc nói mười một thứ như trong kinh Tát Giá
Ni Kiền Tử nói mười hai
nhơn duyên trừ sanh.
Hoặc có lúc nói đủ cả mười hai
nhơn duyên. Như nơi thành
Vương Xá vì
Ca Diếp v.v… nói
vô minh nhẫn đến sanh, lão, bịnh, tử.
Nầy
Thiện nam tử ! Như một
nhơn duyên vì
chúng sanh nên
phân biệt nhiều thứ,
vô lượng tâm cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì do nghĩa nầy đối với hạnh
thâm mật của
Như Lai chẳng nên
sanh nghi.
Đức Như Lai có
phương tiện lớn :
Vô thường nói là thường, thường nói là
vô thường, nói vui là khổ, nói khổ là vui,
bất tịnh nói là tịnh, tịnh nói là
bất tịnh, ngã nói là
vô ngã,
vô ngã nói là ngã, nơi vô tình nói là
hữu tình, nơi
hữu tình nói là vô tình, chẳng phải vật nói là vật, vật nói là chẳng phải vật, chẳng phải thiệt nói là thiệt, thiệt nói là chẳng phải thiệt, chẳng phải cảnh nói là cảnh, cảnh nói là chẳng phải cảnh, chẳng phải sanh nói là sanh, sanh nói là chẳng phải sanh, nhẫn đến
vô minh nói là minh, minh nói là
vô minh, sắc nói là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc nói là sắc, chẳng phải đạo nói là đạo, đạo nói là chẳng phải đạo. Nầy
thiện nam tử !
Đức Như Lai vì
điều phục chúng sanh dùng
vô lượng phương tiện như vậy há lại là
hư vọng ư !
Hoặc co ùchúnh sanh
tham của cải, đối với người đó ta tự
hóa thân mình làm vua
Chuyển Luân, theo chỗ
cần dùng của người đó
cung cấp các thứ
vật dụng trong nhiều năm, rồi sau
giáo hoá nó, cho nó được trụ nơi
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu có
chúng sanh tham đắm
ngũ dục, trong nhiều năm ta đem
ngũ dục cung cấp nó, rồi sau
khuyến hoá, cho nó trụ nơi
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu có
chúng sanh sang giàu, thời ta trong nhiều năm vì người đó mà làm tôi tớ hầu hạ cho người đó
vừa lòng, rồi sau
khuyến hoá người đó trụ nơi
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu có
chúng sanh cứng cỏi
tự thị cần có người
can gián, thời ta trong nhiều năm
can ngăn khuyên dạy, làm cho tâm người đó điều thuận rồi sau
khuyến hoá người đó trụ nơi
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nầy
Thiện nam tử !
Đức Như Lai trong
vô lượng năm dùng mọi thứ
phương tiện làm cho
chúng sanh được trụ nơi
vô thượng chánh đẳng chánh giác như vậy há lại
hư vọng ư !
Chư Phật Như Lai dầu ở trong chỗ ác nhưng như
hoa sen không bị
nhiễm ô.
Nầy
Thiện nam tử ! Nên biết nghĩa của
bốn tâm vô lượng cũng như vậy, tâm
vô lượng nầy
thể tánh có bốn. Nếu có người
tu hành thời sanh lên
cõi trời Đại Phạm.
Tâm
vô lượng nầy có bốn loại, nên nói là bốn.
Luận về người tu
lòng từ có thể dứt
tham dục. Người tu lòng bi có thể dứt
sân khuể. Người tu lòng hỷ có thể dứt sự chẳng vui. Người tu lòng xả có thể dứt
tham dục và
sân khuể.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên được gọi là bốn, chẳng phải một, hai cũng chẳng phải ba.
Nầy
Thiện nam tử ! Như lời ông nói
lòng từ có thể dứt được sân, lòng bi cũng như vậy nên nói là ba đó, ông chẳng nên nạn như vậy.
Sân khuể có hai thứ : Một là giết chết, hai là đánh đập. Tu
lòng từ thời dứt được sự giận giết chết. Tu lòng bi thời dứt được sự giận đánh đập. Do nghĩa đó há lại chẳng phải là bốn ư !
Sân lại có hai thứ : Một là sân với
chúng sanh, hai là sân với chẳng phải
chúng sanh. Người tu
lòng từ dứt được sự sân với
chúng sanh. Người tu lòng bi dứt được sự sân với chẳng phải
chúng sanh.
Sân lại có hai thứ : Một là có
nhơn duyên, hai là không
nhơn duyên.
Tu
lòng từ dứt được sự sân có
nhơn duyên. Tu lòng bi dứt được sự sân không
nhơn duyên.
Sân lại có hai thứ : Một là tập quán
quá khứ, hai là tập quán
hiện tại, tu
lòng từ dứt được sân
quá khứ. Tu lòng bi dứt được sân
hiện tại.
Sân lại có hai thứ : Một là sân thánh nhơn hai là sân
phàm phu. Tu
lòng từ dứt được sân thánh nhơn. Tu lòng bi dứt được sân
phàm phu.
Sân lại có hai thứ : Một là thượng hai là trung. Tu
lòng từ dứt được sân hạng thượng. Tu lòng bi dứt được sân hạng trung.
Nầy Thện nam tử !Do nghĩa nầy nên gọi là bốn, đâu đặng nạn rằng : Nên ba chẳng nên bốn. Thế nên tâm
vô lượng nầy loại của nó đối nhau
phân biệt làm bốn.
Lại do vì
căn khí nên thành bốn :
Căn khí nếu có
tâm từ thời chẳng đặng có
tâm bi, hỷ, xả. Vì do nghĩa nầy nên phải là bốn không bớt được.
Nầy
Thiện nam tử ! Do thật hành sai khác nên phải có bốn. Nếu lúc thật hành hạnh
từ không có hạnh bi, hỷ, xả, vì thế nên cóø bốn.
Nầy
Thiện nam tử ! Do vì
vô lượng cũng đặng gọi là bốn. Luận về
vô lượng thì có bốn thứ : Có tâm
vô lượng, có duyên chẳng
tự tại, có tâm
vô lượng tự tại, chẳng phải duyên, có tâm
vô lượng cũng duyên cũng
tự tại, có tâm
vô lượng chẳng phải duyên chẳng phải
tự tại.
Thế nào là tâm
vô lượng có duyên chẳng
tự tại ? Duyên nơi
vô lượng vô biên chúng sanh mà chẳng đặng
chánh định tự tại, dầu đặng
chánh định nhưng hoặc đặng hoặc mất.
Thế nào là tâm
vô lượng tự tại chẳng phải duyên ? Như duyên
cha mẹ, anh em, chị em, muốn làm cho được an vui, chẳng phải là duyên
vô lượng.
Thế nào là tâm
vô lượng cũng duyên cũng
tự tại ? Tức là nói chư Phật
Bồ Tát.
Thế nào tâm
vô lượng chẳng phải duyên chẳng
tự tại ? Hàng
Thanh Văn Duyên Giác chẳng có thể duyên rộng
vô lượng chúng sanh cũng chẳng phải
tự tại.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa đây nên gọi là bốn thứ
vô lượng, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết được, đây là
cảnh giới của chư Phật.
Bốn thứ
vô lượng như vậy, hàng
Thanh Văn Duyên Giác dầu gọi là
vô lượng, nhưng chỉ chút ít không
đáng kể. Chư Phật và
Bồ Tát thời đặng gọi là
vô lượng vô biên.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Phải lắm ! Phải lắm ! Thiệt đúng như lời dạy của Phật. Bao nhiêu
cảnh giới của
Như Lai, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết đến được.
Thế Tôn ! Có
Bồ Tát nào trụ nơi
Đại thừa Đại Niết Bàn đặng
tâm từ bi mà chẳng phải là tâm
đại từ đại bi chăng ?”
Phật nói : “ Có. Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát nếu đối trong hàng
chúng sanh phân biệt ba hạng : Một là người
thân yêu, hai là kẻ oán ghét, ba là người không thương không ghét. Đối trong những người
thương yêu lại chia ba hạng : Thượng, trung, hạ. Đối với kẻ oán ghét cũng vậy. Vị
Bồ Tát nầy ở trong hạng
thương yêu bực thượng
ban cho sự vui
tăng thượng. Nơi trong hạng
thân yêu bực trung, bực hạ cũng
bình đẳng ban cho sự vui
tăng thượng,. Ở nơi trong hạng oán ghét bực thượng cho ít phần vui. Nơi trong kẻ oán ghét
bực trung cho sự vui vừa vừa. Nơi trong hạng oán ghét bực hạ cho sự vui
tăng thượng.
Bồ Tát lần lượt tu tập thêm lên như vậy, ở trong hạng oán ghét bực thượng
ban cho sự vui vừa vừa, trong hạng oán ghét
bực trung, bực hạ
bình đẳng cho sự vui
tăng thượng. Lại
tu tập thêm nơi những kẻ oán ghét thượng, trung, hạ
bình đẳng ban cho sự vui
tăng thượng.
Nếu trong hạng oán ghét bực thượng
ban cho sự vui
tăng thượng, bấy giờ đặng gọi là
thành tựu tâm từ.
Lúc bấy giờ
Bồ Tát đối với
cha mẹ là kẻ oán ghét bực
thượng tâm được
bình đẳng không sai khác.
Nầy
Thiện nam tử ! Như trên đây gọi là đặng
tâm từ chẳng phải tâm
đại từ.
_ Bạch
Thế Tôn ! Do duyên gì
Bồ Tát đặng
tâm từ như
vậy mà vẫn chẳng đặng gọi là
đại từ ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Bởi vì khó thành nên chẳng gọi
đại từ. Do trong
vô lượng kiếp thuở
quá khứ chứa nhiều
phiền não chưa
tu pháp lành, thế nên chẳng có thể ở nơi trong một ngày
điều phục được tâm mình.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như hột đậu đá lúc đã khô lấy dùi ghim trọn không dính được.
Phiền não cứng rắn cũng như vậy. Dầu một ngày đêm
nhiếp tâm chẳng tán, nhưng khó
điều phục được.
Lại như chó nhà chẳng sợ người, còn con nai rừng thấy người sợ chạy.
Sân khuể khó trừ như giữ chó nhà,
lòng từ dễ mất như nai rừng kia. Thế nên tâm nầy khó
điều phục được. Do nghĩa nầy nên chẳng gọi là
đại từ.
Nầy
Thiện nam tử ! Ví nhu khắc trên đá lằn chữ còn mãi. Vẽ trên nước thời chóng mất. Sân như khắc trên đá. Các căn lành như vẽ trên nước. Vi thế nên tâm nầy khó
điều phục được.
Như đống lửa lớn
chói sáng được lâu. Ánh sáng của điện chớp thoạt có, liền mất. Sân như đống lửa.
Lòng từ như ánh sáng chớp. Vì thế nên tâm nầy khó
điều phục được. Do vì nghĩa nầy nên chẳng gọi là
đại từ.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát trụ bực
sơ địa gọi là
đại từ. Tại sao vậy ? Vì người tột hung ác gọi là nhứt
xiển đề.
Bực
Sơ địa Bồ Tát lúc tu
Đại thừa nơi hạng nhứt
xiển đề tâm không phân biệt chẳng thấy lỗi của họ nên chẳng sanh lòng sân. Do nghĩa nầy mà đặng gọi là
đại từ.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì trừ những sự không
lợi ích cho các
chúng sanh, đây gọi là
đại từ.
Muốn cho
chúng sanh được
vô lượng lợi ích an vui, đây gọi là
đại bi.
Đối với các
chúng sanh sanh lòng
vui mừng đây gọi là
đại hỷ. Không thấy có
chúng sanh được
ủng hộ, đây gọi là
đại xả.
Nếu chẳng thấy có ngã,
pháp tướng, thân mình, thấy tất cả pháp đều
bình đẳng không sai khác, đây gọi là
đại xả. Tự rời bỏ sự vui của mình mà đem
ban cho người khác, đây gọi là
đại xả,
Nầy
Thiện nam tử ! Chỉ có
bốn tâm vô lượng có thể làm cho
Bồ Tát được đầy đủ sáu
pháp Ba La Mật, những
công hạnh khác chẳng
quyết định được như vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát trước đặng
bốn tâm vô lượng thế gian, vậy sau mới
phát tâm vô thượng Bồ Đề, kế đó mới đặng tâm
vô lượng xuất thế. Nhơn tâm
vô lượng thế gian mà được tâm
vô lượng xuất thế do vì nghĩa nầy nên gọi là đại vô lượng”.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Trừ sự không
lợi ích cùng sự
lợi ích an vui thiệt không còn có việc gì để làm.
Suy nghĩ như vậy thời là
hư vọng quán sát không có
lợi ích thiết thiệt.
Thế Tôn !
Ví như Tỳ kheo lúc
quán bất tịnh thấy y của mình đắp đều
trở thành tướng da mà thiệt chẳng phải là da. Những
thức uống ăn đều thấy
thành tướng dòi trùng mà thiệt chẳng phải dòi trùng. Quán bát canh đậu
thành tướng phân dãi mà thiệt chẳng phải phân.
Quán dầu bơ đương ăn thấy như tủy óc mà thiệt chẳng phải óc.
Quán xương nát bể dường như bột bún, mà thiệt chẳng phải bột.
Cũng vậy,
bốn tâm vô lượng chẳng có thể
thiết thực đem sự
lợi ích an vui cho
chúng sanh. Dầu miệng nói rằng ban vui cho
chúng sanh mà thiệt
chúng sanh chẳng được vui.
Tu quán như vậy chẳng phải là
hư vọng ư !
Thế Tôn ! Nếu chẳng phải
hư vọng mà thiệt
ban cho sự vui, cớ sao
chúng sanh chẳng nhờ oai lực của chư Phật
Bồ Tát đặng
hoàn toàn an vui tất cả.
Còn nếu quả là thiệt chẳng được an vui đó, như lời Phật nói : Ta nhớ
thuở trước riêng
tu tâm từ, trãi qua bảy phen thành hoại của
cõi nầy chẳng đến sanh trong nhơn gian, lúc
thế giới thành sanh lên
trời Phạm Thiên. Lúc
thế giới hoại sanh lên trời Quang Aâm. Khi sanh lên
trời Phạm Thiên ta có oai thế
tự tại tôn quí hơn hết trong ngàn cõi
Phạm Thiên gọi là
Đại Phạm Vương. Nếu các
chúng sanh đối với ta đều tưởng là bực
tôn thượng thời được làm vua
cõi trời Đao Lợi ba mươi sáu lần. Làm vua
Chuyển Luân vô lượng trăm ngàn lần.
Riêng tu
lòng từ bèn đặng phước báu
cõi trời cõi người như vậy. Nếu chẳng thiệt được
lợi ích làm sao hiệp với nghĩa nầy ?”
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Ông thiệt là
dũng mãnh không e sợ.
Phật liền vì
Ca Diếp Bồ Tát mà nói kệ rằng :
Đối với một
chúng sanh, Chẳng sanh lòng giận hờn, Mà muốn
ban cho vui, Đây gọi là
từ thiện. Trong tất cả
chúng sanh, Nếu sanh được lòng bi, Gọi là thành
chủng tánh, Đặng
phước báo vô lượng.
Giả sử Tiên
Ngũ thông, Đông khắp mặt đất nầy, Có vua chúa
tự tại, Dâng cấp đủ đồ dùng : Voi, ngựa, các
vật dụng, Thí cho Tiên được phước, Chẳng bằng tu
lòng từ, Trong một phần mười sáu.
Nầy
Thiện nam tử ! Luận về người tu
lòng từ thiệt chẳng phải
vọng tưởng, mà
chắc chắn là chơn thật. Nếu là
lòng từ của
Thanh Văn Duyên Giác thời gọi là
hư vọng. Chư Phật
Bồ Tát lòng từ chơn thật chẳng
hư vọng. Do đâu mà biết như vậy ? Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát tu hành Đại Niết Bàn. Quán đất làm vàng, quán vàng làm đất, quán mặt đất
thành tướng nước, quán mặt nước
thành tướng đất, nước quán thành lửa, lửa quán thành nước, đất quán thành gió, gió quán thành đất,
tùy ý thành tựu không có
hư vọng.
Quán chúng sanh thiệt thành chẳng phải
chúng sanh, quán chẳng phải
chúng sanh thành
chúng sanh thiệt, đều
tùy ý mà thành không có
hư vọng.
Nầy
Thiện nam tử ! Nên biết
bốn tâm vô lượng của
Bồ Tát là sự
tư duy chân thật chẳng phải không
chân thật.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào gọi là
tư duy chơn thật ? Do vì có thể dứt trừ các
phiền não vậy. Luận về tu
lòng từ có thể dứt được
tham dục, tu lòng bi có thể dứt được
sân khuể. Tu lòng hỷ có thể dứt được sự chẳng
vui vẻ. Tu lòng xả có thể dứt được
tham dục,
sân khuể và tướng
chúng sanh.
Vì thế nên gọi là
tư duy chơn thật.
Nầy
Thiện nam tử !
Bốn tâm vô lượng của
Bồ Tát có thể làm cội gốc cho tất cả
hạnh lành.
Bồ Tát nếu chẳng thấy được
chúng sanh nghèo cùng thời không duyên để sanh
lòng từ. Nếu
lòng từ chẳng sanh thời không thể
khởi tâm huệ thí. Do
nhơn duyên huệ thí làm cho
chúng sanh đặng an vui.
Ban cho những đồ uống ăn , xe cộ,
y phục, hoa hương, giường ghế, nhà cửa, đèn đuốc. Lúc
ban cho như vậy, lòng cởi mở chẳng sanh niệm tham đắm,
quyết định hồi hướng vô thượng chánh đẳng,
chánh giác. Lúc đó tâm của
Bồ Tát không dừng ở chỗ nào, dứt hẳn
vọng tưởng, chẳng kẹt nơi sợ sệt,
danh dự,
tài lợi, chẳng cầu
quả báo vui sướng cõi trời cõi người, chẳng
kiêu mạn, chẳng trông người
trả ơn, chẳng vì phỉnh người mà làm việc
bố thí, chẳng cầu
giàu sang.
Phàm lúc làm việc
bố thí, chẳng thấy người thọ là
trì giới hay
phá giới, là
phước điền hay chẳng phải
phước điền, là hàng
tri thức hay chẳng phải
tri thức, lúc
bố thí cũng chẳng thấy là
căn khí hay chẳng phải
căn khí, chẳng lựa ngày giờ, chẳng chọn chỗ nơi, cũng chẳng tính là lúc được mùa hay đói kém, chẳng thấy nhơn quả chẳng
phân biệt là
chúng sanh hay chẳng phải
chúng sanh, là phước hay chẳng phải phước.
Dầu lại chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng
của cải nhẫn đến chẳng thấy
nhân tu cùng
quả báo, mà luôn luôn làm việc
bố thí không ngừng.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát nếu thấy người
lãnh thọ là
trì giới hay
phá giới v.v… nhẫn đến thấy có
quả báo thời chẳng thể
bố thí trọn vẹn. Nếu chẳng
bố thí trọn vẹn thời không thể đầy đủ
đàn ba la mật. Nếu chẳng đầy đủ
đàn ba la mật thời không thể thành
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như có người thân bị trúng tên độc.
Quyến thuộc của người đó vì muốn cho người đó được
an ổn liền mời
lương y đến để nhổ tên độc.
Người đó nói đừng động đến chờ tôi
quan sát coi mũi tên độc nầy từ phương nào bay đến, của ai bắn, người bắn là dòng nào : Là
Sát Đế Lợi hay
Bà La Môn, là
Tỳ Xá hay
Thủ Đà. Nghiệm coi mũi tên làm bằng cây, bằng tre hay bằng gỗ liễu. Mũi sắt từ lò nào rèn, cứng hay mềm, đuôi lông và lông cánh chim gì, chim quạ hay kên kên. Chất độc tẩm trong mũi tên
tự nhiên mà có hay chế ra, là độc của
loài người hay độc của loài rắn.
Người
ngu si đó chưa biết được mà đã chết.
Nầy
Thiện nam tử ! Cũng vậy,
Bồ Tát nếu lúc làm việc
bố thí phân biệt người thọ là
trì giới hay
phá giới, nhẫn đến
phân biệt quả báo, thời chẳng
bố thí trọn vẹnNếu chẳng
bố thí trọn vẹn thời chẳng đầy đủ
đàn ba la mật. Nếu chẳng đầy đủ
đàn ba la mật thời chẳng đặng thành
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc làm việc
bố thí Bồ Tát đối với
chúng sanh lòngtừ
bình đẳng tưởng như con mình. Lại lúc làm việc
bố thí, đối với các
chúng sanh Bồ Tát sanh lòng
thương xót như
cha mẹ săn sóc đứa con đang đau ốm. Lúc làm việc
bố thí, lòng
Bồ Tát vui mừng như
cha mẹ thấy con
lành mạnh.
Sau khi đã
bố thí lòng
Bồ Tát buông bỏ như
cha mẹ thấy con khôn lớn đã có thể tự sanh sống.
Vị
Bồ Tát nầy ở trong
tâm từ, lúc
bố thí thức ăn thường nguyện
như vầy : Nay những đồ ăn của ta
bố thí đều cho chung tất cả
chúng sanh, do
nhơn duyên nầy làm cho
chúng sanh đặng có
trí huệ lớn, siêng tu
hồi hướng đại thừa vô thượng. Nguyện các
chúng sanh đặng có trí lành chẳng cầu báo
Thanh Văn và
Duyên Giác. Nguyện các
chúng sanh đặng món ăn
pháp hỷ chẳng cầu món ăn
ái nhiễm. Nguyện các
chúng sanh đều đặng món ăn
Bát Nhã Ba La Mật, đều được đầy đủ
phương tiện vô ngại, thêm lớn căn lành. Nguyện các
chúng sanh hiểu thấu tướng vô đắc, thân
vô ngại dường như
hư không. Nguyện các
chúng sanh thường làm người
lãnh thọ,
thương xót tất cả mọi loài mà làm
phước điền cho chúng.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc tu
lòng từ khi đem
thức ăn bố thí nên phải phát những điều nguyện như trên.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
bố thí các
thức uống,
Bồ Tát ở trong
lòng từ nên nguyện rằng : Những
thức uống bố thí hôm nay ta đều cho tất cả
chúng sanh chung hưởng, do
nhơn duyên nầy làm cho
chúng sanh đến sông
Đại Thừa uống nước
bát vị mau
lên đường Vô Thượng Bồ Đề, rời khỏi sự khô khát của
Thanh Văn Duyên Giác mà
khát ngưỡng cầu
Phật thừa vô thượng, dứt khát
phiền não mà
khát ngưỡng pháp vị. Rời niệm ưa
sanh tử mà
ưa thích Đại Thừa Đại Niết Bàn đầy đủ
pháp thân đặng các
tam muội vào nơi biển lớn
trí huệ rất sâu. Nguyện các
chúng sanh đặng vị
cam lồ trí giác
xuất thế ly dục tịch tịnh. Nguyện các
chúng sanh đầy đủ
vô lượng trăm ngàn
pháp vị. Đủ
pháp vị rồi đặng thấy
Phật tánh. Thấy
Phật tánh rồi có thể rưới mưa pháp. Rưới mưa pháp rồi
Phật tánh trùm khắp dường như
hư không. Lại làm cho
vô lượng chúng sanh khác đặng
pháp vị duy nhứt tức là
Đại thừa , chẳng phải vị
sai biệt Thanh Văn và
Duyên Giác. Nguyện các
chúng sanh chỉ
cầu pháp vị
Phật tánh vô ngại, chẳng cầu những vị khác.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
bố thí các
thức uống trong
tâm từ Bồ Tát phải phát những nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
bố thí xe cộ
Bồ Tát ở trong
tâm từ nên nguyện rằng : Những đồ của tôi
bố thí hôm nay đều cho
chúng sanh chung hưởng. Do
nhơn duyên nầy khiến tất cả
chúng sanh trọn nên
Đại thừa, trụ nơi
Đại thừa,
bất thối Đại thừa,
bất động chuyển thừa,
kim cang tòa thừa. Chẳng cầu thừa
Thanh Văn Duyên Giác, chỉ
hồi hướng nơi
Phật thừa vô thượng.
Bồ Tát ở trong
tâm từ lúc
bố thí xe cộ nên phải
phát nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
bố thí y phục Bồ Tát ở trong
tâm từ nên nguyện rằng : Những đồ
bố thí của ta hôm nay đều cho tất cả
chúng sanh chung hưởng, do
nhơn duyên nầy làm cho
chúng sanh đặng
y phục tàm quý.
Pháp giới che thân xé rách
y phục kiến chấp.
Y phục rời thân một thước sáu tấc, đặng
thân sắc vàng chạm xúc êm dịu, màu sắc nhuần láng, da thứa mịn màng, chiếu sáng
vô lượng :
Không sắc, rời nơi sắc. Nguyện các
chúng sanh tất cả đều đặng thân
không sắc vượt tất cả sắc, đặng
chứng nhập Đại Niết Bàn không sắc.
Lúc
bố thí y phục Bồ Tát ở trong
tâm từ nên
phát nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
bố thí hoa hương, hương thoa, hương bột, các hương thơm, trong
tâm từ Bồ Tát nên nguyện rằng : Những đồ
bố thí của ta hôm nay đều cho tất cả
chúng sanh chung hưởng. Do
nhơn duyên nầy làm cho tất cả
chúng sanh đều được bông
tam muội của Phật,
tràng hoa thất giác chi tốt đẹp vấn trên đầu của chúng. Nguyện các
chúng sanh thân hình xinh đẹp như trăng tròn, các màu sắc được thấy diệu mầu
đệ nhứt. Nguyện các
chúng sanh đều
thành tướng trăm phước
trang nghiêm. Nguyện các
chúng sanh tùy ý đặng thấy màu sắc
vừa ý. Nguyện các
chúng sanh thường gặp bạn lành đặng hương
vô ngại rời những hôi nhơ. Nguyện các
chúng sanh, đầy đủ căn lành
trân bảo vô thượng. Nguyện các
chúng sanh nhìn nhau hòa vui không có. lo khổ, đầy đủ
hạnh lành. Nguyện các
chúng sanh trọn đủ
giới hương. Nguyện các
chúng sanh trì giới vô ngại mùi thơm ngạt ngào khắp cả
mười phương. Nguyện các
chúng sanh, đặng giới bền chắc, đặng
giới không nghi hối đặng giới nhứt
thế trí, rời các sự
phá giới, đều đặng
giới không, giới chưa từng có, giới
vô sư, giới
vô tác,
giới không ô nhiễm,
giới hoàn toàn, giới
rốt ráo, giới
bình đẳng. Lấy hương xoa nơi thân xem đồng như chém đâm không có ưa cùng ghét. Nguyện các
chúng sanh đặng giới
vô thượng, giới
Đại thừa, chẳng phải giới
Tiểu thừa. Nguyện các
chúng sanh đều đặng đầy đủ
Thi Ba La Mật, như chư Phật
thành tựu giới độ. Nguyện các
chúng sanh đều được
huân tu hạnh
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ. Nguyện các
chúng sanh đều đặng trọn nên
hoa sen vi diệu Đại Niết Bàn. Hoa đó
mùi thơm khắp cả
mười phương. Nguyện các
chúng sanh thuần ăn cơm thơm
vô thượng Đại Thừa Đại Niết Bàn. Như con ong hút hoa chỉ lấy vị mật. Nguyện các
chúng sanh đều đặng
thành tựu thân
vô lượng công đức.
Lúc
bố thí hoa hương
Bồ Tát ở trong
tâm từ nên phải
phát nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
bố thí giường chiếu,
Bồ Tát ở trong
tâm từ nên
phát nguyện rằng : Những giường chiếu của tôi hôm nay cho tất cảchúng sanh chung hưởng. Do
nhơn duyên nầy làm cho
chúng sanh đặng giường nằm của bực trời ở trong các trời, đặng
trí huệ lớn ngồi
tứ thiền, nằm ở nơi giườg của
Bồ Tát, chẳng nằm nơi giường của
Thanh Văn,
Bích Chi Phật là giường nằm thô ác. Nguyện cho
chúng sanh đặng giường
an lạc, lìa giường
sanh tử thành tựu giường
sư tử Đại Niết Bàn.
Nguyện cho các
chúng sanh ngồi trên giường nầy rồi, lại vì
vô lượng chúng sanh khác
thị hiện thần thông sư tử du hí. Nguyện các
chúng sanh trụ trong cung điện lớn
Đại thừa nầy vì các
chúng sanh khác diễn nói
Phật tánh.
Nguyện các
chúng sanh ngồi trên giường
vô thượng chẳng bị pháp
thế gian chi phối.
Nguyện các
chúng sanh đặng giường
nhẫn nhục, rời hẳn
sanh tử đói khát lạnh lẽo.
Nguyện các
chúng sanh đặng giường
vô úy lìa hẳn tất cả giặc
phiền não.
Nguyện các
chúng sanh đặng giường
thanh tịnh chuyên
cầu đạo vô thượng chánh chân.
Nguyện các
chúng sanh đặng giường pháp lành thường được bạn lành
ủng hộ.
Nguyện các
chúng sanh đặng giường nằm hông bên hữu, nương nơi pháp của chư Phật đã làm.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát lúc
bố thí giường chiếu ở trong
tâm từ nên phải
phát nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát lúc
bố thí nhà cửa ở trong
tâm từ thường
phát nguyện rằng : Nhà cửa của tôi
bố thí hôm nay đều cho tất cả
chúng sanh chung hưởng. Do
nhơn duyên nầy làm cho các
chúng sanh ở nhà
Đại thừa,
tu hành những hạnh của
thiện hữu làm, thật hành hạnh
đại bi, hạnh
lục độ, hạnh đại
chánh giác,
đạo hạnh của tất cả
Bồ Tát làm, hạnh rộng lớn
vô biên như
hư không.
Nguyện các
chúng sanh đều đặng
chánh niệm,
xa lìa niệm ác.
Nguyện các
chúng sanh đều đặng an trụ thường, lạc, ngã, tịnh, lìa hẳn bốn thứ
điên đảo.
Nguyện các
chúng sanh thảy đều
thọ trì nhà
xuất thế.
Nguyện các
chúng sanh đều là
căn khí vô thượng nhứt thiết trí.
Nguyện các
chúng sanh đều đặng vào nơi ngôi nhà
cam lồ.
Nguyện các
chúng sanh trong tất cả tâm thường vào ngôi nhà
Niết Bàn.
Nguyện các
chúng sanh nơi đời
vị lai thường ở cung điện của
Bồ Tát ở.
Bồ Tát lúc
bố thí nhà cửa ở trong
tâm từ thường nên
phát nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát lúc
bố thí đèn sáng ở trong
tâm từ thường nguyện rằng những đèn sáng của tôi
bố thí hôm nay đều cho tất cả
chúng sanh chung hưởng. Do
nhơn duyên nầy làm cho các
chúng sanh có
vô lượng ánh sáng an trụ nơi
Phật pháp.
Nguyện các
chúng sanh thường đặng chiếu sáng.
Nguyện các
chúng sanh được
sắc thân tốt đẹp nhuần sáng
đệ nhứt.
Nguyện các
chúng sanh đặng con mắt
thanh tịnh không có những màn lòa.
Nguyện các
chúng sanh đặng đuốc
đại trí huệ, khéo hiểu lý
vô ngại,
không tướng chúng sanh,
không tướng nhân,
không tướng thọ mạng.
Nguyện các
chúng sanh đều đặng nhìn thấy
Phật tánh thanh tịnh dường như
hư không.
Nguyện các
chúng sanh nhục nhãn thanh tịnh thấy suốt
hằng hà sa thế giới ở
mười phương.
Nguyện các
chúng sanh đặng ánh sáng của Phật chiếu khắp
mười phương.
Nguyện các
chúng sanh đặng con mắt
vô ngại đều được thấy
Phật tánh thanh tịnh.
Nguyện các
chúng sanh đặng
trí huệ lớn phá tất cả
tối tăm và kẻ nhứt
xiển đề.
Nguyện các
chúng sanh đặng
vô lượng quang minh chiếu
vô lượng thế giới của chư Phật.
Nguyện các
chúng sanh thắp đèn
đại thừa rời đèn
nhị thừa.
Nguyện các
chúng sanh đặng
quang minh dứt trừ tối
vô minh hơn
công dụng chiếu sáng của ngàn
mặt trời.
Nguyện các
chúng sanh được ánh sáng
hỏa châu, diệt hết những
tối tăm của
tam thiên đại thiên thế giới.
Nguyện các
chúng sanh đầy đủ
ngũ nhãn, tỏ ngộ
pháp tướng, thành
vô sư trí.
Nguyện các
chúng sanh không kiến không minh.
Nguyện các
chúng sanh đều đặng ánh sáng
vi diệu Đại Thừa Đại Niết Bàn, khai thị cho
chúng sanh ngộ
Phật tánh chơn thật.
Bồ Tát lúc
bố thí đèn sáng trong
tâm từ thường nên
phát nguyện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
Thanh Văn Duyên Giác Bồ Tát chư Phật chỗ có căn lành đều do
tâm từ làm căn bổn.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát tu tập tâm từ, có thể sanh
vô lượng căn lành như những
quán hạnh :
Bất tịnh,
sổ tức,
vô thường,
tứ niệm xứ,
bảy phương tiện,
ba quán xứ, mười hai
nhơn duyên,
vô ngã, v.v… Cùng với pháp noãn, pháp đãnh,
pháp nhẫn, pháp thế
đệ nhứt,
kiến đạo,
tu đạo,
chánh cần,
như ý,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất bồ đề phần,
bát thánh đạo phần,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
bát giải thoát,
bát thắng xứ, mười nhứt thiết nhập, không,
vô tướng,
vô nguyện,
vô tránh tam muội,
tha tâm trí, các
thần thông, trí biết bổn tế, trí
Thanh Văn,
trí Duyên Giác, trí
Bồ Tát, trí Phật.
Nầy
Thiện nam tử ! Những
pháp như vậy
tâm từ là căn bổn. Do vì nghĩa đó nên từ là chơn thật chẳng phải là
hư vọng.
Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành ? Nên đáp : Chính là
tâm từ. Do vì nghĩa đó nên từ là chơn thật, chẳng phải
hư vọng.
Nầy
Thiện nam tử ! Người có thể
thực hành pháp lành, gọi là thiệt
tư duy, người thiệt
tư duy, bèn gọi là có
tâm từ.
Tâm từ chính là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là
Đại thừa,
Đại thừa tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là đạo
Bồ Đề, đạo
Bồ Đề tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là
Đại Phạm,
Đại Phạm tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ có thể vì tất cả
chúng sanh mà làm
phụ mẫu,
phụ mẫu tức là
tâm từ,
tâm từ chính là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ là
cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật.
Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật chính là
tâm từ. Nên biết
tâm từ chính là
Như Lai.
NầyThiện nam tử !
Tâm từ chính là
Phật tánh của
chúng sanh.
Phật tánh như vậy từ lâu bị
phiền não che đậy nên làm cho
chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy,
Phật tánh tức là
tâm từ,
tâm từ chính là
Như Lai.
Nầy
thiện nam tử !
Tâm từ tức là
Đại không,
Đại không tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là
hư không,
hư không tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là thường, thường tức là pháp, pháp tức là tăng. Tăng tức là từ, từ chính là
Như Lai.
Và nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là lạc, lạc tức là pháp, pháp tức là Tăng, Tăng tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là tịnh, tịnh tức là pháp, pháp tức là Tăng, Tăng tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là ngã, ngã tức là pháp, pháp tức là Tăng, Tăng tức là
tâm từ,
tâm từ chính là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là
cam lồ,
cam lồ tức là
tâm từ,
tâm từ tức là
Phật tánh ,
Phật tánh tức là pháp, pháp tức là Tăng, Tăng tức là
tâm từ,
tâm từ chính là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là đạo
vô thượng của tất cả
Bồ Tát, đạo là
tâm từ,
tâm từ chính là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ tức là
cảnh giới vô lượng của chư Phật,
cảnh giới vô lượng tức là
tâm từ, nên biết
tâm từ tức là
Như Lai.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ là
vô thường,
vô thường tức là
tâm từ, nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ là khổ, khổ là
tâm từ, nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ là
bất tịnh,
bất tịnh là
tâm từ , nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ là
vô ngã,
vô ngã là
tâm từ, nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ nếu là
vọng tưởng,
vọng tưởng là
tâm từ, nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! nếu
tâm từ chẳng gọi là
Đàn Ba La Mật nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ cuả
Thanh Văn..
Nhẫn đến
Bát Nhã Ba La Mật cũng lại như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ chẳng có thể
lợi ích chúng sanh,
tâm từ như vậy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ nếu chẳng vào đạo nhứt tướng, nên biết
tâm từ đó là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ nếu chẳng có thể thấu rõ các pháp, nên biết
tâm từ ấy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ nếu thấy các pháp đều có tướng, nên biết
tâm từ ấy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ là
hữu lậu ấy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ là
hữu vi,
tâm từ hữu vi nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ chẳng trụ nơi bực
sơ trụ thời chẳng phải
tâm từ của
sơ trụ, nên biết tức là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ chẳng có thể đặng
mười trí lực của Phật và bốn món
vô sở úy, nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
tâm từ có thể đặng bốn quả
Sa Môn, nên biết
tâm từ nầy là
tâm từ của
Thanh Văn.
Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ nếu là có, không, chẳng phải có, chẳng phải không,
tâm từ như vậy chẳng phải hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật nghĩ bàn được.
Tâm từ nếu chẳng thể nghĩ bàn, thời pháp chẳng thể nghĩ bàn,
Phật tánh chẳng thể nghĩ bàn,
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Vị
Đại Bồ Tát trụ nơi
Đại Thừa Đại Niết Bàn tu tâm từ như vậy, dầu lại an trụ trong thùy miên mà chẳng thùy miên, do vì siêng năng
tinh tấn. Dầu thường
thức giấc cũng không
thức giấc, vì không có ngủ. Ở trong thùy miên
chư thiên dầu
hộ vệ cũng không
hộ vệ, vì chẳng làm việc ác. Thùy miên chẳng
ác mộng, không có việc chẳng lành vì rời thùy miên. Sau khi
mạng chung dầu sanh lên
Phạm Thiên cũng không sanh vì đặng
tự tại.
Nầy
Thiện nam tử ! Luận về người tu từ có thể đặng
thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy.
Nầy
Thiện nam tử !
Kinh điển Đại Niết Bàn vi diệu nầy cũng có thể
thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy.
Chư Phật Như Lai cũng đặng
thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Phàm
Bồ Tát tư duy đều là chơn thật. Hàng
Thanh Văn,
Duyên Giác chẳng phải là chơn thật. Tất cả
chúng sanh cớ chi chẳng nhờ oai lực của
Bồ Tát đồng thọ khoái lạc. Nếu các
chúng sanh thiệt chẳng đặng khoái lạc, nên biết
tâm từ của
Bồ Tát tu tập là không
lợi ích.”
Phật nói : “ Nầy
Thiện nam tử !
Tâm từ của
Bồ Tát chẳng phải không
lợi ích.
Có những
chúng sanh hoặc
quyết định thọ khổ. Hoặc có
chúng sanh chẳng
quyết định thọ khổ. Nếu có
chúng sanh quyết định thọ khổ,
lòng từ của
Bồ Tát là không
lợi ích, vì đó là hàng nhứt
xiển đề.
Nếu có
chúng sanh chẳng
quyết định thọ khổ thời
lòng từ của
Bồ Tát là
lợi ích, làm cho
chúng sanh đó đều thọ khoái lạc.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như có người từ xa thấy
sư tử, cọp, beo, chó sói, qủy
La Sát v.v…
tự nhiên sanh sợ sệt. Ban đêm thấy gốc cây trụi cũng sanh sợ sệt.
Những người như vậy
tự nhiên sợ sệt,
cũng thế,
chúng sanh thấy người
tu tâm từ
tự nhiên thọ khoái lạc.
Do nghĩa đó n ên
Bồ Tát tu tâm từ là
tư duy chơn thật chẳng phải không
lợi ích.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta nói
tâm từ nầy có
vô lượng môn, chính là những
thần thông.
Nầy
Thiện nam tử ! Như
Đề Bà Đạt Đa xưa kia bảo
vua A Xà Thế làm hại
đức Như Lai. Lúc đó ta cùng
chúng Tăng vào thành
Vương Xá thứ đệ khất thực.
Vua A Xà Thế liền thả voi say để hại ta cùng
chư Tăng. Lúc đó voi say đạp chết trăm ngàn
chúng sanh. Voi ấy ngữi hơi máu, nên hung tợn càng thêm hung tợn, nhắm ngay đoàn của ta mà chạy thẳng đến. Các
đệ tử chưa
ly dục kinh sợ chạy tứ tán chỉ
một mình A Nan ở lại. Lúc đó nhơn dân trong thành
Vương Xá đều cả tiếng kêu khóc, hôm nay
đức Như Lai có thể bị hại, cớ sao đấng
chánh giác lại vội sẽ diệt mất. Còn Điều Đạt trong lòng hớn hở.
Sa Môn Cù Đàm bị hại chết thời là rất tốt, kế của ta rất hay, ta sắp sẽ được
toại nguyện.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó ta vì muốn
hàng phục voi say liền nhập
từ tâm tam muội, sè bàn tay chỉ voi, năm đầu ngón tay ta hiện năm
sư tử. Voi say thấy
sư tử, lòng nó quá sợ, phẩn tiểu vảy ra, gieo mình mọp xuống
kính lễ dưới chân ta.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó năm đầu ngón tay của ta thiệt không
sư tử, đó là do sức
thiện căn tu tâm từ làm cho voi say được
điều phục.
Thiện nam tử ! Vừa rồi lúc ta muốn
nhập Niết Bàn, mới khởi sự đi đến thành
Câu Thi Na. Giữa đường có năm trăm
lực sĩ dọn quét đường sá có một hòn đá to, bọn họ muốn khiêng bỏ nhưng sức họ chẳng khiêng nổi. Lúc đó ta
xót thương liền
khởi tâm từ. Bọn
lực sĩ kia liền thấy ta lấy ngón chân cái hất hòn đávăng lên
hư không, rồi lấy tay hứng bắt để hòn đá trên bàn tay mặt, thổi nát ra rồi ráp liền lại làm cho bọn
lực sĩ hết cao mạn. Ta liền vì họ nói các
pháp yếu làm cho họ đồng
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó
Như Lai thiệt chẳng dùng ngón chân hất văng hòn đá,
cho đến chẳng thổi nát và ráp lại.
Nầy
Thiện nam tử ! Nên biết chính là sức
thiện căn của
tâm từ làm cho bọn
lực sĩ thấy như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Xứ
Nam Thiên Trúc nầy có một thành lớn
Thủ Ba La. Trong thành đó có một
trưởng giả tên Lưu Chí, được
đại chúng kính trọng. Ông
nầy đã
vun trồng cội lành
từ vô lượng đức Phật thuở
quá khứ. Nhơn dân trong thành đó
tin theo đạo tà,
phụng sự phái
Ni Kiền Tử. Ta muốn độ ông
Trưởng giả Lưu Chí, liền từ
Vương Xá thành đến thành
Thủ Ba La. Phái
Ni Kiền Tử nghe ta sắp đến thành liền bàn
với nhau :
Sa Môn Cù Đàm nếu đến thành nầy, nhơn dân chắc sẽ bỏ ta chẳng còn
cung cấp,
chúng ta lấy gì sanh sống.
Bàn xong, chúng
Ni Kiền Tử chia ra loan báo với người trong thành.
Sa Môn Cù Đàm sắp đến thành nầy. Nhưng
Sa Môn đó
lìa bỏ cha mẹ du phương các xứ, ông đến đâu thời làm cho xứ đó
mất mùa đói khát nhơn dân bị bịnh trời, bịnh dịch không thể cứu chữa.
Cù Đàm là hạng vô lại dắt theo toàn những quỉ
La Sát hung ác, là kẻ cô cùng không cha không mẹ
đi theo làm
môn đồ. Giáo thuyết của ông toàn là
hư vọng. Ông đến nơi nào thời xứ đó không an vui.
Nhơn dân trong thành nghe những lời đó kinh sợ quá lạy mọp dưới chơn bọn
Ni Kiền Tử thưa rằng :
Đại Sư ! Nay
chúng tôi phải thiết kế gì ?
Bọn
Ni Kiền Tử đáp : Tánh của
Sa Môn Cù Đàm ưa lùm rừng, suối chảy nước trong. Các ngươi nên ra ngoài thành, chỗ nào có rừng suối phải đốn hết cây cối đem phẩn dơ rảy xuống giếng , ao, khe, suối. Rồi đóng chặt cửa thành võ trang phòng vệ. Ông ấy đến thời đừng cho vào. Ông ấy không vào thành được
thời các người sẽ được
an ổn.
Chúng ta cũng sẽ dùng
pháp thuật làm cho ông
Cù Đàm phải rút lui.
Nhơn dân trong thành liền thật hành theo : Đốn hết cây cối, làm nhơ đục hết các giòng suối, võ trang phòng vệ.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc ta đến ngoài thành kia chẳng thấy rừng cây, chỉ thấy người trên mặt thành võ trang
giữ gìn chặt chẽ, ta liền
thương xót khởi tâm từ. Những cây cối mọc lên như cũ mà còn có phần tươi
tốt hơn. Nước trong sông, ao giếng, suối đều trở nên sạch sẽ, đầy tràn trong như
lưu ly, nhiều thứ hoa đẹp thơm mọc lan tràn mặt đất. Vách thành biến làm
lưu ly xanh. Nhơn dân trong thành đều thấy đặng ta và
đại chúng. Cửa thành tự mở toang, không ai kềm ngăn được. Võ khí của nhơn dân
biến thành cành hoa đẹp. Lúc đó
trưởng giả Lưu Chí dẫn nhơn dân hiệp đoàn đến chỗ Phật. Ta liền vì họ nói các
pháp yếu làm cho
mọi người đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó ta thiệt chẳng hoá những rừng cây, cũng chẳng làm cho nước
trong sạch đặng đầy tràn, cũng chẳng
biến thành đó làm
lưu ly xanh để cho nhơn dân kia thấy suốt ta và
đại chúng, cũng chẳng mở cửa thành, biến võ khí làm cành hoa. Nên biết những việc ấy đều do sức căn lành của
lòng từ làm cho nhơn dân thành
Thủ Ba La thấy việc như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Thành
Xá Vệ có nàng
Bà Tư Tra, giòng
Bà La Môn, chỉ sanh một trai, nên nàng
yêu quí lắm. Một hôm đứa trẻ bịnh chết, nàng quá tiếc thương,
buồn rầu đến
mất trí, như điên như cuồng,
xé nát quần áo,
thân thể lõa lồ, đi rong khắp thành ấp tìm con, miệng luôn kêu khóc : Ôi ! Con ôi ! Con bỏ mẹ đi dâu ?
Nàng
Bà Tư Tra nầy đời trứoc đã từng gieo trồng căn lành ở nơi chư Phật
quá khứ.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta nghe việc như vậy
động lòng xót thương.
Bà Tư Tra liền thấy được ta, nàng ngỡ là con trai của nàng, chạy vội đến ôm như cách yêu con,
tâm trí tỉnh lại. Ta liền bảo
A Nan mang
y phục đến cho nàng mặc, rồi ta vì nàng mà
giảng giải pháp yếu. Được
nghe pháp, nàng
Bà Tư Tra vui mừng hớn hở
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó thiệt ra ta không phải là con của nàng ấy, nàng ấy không phải là mẹ ta, cũng không có việc ôm ẵm. Nên biết đều do sức căn lành của
lòng từ làm cho nàng
Bà Tư Tra thấy việc như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Có cô
Ưu Bà Di Ma Ha Tư Na
Đạt Đa ở tại thành
Ba La Nại. Cô nầy đã từng gieo trồng căn lành
từ vô lượng đức Phật thuở
quá khứ.
Một
mùa hạ kia, cô nguyện dâng thuốc men cho
chư Tăng.
Trong
chư Tăng, bỗng có một
Tỳ kheo mang
bịnh nặng. Y sĩ
điều trị bảo phải dùng thịt tươi làm thuốc. Ngoài thịt tươi ra không gì trị được, và sẽ nguy đến tánh mạng. Nhằm ngày quốc pháp cấm giết thịt, nên không tìm đâu ra thịt tươi để mua
mặc dầu cô muốn đem
vàng ròng trọng lượng bằng thịt để đổi. Cô
Ưu Bà Di Ma Ha Tư Na
Đạt Đa bèn tự cắt thịt bắp vế, chế nấu theo lời Y Sĩ, rồi đem dâng cho
Tỳ kheo bịnh dùng. Nhờ đó
Tỳ kheo được
lành mạnh.
Vết thương nơi bắp vế hành quá đau nhức, cô rên rỉ
niệm Phật :
Nam MôPhật !
Nam Mô Phật !
Bấy giờ ta đương ở tại thành
Xá Vệ, nghe tiếng
niệm Phật của cô,
động lòng đại từ. Liền đó, cô thấy ta đem thuốc đến đắp lên vết thương, hết đau nhức, thịt lành như cũ. Rồi ta vì cô mà
giảng giải pháp yếu. Cô được
nghe Pháp vui mừng hớn hở
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
thiện nam tử ! Lúc đó thiệt ra ta không đem thuốc đến thành
Ba La Nại đắp cho cô
Ma Ha Tư Na
Đạt Đa, nên biết đó là do sức căn lành của
lòng từ khiến cô
Ưu Bà Di ấy thấy những việc như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông Điều Đạt tham uống quá nhiều chất tô, nên nhức đầu đau bụng. Quá khốn khổ chịu không nổi, ông liền niệm :
Nam Mô Phật !
Nam Mô Phật !
Bấy giờ ta đương ở tại thành Ưu
Thiền Ni, nghe tiếng niệm
động lòng đại từ.
Điều Đạt liền thấy ta đem thuốc đến cho uống, cùng dùng tay xoa đầu xoa bụng, do đó ông được hết bịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Thiệt ra ta không có đến chỗ Điều Đạt để xoa đầu xoa bụng và cho ông ấy uống thuốc. Đó là do sức căn lành của
lòng từ khiến ông Điều Đạt thấy việc như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Nước
Kiều Tát La có đảng cướp nămtrăm người, lộng hành làm hại dân chúng.
Vua Ba Tư nặc sai binh vây đánh bắt sống được trọn đảng cướp. Vua truyền khoét mắt cả năm trăm tên cướp, rồi thả trong rừng sâu.
Đảng cướp nầy đã từng gieo trồng căn lành nơi chư Phật thuở
quá khứ, nên khi
đau đớn khốn khổ quá bèn đồng xướng rằng :
Nam Mô Phật !
Nam Mô Phật ! Chúng con nay không người
cứu hộ. Cùng nhau khóc than
thê thảm.
Bấy giờ ta đương ở tại
Kỳ Hoàn tinh xá, nghe tiếng kêu cầu,
động lòng đại từ. Lúc đó có gió mát thổi chất thuốc từ núi
hương sơn đến tụ đầy lỗ mắt của năm trăm người,
biến thành tròng mắt, bọn họ đều được thấy tỏ như xưa.
Mở mắt ra, bọn họ thấy
đức Như Lai đứng
trước mặt họ
giảng pháp yếu. Sau khi
nghe pháp, cả bọn đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó thiệt ra ta không làm gió thổi thuốc đến cứu mắt họ, cũng không có đến
thuyết pháp cho họ. Đó là do sức căn lành của
lòng từ, khiến họ thấy những việc như vậy.
Nầy Thịện nam tử ! Vì
ngu si,
Thái Tử Lưu Ly phế Phụ Vương lập mình làm vua, lại nhớ đến sự
hiềm oán ngày trước giết hại giòng
họ Thích. Vua
Lưu Ly bắt hai ngàn
phụ nữ họ Thích cắt tai thẻo mũi, chặt đứt tay chân, rồi bỏ xuống hầm. Các
phụ nữ họ Thích quá
đau khổ bèn niệm rằng : “Nam Mô Phật !
Nam Mô Phật !
Chúng tôi ngày nay không ai cứu vớt”. Cùng nhau khóc than
thê thảm.
Các
phụ nữ nầy đã từng trồng căn lành nơi chư Phật thuở
quá khứ.
Lúc đó ta ở tại
Trúc Lâm Tinh Xá nghe tiếng than của họ liền sanh
lòng từ. Các
phụ nữ khốn nạn kia bèn thấy ta đến thành
Ca Tỳ La, lấy nước rửa vết thương cho họ rồi dùng thuốc đắp lên vết thương. Họ không còn đau nhức. Lỗ tai lỗ mũi và tay chân lành lại như cũ. Ta liền vì họ giảng nói
pháp yếu. Vừa hết
đau khổ lại được
nghe pháp, các
phụ nữ ấy đều
phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau đó các
phụ nữ ấy đến nơi Bà
Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni xuất gia thọ giới cụ túc.
Nầy
Thiện nam tử ! Thật ra lúc đó
đức Phật không có đến thành
Ca Tỳ La, cũng không có lấy nước rửa và đắp thuốc nơi vết thương. Phải biết đều là do sức căn lành của
lòng từ làm cho các phu nữ kia thấy những việc như vậy.
Như căn lành của
lòng từ, lòng bi, lòng hỷ cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên
Đại Bồ tát tu tập lòng từ là
chân thật chẳng phải
hư vọng.
Nầy
thiện nam tử ! Luận về
vô lượng là chẳng thể nghĩ bàn.
Công hạnh của
Bồ Tát cũng chẳng thể nghĩ bàn,
công hạnh của Phật và
kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn cũng đều chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát tu từ, bi, hỉ rồi đặng trụ nơi bực rất
yêu thương con một.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là bực ? Sao gọi là rất
yêu thương. Và sao gọi là con một ?
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như cha mẹ thấy con
an ổn lòng rất
vui mừng.
Đại Bồ Tát ở bực nầy xem các
chúng sanh đồng như con một, thấy người tu
hạnh lành Bồ Tát rất
vui mừng, vì thế nên bực nầy gọi là rất
yêu thương.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như cha mẹ thấy con đau ốm lòng rất
khổ não xót thương săn sóc không tạm rời. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát ở trong bực nầy thấy các
chúng sanh bị bịnh
phiền não ràng buộc bức khổ, trong lòng rầu lo thương tưởng như con, đến nổi lỗ chơn lông nơi thân đều rỉ máu ra. Vì thế nên gọi bực nầy là con một.
Nầy
Thiện nam tử ! Như người lúc bé thơ lượm đất cục, ngói đá, xương khô, nhánh cây đút vào miệng.
Cha mẹ xem thấy sợ bị hại, tay tả nắm đầu con, tay hữu móc ra. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát trụ nơi bực nầy thấy các
chúng sanh pháp thân chưa
tăng trưởng , hoặc
thân khẩu ý tạo nghiệp chẳng lành.
Bồ Tát bèn lấy tay
trí huệ cứu vớt đó, chẳng muốn
chúng sanh lưu chuyển trong
sanh tử mà phải thọ những
khổ não. Vì thế nên bực nầy lại gọi là con một.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như đứa con
thân yêu chết mất, thời
cha mẹ buồn rầu muốn cùng chết theo con. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát thấy hạng nhứt
xiển đề đọa nơi
địa ngục, cũng nguyện cùng họ sanh chung trong
địa ngục. Vì hạng nhứt
xiển đề nầy lúc bị khổ, hoặc sanh một niệm
ăn năn chừa cải,
Bồ Tát sẽ vì họ
thuyết pháp làm cho họ sanh đặng một
niệm căn lành. Vì thế nên bậc nầy gọi là con một.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con, lúc đứa con ngủ, thức, đi, đứng, ngồi, nằm, lòng
cha mẹ luôn luôn nhớ tưởng. Nếu con có
lỗi lầm cha mẹ chỉ
thương xót dạy dỗ chớ chẳng làm hại. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh hoặc bị đọa
địa ngục súc sanh ngạ quỉ, hoặc sanh trong
loài người,
trên trời, gây tạo những
nghiệp lành nghiệp dữ, lòng
Bồ Tát thường nhớ tưởng trọn không rời bỏ
chúng sanh. Nếu có
chúng sanh tạo ác,
Bồ Tát trọn chẳng giận hờn, chẳng làm hại. Vì thế nên bậc nầy gọi là con một.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng : “
Thế Tôn ! Như lời Phật đã nói ý rất sâu kín, nay tôi trí cạn cợt làm sao hiểu được. Nếu các vị
Đại Bồ Tát trụ nơi bực con một có thể được như thế, tại sao
đức Như Lai xưa kia là vị
quốc vương thật
hành đạo Bồ Tát mà lại giết hại giòng
Bà La Môn. Nếu đặng bực nầy thời lẽ ra phải
xót thương ủng hộ, còn nếu chẳng đặng bậc nầy,
nhơn duyên gì lại chẳng đọa vào
địa ngục.
Nếu
bình đẳng xem tất cả
chúng sanh là con như
La Hầu La, cớ sao
đức Phật lại quở
Đề Bà Đạt Đa : Đồ
ngu si không biết
hổ thẹn ăn nước miếng nước mũi của người. Làm cho
Đề Bà Đạt Đa sanh lòng giận hờn hại thân Phật ra máu.
Đề Bà Đạt Đa tạo
nghiệp ác nầy rồi,
đức Như Lai lại huyền ký cho ông ấy sẽ bị đọa
địa ngục chịu khổ một kiếp.
Thế Tôn !Những lời như vậy làm thế nào chẳng trái nghịch với
nghĩa lý.
Thế Tôn ! Ông
Tu Bồ Đề trụ bậc
giải không, lúc muốn vào thành
khất thực, trước hết ông
quán sát nếu có người đối với ông sanh tâm
ganh ghét thời ông thôi chẳng đi
khất thực, dầu cho quá đói ông vẫn chẳng đi. Vì ông
Tu Bồ Đề thường nghĩ rằng : Tôi tự nhớ đời trước đối với
phước điền sanh một niệm ác, do
nhơn duyên nầy tôi bị đọa
địa ngục lớn chịu nhiều
thống khổ. Nay tôi thà đói trọn ngày chẳng ăn, quyết không khiến những người kia vì
ganh ghét tôi mà phải đọa vào
địa ngục chịu khổ. Ông
Tu Bồ Đề lại nghĩ rằng : Nếu có
chúng sanh không bằng lòng cho tôi đứng, tôi sẽ trọn ngày
ngồi yên chẳng
đứng dậy. Nếu có
chúng sanh không bằng lòng cho tôi ngồi, tôi sẽ đứng trọn ngày chẳng dời chỗ. Đi cùng nằm nằm
Ông
Tu Bồ Đề vì hộ
chúng sanh còn có tâm như vậy,
hà huống là
Đại Bồ Tát.
Bồ Tát nếu đặng bực con một, có
duyên cớ gì mà
đức Như Lai nói ra lời thô như vậy làm cho ông
Đề Bà Đạt Đa sanh lòng giận ác ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Nay ông chẳng nên gạn như vậy. Chẳng nên nói rằng
đức Như Lai làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử vòi con muỗi có thể hút hết nước đến đáy biển,
đức Như Lai trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử mặt đất đều thành không màu, nước
thành tướng khô, lửa thành lạnh, gió đứng lại,
giả sử Tam Bảo Phật tánh nhẫn đến
hư không thành tướng vô thường,
đức Như Lai cũng trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử người phạm bốn tội nặng, hạng nhứt
xiển đề, hủy báng
chánh pháp hiện thân đặng thành
mười trí lực, bốn
vô úy, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt,
đức Như Lai trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử hàng
Thanh Văn và
Bích Chi Phật là
thường trụ chẳng
biến đổi,
đức Như Lai trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử bực
thập trụ Bồ Tát phạm bốn tội nặng, làm nhứt
xiển đề hủy báng
chánh pháp,
đức Như Lai trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử vô lượng chúng sanh dứt mất
Phật tánh, chư Phật
rốt ráo nhập Niết Bàn,
đức Như Lai cũng trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Giả sử vải chài có thể cột trói được gío, răng có thể nhai nát sắt, móng tay cào đổ
núi Tu Di,
đức Như Lai trọn chẳng làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Thà
ở chung với
rắn độc, đút hai tay vào miệng
sư tử đói, lấy than hồng dùng tắm rửa trọn chẳng nên nói rằng
đức Như Lai làm
nhơn duyên phiền não cho
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử !
Đức Như Lai thiệt có thể làm cho
chúng sanh dứt
trừ phiền não, chớ trọn chẳng làm
nhơn duyên sanh
phiền não.
Nầy
Thiện nam tử ! Như ông vừa nói
đức Như Lai ngày xưa giết dòng
Bà La Môn. Nên biết
Đại Bồ Tát, còn không cố sát một con kiến, huống lại giết
Bà La Môn.
Bồ tát thường dùng mọi cách thức ban bố
vô lượng thọ mạng cho
chúng sanh. Luận về
bố thí thời là
bố thí mạng sống, vật thực.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Đàn Ba La Mật, thường ban bố
vô lượng thọ mạng cho
chúng sanh. Người
giữ giới bất sát thời đặng sống lâu.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Thi La Ba La Mật, thời là ban bố
vô lượng thọ mạng cho tất cả
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử !
Giữ gìn miệng không
lỗi thời đặng sống lâu.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
sằn đề Ba La Mật, thường khuyên
chúng sanh chớ ôm lòng oán thù những
việc phải cho người đem sự quấy về mình, không cãi cọ
kiện cáo thời đặng sống lâu. Vì thế nên
Bồ Tát lúc thật hành
sằn đề Ba La Mật, thời đã ban bố
vô lượng thọ mạng cho
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử ! Siêng năng
tu tập hạnh lành thời đặng sống lâu.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Tỳ Lê Da Ba La Mật thường khuyên
chúng sanh siêng
tu pháp lành,
chúng sanh thật hành rồi đặng sống lâu
vô lượng. Vì thế nên
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Tỳ Lê Da Ba La Mật đã ban bố
vô lượng thọ mạng cho
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử ! Người
nhiếp tâm tu thiền thời đặng sống lâu.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
thiền Ba La Mật, khuyên các
chúng sanh tu tâm bình đẳng.
Chúng sanh thật hành rồi thì đặng sống lâu. Vì thế nên
Bồ Tát lúc thật hành
thiền Ba La Mật đã ban bố cho
chúng sanh vô lượng thọ mạng.
Nầy
Thiện nam tử ! Ở nơi những pháp lành, người không
phóng dật thời đặng sống lâu.
Đại Bồ tát lúc thật
hành Bát Nhã
Ba La Mật, khuyên các
chúng sanh nơi những pháp lành chẳng sanh lòng
phóng dật.
Chúng sanh thật hành rồi thời đặng sống lâu. Vì thế nên lúc
Bồ Tát thật
hành Bát Nhã
Ba La Mật đã ban bố
vô lượng thọ mạng cho
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên
Đại Bồ Tát trọn không giết hại mạng sống của
chúng sanh.
Nầy
Thiện nam tử ! Như vừa rồi ông hỏi, lúc giết hại dòng
Bà La Môn,
đức Phật đã đặng được bậc con một.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc đó ta đã đặng bực ấy. Vì lòng thương họ mà giết chẳng phải vì tâm ác.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con nên rất cưng yêu, đứa con đó phạm
hiến pháp của quan. Vì quá sợ nên
cha mẹ hoặc đuổi hoặc giết. Dầu
cha mẹ đuổi hay giết nhưng không có tâm ác.
Cũng vậy,
Đại Bồ Tát vì
hộ trì chánh pháp nếu có
chúng sanh hủy báng
Đại Thừa, liền lấy roi gậy để trị, hoặc giết chết, đó là muốn
chúng sanh chừa bỏ để
tu pháp lành.
Bồ Tát thường nên
suy nghĩ : Dùng
nhơn duyên gì làm cho
chúng sanh phát khởi lòng tin thanh tịnh,
tùy phương cách nào
thuận tiện thời sẽ thật hành đó. Những người Ba øLa Môn
sau khi chết đọa
A Tỳ địa ngục liền
suy nghĩ ba điều : Một là tự nghĩ rằng ta từ đâu mà sanh đến đây, liền tự biết rằng từ trong
loài người. Hai là tự nghĩ rằng : Ta hiện sanh đây là chỗ nào, liền tự biết rằng là
địa ngục A Tỳ. Ba là tự nghĩ rằng do
nghiệp duyên gì mà đọa
địa ngục, liền tự biết rằng do chẳng tin và hủy báng
kinh điển Đại Thừa, bị nhà vua giết mà sanh đến
địa ngục nầy. Họ nghĩ như vậy rồi liền sanh lòng kính tin
kinh điển Đại Thừa. Do lòng kính tin đó thân
địa ngục chết họ sanh đến
thế giới của
Cam Lồ Cổ
Như Lai, sống lâu đủ mười kiếp.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy thuở
xưa kia ta
ban cho những người ấy mười kiếp
thọ mạng, sao lại giết hại họ.
Nầy
Thiện nam tử ! Có người đào đất, cắt cỏ, đốn cây, chặt
tử thi,
mắng chửi, đánh đập
tử thi, do
nghiệp duyên nầy có bị đọa
địa ngục chăng ?
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa của Phật nói kẻ đó phải đọa
địa ngục. Vì cớ sao ? Như ngày trước Phật nói pháp cho hàng
Thanh Văn : Nầy các
Tỳ Kheo ở nơi cây cháy rụi chớ sanh lòng ác. Vì tất cả
chúng sanh do lòng ác mà phải đọa nơi
địa ngục.”
Đức Phật khen
Ca Diếp Bồ Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Đúng như lời ông nói, phải khéo
thọ trì.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu chơn
ác tâm phải đọa
địa ngục, lúc đó
Bồ Tát thiệt không
ác tâm. Vì
Đại Bồ Tát đối với tất cả
chúng sanh nhẫn đến con trùn , con kiến đều sanh lòng
thương xót, muốn cho họ được
lợi ích vì
Bồ tát khéo biết các
phương tiện, các
nhơn duyên, do sức
phương tiện muốn làm cho
chúng sanh vun trồng cội lành. Do nghĩa đó,
lúc ấy ta dùng
phương tiện, dầu giết hại mạng họ mà chẳng phải là tâm ác.
Nầy
Thiện nam tử !
Cứ theo giáo pháp Bà La Môn, cho rằng nếu giết chết kiến đầy cả mười xe không có
tội báo, muỗi, ruồi, rận, rệp, mèo, chồn,
sư tử, cọp, sói, gấu, những
độc trùng,
ác thú, và những loài có thể làm hại người :
Quỉ Thần,
La Sát ,
Cưu Bàn Trà.
Ca La,
Phú Đơn Na,
Điên cuồng, Càn khô, có ai giết hại mạng họ đầy cả mười xe cũng không có
tội báo, nếu giết người ác thời có
tội báo. Giết rồi chẳng
ăn năn thời đọa
ngạ quỉ.
Nếu có thể sám hối tuyệt thực ba ngày, thời tội đó
tiêu diệt không còn thừa. Nếu giết
Hòa Thượng, giết cha , hại mẹ, giết
phụ nữ, giết bò, trâu, thời phải đọa
địa ngục trong
vô số ngàn năm.
Nầy
Thiện nam tử ! Chư Phật và
Bồ Tát biết giết hại có ba hạng : hạ, trung và thượng.
Hạng hạ là trùn kiến nhẫn đến tất cả các
súc sanh chỉ trừ
Bồ Tát thị hiện thọ sanh.
Đại Bồ Tát do
nguyện lực nên
thị hiện làm thân
súc sanh, trừ đây ra gọi là
sát sanh hạng hạ.
Nghiệp duyên nầy sẽ phải đọa nơi
địa ngục,
súc sanh, ngã quỉ chịu lấy sự khổ hạng hạ. Vì những
súc sanh có căn lành rất kém ít nên kẻ giết phải
thọ tội báo hạng hạ.
Sát hại hạng trung là từ người
phàm phu đến vị
chứng quả A Na Hàm, đây gọi là hạng trung.
Nghiệp duyên giết hại hạng nầy phải đọa nơi
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ thọ sự khổ hạng trung.
Sát sanh hạng thượng là giết
cha mẹ, nhẫn đến
A La Hán,
Bích Chi Phật,
quyết định Bồ Tát, đây gọi là hạng thượng.
Nghiệp duyên giết hại hạng nầy phải đọa vào trong
địa ngục A Tỳ chịu lấy sự khổ hạng thượng.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người giết kẻ nhứt
xiển đề, thời chẳng đọa vào trong ba hạng
sát hại nầy.
Nầy
Thiện nam tử ! Những người dòng
Bà La Môn bị nhà vua giết trước kia tất cả đều là hạng nhứt
xiển đề. Thí như đào đất cắt cỏ đốn cây chặt
tử thi mắng nhiếc đánh đập, đều không có
tội báo. Giết hạng nhứt
xiển đề cũng không có
tội báo như vậy. Vì những người
Bà La Môn không có căn lành nhẫn đến không có năm pháp tín v.v… Vì thế nên dầu giết hại họ mà chẳng đọa
địa ngục.
Nầy
Thiện nam tử ! Ông trước nói rằng :
Đức Như Lai cớ chi mắng
Đề Bà Đạt Đa là người
ngu si ăn nước miếng. Ông không nên hỏi như vậy. Vì chư
Phật Thế Tôn phàm nói ra lời gì đều chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Hoặc có thiệt ngữ được người đời mến ưa nhưng
phi thời,
phi pháp chẳng
lợi ích, những lời như vậy
đức Phật trọn chẳng nói. Hoặc lại nói lời thô vụng
hư vọng,
phi thời,
phi pháp, chẳng
lợi ích người nghe chẳng
ưa thích,
đức Phật cũng chẳng nói.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có những lời dầu là thô rắn nhưng chơn thật chẳng
hư vọng, phải thời đúng pháp có thể
lợi ích cho tất cả
chúng sanh, người nghe dầu chẳng vui đẹp nhưng ta
cần phải nói. Vì chư
Phật Thế Tôn chánh đẳng chánh giác khéo biết
phương tiện.
Nầy
Thiện nam tử ! Trước kia có một hôm ta đi ngang thôn Khoáng Dã, ở dưới rừng có một
quỉ thần tên là Khoáng Dã. Quỉ nầy thuần ăn máu thịt giết hại nhiều
chúng sanh. Quỉ ấy lại mỗi ngày ăn một người trong thôn xóm gần đó. Lúc đó ta rộng nói
pháp yếu cho quỉ Khoáng Dã, nhưng quỉ ấy hung bạo
ngu si chẳng
lãnh thọ giáo pháp. Ta liền
hóa thân ra làm
đại lực quỉ, làm rúng động cung điện của nó. Quỉ Khoáng Dã dắt
quyến thuộc và bộ hạ kéo ra muốn chống cự với ta.
Chúng nó vừa thấy ta liền
run sợ té xuống đất ngất xỉu như người chết. Ta dùng
lòng từ bi lấy tay xoa lên mình nó. Nó
tỉnh dậy nói rằng : “ Hôm nay
may mắn được
sống lại. Vị
Đại Thần Vương nầy có
oai đức lớn có
tâm từ bi
tha tội lỗi của tôi”. Qủi Khoáng Dã liền sanh tâm lành kính tin nơi ta.
Ta hiện huờn lại thân
Như Lai vì họ nói
pháp yếu làm cho các
quỉ thần kia
thọ giới bất sát.
Chính ngày đó trong thôn Khoáng Dã có một ông
Trưởng giả đến phiên phải chết, người trong thôn đã đưa ông ấy giao cho quỉ Khoáng Dã. Quỉ Khoáng Dã liền đem đến cúng thí cho ta. Ta lãnh ông
Trưởng giả và đặt hiệu cho ông là Thủ
Trưởng giả.
Quỉ Khoáng Dã bạch ta rằng : “
Thế Tôn ! Con và
quyến thuộc của con chỉ nhờ máu thịt mà đặng sống, nay
thọ giới bất sát biết lấy gì để sống được ?”
Ta bảo rằng : “ Từ nay trở đi
đức Phật sẽ bảo hàng
Thanh Văn đệ tử tùy chỗ nào có
Phật pháp lưu hành đều sẽ cúng thí đồ uống ăn cho nhà ngươi.”
Nầy
Thiện nam tử ! Do
nhơn duyên đó ta chế điều giới : Các
Tỳ Kheo từ nay trở đi thường phải
thí thực cho quỉ Khoáng Dã. Nếu người
xuất gia nào chẳng cúng thí, nên biết người đó chẳng phải
đệ tử Phật, chính là đồ đảng
quyến thuộc của
Thiên Ma.
Nầy
Thiện nam tử !
Đức Như Lai vì muốn
điều phục chúng sanh nên
thị hiện những
phương tiện như vậy. Chẳng phải
cố ý làm cho họ sanh lòng
sợ hãi.
Cũng có một lúc ta dùng cây đánh quỉ
hộ pháp.
Lại có một hôm ta đang đi trên một ngọn núi xô quỉ Dương Đầu làm nó té xuống dưới núi.
Lại một hôm nơi ngọn cây ta
xô ngã quỉ Hộ
Di Hầu.
Một ngày nọ làm cho voi Hộ Tài thấy năm
sư tử.
Có lúc ta sai
thần Kim Cương khủng bố ngoại đạo Tát Giá
Ni Kiền Tử.
Ngày kia ta cũng lấy kim đâm thân của quỉ Tiển Mao.
Dầu ta làm những việc như vậy nhưng cũng chẳng làm cho các
quỉ thần kia đến phải chết. Chỉ vì muốn khiến họ an trụ nơi
chánh pháp nên
thị hiện những
phương tiện như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Trước kia thiệt ra
đức Phật chẳng mắng nhục
Đề Bà Đạt Đa. Còn
Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng
ngu si ăn nước miếng của người, cùng chẳng đọa
A Tỳ địa ngục thọ tội một kiếp, cũng chẳng
phá hoại chúng Tăng, chẳng làm thân Phật ra máu,
Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng trái phạm bốn tội nặng, chẳng hủy báng
kinh điển Đại Thừa, ông ấy chẳng phải nhứt
xiển đề, chẳng phải
Thanh Văn cũng chẳng phải
Bích Chi Phật.
Nầy
Thiện nam tử !
Đề Bà Đạt Đa thiệt chẳng phải
cảnh giới Thanh Văn,
Duyên Giác. Duy chư Phật thấy biết được thôi.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì thế nên nay ông chẳng nên gạn rằng : “ Cớ gì
đức Như Lai quở trách mắng nhiếc làm nhục
Đề Bà Đạt Đa. Đối với
cảnh giới của chư Phật, ông chẳng nên có lòng nghi như vậy.”
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như mía nấu nhiều lần thời đặng nhiều thứ vị. Tôi cũng như vậy, nghe Phật nói pháp nhiều lần đặng nhiều
pháp vị. Chính là những vị :
Xuất gia vị,
ly dục vị,
tịch diệt vị,
đạo vị. Thế-Tôn ! Như
vàng ròng đốt đập nhiều lần càng thêm sáng sạch,
giá trị vô lượng, được trời người quí trọng. Đức Như-Lai cũng vậy,
trân trọng thưa hỏi liền đặng nghe thấy nghĩa rất sâu
vi diệu, khiến người
tu hành phụng tu
thọ trì vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề. Do đó
đức Phật được trời người
tôn trọng cung kính cúng dường.
Đức Phật tán thán Ca Diếp Bồ Tát : “
Lành thay !
Lành thay !
Đại Bồ tát vì muốn
lợi ích chúng sanh nên thưa hỏi
đức Như Lai những nghĩa sâu như vậy. Do nghĩa nầy ta
tùy theo ý của ông mà nói pháp
Đại Thừa Phương Đẳng rất sâu,
bí mật, tức là bậc rất
yêu thương như con một.”
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nếu
Bồ Tát tu tâm từ, bi , hỷ, đặng bậc con một, lúc
tu tâm xả thời dặng bực gì ?
Phật nói : “
Lành thay !
Lành thay ! Ông khéo biết thời, biết ta muốn nói nên ông thưa hỏi.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát lúc
tu tâm xả thời đặng bậc
bình đẳng không như ông
Tu Bồ Đề.
Đại Bồ Tát trụ bậc
bình đẳng không, thời chẳng thấy có
cha mẹ, anh em, chị em,
họ hàng quyến thuộc, oán thù kẻ không thân không oán nhẫn đến chẳng thấy : Ấm, giới, nhập,
chúng sanh thọ mạng.
Ví như hư không, không có cha me, anh em,
vợ con, nhẫn đến không có
chúng sanh thọ mạng, tất cả các pháp cũng không có
cha mẹ nhẫn đến
thọ mạng.
Đại Bồ Tát thấy tất cả pháp cũng như vậy, tâm của
Bồ Tát bình đẳng như
hư không, vì
Bồ Tát khéo
tu tập những pháp không”.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật :
Thế Tôn ! Sao gọi là không ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Nói là không có
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
hữu vi không,
vô vi không, vô thỉ không,
tánh không,
vô sở hữu không,
đệ nhất nghĩa không,
không không,
đại không.
Đại Bồ Tát quán n ội không như thế nào ?
Đại Bồ Tát nầy quán
nội pháp là không, chính là không
cha mẹ, kẻ oán, người thân, không oán, không thân,
chúng sanh,
thọ mạng, thường, lạc, ngã, tịnh,
Như Lai, Pháp , Tăng, tài vật. Trong
nội pháp nầy dầu có
Phật tánh, nhưng
Phật tánh nầy chẳng phải nội chẳng phải ngoại. Vì
Phật tánh thường trụ không
biến đổi. Đây gọi là
Đại Bồ Tát quán nơi
nội không.
Ngoại không cũng như vậy không có
ngoại pháp.
Nội ngoại không cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Chỉ có
Như Lai, Pháp, Tăng,
Phật tánh, chẳng ở nơi
phạm vi hai thứ không. Vì bốn
pháp như vậy là thường, lạc, ngã, tịnh, nên chẳng gọi là không. Đây gọi là nội và ngoại đều không.
Nầy
Thiện nam tử !
Hữu vi không là các
pháp hữu vi thảy đều không. Chính là
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không, thường, lạc, ngã,
tịnh không,
chúng sanh thọ mạng Như Lai pháp, Tăng,
đệ nhứt nghĩa không. Trong đây
Phật tánh chẳng phải
pháp hữu vi, nên
Phật tánh chẳng phải là
pháp hữu vi không. Trên đây gọi là
hữu vi không .
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát quán
vô vi không như thế nào ?
Pháp vô vi thảy đều là không tức là
vô thường, khổ,
bất tịnh,
vô ngã, ấm, giới, nhập ,
chúng sanh,
thọ mạng,
hữu vi,
hữu lậu,
nội pháp,
ngoại pháp. Trong
pháp vô vi Phật, Pháp v.v… bốn pháp đều chẳng phải
hữu vi chẳng phải
vô vi : Vì là thiện nên chẳng phải
vô vi, vì tánh
thường trụ nên chẳng phải
hữu vi. Đây gọi là
Bồ Tát quán
vô vi không.
Thế nào là
Bồ Tát quán vô thỉ không ?
Đại Bồ Tát thấy
sanh tử vô thỉ thảy đều
không tịch gọi là không, đó tức là thường, lạc, ngã, tịnh, thảy đều
không tịch chẳng có
biến đổi.
Chúng sanh thọ mạng Tam Bảo,
Phật tánh và
vô vi pháp cũng như vậy. Đây gọi là quán vô thỉ không.
Đại Bồ Tát quán nơi
tánh không thế nào ?
Đại Bồ tát nầy quán tất cả
pháp bổn tánh đều không :Ấm, giới, nhập, thường,
vô thường, khổ, lạc, tịnh,
bất tịnh, ngã,
vô ngã. Tất cả pháp đều chẳng thấy bổn tánh, đây gọi là quán nơi
tánh không.
Đại Bồ Tát quán
vô sở hữu không như thế nào ? Như người không con nói nhà cửa trống không,
rốt ráo quán không chẳng có
thân yêu. Người
ngu si thời gọi là các phương không. Người nghèo cùng thời gọi là tất cả không. Những
kiến chấp như vậy, hoặc không hoặc chẳng phải không. Lúc
Bồ Tát quán sát như người nghèo cùng tất cả đều không. Đây gọi là
Bồ Tát quán
vô sở hữu không.
Đại Bồ Tát quán
đệ nhất nghĩa không như thế nào ?
Bồ Tát lúc quán
đệ nhất nghĩa,
nhãn căn nầy lúc sanh ra không từ đâu lại, lúc nó diệt mất cũng không đi đến đâu, trước không, nay có, có rồi
trở lại không suy
thật tánh của nó không
nhãn căn không
chủ tể. Như
nhãn căn vô tánh, tất cả pháp cũng như vậy. Những gì gọi là
đệ nhứt nghĩa không ? Có nghiệp có báo, chẳng thấy
tác giả,
pháp không như vậy gọi là
đệ nhứt nghĩa không. Đây gọi là quán
đệ nhứt nghĩa không.
Đại Bồ Tát quán không không như thế nào ? Trong
không không nầy là chỗ mê mờ của
Thanh Văn và
Bích chi Phật.
Nầy
Thiện nam tử ! Là có, là không, đây gọi là
không không. Là phải là chẳng phải đây gọi là
không không.
Nầy
Thiện nam tử ! Bực
Thập trụ Bồ Tát còn ở trong đây
thông đạt phần ít như
vi trần, huống là những người khác,
không không như vậy cũng chẳng đồng
không không Tam Muội của
Thanh Văn chứng đặng. Đây gọi là
Bồ Tát quán nơi
không không.
Đại Bồ Tát quán
Đại Không thế nào ?
Đại Không tức là
Bát Nhã Ba La Mật.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát đặng
pháp môn Không như vậy thời đặng trụ nơi bậc
hư không đặng.
Nầy
Thiện nam tử ! Nay
đức Phật ở trong
đại chúng nầy lúc nói những
nghĩa không như vậy, có mười
hằng hà sa Bồ Tát liền đặng trụ nơi bậc
hư không đẳng.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát trụ nơi bậc nầy ở trong tất cả
pháp không bị trở ngại, không bị
ràng buộc câu chấp,
tâm không mê muội. Do nghĩa nầy nên gọi là bậc
hư không đẳng.
Nầy
Thiện nam tử !
Ví như hư không đối sắc đáng ưa chẳng sanh tham đắm, đối với sắc chẳng ưa chẳng sanh giận hờn.
Đại Bồ Tát trụ trong bực nầy cũng như vậy, đối với sắc tốt xấu,
tâm không tham không giận,
ví như hư không rộng lớn
tuyệt đối, có thể dung chứa tất cả vật.
Đại Bồ tát trụ trong bực nầy cũng như vậy, rộng lớn
tuyệt đối đều có thể dung thọ tất cả pháp. Do nghĩa nên đặng gọi là bậc
hư không đẳng.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát trụ trong bậc nầy đối với tất cả pháp cũng thấy cũng biết, là hành, là duyên, là tánh, là tướng, là nhơn, là duyên, là
chúng sanh tâm, là căn, là
thiền định, là thừa, là
thiện tri thức, là trì
cấm giới, là vật
bố thí, những
pháp như vậy tất cả đều biết đều thấy.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát trụ trong bực nầy biết mà chẳng thấy. Thế nào là biết ? Biết tự nhịn đói, gieo xuống vực, nhảy vào lửa tự té từ ngọn núi cao, thường co một chân, năm thứ nóng đốt thân, thường nằm trên tro, trên đất, trên
gai góc, trên lá cây, cỏ cứng, trên phân bò, mặc
y phục bằng gai thô của người vất bỏ trong gò mã, áo lông
phấn tảo, áo khâm
bà la, da nai, da huơu, áo quần bằng cỏ,
ăn rau, ăn trái, ăn ngó, ăn cũ, xác dầu, phân bò. Nếu đi
khất thực hạn định từ nhà,
gia chủ nếu nói rằng không liền bỏ đi, dầu kêu
trở lại cũng chẳng
ngó ngoái lại. Chẳng ăn muối
ăn thịt, cùng năm thứ sữa lạt, tô, v.v… Thường uống nước cám trấu, nước sôi.
Thọ trì ngưu giới, kê giới,
cẩu giới, trỉ giới. Lấy tro trét trên mình, để tóc dài làm tướng. Lúc dùng dê để cúng tế trước
chú nguyện rồi sau giết thịt. Bốn tháng thờ lửa, ngày bảy hớp gió. Trăm ngàn ức thứ hoa
cúng dường chư Thiên. Muốn nhơn những việc trên đây để được
thành tựu chỗ mong cầu. Những
phương pháp trên đây không bao giờ có thể làm nhơn
giải thoát được. Đây gọi là biết.
Thế nào là chẳng thấy ?
Đại Bồ Tát chẳng thấy môt người nào thật hành
phương pháp như
vậy mà đặng chánh
giải thoát. Đây gọi là chẳng thấy.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát cũng thấy cũng biết. Những gì là thấy ? Thấy các
chúng sanh thật hành
tà pháp ấy quyết đọa
địa ngục đây gọi là thấy.
Thế nào là biết ? Biết các
chúng sanh từ
địa ngục ra, sanh trong
loài người nếu có thể tu hành Đàn Ba La Mật nhẫn đến đầy đủ các môn
Ba La Mật người nầy quyết đặng tám môn chánh
giải thoát. Đây gọi là biết.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát lại có cũng thấy cũng biết. Thế nào là thấy ? Thấy thường,
vô thường, khổ, lạc, tịnh,
bất tịnh, ngã,
vô ngã, đây gọi là thấy. Thế nào là biết ? Biết các
đức Như Lai quyết định chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn,
biết thân Như Lai là
kim cang không hư hoại, chẳng phải là thân do
phiền não mà thành, lại chẳng phải hôi nhơ hư rã. Cũng lại có thể biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Đây gọi là biết.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát lại có cũng biết cũng thấy. Thế nào là biết ? Biết
chúng sanh nầy
tín tâm thành tựu, biết
chúng sanh nầy
cầu pháp Đại thừa, người nầy thuần lưu, người nầy
nghịch lưu, người nầy chánh trụ, biết
chúng sanh nầy đã đến bờ kia.
Người
thuận lưu là nói hạng
phàm phu. Người
nghịch lưu là từ bậc
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Duyên Giác. Người chánh trụ là nói các bậc
Bồ Tát. Người đến bờ kialà nói các
đức Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri. Đây gọi là biết.
Thế nào là thấy ?
Đại Bồ Tát trụ nơi
kinh điển Đại Thừa Đại Niết Bàn tu
phạm hạnh dùng
thiên nhãn thanh tịnh thấy các
chúng sanh ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo điều ác đọa nơi
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ. Thấy các
chúng sanh tu
nghiệp lành sau khi chết sẽ sanh
trên trời hay trong
loài người. Những
chúng sanh nầy từ
tối tăm vào
tối tăm. Có những
chúng sanh từ
tối tăm vào
sáng suốt. Có những cbúng sanh từ
sáng suốt vào
tối tăm. Có những
chúng sanh từ
sáng suốt vào
sáng suốt. Đây gọi là thấy.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát lại có cũng biết cũng thấy.
Đại Bồ Tát biết các
chúng sanh tu thân, tu giới,
tu tâm,
tu huệ. Người nầy đời nay
thành tựu nghiệp ác, hoặc nhơn
tham dục,
sân khuể,
ngu si nghiệp nầy ắt phải
thọ báo nơi
địa ngục, người nầy do
tu thân, tu giới,
tu tâm,
tu huệ, nên hiện đời thọ
quả báo nhẹ chẳng đọa
địa ngục. Nghiệp nầy thế nào có thể đặng báo
hiện tại ?
Phát lồ sám hối những
tội ác đã làm đã
ăn năn chừa cải về sau chẳng dám
tái phạm. Vì
hổ thẹn, vì
cúng dường tam bảo, vì
thường trụ quở trách, người nầy do
nhơn duyên nghiệp lành đây nên chẳng đọa
địa ngục. Hiện đời thọ
quả báo là nhức đầu, đau mắt, đau bụng, đau lưng, chết vì họan nạn, bị
mắng nhiếc làm nhục, bị đánh đập trói nhốt, bị
đói khát khốn khổ, những việc như vậy là hiện đời thọ
quả báo nhẹ. Đây gọi là biết.
Thế nào là thấy ?
Đại Bồ Tát thấy người như vậy chẳng có thể
tu tập thân, giới tâm, huệ, tạo chút ít
nghiệp ác.
Nhơn duyên của nghiệp nầy
đáng lẽ hiện đời thọ
quả báo. Người nầy tạo chút ít
nghiệp ác chẳng có thể
sám hối, chẳng tự
quở trách, chẳng sanh lòng
hổ thẹn, chẳng sợ sệt,
nghiệp ác nầy
tăng trưởng nên thọ
quả báo nơi
địa ngục. Đây gọi là thấy.
Lại có biết mà chẳng thấy. Thế nào là biết ? Biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh , vì
phiền não che đậy nên chẳng thể thấy. Đây gọi là biết mà chẳng thấy.
Lại có biết mà thấy chút ít. Bậc
thập trụ Bồ Tát biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, thấy chẳng được
rõ ràng dường như đêm tối thấy vật chẳng rõ.
Lại có cũng thấy cũng biết, chính là
chư Phật Như Lai cũng thấy cũng biết.
Lại có cũng thấy cũng biết, chẳng thấy chẳng biết. Cũng thấy cũng biết là : Trong
thế gian những
văn tự,
ngôn ngữ, nam, nữ, xe cộ, bình chậu, nhà cửa, thành ấp, áo xiêm, uống ăn, núi sông, vườn rừng,
chúng sanh,
thọ mạng. Đây gọi là cũng biết cũng thấy.
Thế nào là chẳng thấy chẳng biết ? Thánh nhơn chỗ có nói ra lời
vi mật, không có
nam nữ nhẫn đến vườn rừng. Đây gọi là chẳng thấy chẳng biết.
Lại có biết mà chẳng thấy : Biết vật
bố thí, biết chỗ
cúng dường, biết người
lãnh thọ, biết nhơn quả. Đây gọi là biết. Chẳng thấy đồ
bố thí, chỗ
cúng dường, người thọ nhẫn đến
quả báo. Đây gọi là chẳng thấy.
Đại Bồ Tát biết có tám thứ, chính là
ngũ nhãn của
đức Như Lai chỗ biết.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn !
Đại Bồ Tát có thể biết như vậy thời đặng những
lợi ích gì ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát có thể biết như vậy thời đặng
bốn vô ngại. Pháp
vô ngại,
nghĩa vô ngại, từ
vô ngại, nhạo thuyết
vô ngại. Pháp
vô ngại là biết tất cả pháp và
danh tự của pháp.
Nghĩa vô ngại là : Biết những nghĩa của tất cả pháp, có thể
tùy theo danh tự đã đặt cho các pháp mà
giải nghĩa. Từ
vô ngại là
giảng luận tùy theo danh tự,
giảng luận theo chánh âm,
giảng luận về
pháp cú,
giảng luận về thế biện. Nhạo thuyết
vô ngại là :
Đại Bồ Tát khi
diễn thuyết không có
chướng ngại, không ai
động chuyển được, không có sợ sệt, khó có ai tồi phục được.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây gọi là
Bồ Tát có thể thấy và biết như vậy, bèn đặng bốn trí
vô ngại như thế.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Pháp
vô ngại là :
Đại Bồ Tát biết khắp những pháp
Thanh Văn,
Duyên Giác,
Bồ Tát, chư Phật.
Nghĩa vô ngại là thừa, dầu có ba, nhưng biết quy về một, trọn chẳng cho rằng có tướng
sai biệt hẳn. Từ
vô ngại là :
Đại Bồ Tát ở trong một pháp đặt thành nhiều thứ tên, trãi
vô lượng kiếp nói chẳng hết, hàng
Thanh Văn,
Duyên Giác, không thể nói như vậy được. Nhạo thuyết
vô ngại là :
Đại Bồ Tát trong
vô lượng kiếp vì các
chúng sanh diễn thuyết các pháp : Hoặc danh hoặc nghĩa, nhiều loại
giảng thuyết khác nhau chẳng thể
cùng tận.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Pháp
vô ngại : Là
Đại Bồ Tát dầu biết các pháp nhưng chẳng chấp lấy.
Nghĩa vô ngại là :
Đại Bồ Tát dầu biết những nghĩa nhưng cũng chẳng chấp. Từ
vô ngại là
Đại Bồ Tát dầu biết
danh tự cũng chẳng chấp lấy. Nhạo thuyết
vô ngại là
Đại Bồ tát dầu biết nhạo thuyết
tối thượng như vậy nhưng cũng chẳng chấp. Vì cớ sao chẳng chấp ? Vì nếu chấp lấy thời chẳng gọi là
Bồ Tát.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nếu chẳng chấp lấy thời chẳng biết pháp, nếu biết
pháp thời là chấp lấy, nếu biết mà chẳng chấp lấy thời là không chỗ biết, thế sao
đức Như Lai nói rằng : Biết pháp mà chẳng chấp lấy ? Phật nói : Nầy
Thiện nam tử ! Luận về người chấp lấy thời chẳng gọi là
vô ngại. Người
không chấp lấy mới gọi là
vô ngại. Thế nên tất cả
Bồ Tát nếu có chấp lấy thời
không vô ngại,
nếu không vô ngại thời chẳng gọi là
Bồ Tát. Nên biết người ấy gọi là
phàm phu. Tại sao chấp lấy gọi là
phàm phu ? Vì tất cả
phàm phu chấp lấy nơi sắc, thinh, nhẫn đến chấp lấy thức. Vì chấp lấy sắc thời sanh tâm tham, vì sanh tâm tham nên bị sắc
ràng buộc, nhẫn đến bị thức
ràng buộc. Do bị
ràng buộc nên chẳng đặng
thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi,
khổ não. Thế nên chấp lấy gọi là
phàm phu. Do nghĩa nầy nên tất cả
phàm phu không có
bốn vô ngại.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát đã ở nơi
vô lượng a tăng kỳ kiếp biết và thấy
pháp tướng. Do biết thấy nên biết nghĩa. Do thấy
pháp tướng và biết nghĩa nên ở trong sắc v.v… chẳng sanh lòng chấp lấy, nhẫn đến trong thức cũng lại như vậy. Do chẳng chấp lấy,
Bồ Tát đối với sắc chẳng sanh lòng tham, nhẫn đến nơi thức cũng chẳng sanh lòng tham. Do không tham nên chẳng bị sắc
ràng buộc, nhẫn đến chẳng bị thác
ràng buộc. Bởi chẳng
ràng buộc thời đặng
thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, ưu , bi,
khổ não. Do nghĩa nầy nên tất cả
Bồ Tát đặng
bốn vô ngại.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
nhân duyên nầy trong
mười hai bộ kinh,
đức Phật vì hàng
đệ tử nói chấp lấy gọi là bị ma
trói buộc. Nếu chẳng chấp lấy thời
thoát khỏi sự
trói buộc của ma.
Ví như trong đời, người có tội bị vua bắt trói, người không tội nhà vua không bắt.
Đại Bồ Tát cũng như vậy : Người chấp lấy thời bị ma
ràng buộc, người
không chấp lấy thời ma không
ràng buộc được. Do nghĩa nầy nên
Đại Bồ Tát không có chấp lấy.
Nầy
Thiện nam tử ! Pháp
vô ngại là :
Đại Bồ Tát khéo biết
danh tự giữ lấy chẳng quên, nói giữ lấy là như đất, núi, như con mắt, như
đám mây, như người, như mẹ, tất cả các pháp cũng lại như vậy,
nghĩa vô ngại là :
Bồ Tát chẳng biết
danh tự của các pháp cũng biết nơi nghĩa. Biết nghĩa thế nào ? Như đất khắp giữ lấy tất cả
chúng sanh, và phi
chúng sanh, do nghĩa nầy nên gọi là đất giữ lấy.
Bồ Tát lại
suy nghĩ núi có thể giữ lấy đất làm cho
vững vàng không nghiêng động nên gọi là núi giữ lấy. Con mắt có thể giữ lấy ánh sáng. Mây gọi là hơi của rồng, hơi của rồng giữ lấy nước cho nên gọi là mây giữ lấy. Người có thể giữ lấy pháp và
phi pháp. Mẹ có thể giữ lấy con.
Đại Bồ Tát biết
danh tự cú nghĩa của tất cả pháp cũng như vậy.
Từ
vô ngại là :
Đại Bồ Tát dùng các thứ
ngôn từ diễn nói một nghĩa, cũng không có nghĩa. Như những danh từ
nam nữ, nhà cửa, xe cộ,
chúng sanh v.v… Cớ sao là
vô nghĩa ? Luận về nghĩa là
cảnh giới của Phật của
Bồ Tát,
ngôn từ là
cảnh giới của
phàm phu. Do biết nghĩa nên đặng từ
vô ngại.
Nhạo thuyết
vô ngại là
Đại Bồ Tát biết từ, biết nghĩa, nên trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp thuyết từ, thuyết nghĩa, chẳng
cùng tận. Đây gọi là nhạo thuyết
vô ngại.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát trong
vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp tu hành thế đế, do sự
tu hành nầy biết pháp
vô ngại. Lại trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp tu
đệ nhất nghĩa đế nên đặng
nghĩa vô ngại. Lại
vô lượng a tăng kỳ kiếp tập học luận Tỳ Dà La Na nên đặng từ
vô ngại. Cũng ở trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập luận thuyết về
thế đế, nên đặng nhạo thuyết
vô ngại. Hàng Thinh Văn
Duyên Giác không đặng
bốn vô ngại như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Trong
chín bộ kinh,
đức Phật nói
Thanh Văn và
Duyên Giác có
bốn vô ngại, nhưng
Thanh Văn Duyên Giác thật không có.
Tại vì sao ? Vì
Đại Bồ Tát nhơn độ
chúng sanh nên
tu tập bốn trí
vô ngại như vậy. Hàng
Duyên Giác tu pháp tịch diệt chỉ ưa ở
một mình, nếu
hoá độ chúng sanh chỉ hiện
thần thông, trọn ngày nín lặng không
thuyết pháp làm sao có được bốn trí
vô ngại. Cớ sao nín lặng mà không
thuyết pháp ? Hàng
Duyên Giác chẳng thể
thuyết pháp độ người khiến đặng pháp noãn, pháp đảnh,
pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất,
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La hán,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát, chẳng thể khiến người
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! Hàng
Duyên Giác ra đời trong
thế gian không có
chín bộ kinh, vì thế nên
Duyên Giác không có từ
vô ngại và nhạo thuyết
vô ngại. Hàng
Duyên Giác dầu biết các pháp nhưng không được pháp
vô ngại. Vì pháp
vô ngại gọi là biết
văn tự. Hàng
Duyên Giác dầu biết
văn tự nhưng không được
văn tự vô ngại. Vì chẳng biết hai chữ : “ Thường Trụ”. Thế nên hàng
Duyên Giác chẳng đặng pháp
vô ngại. Hàng Duyên Gác dầu biết nơi nghĩa nhưng không được
nghĩa vô ngại.
Người thật biết nghĩa thời biết
chúng sanh đều có
Phật tánh. Nghĩa
Phật tánh gọi là
vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do nghĩa nầy nên hàng
Duyên Giác chẳng đặng
nghĩa vô ngại, thế nên tất cả hàng
Duyên Giác không có bốn trí
vô ngại.
Thế nào là hàng
Thanh Văn không có bốn trí
vô ngại ? Hàng
Thanh Văn không có ba thứ
thiện xảo phương tiện; một là quyết
cần phải lời nói dịu dàng rồi sao mới
lãnh thọ giáo pháp, hai là quyết phải
lời nói thô rồi sao mới
lãnh thọ sự giáo hóa, ba là
lời nói chẳng
dịu dàng chẳng thô rồi sau mới
lãnh thọ sự giáo hóa. Vì hàng
Thanh Văn không có ba
phương tiện nầy nên không có bốn trí
vô ngại. Lại hàng
Thanh Văn Duyên Giác chẳng có thể biết lời, biết nghĩa
rốt ráo, không có trí
tự tại,
hiểu rõ nơi
cảnh giới, không có
mười trí lực, bốn
vô sở úy chẳng có thể
rốt ráo ra khỏi sông lớn
mười hai nhân duyên, chẳng có thể khéo biết những
căn tánh lợi độn sai khác của
chúng sanh, chưa có thể dứt hẳn lòng nghi đối với hai đế lý, chẳng biết các thứ
cảnh giới sở duyên nơi tâm của
chúng sanh, chẳng có thể khéo nói
đệ nhất nghĩa không, thế nên hàng
nhị thừa không có bốn trí
vô ngại.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “Thế Tôn ! Nếu tất cả hàng
Thanh Văn Duyên Giác đều không có bốn trí
vô ngại, tại sao
đức Thế Tôn lại nói
Xá Lợi Phất là
trí huệ đệ nhất.
Đại Mục Kiền Liên là
thần thông đệ nhất,
Ma Ha Câu Si La là
tứ vô ngại đệ nhất. Nếu các ngài đó là không có bốn trí
vô ngại, sao
đức Như Lai tuyên bố những lời như vậy.
Đức Phật khen ngợi
Ca Diếp Bồ Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử !
Ví như sông Hằng có nước nhiều
vô lượng, sông lớn Tân Đầu cũng có nước
vô lượng, sông lớn Bác Xoa cũng có nước
vô lượng, sông lớn Tất Đà cũng có nước
vô lượng, ao
A Nậu Đạt cũng có nước
vô lượng, trong
đại hải nước cũng
vô lượng. Các con sông lớn ao
A Nậu cùng
đại hải dầu đồng có nước nhiều
vô lượng, nhưng thatä ra nhiếu ít chẳng đồng nhau. Bốùn trí
vô ngại của hàng
Thanh Văn,
Duyên Giác cùng các bậc
Đại Bồ Tát vốn cũng như vậy, nếu gọi là đồng nhau thời không đúng.
Nầy
Thiện nam tử ! Ta vì
phàm phu mà nói
Ma Ha Câu Si La bốn trí
vô ngại đệ nhất.
Ý nghĩa lời hỏi của ông là như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Hàng
Thanh Văn hoặc có vị đặng một trí
vô ngại , hoặc có vị đặng hai, không có vị nào có đủ được bốn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như trong phẩm
Phạm Hạnh,
đức Phật đã nói sự
tri kiến của
Bồ tát đặng bốn trí
vô ngại.
Tri kiến của
Bồ Tát thời là
vô sở đắc cũng không có
tâm niệm cho rằng
Vô Sở Đắc.
Thế Tôn !
Đại Bồ Tát nầy thật
vô sở đắc. Nếu
giả sử tâm niệm Bồ Tát có sở
đắc thời chẳng phải là
Bồ Tát, nên gọi là
phàm phu.
Đức Như Lai sao lại nói
Bồ Tát mà có sở đắc ?
_ Nầy
Thiện nam tử !
Lành thay !
Lành thay ! Ta sắp sửa nói mà ông lại hỏi.
Đại Bồ Tát thật
vô sở đắc,
vô sở đắc gọi là bốn trí
vô ngại.
Nầy
Thiện nam tử ! Do nghĩa gì
vô sở đắc gọi là bốn trí
vô ngại. Nếu có sở
đắc thời gọi là ngại. Có
chướng ngại gọi là bốn thứ
điên đảo.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ tát vì không bốn thứ
điên đảo nên đặng
vô ngại. Thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !
Vô sở đắc thời gọi là huệ.
Đại Bồ Tát đặng huệ nầy nên gọi là
vô sở đắc. Có sở đắc gọi là
vô minh.
Bồ Tát dứt hẳn
vô minh tối tăm nên
vô sở đắc. Vì thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !
Vô Sở Đắc gọi là
Đại Niết bàn.
Bồ Tát an trụ trong
Đại Niết Bàn như vậy, chẳng thấy
tánh tướng của tất cả pháp vì thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc. Có sở đắc gọi là hai mươi lăm cõi,
Bồ Tát dứt hẳn hai mươi lăm cõi đặng
Đại Niết Bàn. Vì thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !Vô sở đắc gọi là
Đại Thừa,
Đại Bồ Tát chẳng trụ nơi các pháp nên đặng
Đại Thừa. Vì thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là đạo
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Bồ Tát dứt hẳn đạo
Nhị Thừa nên đặng
Phật đạo. Vì thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !
Vô sở đắc gọi là
kinh Phương Đẳng.
Bồ Tát đọc tụng kinh như vậy nên đặng
Niết Bàn. Vì thế nên
Bồ Tát gọi là
vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là mười một
bộ kinh.
Bồ Tát tu tập kinh điển thuần
giảng thuyết Phương đẳng Đại Thừa. Vì thế nên gọi là
Bồ Tát Vô Sở Đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !
Vô Sở Đắc gọi là
hư không. Trong
thế gian không có vật gọi là
hư không.
Bồ Tát đặng
hư không tam muội nầy thời không chổ thấy. Vì thế nên
Bồ Tát gọi là
Vô Sở Đắc.
Có Sở Đắc gọi là
luân hồi sanh tử. Tất cả
phàm phu luân hồi sanh tử nên có chổ thấy.
Bồ Tát dứt hẳn tất cả
sanh tử nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc. Lại nầy
Thiện nam tử !Vô Sở Đắc của
Đại Bồ Tát gọi là thường, lạc, ngã, tịnh, vì
Đại Bồ Tát thấy
Phật tánh nên đặng thường, lạc, ngã, tịnh. Do đó nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc.
Có Sở Đắc gọi là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh.
Đại Bồ Tát dứt bốn thứ nầy nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !
Vô Sở Đắc gọi là
Đệ Nhất Nghĩa Không.
Đại Bồ Tát quán
Đệ Nhất Nghĩa Không đều không chỗ thấy nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc.
Có Sở Đắc gọi là năm sự thấy.
Bồ Tát dứt hẳn năm sự thấy nầy nên chứng đặng
đệ nhất nghĩa không, vì thế nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc.
Lại nầy
Thiện nam tử !Vô Sở Đắc gọi là
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại Bồ Tát lúc đặng
vô thượng chánh giác đều không chỗ thấy nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc.
Có Sở Đắc gọi là
Thanh Văn Bồ Đề,
Duyên Giác Bồ Đề,
Bồ Tát dứt hẳn
Bồ Đề của
Nhị thừa nên gọi
Bồ Tát là
Vô Sở Đắc.
Nầy
Thiện nam tử ! Lời hỏi của ông cũng
Vô Sở Đắc.
Lời nói của ta cũng
Vô Sở Đắc. Nếu có Sở Đắc là
quyến thuộc của ma, chẳng phải
đệ tử của Phật.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Vì tôi lúc nói
Bồ Tát Vô Sở Đắc nầy, có
vô lượng chúng sanh dứt tâm
chấp có tướng. Do việc nầy tôi dám thưa hỏi
Vô Sở Đắc, làm cho
vô lượng chúng sanh như vậy rời
quyến thuộc ma làm
đệ tử Phật.”
Ca Diếp Bồ Tát lại
bạch Phật : “
Thế Tôn !
Đức Như Lai vừa rồi ở rừng
Ta La Song Thọ nầy vì
Thuần Đà nói
bài kệ :
Trước có nay không.
Trước không nay có.
Ba đời có pháp,
Không có lẽ ấy.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Đức Phật vì
hoá độ chúng sanh mà nói lời ấy, cũng vì hàng
Thanh Văn Duyên Giác mà nói lời ấy, cũng vì
Văn Thù Sư Lợi mà nói lời ấy, chẳng phải chỉ vì
một mình Thuần Đà mà nói kệ ấy. Lúc đó
Văn Thù Sư Lợi toan muốn hỏi Phật. Phật biết
tâm niệm của
Văn Thù mà nói kệ ấy. Phật nói
bài kệ ấy rồi thời
Văn Thù Sư Lợi liền
hiểu rõ.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như
Văn Thù Sư Lợi, có được mấy người hiểu nghĩa ấy. Xin
đức Như Lai vì
đại chúng lại
phân biệt giảng rộng.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Lóng nghe ! Lóng nghe 1 Nay sẽ vì ông
diễn giải lại.
Nói rằng trước có đó : Ngày trước ta vốn có
vô lượng phiền não, do
phiền não nên
hiện tại không có
Đại Niết Bàn.
Nói rằng trước không đó : Trước không
bát nhã ba la mật, vì không
bát nhã ba la mật nên
hiện tại có đủ
phiền não. Hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc
Phạm Vương, hoặc người, không ai có thể nói
đức Như Lai thuở
quá khứ,
vị lai, hay
hiện tại có
phiền não.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó : Ta trước có thân hòa hiệp của
cha mẹ sanh vì thế nên
hiện tại không có
pháp thân kim cang vi diệu.
Nói rằng trước không đó : Thân ta vốn không ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt, bởi trước không có tướng tốt nên
hiện tại có đủ bốn trăm lẻ bốn thứ bịnh.
Hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc trời hoặc ma, hoặc
Phạm vương hoặc người, không thể nói rằng
đức Như Lai thuở
quá khứ,
vị lai,
hiện tại có
bệnh khổ đó.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó ta trước vốn có
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Bởi có
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh, nên
hiện tại không có
vô thường bồ đề. Nói rằng trước không đó : Trước không thấy
Phật tánh, vì chẳng thấy nên không có thường, lạc , ngã, tịnh, hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn hoặc trời hoặc ma, hoặc
Phạm Vương, hoặc người, không thể nói rằng
đức Như Lai thuở
quá khứ vị lai hiện tại không có thường, lạc, ngã, tịnh.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó, là trước có
tâm niệm tu khổ hạnh của
phàm phu cho rằng đặng
vô thượng chánh giác,
vì vậy nên
hiện tại không thể
phá hoại bốn thứ ma. Nói rằng trước không đó, ta trước không có sáu môn
Ba La Mật, do trước không sáu môn
Ba La Mật nên có
tâm niệm tu,
tu hành khổ hạnh của
phàm phu cho rằng đặng
vô thượng bồ đề. Hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc
Phạm vương, không thể nói
đức Như Lai thuở
quá khứ vị lai,
hiện tại có
khổ hạnh.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó, ta xưa trước có thân tạp thực nên
hiện tại không thân
vô biên. Nói rằng trước không đó, trước không
ba mươi bảy pháp trợ đạo, do
không pháp trợ đạo nên
hiện tại có thân tạp thực. Hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc
Phạm Vương, hoặc người, nói rằng
đức Như Lai thuở
quá khứ vị lai hiện tại có thân tạp thực, thời không đúng.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó : Ta xưa trước có
tâm niệm chấp lấy tất cả pháp, vì thế nên
hiện tại không có
chánh định rốt ráo không. Nói rằng trước không đó : Ta trước không có thật
nghĩa trung đạo, do không có thật
nghĩa trung đạo nên có
tâm niệm chấp lấy tất cả pháp. Hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc
Phạm vương, hoặc người nói rằng
đức Như Lai thuở
quá khứ,
vị lai,
hiện tại nói tất cả pháp là có tướng, thời không đúng.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó, lúc ta mới đặng
vô thượng bồ đề, có các
đệ tử Thanh Văn căn độn, do có
đệ tử Thanh văn căn độn nên không thể diễn nói đạo
nhứt thừa chơn thật. Nói rằng trước không đó : Trước không bậc
lợi căn Tượng Vương trong
loài người như
Ca Diếp Bồ Tát v.v… Bởi không hạng
lợi căn nên
đức Phật tùy nghi phương tiện khai thị
ba thừa. Nếu có
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc
Phạm vương, hoặc người, nói rằng
đức Như Lai thuở
quá khứ vị lai,
hiện tại rốt ráo diễn thuyết pháp
ba thừa, thời không đúng.
Lại nầy
Thiện nam tử ! Nói rằng trước có đó : Ta trước nói rằntg sau đây ba tháng nơi rừng
Ta La Song Thọ, ta sẽ
nhập Niết Bàn. Vì thế nên
hiện tại đây chẳng
diễn thuyết được
kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn. Nói rằng trước không đó : Ngày trước không có
Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát v.v… Vì không có nên
hiện tại nói
đức Như Lai vô thường. Hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn, hoặc
Phạm Vương, hoặc người, hoặc trời, hoặc ma, nói rằng
đức Như Lai thuở
quá khứ,
hiện tại là
vô thường thời không đúng.
Nầy
Thiện nam tử !
Đức Như Lai khắp vì
chúng sanh nên dầu biết rõ tất cả pháp mà nói là chẳng biết, dầu thấy mà nói chẳng thấy, Pháp có tướng nói rằng
không tướng,
pháp không tướng nói rằng có tướng. Thiệt có thường nói rằng
vô thường, lạc, ngã, và tịnh cũng như vậy. Pháp
tam thừa nói là
nhứt thừa, pháp
nhứt thừa tùy nghi nói thành ba : Tướng dón gọn nói
thành tướng rộng, tướng rộng nói
thành tướng dón gọn. Bốn tội trọng nói là tội
thâu lan giá, tội
thâu lan giá nói là bốn tội trọng. Phạm nói chẳng phải phạm, chẳng phải phạm nói là phạm. Tội khinh nói là trọng, tội trọng nói là khinh. Tại sao vậy ? Vì
đức Như Lai thấy rõ
căn tánh của
chúng sanh.
Đức Như Lai dầu nói như
vậy mà trọn không
hư vọng. Vì lời
hư vọng chính là
tội lỗi.
Đức Như Lai đã dứt hết tất cả
tội lỗi, thời đâu còn có nói lời
hư vọng.
Nầy
Thiện nam tử !
Đức Như Lai dầu không lời
hư vọng, nếu biết
chúng sanh do nơi lời
hư vọng mà đặng
lợi ích đối với
chánh pháp, thời
tùy nghi phương tiện vì họ mà nói.
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
thế đế đối với
Như Lai tức là
đệ nhất nghĩa đế. Chư
Phật Thế Tôn vì
đệ nhất nghĩa đế mà nói
thế đế, làm cho
chúng sanh chứng đặng
đệ nhất nghĩa đế.
Giả sử chúng sanh chẳng đặng
đệ nhất nghĩa đế như vậy, thời chư Phật trọn chẳng tuyên nói
thế đế.
Nầy
Thiện nam tử !
Đức Như Lai có lúc diễn nói
thế đế,
chúng sanh cho rằng Phật nói
đệ nhất nghĩa đế.
Đức Như Lai có lúc diễn nói
đệ nhất nghĩa đế,
chúng sanh cho rằng Phật nói
thế đế. Nên
cảnh giới rất sâu của chư Phật chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác có thể biết được.
Nầy
Thiện nam tử ! Vì thế nên ông chẳng nên gạn rằng :
Đại Bồ Tát là
vô sở đắc.
Bồ Tát thường chứng đặng
đệ nhất nghĩa đế, sao lại gạn rằng là
vô sở đắc.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật :
Thế Tôn !
Đệ nhất nghĩa đế cũng gọi là đạo, cũng gọi là
bồ đề, cũng gọi là
Niết Bàn. Nếu có
Bồ Tát nói rằng có
đắc đạo, có
bồ đề,
Niết Bàn thời là
vô thường. Vì pháp nếu là thườntg thời chẳng thể đặng, dường như
hư không, có ai được.
Thế Tôn ! Như vật trong
thế gian trước không nay có gọi đó là
vô thường. Cũng vậy, nếu đạo là có thể được thời gọi là
vô thường. Pháp nếu là thường thời không đặng, không sanh, dường như
Phật tánh không đặng, không sanh.
Thế Tôn ! Luận về đạo : Chẳng phải sắc, chẳng phải chẳng sắc, chẳng dài, chẳng vắn, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải có, chẳng phải không, cớ sao
đức Như Lai nói là có thể được.
Bồ Đề cùng
Niết Bàn cũng như vậy.
Phật nói : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Nầy
Thiện nam tử ! Đạo có hai thứ : Một là thường, hai là
vô thường. Tướng
Bồ Đề cũng có hai thứ : Một là thường, hai là
vô thường.
Niết Bàn cũng vậy.
Đạo của
ngoại đạo gọi là
vô thường. Đạo của
nội đạo gọi là thường,
Bồ Đề của
Thanh Văn Duyên Giác là
vô thường.
Bồ Đề của
Bồ Tát và chư Phật gọi là thường. Ngoại
giải thoát gọi là
vô thường, Nội
giải thoát gọi là thường.
Đạo cùng
Bồ Đề và
Niết Bàn đều gọi là thường. Tất cả
chúng sanh vì bị
vô lượng phiền não che đậy không
huệ nhãn nên chẳng thể thấy được. Mà các
chúng sanh vì muốn được thấy nên tu giới, định, huệ. Do
tu hành nên thấy đạo cùng
Bồ Đề và
Niết Bàn. Đây gọi là
Bồ Tát chứng đặng đạo cùng
Bồ Đề và
Niết Bàn.
Tánh tướng của
đạo thật chẳng sanh, chẳng diệt. Do nghĩa nầy nên chẳng thể nắm lấy. Nầy
Thiện nam tử ! Đạo dầu không
hình sắc thấy được, không thể cân lường biết. Nhưng thật có
công dụng. Như tâm
chúng sanh dầu chẳng phải sắc, chẳng phải dài, vắn, thô, tế, chẳng phải buộc chẳng phải mở. Chẳng phải là pháp có thể thấy nhưng cũng là có.
Do nghĩa nầy nên
đức Phật vì ông
Tu Đạt Đa nói rằng : Nầy
trưởng Giả ! Tâm là chúa trong thành.
Trưởng Giả nếu chẳng
giữ gìn tâm thời chẳng
giữ gìn thân miệng. Nều
giữ gìn tâm thời
giữ gìn thân miệng. Bởi chẳng khéo
giữ gìn thân miệng nên làm cho
chúng sanh sa đến ba
ác thú.
Giữ gìn thân miệng thời làm cho
chúng sanh đặng báo trời người và
Niết Bàn. Chứng đặng gọi là chơn thật, còn chẳng chứng đặng gọi là chẳng chơn thật. Đạo cùng
Bồ Đề và
Niết Bàn cũng như vậy : Cũng là có cũng là thường. Nếu
như không có làm sao có thể dứt được tất cả
phiền não. Vì có nên tất cả
Bồ Tát thấy biết
rõ ràng.
Nầy
Thiện nam tử ! Một là thấy
tướng mạo, hai là thấy
rõ ràng. Thế nào là thấy
tướng mạo ? Như thấy khói đàng xa gọi là thấy lửa, kỳ thật chẳng thấy lửa, dầu chẳng thấy lửa, nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng. Thấy chim hạc bay trên không bèn nói là thấy nước. Dầu chẳng thấy nước nhưng chẳng phải là
hư vọng. Như thấy lá cây bèn nói là thấy gốc cây, dầu chẳng phải thấy gốc cây nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng. Như người thấy sừng trâu trong rào đằng xa bèn nói là thấy trâu, dầu chẳng thấy trâu nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng. Như thấy người nữ thai nghén bèn nói là thấy dục, dầu chẳng thấy dục, nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng. Như thấy cây mọc lá bèn nói là thấy nước, dầu chẳng thấy nước nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng. Như thấy mây bèn nói là thấy mưa, dầu chẳng thấy mưa nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng. Như thấy
thân nghiệp cùng
khẩu nghiệp bèn nói là thấy tâm, dầu chẳng thấy tâm, nhưng cũng chẳng phải là
hư vọng, đây gọi là thấy
tướng mạo.
Thế nào là thấy
rõ ràng ? Như mắt thấy sắc. Nầy
Thiện nam tử ! Như người có con mắt sáng tự xem trái
A Ma Lặc trong bàn tay.
Đại Bồ Tát thấy đạo
Bồ Đề,
Bồ Đề và
Niết Bàn rõ ràng cũng như vậy, dầu thấy như vậy nhưng vẫn không có tướng thấy.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
nhân duyên nầy ngày trước ta bảo
Xá Lợi Phất : Tất cả
trong đời hoặc
Sa Môn,
Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc
Phạm Vương, hoặc người chỗ chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, chỉ có
đức Như Lai đều biết thấy và hiểu, chư vị
Đại Bồ Tát cũng như vậy. Còn nếu trong các
thế gian chỗ biết thấy và hiểu, thời ta cùng
Bồ Tát cũng biết thấy và hiểu.
Chúng sanh trong
thế gian chỗ chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, cũng chẳng tự biết là mình chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu.
Chúng sanh trong
thế gian chỗ biết thấy và hiểu bèn tự nói rằng tôi biết thấy và hiểu.
Đức Như Lai tất cả đều biết thấy và hiểu, cũng chẳng tự nói rằng ta biết thấy và hiểu, tất cả
Bồ Tát cũng như vậy, vì nếu
giả sử đức Như Lai còn có tướng biết thấy và hiểu, phải biết đó là chẳng
Phật Thế Tôn mà là
phàm phu,
Bồ Tát cũng vậy.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “ Như
đức Thế Tôn bảo
Xá Lợi Phất :
Thế gian biết ta cũng biết,
thế gian chẳng biết ta cũng biết rõ.
Ý nghĩa đó thế nào ?
Nầy
Thiện nam tử ! Tất cả
thế gian chẳng biết, chẳng thấy chẳng hiểu được
Phật tánh. Nếu có biết thấy và hiểu
Phật tánh thời chẳng gọi là
thế gian mà là
Bồ Tát. Người
thế gian cũng lại chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, mười hai loại kinh, mười hai
nhơn duyên, bốn đảo, bốn đế ba mươi bảy phẩm,
vô thượng Bồ Đề,
Đại Niết Bàn, nếu biết, thấy và hiểu thời chẳng phải là
thế gian nên gọi là
Bồ Tát.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây gọi là
thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu.
Thế nào là chỗ biết thấy và hiểu của
thế gian ? Chính là
Phạm Thiên,
Tự Tại Thiên, Bát Tý Thiên, tánh, thời,
vi trần, pháp và
phi pháp là chủ tạo hoá, chung thỉ của
thế giới, hai
kiến chấp đoạn thường, cho rằng sơ thiển đến trời phi
phi tưởng Là
Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây gọi là chỗ thấy, biết và hiểu của
thế gian.
Đại Bồ Tát đối với những việc như vậy cũng biết thấy và hiểu.
Bồ Tát thấy biết và hiểu như vậy rồi, nếu nói rằng chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu thời là
hư vọng.
Hư vọng thời là tội. Do tội nầy phải đọa
địa ngục.
Nầy
Thiện nam tử ! Hoặc
nam nữ, hoặc
Sa Môn hay
Bà La Môn nói rằng không có đạo
Bồ Đề Niết Bàn. Phải biết bọn nầy gọi là Nhứt
Xiển Đề, là
quyến thuộc của Ma, gọi là hủy báng
chánh pháp. Hủy báng
chánh pháp như vậy chính là hủy báng chư Phật. Người như vậy chẳng gọi là
thế gian cùng chẳng gọi là chẳng phải
thế gian.
Lúc bấy giờ
Ca Diếp Bồ Tát liền nói
kệ tán thán Phật.
Đức
đại từ thương
chúng sanh, Nên nay tôi
quy y Phật. Khéo nhổ những mũi tên độc, Nên hiệu là
đại Y Vương. Y sĩ
trong đời trị bịnh, Dầu lành nhưng sanh
trở lại,
Đức Như Lai trị lành hẳn,
Rốt ráo chẳng còn phát sanh. Thuốc
cam lộ của
Thế Tôn, Đem
ban cho các
chúng sanh,
Chúng sanh đã uống thuốc rồi, Thời chẳng chết cũng chẳng sanh.
Đức Như Lai nay vì tôi, Diễn nói
kinh Đại Niết Bàn,
Chúng sanh nghe tạng
bí mật. Liền đặng chẳng sanh chẳng diệt.
Nói kệ xong,
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “
Thế Tôn ! Như lời Phật nói tất cả
thế gian chẳng biết, thấy , hiểu,
Bồ Tát đều có thể biết, thấy, hiểu.
Giả sử Bồ Tát là
thế gian thời chẳng đặng nói rằng
thế gian chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu, mà
Bồ Tát có thể biết thấy hiểu. Còn nếu
Bồ Tát chẳng phải
thế gian thời có tướng gì khác ?
_ Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát cũng là
thế gian cũng chẳng phải
thế gian. Chẳng biết, thấy, hiểu gọi là
thế gian. Biết , thấy, hiểu chẳng gọi là
thế gian. Ông hỏi có tướng gì khác nay ta sẽ nói.
Nầy
Thiện nam tử ! Hoặc
nam nữ nếu có người mới nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy liền sanh lòng kính tin
phát tâm vô thượng Bồ Đề, đây gọi là
thế gian Bồ Tát. Tất cả
thế gian chẳng biết, thấy , hiểu,
Bồ Tát nầy cũng chẳng biết, thấy, hiểu đồng như
thế gian.
Bồ Tát nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy rồi biết có sự mà
thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu là chỗ biết, thấy, hiểu của
Bồ Tát. Biết như vậy rồi liền tự nghĩ rằng : Tôi phải
tu tập thế nào để được biết thấy và hiểu ? Lại tự nghĩ : Chỉ phải
thâm tâm tu trì tịnh giới.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
nhơn duyên đó
Bồ Tát nầy ở đời
vị lai sanh vào chốn nào
giới đức vẫn thường
thanh tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Do
giới thanh tịnh nên
Đại Bồ Tát sanh vào chốn nào vẫn thường không
kiêu mạn,
tà kiến, nghi lầm. Không bao giờ cho rằng :
Đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn. Đây gọi là
Bồ Tát tu trì giới thanh tịnh.
Giới đã
thanh tịnh kế đến
tu thiền định. Do
tu thiền định nên
đời đời chẳng mất
chánh niệm : Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh,
mười hai bộ kinh, chư
Phật Thế Tôn thường, lạc, ngã, tịnh. Tất cả
Bồ Tát an trụ nơi
kinh Phương Đẳng Đại Niết Bàn đều thấy
Phật tánh, những việc như vậy
đời đời nhớ chẳng quên. Do tu
chánh định, nên chứng đặng
mười một pháp không. Đây gọi là
Bồ tát tu
thanh tịnh.
Giới định đã đủ kế
tu huệ thanh tịnh. Do
tu huệ nên chẳng
chấp trước trong thân có ngã, trong ngã có thân, là thân là ngã, chẳng phải thân chẳng phải ngã. Đây gọi là
Bồ Tát tu tập huệ
thanh tịnh. Do
tu huệ nên
giới cấm đang
thọ trì bền chắc chẳng lay động.
Như
núi Tu Di chẳng bị bốn ngọn gió làm lay động. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát chẳng bị bốn thứ
điên đảo làm lay động.
Bấy giờ
Bồ Tát tự rõ biết rằng
giới cấm của mình
thọ trì không có lay động. Đây gọi là chỗ thấy biết của
Bồ Tát, chẳng phải là
thế gian.
Nầy
Thiện nam tử !
Bồ Tát thấy
giới cấm của mình
thọ trì bền chắc chẳng lay động thời
tâm không hối hận. Vì không
hối hận nên tâm
vui mừng. Vì
vui mừng nên tâm
thỏa thích. Vì
thỏa thích nên tâm
an ổn. Vì
an ổn nên đặng
chánh định vô động. Vì đặng
chánh định vô động nên đặng
tri kiến chơn thật. Vì đặng
tri kiến chơn thật nên nhàm lìa
sanh tử. Vì nhàm lìa
sanh tử bèn đặng
giải thoát. Vì đặng
giải thoát nên thấy rõ
Phật tánh. Đây gọi là chỗ thấy biết của
Bồ Tát, chẳng phải là
thế gian.
Nầy
Thiện nam tử ! Như trên đây gọi là
thế gian chẳng biết chẳng thấy, mà là chỗ thấy chỗ biết của
Bồ Tát.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “ Thế nào là
Bồ Tát tu trì giới thanh tịnh tâm không hối hận nhẫn đến thấy rõ
Phật tánh ?”
_ Nầy
Thiện nam tử !
Giới cấm của
thế gian chẳng gọi là
thanh tịnh. Vì
giới cấm của
thế gian để
cầu pháp có, vì tánh
bất định, vì chẳng
rốt ráo, chẳng thể khắp vì tất cả
chúng sanh. Do nghĩa nầy nên gọi là chẳng
thanh tịnh. Vì chẳng
thanh tịnh nên có tâm
hối hận. Vì
hối hận nên
tâm không vui mừng. Vì
không vui mừng thì không
thỏa thích. Vì không
thỏa thích thời
tâm không an ổn. Vì không
an ổn nên không có
chánh định bất động. Vì không
chánh định bất động nên không có
tri kiến chơn thật. Vì không
tri kiến chơn thật thì
tâm không nhàm lìa. Vì không nhàm lìa thời không
được giải thoát. Vì
không giải thoát nên chẳng thấy
Phật tánh. Vì không thấy
Phật tánh nên trọn chẳng đặng
Đại Niết Bàn. Đây gọi là
giới cấm của
thế gian chẳng
thanh tịnh.
Nầy
Thiện nam tử ! Giới của
Đại Bồ Tát thanh tịnh : Vì giới mà chẳng phải giới, vì chẳng phải là có, vì
quyết định rốt ráo,
vì lợi ích chúng sanh. Đây gọi là
giới thanh tịnh của
Bồ Tát.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát ở trong
giới thanh tịnh, dầu chẳng muốn sanh lòng không
hối hận, nhưng lòng không
hối hận tự nhiên sanh. Như người cầm
gương sáng chẳng trông mong thấy mặt mình mà ảnh của mặt mình
tự nhiên hiện.
Như nhà nông đem giống gieo trong ruộng tốt, chẳng mong mõi mầm mộng mọc lên mà mầm mộng tự mọc. Lại cũng như thắp đèn chẳng muốn trừ tối mà tối tự mất.
Đại Bồ Tát bèn
giữ giới thanh tịnh tâm không
hối hận tự nhiên sanh cũng như vậy, do
thanh tịnh nên tâm đặng
vui mừng.
Như người
xinh đẹp thấy diện mạo mình lòng sanh
vui mừng, người trì
tịnh giới cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Người
phá giới thấy
giới không thanh tịnh lòng
không vui mừng, như người tàn tật
xấu xa thấy diện mạo mình lòng buồn bã.
Như hai cô gái chăn bò : Một người cầm bình đựng chất lạc, một người cầm bình đựng chất nước trái ép, đồng vào thành để bán, giữa đường
vấp chân té hai bình đều bể. Một thời
vui mừng, một thời rầu rĩ.
Trì giới và
phá giới mừng rầu cũng như vậy. Người trì
tịnh giới tâm
vui mừng. Vì
vui mừng bèn
suy nghĩ :
_ Chư Phật ở trong
Niết Bàn nói rằng : Người có thể trì
tịnh giới thanh tịnh sẽ đặng
Niết Bàn. Nay tôi
tu tập tịnh giới như vậy cũng đáng được đó. Do cớ nầy nên tâm
thỏa thích.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật :
Vui mừng cùng
thỏa thích có sai khác gì ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát lúc chẳng làm ác gọi là
vui mừng, lúc trì
tịnh giới gọi là
thỏa thích.
Đại Bồ Tát lúc
quán sát sanh tử gọi là
vui mừng, lúc thấy
Đại Niết Bàn gọi là
thỏa thích. Bậc hạ gọi là
vui mừng, bậc thượng gọi là
thỏa thích. Lìa pháp
thế gian gọi là
vui mừng, đặng pháp
bất cộng gọi là
thỏa thích. Do
giới thanh tịnh nên
thân thể dịu dàng, miệng không nói lời thô ác
lỗi lầm. Lúc bấy gìơ
Bồ Tát hoặc thấy hoặc nghe, hoặc ngửi, hoặc nếm, hoặc xúc chạm, hoặc biết, đều không có các sự ác. Vì không ác nên tâm đặng
an ổn. Vì
an ổn nên đặng
chánh định . Vì đặng
chánh định nên thấy biết chơn thật. Vì thấy biết chơn thật nên nhàm lìa
sanh tử. Vì nhàm lìa
sanh tử nên đặng
giải thoát.Vì
giải thoát nên thấy
Phật tánh. Vì thấy
Phật tánh nên đặng
Niết Bàn. Đây gọi là
Bồ Tát trì
tịnh giới, chẳng phải
giới cấm thế gian. Vì
Đại Bồ Tát thọ trì tịnh giới có năm pháp
tá trợ : Một là tín, hai là tàm, ba là quí, bốn là
thiện tri thức, năm là
tôn kính giới, do đã lìa
ngũ cái, chỗ thấy
thanh tịnh vì đã lìa năm
ác kiến.
Tâm không nghi hoặc vì đã lìa năm thứ nghi : Một là nghi Phật, hai là
nghi Pháp, ba là nghi Tăng, bốn là nghi giới, năm là nghi chẳng
phóng dật.
Bồ Tát bèn đặng
ngũ căn : Tín niệm,
tinh tấn, định và huệ. Vì đặng
ngũ căn nên đặng năm thứ
Niết Bàn : Sắc
giải thoát nhẫn đến thức
giải thoát. Đây gọi
Bồ Tát trì
tịnh giới thanh tịnh chẳng phải
thế gian vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây là
thế gian chẳng biết chẳng thấy mà là chỗ thấy biết của
Bồ Tát.
Nếu hàng
đệ tử của ta
thọ trì đọc tụng biên chép,
diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn mà có
phá giới. Bị người
quở trách khinh tiện hủy nhục và nói rằng : “Nếu tạng
bí mật của Phật,
kinh Đại Niết Bàn có oai lực, sao lại làm cho người hủy
phá giới cấm. Nếu người
thọ trì kinh Niết Bàn nầy hủy
phá giới cấm, nên biết kinh nầy là không có oai lực
nếu không oai lực dầu có
đọc tụng cũng không lợi ích”. Do vì khinh hủy
kinh Đại Niết Bàn nên làm cho
vô lượng chúng sanh đọa
địa ngục. Người
thọ trì kinh nầy mà hủy
phá giới cấm là
ác tri thức của
chúng sanh, là
quyến thuộc của ma chẳng phải
đệ tử của ta. Người như vậy ta cũng chẳng cho
thọ trì kinh nầy. Thà khiến họ chẳng thọ chẳng trì, chẳng tu, chớ chẳng để họ hủy
phá giới cấm mà tho ïtrì
tu tập.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
đệ tử ta
thọ trì đọc tụng thơ tả
diễn thuyết kinh Niết Bàn phải chánh
thân tâm cẩn thận chớ cợt đùa,
cử động khinh
tháo thân không cợt đùa
tâm không khinh động. Tâm
cầu pháp có thời gọi là khinh động thân tạo các nghiệp gọi là cợt đùa. Nếu
đệ tử ta
cầu pháp có, tạo các nghiệp, thời không nên
thọ trì kinh điển Đại thừa Đại Niết Bàn nầy. Nếu người như
vậy mà thọ trì kinh nầy, sẽ làm cho nhiều người khinh chê mà nói rằng : Nếu
kinh Đại Niết Bàn, tạng
bí mật của Phật có oai lực, sao lại làm cho người
cầu pháp có, gây tạo các nghiệp. Nếu người trì kinh nầy
cầu pháp có, gây tạo các nghiệp do đó biết rằng kinh nầy không có oai lực không oai lực nên
thọ trì cũng không
lợi ích gì.
Do khinh hủy
kinh Đại Niết Bàn lại làm cho
vô lượng chúng sanh đọa
địa ngục. Người
thọ trì kinh nầy nếu
cầu pháp có, gây tạo các nghiệp, họ là
ác tri thức của
chúng sanh, là
quyến thuộc của ma không phải
đệ tử ta.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu hàng
đệ tử của ta
thọ trì đọc tụng thơ tả
diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn nầy, không nên :
Thuyết pháp phi thời,
thuyết pháp phi xứ, không thỉnh mà
thuyết pháp, khinh tâm mà
thuyết pháp, chỗ nào cũng
thuyết pháp, tự khen mình mà
thuyết pháp, khinh người khác mà
thuyết pháp, diệt Phật mà
thuyết pháp, hưng thạnh pháp
thế gian mà
thuyết pháp.
Nếu
đệ tử của ta
thọ trì kinh nầy mà
thuyết pháp phi thời cho đến thuyết pháp để hưng thạnh pháp
thế gian,
mọi người sẽ khinh chê họ. Vì khinh chê
kinh Đại Niết Bàn nên làm cho
vô lượng chúng sanh đọa
địa ngục. Người
thọ trì kinh nầy mà như vậy thời là
ác tri thức của
chúng sanh, là
quyến thuộc của ma, không phải
đệ tử của ta.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu người
thọ trì kinh nầy, muốn
giảng thuyết Đại Niết Bàn, muốn
giảng thuyết Phật tánh, muốn
giảng thuyết tạng
bí mật của
Như Lai, muốn
giảng thuyết Đại Thừa, muốn
giảng thuyết kinh Phương Đẳng , muốn
giảng thuyết Thanh Văn thừa,
Bích Chi Phật thừa, muốn
giảng thuyết giải thoát, thấy
Phật tánh thời trước phải
thanh tịnh thân của mình. Vì
thân thanh tịnh thời người không
quở trách. Vì không
quở trách nên làm cho
vô lượng chúng sanh có
lòng tin thanh tịnh đối với
kinh Đại Niết Bàn. Vì cóù
lòng tin nên càng kính kinh nầy, nếu được nghe một kệ, một câu, một chữ và người
thuyết pháp, thời phát đặng tâm
vô thượng Bồ Đề. Nên biết người nầy thật là
thiện tri thức của
chúng sanh, là
đệ tử của Phật. Đây gọi là
Bồ Tát chẳng phải
thế gian.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây gọi là
thế gian chẳng biết chẳng thấy mà là chỗ thấy chỗ biết của
Bồ Tát.
Nầy
Thiện nam tử ! Thế nào là tất cả
thế gian chẳng thấy chẳng biết, mà là chỗ thấy chỗ biết của
Bồ Tát ? Đây là nói
sáu chánh niệm :
Niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới ,
niệm thí,
niệm thiên.
Thế nào là
niệm Phật ?
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư,
Phật Thế Tôn, thường chẳng
biến đổi, đầy đủ
mười trí lực, bốn môn
vô sở úy,
đại Sư Tử Hống, gọi là
đại Sa Môn,
đại Bà La Môn, đại tịnh,
rốt ráo đến nơi bờ kia, đấng
Vô Năng Thắng, đấng
Vô Kiến Đảnh, không có bố úy, chẳng kinh chẳng động, riêng một không bạn
vô sư tự ngộ, trí mau lẹ, trí lớn, trí
lanh lợi, trí sâu, trí
giải thoát, trí
bất cộng, trí rộng khắp, trí
rốt ráo,
trí bảo thành tựu,
tượng vương trong
loài người,
Ngưu vương trong
loài người,
Long vương trong
loài người,
trượng phu trong
loài người,
Liên Hoa trong
loài người, hoa Phân Đà Lợi,
Điều Ngự Nhơn Sư, là
đại thí chủ bực thầy
đại pháp, hiệu
đại pháp sư, vì biết pháp, vì biết nghĩa, vì biết thời, vì
tri túc, vì tri ngã, vì biết
đại chúng, vì biết
chủng tánh của
chúng sanh, vì biết
căn tánh lợi độn, vì nói
trung đạo, do những cớ nầy nên hiệu là
đại pháp sư.
Thế nào gọi là
Như lai ? Như chỗ
thuyết pháp của chư Phật
quá khứ chẳng
biến đổi. Chư Phật
quá khứ vì độ
chúng sanh nên nói
mười hai bộ kinh.
Đức Như Lai cũng vậy nên hiệu là
Như Lai. Chư
Phật Thế Tôn từ sáu môn
Ba La Mật,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
mười một pháp không mà đến
Đại Niết Bàn.
Đức Như Lai cũng vậy, nên gọi Phật là
Như Lai. Chư
Phật Thế Tôn vì
chúng sanh nên
tùy nghi phương tiện khai thị
ba thừa,
thọ mạng vô lượng không
thể tính đếm.
Đức Như Lai cũng vậy nên gọi Phật là
Như Lai.
Thế nào là Ứng ? Pháp
thế gian đều gọi là
oan gia, vì
đức Như Lai ứng
phá hoại pháp ấy nên gọi là ứng. Luận về
tứ ma là
oan gia của
Bồ Tát,
chư Phật Như Lai lúc làm
Bồ Tát, có thể dùng
trí huệ phá hoại bốn thứ ma nên gọi là Ứng. Lại Ứng gọi là
viễn ly, lúc làm
Bồ Tát nên phải
xa lìa vô lượng phiền não nên gọi là Ứng. Lại Ứng gọi là lạc, chư Phật
quá khứ lúc làm
Bồ Tát dầu trong
vô lượng vô số kiếp vì
chúng sanh mà thọ những
khổ não, nhưng trọn không khi nào là
không vui, mà thường vui đó nên gọi là Ứng. Và lại tất cả nhơn thiên nên đem các thứ hoa, hương ,
chuỗi ngọc,
tràng phan,
kỹ nhạc để
cúng dường đó nên gọi là
Ứng cúng.
Thế nào gọi là
Chánh Biến Tri ? Chánh là nói chẳng
điên đảo.
Biến tri là
thông đạt tất cả bốn thứ
điên đảo. Lại chánh là nói
khổ hạnh.
Biến tri là biết nhơn nơi
khổ hạnh quyết định có quả khổ. Lại chánh là nói trong
thế gian.
Biến tri là
rốt ráo quyết định biết
tu tập trung đạo thời đặng
vô thượng Bồ Đề. Lại chánh nói có thể đếm, có thể lường có thể cân.
Biến tri là chẳng thể đếm, chẳng thể lường, chẳng thể cân vì thế nên gọi Phật là
Chánh Biến Tri.
Nầy
Thiện nam tử !
Thanh Văn Duyên Giác cũng có
biến tri, cũng chẳng
biến tri. Vì
biến tri là nói
ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới.
Thanh Văn Duyên Giác cũng đặng
biến tri, đây gọi là có
biến tri.
Giả sử hàng
nhị thừa trong
vô lượng kiếp quán sát một
sắc ấm cũng chẳng thể biết được hết, do nghĩa nầy nên hàng
Thanh Văn Duyên Giác không có
biến tri.
Thế nào là
Minh Hạnh Túc ? “Minh” là nói đặng
vô lượng quả lành. “Hạnh” là chân cẳng. Quả lành gọi là
vô thượng Bồ Đề. Chân cẳng là nói giới huệ. Nương nơi chân giới huệ mà đặng
vô thượng Bồ Đề, vì thế nên gọi là
Minh Hạnh Túc. Lại minh gọi rằng “chú”, hạnh gọi rằng “kiết”, túc gọi rằng “quả”, đây là nghĩa
thế gian. “Chú’ là nói
giải thoát, “Kiết’ là
vô thượng Bồ Đề, “Quả” là nói
Đại Niết Bàn, vì thế nên gọi là
Minh Hạnh Túc. Lại “minh” là quang, “hạnh” là nghiệp, “túc” là quả, đây là nghĩa
thế gian. “Quang” là nói chẳng
phóng dật, “Nghiệp” là nói sáu môn
Ba La Mật, “Quả” là nói
vô thượng Bồ Đề. Và lại “Minh” là
tam minh : Một là
Bồ Tát minh, hai là chư
Phật minh, ba là
vô minh minh.
Bồ Tát minh là
Bát Nhã Ba La Mật. Chư
Phật minh là
Phật nhãn,
vô minh minh là
rốt ráo không. “Hạnh” là trong
vô lượng kiếp vì
chúng sanh nên
tu tập các
nghiệp lành. “Túc” là thấy rõ
Phật tánh . Do nghĩa nầy nên gọi là
Minh Hạnh Túc.
Thế nào là
Thiện Thệ ? “Thiện” là cao, “Thệ’ là chẳng cao, đây là nghĩa
thế gian. “Cao” gọi là
vô thượng Bồ Đề. “Chẳng cao” chính là tâm
Như Lai. Nầy
Thiện nam tử ! Tâm nếu cao thời chẳng gọi là
Như Lai, vì thế nên
Như Lai gọi là
Thiện Thệ. Lại “Thiện” là
thiện tri thức, “Thệ:” là quả
thiện tri thức, đây là nghĩa
thế gian.
Thiện tri thức là
sơ phát tâm, quả của
thiện tri thức là
Đại Niết Bàn.
Như Lai chẳng bỏ sự
phát tâm tối sơ nên đặng
Đại Niết Bàn, vì thế nên
Như Lai hiệu là
Thiện Thệ. Và lại “thiện” gọi là tốt, “thệ” gọi là có, đây là nghĩa
thế gian. “Tốt” là nói thấy
Phật tánh, “có” là nói
Đại Niết Bàn thiệt chẳng phải có, chư Phật vì
thế gian mà nói là có. Như người đời thiệt không có con mà nói là có con, thiệt không có đạo mà nói là có đạo. Nhơn
thuận theo thế gian mà nói là có
Niết Bàn. Chư
Phật Thế Tôn thành
Đại Niết Bàn nên gọi là
Thiện Thệ.
Thế nào là
Thế Gian Giải ?
Thế gian là nói
ngũ ấm, giải là rõ biết. Chư Phật khéo biết
ngũ ấm nên hiệu là
Thế Gian Giải. Lại
thế gian là nói
ngũ dục, giải là chẳng tham đắm. Chẳng tham đắm
ngũ dục nên hiệu là
Thế Gian Giải. Lại
thập phương vô lượng vô số thế giới tất cả hàng
Thanh Văn Duyên Giác chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu, chư Phật đều biết đều thấy đều hiểu, vì thế nên
Phật hiệu là
Thế Gian Giải. Lại
thế gian là tất cả
phàm phu, giải là biết nhơn quả
thiện ác của
phàm phu, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết được, duy Phật có thể biết nên
Phật hiệu là
Thế Gian Giải. Lại
thế gian là
Liên Hoa, giải là nói chẳng
ô nhiễm, đây là nghĩa
thế gian.
Liên Hoa là nói
Như Lai,
đức Như Lai chẳng bị
tám pháp thế gian làm
ô nhiễm, nên
Phật hiệu là
Thế Gian Giải. Lại chư Phật
Bồ Tát thấy rõ
thế gian nên hiệu là
Thế Gian Giải. Như nhơn ăn mà đặng sống nên gọi ăn là mạng sống. Cũng vậy, chư Phật và
Bồ Tát vì thấy rõ
thế gian nên hiệu là
Thế Gian Giải.
Thế nào là
Vô Thượng Sĩ ?
Thượng Sĩ gọi là dứt, không chỗ dứt gọi là
Vô Thượng Sĩ. Chư
Phật Thế Tôn không có
phiền não nên không chỗ dứt, vì thế
Phật hiệu là
Vô Thượng Sĩ. Lại
Thượng Sĩ là nói tránh tụng,
Vô Thượng Sĩ là không có tránh tụng.
Như Lai không tránh tụng nên hiệu là
Vô Thượng Sĩ. Lại
Thượng Sĩ là
lời nói có thể
phá hoại,
Vô Thượng Sĩ là
lời nói chẳng thể
phá hoại.
Lời nói của
Như Lai không ai phá được nên hiệu là
Vô Thượng Sĩ. Lại
Thượng Sĩ là nói bậc thượng tòa,
Vô Thượng Sĩ là nói bậc
vô thượng tòa. Chư Phật
ba đời không có ai hơn nên hiệu là
Vô Thượng Sĩ. Lại nữa “thượng” là mới, “sĩ” la cũ. Chư
Phật Thế Tôn thể chứng
Đại Niết Bàn không mới không cũ nên hiệu là
Vô Thượng Sĩ.
Thế nào là
Điều Ngự Trượng Phu ? Tự mình đã là
Trượng Phu, lại
điều phục trượng phu khác.
Nầy
Thiện nam tử !
Như Lai thật chẳng phải
trượng phu, cũng chẳng phải chẳng
trượng phu, nhơn
điều phục trượng phu nên gọi
Như Lai là
trượng phu. Tất cả
nam nữ nếu đủ bốn
pháp thời gọi là
trượng phu : Một là gần
thiện tri thức, hai là có thể
nghe pháp, ba là
tư duy nghĩa, bốn là đúng
như pháp tu hành. Nếu
nam nữ nào không có bốn pháp nầy thời chẳng được gọi là
trượng phu. Vì thân dầu là
trượng phu mà
hành vi đồng như
súc sanh.
Như Lai điều phục những
nam nữ ấy nên
Phật hiệu là
Điều Ngự trượng Phu. Lại như điều khiển ngựa phàm có bốn cách : Một là chạm đến lông, hai là chạm đến da, ba là chạm đến thịt, bốn là chạm đến xương, tùy chỗ chạm đến
vừa ý người điều khiển. Cũng vậy,
Như Lai dùng bốn cách
điều phục chúng sanh : Một là vì
chúng sanh mà
giảng thuyết về
sanh khổ khiến
lãnh thọ lời Phật, như cách chạm lông thời ngựa
tuân theo ý người điều khiển. Hai là
giảng thuyết sanh tử bèn
lãnh thọ lời Phật, như chạm đến lông da thời ngựa
tuân theo ý người điều khiển. Ba là giảng nói sanh cùng
lão bịnh bèn
lãnh thọ lời Phật, như chạm đến lông, da, thịt, thời ngựa
tuân theo ý người điều khiển. Bốn là giảng nói sanh, lão, bịnh và tử bèn
lãnh thọ lời Phật, như chạm đến lông, da, thịt, xương, thời ngựa
tuân theo ý người điều khiển.
Nầy
Thiện nam tử ! Người điều khiển ngựa không có
quyết định.
Như Lai điều phục chúng sanh quyết định chẳng luống nên
Phật hiệu là
Điều Ngự Trượng Phu.
Thế nào là
Thiên Nhơn Sư ? Sư có hai hạng : Một là dạy điều lành, hai là dạy điều ác. Chư Pật và
Bồ Tát thường đem pháp lành
dạy bảo chúng sanh. Pháp lành là nói thân, khẩu, ý đều lành. Chư Phật
Bồ Tát dạy bảo chúng sanh : Các người nên xa nghiệp chẳng lành nơi thân, vì
nghiệp ác nơi thân là thứ có thể
xa lìa, để
được giải thoát, nên ta đem pháp nầy dạy các ngươi. Nếu
nghiệp ác chẳng thể
xa lìa để
được giải thoát, thời ta trọn chẳng dạy các ngươi. Các
chúng sanh nếu lìa
ác nghiệp rồi thời không bị đọa ba
ác đạo. Do lìa ác nên thành
Vô Thượng Bồ Đề đặng
Đại Niết Bàn. Vì thế nên chư Phật và
Bồ Tát thường đem pháp lành nầy
giáo hoá chúng sanh. Khẩu và ý cũng như vậy. Vì thế Phật là
Vô Thượng Sư. Lại xưa chưa đặng đạo nay đã đặng đạo đó, đem đạo đã đặng dạy cho
chúng sanh. Từ trước tới nay chưa tu
phạm hạnh nay đã tu xong, đem chỗ tu của mình dạy cho
chúng sanh. Tự phá
vô minh, lại phá
vô minh cho
chúng sanh. Tự đặng
tịnh nhãn lại làm cho
chúng sanh cũng đặng
tịnh nhãn. Tự biết rõ hai đế lý lại vì
chúng sanh mà
giảng thuyết hai đế lý. Đã tự
giải thoát lại vì
chúng sanh nói pháp
giải thoát. Tự qua khỏi sông lớn
sanh tử không ngằn mé lại làm cho
chúng sanh đều được qua khỏi.
Tự được
vô úy lại dạy
chúng sanh làm
cho không còn sợ sệt. Tự đã được
Niết Bàn lại vì
chúng sanh nói
Đại Niết Bàn. Vì thế nên
Phật hiệu là
Vô Thượng Sư.
“ Thiên” là nói ban ngày.
Trên trời ngày dài đêm ngắn nên gọi là thiên. Lại : “thiên” là nói không
sầu não thường
vui sướng nên gọi là thiên. Lại “thiên” là nói đèn sáng có thể phá
đen tối thành
sáng suốt nên gọi là thiên. Cũng bởi có thể phá
nghiệp ác tối tăm đặng
nghiệp lành sanh lên trời nên gọi là “thiên”. Lại vì
kiết tường nên gọi là : “thiên”, Lại vì có ánh sáng nên gọi là “ thiên”.
Nhơn là nói, là có thể nhiều
suy nghĩ nghĩa lý. Lại nhơn là thân khẩu
dịu dàng. Lại nhơn là nói
kiêu mạn. Lại nhơn là nói có thể phá
kiêu mạn.
Nầy
Thiện nam tử ! Chư Phật dầu là
đại sư vô thượng của tất cả
chúng sanh, nhưng trong kinh nói là
Thiên Nhơn Sư, vì trong các loài
chúng sanh chỉ có người cùng trời có thể
phát tâm vô thượng Bồ Đề, có thể tu mười
nghiệp đạo lành, có thể đặng quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, quả
Bích Chi Phật, chứng đặng
vô thượng Bồ Đề. Vì thế nên
Phật hiệu là
Thiên Nhơn Sư.
Thế nào là Phật, Phật gọi là giác, đã
tự giác ngộ lại có thể
giác ngộ người khác. Như có người rõ biết kẻ giặc cướp, thời giặc cướp không hại được.
Đại Bồ Tát có thể rõ biết tất cả
vô lượng phiền não. Vì rõ biết nên các
phiền não không làm não được. Do đây nên gọi là Phật. Do vì
giác ngộ nên chẳùng sanh, chẳng lão, chẳng bịnh, chẳng tử, do đây gọi là Phật.
Phật hiệu là Bà Dà Bà, “ Bà Dà” là phá, “ Bà’ là
phiền não. Có thể phá
phiền não nên hiệu Bà Dà Bà. Lại có thể
thành tựu các pháp lành, lại có thể
hiểu rõ nghĩa của các pháp lại có
công đức lớn không ai hơn, lại có
tiếng đồn khắp
mười phương, lại có thể
bố thí tất cả, lại trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp lìa
nữ căn.
Nầy
Thiện nam tử ! Hoặc nam hoặc nữ có thể
niệm Phật như vậy, lúc đi đứng, lúc ngồi nằm, hoặc ban ngày, hoặc ban đêm, lúc tối, lúc sáng, thường đặng chẳng lìa thấy
Phật Thế Tôn.
Nầy
Thiện nam tử ! Cớ sao gọi rằng
Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri nhẫn đến Bà Dà Bà mà có
vô lượng công đức cùng
tiếng tăm lớn như vậy ?
Đại Bồ Tát trong
vô lượng vô số kiếp trước,
cung kính cha mẹ,
hòa thượng sư trưởng,
thượng tọa,
trưởng lão. Trong
vô lượng kiếp thường vì
chúng sanh mà thật hành hạnh
Bố Thí, trì
Tịnh Giới, tập
Nhẫn Nhục, siêng
Tinh tấn,
Thiền định,
Trí Huệ,
Đại Từ,
Đại Bi,
Đại Hỷ,
Đại Xả, vì thế nên ngày nay đặng
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân
kim cương. Và lại
Bồ Tát trong
vô lượng vô số kiếp trước tu tập ngũ căn : Tín, niệm, Tấn, Định, Huệ,
cung kính cúng dàng các bực
sư trưởng, thường vì pháp, chẳng vì ăn.
Bồ Tát nếu trì mười hai loại kinh, hoặc
đọc tụng, thường muốn cho
chúng sanh đặng
giải thoát an ổn vui sướng, trọn chẳng vì mình. Tại sao vậy ? Vì
Bồ tát thường
tu tâm xuất thế và tâm
xuất gia, lại thường
tu tâm vô vi, tâm
vô tránh, tâm
vô cấu, tâm vô phược, tâm vô thủ,
không tâm che đậy,
không tâm vô ký,
không tâm sanh tử,
không tâm nghi,
không tâm tham,
không tâm sân,
không tâm si,
không tâm kiên mạn,
không tâm uế trược,
không tâm phiền não,
không tâm khổ,
tu tâm vô lượng, tâm
quảng đại, tâm
hư không,
tâm không,
không tâm không,
không tâm chẳng
điều phục,
không tâm chẳng
hộ trì,
không tâm che giấu,
không tâm thế gian, tâm thường định, tâm thường tu, tâm thường
giải thoát,
tâm không báo đền, tâm khôâng nguyện cầu,
tâm nguyện lành,
tâm không nói năng, tâm
nhu nhuyến, tâm chẳng trụ, tâm
tự tại, tâm
vô lậu, tâm
đệ nhất nghĩa, tâm
bất thối, tâm
vô thượng, tâm
chánh trực,
tâm không dua vạy,
tâm không đa thiểu,
tâm không ương ngạnh,
tâm không phàm phu,
không tâm Thanh Văn,
không tâm Duyên Giác, tâm biết lành, tâm biết cõi, tâm biết sanh cõi nào, tâm biết ở cõi nào, tâm biết cõi
tự tại. Vì ngày trước tu những tâm nầy nên nay đặng
mười trí lực, bốn
vô sở úy,
đại từ bi,
tam niệm xứ, thường, lạc, ngã, tịnh, do đây hiệu là
Như Lai nhẫn đến Bà Dà Bà. Đây gọi là
Đại Bồ Tát niệm Phật.
Thế nào là
Đại Bồ Tát niệm Pháp ?
Đại Bồ Tát suy nghĩ giáo pháp của chư Phật nói ra rất
vi diệu hơn tất cả. Do pháp nầy có thể làm cho
chúng sanh đặng quả
hiện tại, chỉ có
chánh pháp nầy không thuộc
thời gian,
pháp nhãn ngó thấy,
nhục nhãn không thấy được. Chẳng thể dùng
thí dụ để
so sánh.
Chánh pháp nầy chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng trụ, chẳng diệt, không thỉ , không chung,
vô vi,
vô số, kẻ không nhà thời làm nhà cho họ, kẻ không chỗ về thời làm chỗ về, không ánh sáng thời làm ánh sáng , không đến bờ kia thời làm
cho đến bờ kia, chỗ không
mùi thơm thời làm
mùi thơm vô ngại, kẻ không nhìn thấy thời làm cho nhìn thấy
rõ ràng.
Chánh pháp nầy chẳng động, chẳng chuyển, chẳng dài, chẳng ngắn, dứt hẳn sự vui mà thường an vui,
rốt ráo vi diệu, chẳng phải sắc đã dứt sắc thức mà cũng là thức, chẳng phải nghiệp đã dứt nghiệp, chẳng phải
kiết sử, đã dứt
kiết sử, chẳng phải vật đã dứt vật mà cũng là vật, chẳng phải giới đã dứt giới mà cũng là giới, chẳng phải hữu đã dứt hữu mà cũng là hữu, chẳng phải nhập đã dứt nhập mà cũng là nhập, chẳng phải nhơn đã dứt nhơn mà cũng là nhơn, chẳng phải quả đã dứt quả mà cũng là quả, chẳng phải hư, chẳng phải thiệt dứt tất cả thiệt mà cũng là thiệt, chẳng phải sanh chẳng phải diệt dứt hẳn
sanh diệt mà cũng là diệt, chẳng phải tướng chẳng phải phi tướng dứt tất cả tướng mà cũng là tướng, chẳng phải dạy dỗ, chẳng phải không dạy dỗ mà cũng là thầy dạy, chẳng phải sợ chẳng phải an dứt tất cả sợ mà cũng là an, chẳng phải nhẫn chẳng phải
không nhẫn, dứt hẳn sự chẳng nhẫn mà cũng là nhẫn, chẳng phải dừng ở chẳng phải không dừng ở dứt tất cả dừng ở mà cũng là dừng ở trên đảnh tất cả pháp.
Chánh pháp nầy đều có thể dứt hẳn tất cả
phiền não,
thanh tịnh vô tướng, thoát hẳn các tướng, là chổ ở
rốt ráo của
vô lượng chúng sanh. Có
thể diệt tất cả ngọn lửa
sanh tử, là chỗ đi và ở của chư Phật, là thường còn chẳng
biến đổi. Đây gọi là
Bồ Tát niệm Pháp.
Thế nào là
niệm Tăng ?
Chư Phật
Thánh Tăng đúng
như Pháp mà trụ
thọ trì chánh pháp tùy thuận tu hành, chẳng thể nhìn thấy, chẳng thể cầm nắm, chẳng thể
phá hoại, chẳng thể nhiễu hại, chẳng thể nghĩ bàn, là
ruộng phước tốt của tất cả
chúng sanh. Dầu là
ruộng phước nhưng không thọ, không lấy,
thanh tịnh, không nhơ,
vô lậu,
vô vi, rộng khắp
vô biên, tâm điều nhu
bình đẳng không hai, không có loạn trựơc thường chẳng
biến đổi. Đây gọi là
niệm Tăng.
Thế nào là
niệm giới ?
Bồ Tát suy nghĩ có giới, chẳng phá, chẳng lậu, chẳng hoại, chẳng tạp, dầu không
hình sắc mà nên
hộ trì, dầu không xúc đối nhưng khéo tu
phương tiện có thể đặng đầy đủ không có
lỗi lầm, là chỗ mà chư Phật
Bồ tát ngợi khen là nhơn của
Đại Thừa Phương Đẳng Đại Niết Bàn. Như mặt đất, ghe thuyền,
chuỗi ngọc,
dòng họ tôn qúy, biển lớn,
nước tro, nhà cửa, gươm đao,
cầu kỳ,
lương y, thuốc hay, thuốc A Dà Đà,
như ý bảo châu, chân, mắt,
cha mẹ, bóng mát, không ai trộm cướp được, không ai nhiễu hại được, lửa không cháy được, nước không trôi được, là thang bậc lên núi lớn, là tràng báu của chư Phật
Bồ Tát, nếu trụ nơi giới nầy thời đặng quả
Tu Đà Hoàn. Tôi cũng có phần nầy nhưng tôi chẳng cầu, vì nếu tôi đặng quả
Tu Đà Hoàn thời không thể độ khắp tất cả
chúng sanh. Nếu trụ nơi giới nầy đặng
vô thượng Bồ Đề, thời tôi cũng có phần, đây là chỗ mong muốn của tôi : Vì nếu đặng
vô thượng Bồ Đề, tôi sẽ vì
chúng sanh giảng thuyết diệu pháp để
cứu độ. Đây là
Đại Bồ Tát niệm giới.
Thế nào là
niệm thí ?
Đại Bồ Tát quán sát kỹ hạnh
Bố Thí là nhơn của
vô thượng Bồ Đề. Chư Phật và
Bồ Tát tu tập hạnh
Bố Thí như vậy, tôi cũng
tu tập như vậy. Nếu chẳng
Bố Thí thời không thể
trang nghiêm bốn bộ chúng.
Bố Thí dầu không thể
rốt ráo dứt
kiết sử, mà có từ phá
hiện tại phiền não. Do vì
Bố Thí nên thường được
chúng sanh trong
vô lượng thế giới ở
mười phương khen ngợi
Đại Bồ Tát Bố Thí vật thực cho
chúng sanh thời là
Bố Thí mạng sống cho
chúng sanh. Do
quả báo bố thí nên lúc
thành Phật thường chẳng
biến đổi. Do
Bố Thí làm
chúng sanh an vui nên lúc
thành Phật đặng an vui. Lúc
Bố Thí,
Bồ Tát cầu
của cải đúng pháp, chẳng lánh người kia để cho người nầy, vì thế nên lúc
thành Phật đặng
thanh tịnh Niết Bàn. Lúc
Bố Thí,
Bồ Tát làm cho
chúng sanh chẳng cầu mà đặng, nên lúc
thành Phật đặng ngã
tự tại. Vì
Bố Thí làm cho người khác đặng
sức khỏe, nên lúc
thành Phật chứng đặng
mười trí lực. Vì
Bố Thí làm cho người đặng nói năng, nên lúc
thành Phật đặng bốn môn
vô ngại. Chư Phật và
Bồ Tát tu tập hạnh
Bố Thí nầy làm nhơn
Niết Bàn, tôi cũng
tu tập hạnh
Bố Thí như vậy để làm nhơn
Niết Bàn.
Nói rộng hạnh
Bố Thí như trong
kinh Tạp Hoa.
Thế nào là
niệm Thiên ?
Có
cõi trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến
cõi trời Phi Tưởng, Phi
Phi tưởng. Nếu có
tín tâm đặng sanh
cõi trời Tứ Thiên Vương v.v… Tôi cũng có phần. Nếu giới,
đa văn,
bố thí,
trí huệ đặng sanh
cõi trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến
cõi trời phi Tưởng, Phi
Phi Tưởng, tôi cũng có phần nhưng chẳng phải chỗ mong muốn của tôi. Vì trời
Tứ Thiên Vương nhẫn đến trời Phi
Phi Tưởng đều là
vô thường. Vì
vô thường nên có sanh già bịnh chết, do lẽ nầy nên chẳng phải là chỗ tôi mong muốn.
Như ảo thuật
biến hoá phỉnh gạt người ngu, người trí không bị lầm.
Phàm phu ngu mê
ham muốn cõi trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến
trời Phi Tưởng, Phi
Phi Tưởng. Tôi chẳng đồng với
phàm phu. Tôi từng nghe có trời
đệ nhứt nghĩa, chính là chư Phật và
Bồ tát thường chẳng
biến đổi. Vì
thường trụ nên chẳng có sanh, lão, bịnh, tử. Tôi vì
chúng sanh mà
cần cầu trời
đệ nhứt nghĩa vì trời
đệ nhứt nghĩa có thể làm cho
chúng sanh dứt
trừ phiền não, như
cây như ý. Nếu tôi có tín, niệm, tấn, định và huệ thời có thể đặng trời
đệ nhứt nghĩa nầy. Tôi sẽ vì
chúng sanh giảng thuyết phân biệt trời
đệ nhứt nghĩa. Đây gọi là
Đại Bồ Tát niệm Thiên.
Nầy
Thiện nam tử ! Đây là
thế gian chẳng biết chẳng thấy, mà là chỗ thấy biết của
Bồ Tát.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
đệ tử của ta cho rằng
thọ trì đọc tụng biên chép
diễn thuyết mười hai bộ kinh cùng với
thọ trì đọc tụng biên chép
diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn đồng nhau, nói như vậy không đúng nghĩa. Vì
Đại Niết Bàn là tạng
bí mật rất sâu của tất cả chư
Phật Thế Tôn, đây thời là hơn tất cả. Do nghĩa nầy nên
kinh Đại Niết Bàn rất lạ, rất
đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : “ Tôi cũng biết
kinh Đại Niết Bàn là rất lạ, rất
đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát,
Bồ Đề,
Đại Bát Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn. Bạch
Thế Tôn ! Do nghĩa gì lại nói
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn ?
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát không ai
giáo hóa mà có thể tự
phát tâm Bồ Đề, đã
phát tâm rồi
tinh tấn siêng tu.
Giả sử lửa lớn đốt cháy
thân thể, trọn chẳng vì
cầu cứu mà bỏ
tâm niệm Pháp. Vì
Đại Bồ Tát thường tự
suy nghĩ: Tôi trong
vô lượng vô số kiếp hoặc ở
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh, trong
loài người,
trên trời, bị các thứ lửa
kiết sử đốt cháy, chưa từng đặng một pháp
quyết định, pháp
quyết định là
vô thượng Bồ Đề. Nay tôi vì
vô thượng Bồ Đề trọn chẳng tiếc
thân mạng, dầu đến phải nát thân như
vi trần, tôi trọn chẳng
buông bỏ hạnh
tinh tấn siêng tu. Vì tâm
tinh tấn bèn là nhơn
vô thượng Bồ Đề.
Nầy
Thiện nam tử ! BồTát nầy lúc chưa thấy
vô thượng Bồ Đề đã có thể chẳng tiếc
thân mạng như vậy, huống là đã thấy. Do đây nên
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Lại
Đại Bồ Tát thấy
sanh tử có
vô lượng tội khổ, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết được. Dầu biết
sanh tử có
vô lượng tội khổ, nhưng vì
chúng sanh ở trong đó chịu khổ mà chẳng sanh tâm nhàm lìa. Do đây nên gọi là
Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh nên dầu ở trong
địa ngục chịu khổ nhưng vui như
đệ tam thiền. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Ví như nhà
Trưởng Giả phát hỏa,
Trưởng Giả xem thấy liền
bỏ nhà chạy ra. Các con của
Trưởng Giả ở sau chưa
thoát khỏi nạn lửa.
Trưởng Giả vì các con nên trở vào nhà để cứu, chẳng đoái đến họan nạn nguy hiểm. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát dầu biết
sanh tử nhiều tội khổ, nhưng vì cứu
chúng sanh nên ở trong
sanh tử mà chẳng nhàm. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Đề, thấy trong
sanh tử nhiều tội khổ liền
thối tâm Bồ Đề, hoặc làm
Thanh Văn hoặc làm
Duyên Giác. Nếu
Bồ Tát được nghe
kinh Đại Niết Bàn nầy thời trọn chẳng thối thất tâm
Bồ Đề.
Bồ Tát nầy dầu chưa đến bậc
bất động địa, nhưng tâm bền chắc không thối thất. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Nầy
Thiện nam tử ! Như có người nói rằng tôi có thể tự lội qua khỏi biển lớn. Người nói như vậy có thể nghĩ bàn được chăng ?
_ Bạch
Thế Tôn !
Lời nói như vậy hoặc có thể nghĩ bàn, hoặc chẳng thể nghĩ bàn. Vì nếu là người lội qua khỏi biển lớn thời chẳng thể nghĩ bàn. Còn nếu
A Tu La lội qua thời là có thể nghĩ bàn.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Ta chẳng nói
A Tu La, chỉ nói người.
_ Bạch
Thế Tôn ! Trong
loài người cũng có hai hạng : Một là Thánh Nhơn, hai là
phàm phu. Nếu
phàm phu lội qua thời là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Thánh nhơn thời là có thể nghĩ bàn.
_ Nầy
Thiện nam tử ! Ta nói
phàm phu chẳng nói Thánh nhơn.
_ Bạch
Thế Tôn ! Nếu là
phàm phu tự nói lội qua biển lớn được thời thiệt là chẳng thể nghĩ bàn.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Phàm phu thiệt không thể lội qua biển lớn được.
Bồ Tát đây thiệt có thể qua khỏi biển lớn
sanh tử nên gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
_Nầy
Thiện nam tử ! Nếu có người có thể dùng chỉ cọng sen treo
núi Tu Di, thời có thể nghĩ bàn được chăng ?
_ Bạch
Thế Tôn ! Không thể nghĩ bàn được.
_ Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát trong khoảng một niệm đều có
thể tính lường tất cả
sanh tử, nên lại gọi chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát trong
vô lượng vô số kiếp thường
quán sát sanh tử là
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh, vì
chúng sanh phân biệt diễn thuyết thường, lạc, ngã, tịnh. Dầu
diễn thuyết như vậy nhưng chẳng phải là
tà kiến. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Như người vào nước, nước chẳng trôi được, vào lửa, lửa chẳng cháy được. Như vậy thời chẳng thể nghĩ bàn. Cũng vậy,
Đại Bồ Tát dầu ở
sanh tử, nhưng chẳng bị
sanh tử não hại. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Loài người có ba hạng : Thượng , trung và hạ.
Hạng người hạ lúc mới
nhập thai nghĩ rằng : Nay tôi ở nhà tiêu đầy những hôi nhơ
tối tăm. Lúc mới
xuất thai nghĩ rằng nay tôi ra khỏi nhà tiêu, ra khỏi chỗ hôi nhơ
tối tăm.
Hạng người
bực trung nghĩ rằng : Nay tôi vào trong rừng cây, trong sông sạch sẽ, trong nhà cửa. Lúc
xuất thai cũng vậy.
Hạng người bực thượng nghĩ rằng : Tôi lên điện, ở trong rừng hoa, cỡi ngựa, cỡi voi trèo lên núi cao. Lúc
xuất thai cũng vậy.
Đại Bồ Tát lúc mới
nhập thai, tự biết là
nhập thai, lúc ở trong thai biết là ở, lúc
xuất thai biết là xuất, trọn chẳng sanh
tâm niệm tham sân, nhưng chưa lên bậc
sơ trụ. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Vô thượng Bồ Đề thiệt không thể dùng
thí dụ để
so sánh, nhưng đều có thể nói.
Đại Bồ Tát không có thầy thưa hỏi học tập, mà có thể đặng pháp
vô thượng Bồ Đề. Đặng pháp nầy rồi
tâm không lẫn tiếc, thường
diễn thuyết cho
chúng sanh. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Đại Bồ Tát có
thân xa lìa mà chẳng phải khẩu, có khẩu
xa lìa mà chẳng phải thân, có chẳng phải thân, chẳng phải khẩu mà cũng
xa lìa. Lìa sát, đạo, dâm gọi là
thân xa lìa mà chẳng phải khẩu. Lìa
vọng ngữ,
lưỡng thiệt,
ác khẩu,
vô nghĩa ngữ thời gọi là khẩu
xa lìa mà chẳng phải thân.
Xa lìa tham lam,
ganh ghét, giận hờn,
tà kiến thời gọi là
ý xa lìa, mà chẳng phải thân chẳng phải khẩu.
Đại Bồ tát chẳng thấy một pháp nào là thân là nghiệp cùng ông chủ
xa lìa, nhưng cũng có
xa lìa. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn, khẩu và ý cũng như vậy.
Nầy
Thiện nam tử ! Từ nơi
thân xa lìa thân, từ nơi khẩu
xa lìa khẩu,
từ trí huệ
xa lìa chẳng phải thân chẳng phải khẩu. Thật có
trí huệ nầy nhưng chẳng thể khiến
Bồ tát xa lìa vì không có một pháp nào hoại được làm được. Tánh của
pháp hữu vi, lúc sanh khác , lúc diệt khác. Vì thế nên
trí huệ nầy chẳng thể
xa lìa.
Nầy
Thiện nam tử !
Trí huệ chẳng thể phá, lửa chẳng thể cháy, nước chẳng thể rã, gió chẳng thể động, đất chẳng thể giữ, sanh chẳng thể sanh, lão chẳng thể lão, trụ chẳng thể trụ, hoại chẳng thể hoại, tham chẳng
thể tham, sân chẳng thể sân, si chẳng thể si. Bởi tánh của
pháp hữu vi lúc sanh khác, lúc diệt khác.
Đại Bồ Tát trọn chẳng nghĩ rằng tôi dùng
trí huệ nầy phá các
phiền não mà tự nói rằng tôi phá
phiền não, dầu nói như vậy nhưng chẳng phải
hư vọng. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật ! “
Thế Tôn ! Nay tôi mới biết
Đại Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, Phật, Pháp,
chúng Tăng,
kinh Đại Niết Bàn và người
thọ trì Bồ Đề Niết Bàn đều chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch
Thế Tôn !
Phật pháp vô thượng thời gian bao lâu sẽ diệt ?
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
đệ tử ta còn có người
thọ trì đọc tụng biên chép
diễn thuyết nghĩa của
kinh Đại Niết Bàn, nhẫn đến
năm hạnh :
Thánh hạnh,
Phạm hạnh,
Thiên hạnh, Bệnh hạnh,
Anh nhi hạnh, được
chúng sanh cung kính tôn trọng tán thán cúng dàng, nên biết đó là
thời kỳ Phật pháp chưa diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu
kinh Đại Niết Bàn lúc
lưu hành đầy đủ, hàng
đệ tử của ta phần nhiều
phạm giới cấm tạo
nghiệp ác, không kính tin
kinh điển nầy, vì không tin nên chẳng
thọ trì đọc tụng biên chép,
giải thuyết ý nghĩa của kinh nầy, chẳng được
mọi người cung kính cúng dường, lúc thấy người
thọ trì lại khinh chê, nên biết đó là
thời kỳ Phật pháp sắp diệt chẳng còn lâu.
Ca Diếp Bồ Tát lại
bạch Phật : “
Thế Tôn ! Chính tôi từng nghe Phật nói rằng :
Chánh pháp của Phật
Ca Diếp ở đời bảy ngày thời diệt hết.
Bạch
Thế Tôn ! Phật
Ca Diếp có
kinh Đại Niết Bàn nầy chăng ? Nếu như có sao lại nói là diệt ? Nếu
như không có thời sao lại nói rằng
kinh Đại Niết Bàn là tạng
bí mật của chư Phật ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Trước kia ta nói rằng chỉ có
Văn Thù Sư Lợi mới hiểu được nghĩa nầy. Nay ta sẽ nói lại, ông nên
chí tâm lóng nghe !
Nầy Thiên nam tử ! Chư Phật có hai loại pháp : Một là
thế pháp, hai là
đệ nhất nghĩa pháp.
Thế pháp thời có
hoại diệt,
đệ nhất nghĩa pháp không có
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh, những pháp nầy có
hoại diệt, hai là thường, lạc, ngã, tịnh, pháp nầy không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là pháp của
nhị thừa thọ trì đây thời có
hoại diệt, hai là pháp của
Bồ Tát thọ trì, đây thời không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là
ngoại pháp thời có
hoại diệt, hai là
nội pháp thời không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là
pháp hữu vi thời có
hoại diệt, hai là
pháp vô vi thời không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là pháp có thể được thời có
hoại diệt, hai là
pháp không thể được thời không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là
cộng pháp thời có
hoại diệt, hai là
bất cộng pháp thời không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là pháp trong
loài người thời có
hoại diệt, hai là pháp trong loài trời thời không
hoại diệt.
Lại có hai loại : Một là mười một
bộ kinh thời có
hoại diệt, hai là
kinh Phương Đẳng thời không
hoại diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu hàng
đệ tử của ta
thọ trì đọc tụng, biên chép
giải thuyết cùng
cung kính cúng dàng
tôn trọng tán thán kinh Phương Đẳng Đại Thừa, nên biết đó là
thời kỳ Phật pháp chẳng diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Vừa rồi ông hỏi Phật
Ca Diếp có kinh nầy chăng ?
Nầy
Thiện nam tử !
Kinh Đại Niết Bàn là tạng
bí mật của tất cả Phật. Vì chư Phật dầu có mười một
bộ kinh, nhưng chẳng nói
Phật tánh, chẳng nói thường, lạc, ngã, tịnh của
Như Lai, chẳng nói chư Phật trọn không
rốt ráo nhập Niết Bàn. Vì thế nên kinh nầy gọi là tạng
bí mật của
Như Lai. Trong mười một
bộ kinh chẳng nói đến nên gọi là tạng. Như
thất bảo của người chẳng đem ra ngòai để dùng thời gọi là
bảo tạng. Tài vật của người nầy chứa cất để dùng vào việc tương lai. Nghĩa là
dự phòng lúc lúa gạo mắc, giặc đến xâm lăng, chính trị khổ khắc, thời dùng để chuộc mạng, hoặc đường giao thông bế tắc mới đem ra dùng. Cũng vậy, tạng
bí mật của
Như Lai cũng để
dự phòng đời
vị lai các
Tỳ Kheo ác chứa vật
bất tịnh, đối với
tứ chúng nói
Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn,
đọc tụng sách vở
thế gian, chẳng kính
kinh điển của Phật. Lúc những điều ác như vậy
hiện ra nơi đời,
đức Như Lai vì muốn dứt các sự ác ấy nên diễn nói kinh nầy, khiến
mọi người xa lìa những
lợi dưỡng tà mạn. Lúc
kinh tạng bí mật nầy dứt diệt, nên biết đó là
thời kỳ Phật pháp diệt.
Nầy
Thiện nam tử !
Kinh Đại Niết Bàn thường còn chẳng
biến đổi, sao ông lại hỏi rằng lúc Phật
Ca Diếp có kinh nầy chăng ?
Nầy
Thiện nam tử !
Thời kỳ Phật
Ca Diếp,
chúng sanh ít
tham dục, nhiều
trí huệ, hàng
Đại Bồ Tát điều thuận nhu hòa dễ
giáo hóa, có
đại oai đức tổng trì chẳng quên, như Đại
Tượng Vương. Cõi nước
thanh tịnh. Tất cả
chúng sanh đều biết
Như Lai chẳng
rốt ráo nhập Niết Bàn thường trụ chẳng
biến đổi, nên dầu có kinh nầy mà chẳng cần
diễn thuyết.
Chúng sanh đời nay
phiền não nhiều,
ngu si ưa giận hờn không
trí huệ,
lòng tin chẳng vững, nhiều
nghi ngờ, cõi nước
bất tịnh,
chúng sanh cho rằng
Như Lai vô thường dời đổi rốt ráo nhập Niết Bàn. Do cớ nầy nên
Như Lai diễn thuyết kinh đây.
Nầy
Thiện nam tử !
Chánh pháp của Phật
Ca Diếp thật chẳng diệt mất vì
chánh pháp thường trụ chẳng
biến đổi.
Nầy
Thiện nam tử ! nếu có
chúng sanh đối với chơn ngã mà thấy là
vô ngã,
vô ngã lại thấy là có ngã, chơn thường thấy là
vô thường,
vô thường thấy là thường, chân lạc thấy là vô lạc, vô lạc thấy lạc, chơn tịnh thấy là
bất tịnh,
bất tịnh thấy là tịnh, diệt thấy là
bất diệt,
bất diệt thấy là diệt, tội thấy là chẳng phải tội, phi tội thấy là tội,
tội nhẹ thấy là nặng, tội nặng thấy là nhẹ, thừa thấy là phi thừa, phi thừa thấy là thừa, đạo thấy là
phi đạo,
phi đạo thấy là đạo, thật là
Bồ Đề thấy chẳng phải
Bồ Đề, thật chẳng phải là
Bồ Đề thấy lầm là
Bồ Đề, khổ thấy chẳng phải khổ, tập thấy chẳng phải tập, diệt thấy chẳng phải diệt, đạo thấy chẳng phải đạo, thật là
thế đế lại thấy là
đệ nhất nghĩa đế, còn
đệ nhất nghĩa đế lại thấy là
thế đế, quy thấy là chẳng quy, chẳng phải quy thấy là quy, cho lời của Phật nói là lời của ma, còn thiệt lời ma lại cho là lời Phật, vào
thời kỳ như trên đây chư Phật bèn nói
kinh Đại Niết bàn.
Nầy
Thiện nam tử ! Thà nói vòi con muỗi tột đến đáy biển lớn, chẳng nên nói
chánh pháp của
Như Lai diệt. Thà nói rằng lấy dây vấn buộc luồng gió mạnh, thà nói lấy miệng thổi tan
núi Tu Di, thà nói trong đống lửa hừng mọc bông sen, thà nói thuốc A Dà Đà là
độc dược, thà nói có thể làm cho
mặt trăng nóng
mặt trời lạnh, thà nói
bốn đại chủng đều bỏ tánh chất của nó, trọn chẳng nên nói rằng
chánh pháp của
Như Lai diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc Phật mới ra đời chứng đặng
vô thượng Bồ Đề rồi, hàng
đệ tử chưa có người hiểu thấu
Đại Thừa rất sâu,
đức Phật đó bèn
nhập Niết Bàn, nên biết
chánh pháp đó chẳng ở lâu nơi đời. Nếu có hàng
đệ tử đã hiểu thấu nghĩa
đại thừa rất sâu, Phật dầu
nhập Niết Bàn nhưng
chánh pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu Phật ra đời chứng
vô thượng Bồ Đề, hàng
đệ tử dầu có người hiểu nghĩa
Đại Thừa rất sâu, mà không có hàng
Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin
tôn trọng Phật pháp, khi Phật
nhập Niết Bàn rồi,
thời chánh pháp đó chẳng ở lâu nơi đời. Nếu có hàng
Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin
Phật pháp. Phật dầu
nhập Niết Bàn nhưng
chánh pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu Phật ra đời chứng
vô thượng Bồ Đề, có các
đệ tử hiểu nghĩa
đại thừa rất sâu, cũng có
Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin
tôn trọng Phật pháp, mà các
đệ tử thuyết pháp lại vì
danh lợi, chẳng cầu
Niết Bàn, khi
Phật diệt rồi thì
chánh pháp chẳng ở lâu nơi đời.
Trái lại nếu hàng
đệ tử thuyết pháp vì cầu
Niết Bàn chẳng
ham danh lợi, Phật dầu
nhập diệt nhưng
chánh pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu Phật ra đời chứng đặng
vô thượng Bồ Đề, dầu có các hàng
đệ tử hiểu nghĩa
đại thừa rất sâu, cũng có hàng
Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin
tôn trọng Phật pháp, mà các
đệ tử sanh nhiều sự tranh tụng hơn thua
phải quấy lẫn nhau, Phật lại
nhập Niết Bàn,
thời chánh pháp chẳng ở lâu nơi đời.
Trái lại các
đệ tử thật
hành pháp hòa kính, chẳng hơn thua
phải trái nhau,
tôn trọng lẫn nhau, dầu Phật
nhập Niết Bàn nhưng
chánh pháp vẫn ở lâu chẳng diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu Phật ra đời chứng
vô thượng Bồ Đề, có những
đệ tử hiểu nghĩa
đại thừa rất sâu, cũng có hàng
Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin
tôn trọng Phật pháp, các
đệ tử vì
cầu Đại Niết Bàn mà
thuyết pháp,
cung kính lẫn nhau, nhưng cất chứa những vật
bất tịnh, lại khen rằng tôi đặng quả
Tu Đà Hoàn, nhẫn đến quả
A La Hán Phật lại
nhập Niết Bàn thời chánh pháp đó chẳng ở lâu nơi đời.
Trái lại hàng
đệ tử chẳng cất chứa những vật
bất tịnh cũng chẳng tự nói mình đã
chứng quả Tu Đà Hoàn, nhẫn đến quả
A La Hán, Phật dầu
diệt độ, nhưng
chánh pháp vẫn còn không diệt.
Nầy
Thiện nam tử ! Nếu Phật ra đời chứng
vô thượng Bồ Đề có các
đệ tử đủ những
điều kiện trên nhưng lại
chấp kiến giải của mình mà lập những
dị thuyết : Nầy
Trưởng lão ! Giới của Phật chế, bốn giới trọng nhẫn đến bảy
pháp diệt tránh, vì
chúng sanh nên hoặc ngăn, hoặc mở,
mười hai bộ kinh cũng như vậy. Vì Phật biết cõi nước đều sai khác,
chúng sanh căn tánh
lợi độn chẳng đồng vì thế nên
Như Lai nói có khinh có trọng, hoặc ngăn hoặc mở. Như
lương y trị bịnh người bịnh nóng thời cho uống sửa, bịnh lạnh thời ngăn không cho uống sửa.
Đức Như Lai quán sát căn bịnh
phiền não của
chúng sanh, nên cũng mở cũng ngăn. Nầy
Trưởng lão tôi đích thân nghe Phật nói nghĩa ấy, chỉ tôi biết chớ ngài không biết được, chỉ tôi hiểu luật chớ ngài không hiểu, chỉ tôi biết kinh chứ ngài không biết được. Nên biết khi
Phật diệt độ
chánh pháp đó chẳng ở lâu nơi đời.
Trái lại hàng
đệ tử đủ các
điều kiện trên lại không lập
dị thuyết. Phật dầu
diệt độ nhưng
chánh pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Nầy
Thiện nam tử ! Lúc
chánh pháp của ta diệt, hàng
Thanh Văn đệ tử hoặc có người nói có thần, hoặc nói không thần, có
trung ấm hoặc không
trung ấm, có
ba đời hoặc không
ba đời, có
ba thừa hoặc không
ba thừa, hoặc nói tất cả đều có, hoặc nói tất cả đều không, hoặc nói
chúng sanh có thỉ có chung, hoặc nói
chúng sanh không thỉ không chung, hoặc nói có mười hai
nhơn duyên là
pháp hữu vi, hoặc nói là
pháp vô vi, hoặc nói
Như Lai có
bịnh khổ, hoặc nói
Như Lai không
bịnh khổ, hoặc nói
Như Lai không cho
Tỳ kheo ăn mười thứ thịt : Thịt người, thịt rắn , thịt voi, thịt ngựa, thịt lừa, thịt chó, thịt
sư tử, thịt heo, thịt chồn , thịt khỉ vượn,
ngoài ra đều cho, hoặc nói tất cả thứ thịt đều không cho ăn, hoặc nói
Tỳ kheo chẳng được làm năm việc : Chẳng đặng bán những thứ : Sanh vật, dao, rượu, thuốc nhuộm, dầu mè,
ngoài ra đều cho, hoặc nói chẳng cho vào năm thứ nhà : Nhà hàng thịt, nhà
dâm nữ, nhà rượu, cung vua, nhà Chiên-đà-la,
ngoài ra đều cho, hoặc nói chẳng cho mặc y Kiều-xa-gia,
ngoài ra đều cho, hoặc nói
Như Lai cho các
Tỳ Kheo lãnh thọ và chứa cất
y phục đồ nằm trị giá mười muôn lượng vàng, hoặc nói chẳng cho, hoặc nói
Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh, hoặc nói
Niết Bàn chính là
kiết sử dứt hết không còn có pháp gì khác nên gọi là
Niết Bàn, như dệt chỉ gọi đó là y, y đã hư rách thời gọi là không y, không có pháp gì khác gọi là không y, thể của
Niết Bàn cũng như vậy. Đương
thời kỳ đó, các
đệ tử của ta : Chánh thuyết thời ít
tà thuyết thời nhiều, thọ
chánh pháp thời ít, thọ
tà pháp thời nhiều, thọ lời
Phật thời ít, thọ lời ma thời nhiều. Bây giờ trong nước
Câu Diêm Di có hai
đệ tử : Một là
La Hán hai là
phá giới, người
phá giới có năm trăm
đồ chúng,
La Hán có một trăm
đồ chúng. Người
phá giới nói
đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, chính tôi nghe Phật nói nghĩa đó, bốn giới trọng của Phật chế, nếu trì cũng được, nếu phạm cũng không tội, nay tôi cũng đặng quả
A La Hán, bốn trí
vô ngại, mà
A La Hán cũng
phạm tội như vậy, nếu bốn giới trọng thật là tội, thời
A La Hán lẽ ra chẳng phạm. Lúc
đức Như Lai còn ở đời bảo phải
giữ gìn, đến lúc
nhập Niết Bàn thời đều phóng xả.
Lúc đó
A La Hán bảo
Tỳ Kheo rằng : Nầy
Trưởng lão ông chẳng nên nói
đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn. Tôi biết
đức Như Lai thường còn chẳng
biến đổi.
Đức Như Lai ở đời
cùng lúc đã
nhập Niết Bàn, phạm bốn trọng giới, tội không sai khác. Nếu nói
A La Hán phạm trọng giới thời không đúng nghĩa. Vì
Tu Đà Hoàn còn chẳng phạm
cấm giới huống là
A La Hán. Nếu
Trưởng lão nói rằng tôi là
A La Hán.
Trưởng lão nên biết
A La Hán trọn chẳng tưởng rằng tôi đặng
A La Hán.
A La Hán chỉ nói pháp lành chẳng nói pháp ác.
Lời nói của
Trưởng lão thuần là
phi pháp. Nếu có người được đọc
mười hai bộ kinh thời
quyết định biết rằng
Trưởng lão chẳng phải
A La Hán.
Lúc đó
đồ chúng của
Tỳ Kheo phá giới liền giết
A La Hán chết.
Ma Vương nhơn hai chúng giận hờn nhau bèn hại cả sáu trăm
Tỳ Kheo.
Bầy giờ
phàm phu trong đời đều bảo nhau rằng : Thương thay
Phật pháp nay đã dứt. Nhưng
chánh pháp của ta thật chẳng dứt mất, vì trong nước ấy có mười hai muôn
Đại Bồ Tát khéo
hộ trì pháp của ta.
Lúc bấy giờ trong
Diêm Phù Đề không có một
Tỳ Kheo làm
đệ tử của ta.
Ma Vương Ba Tuần dùng lửa đốt tất cả
kinh điển. Trong đó hoặc còn sót, hàng
Bà La Môn bèn trộm lấy lượm lặt để vào trong sách của họ. Do đây nên hàng Tiểu
Bồ Tát, lúc Phật chưa ra đời đem nhau tin lấy lời của
Bà La Môn. Hàng
Bà La Môn dầu nói rằng tôi có
trai giới, nhưng thiệt ra các
ngoại đạo đều không có. Hàng
ngoại đạo dầu nói : Có ngã, có lạc, có tịnh, nhưng thiệt ra họ chẳng hiểu nghĩa lạc, ngã, tịnh. Chính là họ lấy một chữ hai chữ một câu hai câu trong
Phật pháp rồi nói là trong sách vở họ có nghĩa như vậy.
Lúc bấy giờ trong rừng
Ta La Song Thọ nơi thành
Câu Thi Na,
vô lượng vô biên vô số đại chúng nghe lời Phật nói như trên, liền đồng tiếng xướng rằng : “Thế gian trống rỗng !
Thế gian trống rỗng !”
Ca Diếp Bồ Tát bảo
đại chúng : Các người chớ lo rầu khóc lóc.
Thế gian chẳng trống rỗng vì
Phật pháp và Tăng là
thường trụ không
biến đổi.
Đại chúng nghe lời nầy liền thôi khóc, tất cả đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Lúc bấy giờ thành
Vương Xá,
vua A Xà Thế tánh tình tệ ác, thích chém giết, miệng đủ bốn điều ác, tham, sân, si đầy nơi tâm, chỉ thấy
hiện tại chẳng thấy
vị lai, thuần dùng người ác để làm
quyến thuộc, vì tham
ngũ dục hiện đời mà giết vua cha vô tội. Hại cha xong lòng
ăn năn bức rức, khắp mình sanh ghẻ lở tanh hôi chẳng ai dám gần.
Vua A Xà Thế liền tự nghĩ rằng : Nay ta đã phải thọ lấy
quả báo, không bao lâu chắc phải bị
quả báo nơi
địa ngục.
Thân mẫu của nhà vua là bà
Vi Đề Hy lấy các thứ thuốc để thoa xức, nhưng ghẻ càng lở nặng thêm.
Vua A Xà Thế thưa với mẹ : Ghẻ lở nầy
do nơi tâm mà sanh chẳng phải do
tứ đại, không thể dùng y dược
trong đời mà
điều trị được.
Vua bảo các vị đại thần : Nay
thân tâm của ta đều
đau khổ. Cha ta vô tội, ta lại giết hại. Từng nghe người
trí bảo rằng người
phạm tội ngũ nghịch quyết định chẳng
thoát khỏi địa ngục. Nay ta đã
phạm tội nghịch
thân tâm đau khổ, không có
lương y nào chữa trị được.
Đại thần
Nguyệt Xưng liền thưa với nhà vua : Như người thích ngủ nghỉ, ngủ nghỉ càng thêm nhiều, như người mê
dâm dục,
dâm dục càng thêm nhiều, như người ưa uống rượu, càng lúc càng uống nhiều. Nếu thường
sầu khổ nhiều, thêm sầu cũng như vậy.
Như
Đại Vương vừa nói người
phạm tội ngũ nghịch quyết định chẳng
thoát khỏi địa ngục. Có ai đến ngục thấy việc ấy
trở về thưa với
Đại Vương chăng ?
Lời nói địa ngục chính là người trí ở
thế gian nói. Nay có
đại y sĩ hiệu là Phu Lan Na đặng sức định
tự tại thấy biết tất cả,
tu tập hạnh
thanh tịnh thường vì
mọi người mà
diễn thuyết đạo
Niết Bàn vô thượng, dạy hàng
đệ tử rằng không có
nghiệp ác, không có báo ác. Không có
nghiệp lành không có báo lành. Không có
nghiệp lành ác, không có báo lành ác. Không có thượng nghiệp cũng không có hạ nghiệp.
Đại sư nầy hiện nay ở trong thànhVương Xá. Xin
Đại Vương giá lâm, để nhờ
đại sư ấy
điều trị. Vua nói : “Nếu ông ấy có
thể diệt trừ
tội lỗi của ta, thời ta sẽ quy y”.
Lại có một vị đại thần tên Tạng Đức thưa với nhà vua, mong
Đại Vương chớ lo rầu sợ sệt. Có hai thứ
pháp luật : Một là
xuất gia, hai là
vương pháp. Hại cha mình để
lên ngôi trị nước, dầu là nghịch nhưng đối với
vương pháp thật không có tội. Như trùng
Ca La La phải cắn lủng bụng mẹ mới sanh được. Dầu cắn lủng bụng mẹ thật ra hàng trùng cũng không có tội.
Con la nghén chửa cũng như vậy.
Phương pháp trị nước theo phép phải như vậy, dầu giết hại cha anh cũng không có tội. Còn
pháp luật xuất gia thời nhẫn đến giết muỗi kiến cũng đều có tội cả. Xin
Đại Vương chớ lo rầu, vì càng
sầu khổ thời càng thêm
sầu khổ. Như người ưa ngủ, thích rượu, tham dâm thời sự ngủ v.v… càng thêm.
Nay có vị
đại sư tên
Mạt Già Lê Câu Xá Ly Tử
thương xót chúng sanh như con đỏ, thấy biết tất cả, đã lìa
phiền não có thể cứu vớt
chúng sanh khỏi
ba mũi tên độc bén nhọn.
Đại sư nầy thường dạy
đệ tử rằng : Tất cả
chúng sanh thân có bảy
nguyên tố : Địa, thủy, hỏa, phong, khổ, lạc và
thọ mạng. Bảy thứ ấy chẳng phải hoá, chẳng thể làm chẳng thể hủy hại, như cỏ
Y Sư Ca, an trụ chẳng động như
núi Tu Di. Chẳng bỏ chẳng làm dường như sữa, như chất lạc. Chẳng cãi lẻ nhau : Hoặc khổ hoặc vui, là lành hay chẳng lành. Lấy dao bén chặt không chỗ
bị thương bị hại, vì trong bảy
nguyên tố ấy trống rỗng không ngăn ngại. Mạng cũng không bị hại vì không có người hại và người chết, không làm không thọ, không nói không nghe không có ai nhớ cũng
như không người
dạy bảo.
Đại sư ấy thường
thuyết pháp như vậy làm cho
chúng sanh dứt trừ tất cả
trọng tội. Nay
đại sư ấy hiện ở trong thành
Vương Xá. Xin
Đại Vương đến đó. Nếu
Đại vương gặp được
Đại sư ấy thời các tội sẽ
tiêu trừ.
Vua A Xà Thế bảo đại thần Tạng Đức : “ Nếu thật được như vậy ta sẽ quy y”.
Lại có một đại thần tên là Thiệt Đức tâu cùng vua rằng : “ Xin
Đại Vương chớ
sầu khổ. Nếu Tiên Vương
tu đạo giải thoát, giết hại thời có tội. Nếu theo phép trị nước thời không có tội. Tất cả
chúng sanh đều có nghiệp thừa, do nghiệp nầy nên thường bị
sanh tử. Nếu như Tiên Vương có nghiệp thừa
Đại Vương giết hại thời có tội gì. Mong
Đại Vương yên lòng chớ
sầu khổ vì người thường
sầu khổ thời
sầu khổ càng thêm.
Hiện nay trong thành
Vương Xá có vị
đại sư hiệu là
San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử thấy biết tất cả, trí
sâu rộng như biển cả, có
oai đức, có
thần thông, có thể làm cho
chúng sanh lìa các lưới nghi. Ngài dạy hàng
đệ tử rằng : Trong
quần chúng nếu là bậc vua chúa, thời
tự tại tùy ý làm
việc lành việc ác, trọn không có tội, như lửa đốt cháy đồ vật không luận là sạch cùng chẳng sạch. Như mặt đất chứa chở cả sạch cùng nhơ. Như nước, sạch dơ đều rửa. Như gió, sạch dơ đều thổi. Dầu có các việc như
vậy mà đất nước v.v… trọn không giận, không mừng, phép của vua chúa cũng đồng như vậy. Như cây
mùa thu trụi lá,
mùa xuân thời đâm chồi, dầu chặt cây trụi nhưng không có tội. Cũng vậy
chúng sanh ở chỗ nầy chết
trở lại sanh chỗ nầy, vì sanh
trở lại nên không có tội. Những
quả báo khổ vui của tất cả
chúng sanh đều chẳng phải do nghiệp đời
hiện tại chính là do nghiệp nhơn đời
quá khứ.
Hiện tại không nghiệp nhơn thì
vị lai không quả báo. Do quả
hiện tại nên
chúng sanh trì giới tinh tấn tu hành để ngăn quả ác
hiện tại. Do
trì giới thời đặng
vô lậu, vì đặng
vô lậu thời hết
nghiệp hữu lậu, vì hết nghiệp nên đặng hết khổ, vì hết khổ nên đặng
giải thoát.
Xin
Đại Vương mau đến đó. Nếu
Đại Vương được thấy
Đại Sư ấy thời tất cả tội đều trừ.
Vua đáp rằng : “ Nếu thật như vậy thời ta sẽ quy y”.
Lại có một đại thần tên Tất Tri Nghĩa tâu cùng vua rằng : “ Xin
Đại Vương thư tâm chớ
sầu khổ.
Ngày xưa có vua
La Ma giết cha để
lên ngôi. Vua Mạc Đề, vua Tỳ Lâu Chơn, vua Na Hầu Sa, vua Ca Đế Ca, vua
Tỳ Xá Khư, vua
Nguyệt Quang Minh, vua
Nhật Quang Minh, vua Ái Vương, vua Tỳ Đa Nhơn, đều giết hại cha mình mà
lên ngôi, nhưng không có một vua nào bị đọa
địa ngục. Đời nay có vua
Tỳ Lưu Ly, vua
Ưu Đa Dạ, vua
Ác Tánh, vua Thử Vương, vua
Liên Hoa, đều giết hại cha mình, mà không một vua nào sanh lòng
sầu não. Dầu nói rằng
địa ngục, ngã quỉ,
trên trời, nhưng ai thấy được đó.
Tâu
Đại vương chỉ có hai loài : Một là người hai là
súc sanh. Dầu có hai lòai nhưng chẳng phải do
nhơn duyên sanh, cũng chẳng phải do
nhơn duyên chết. Đã chẳng phải do
nhơn duyên thời có gì là thiện là ác. Mong
Đại Vương chớ
buồn rầu sợ sệt. Vì người thường
sầu khổ thời
sầu khổ càng thêm.
Nay gần thành
Vương Xá có vị
Đại Sư hiệu là
A Kỳ Đa Xúy Xá Khâm
Bà La thấy biết tất cả, xem vàng cùng đất đồng nhau. Đối với người lấy dao chém vào hông bên mặt cùng người lấy
chiên đàn thoa vào hông bên trái, tâm của ngài
bình đẳng không sai khác, không oán, không thân, thật là bậc
lương y trong đời.
Đại sư dạy hàng
đệ tử rằng : “ Hoặc tự làm, hoặc bảo người làm, hoặc tự chém, hoặc bảo người chém, hoặc tự đốt, hoặc bảo người đốt, hoặc tự hại, hoặc bảo người hại, hoặc tự trộm, hoặc bảo người trộm, hoặc tự dâm, hoặc bảo người dâm, hoặc tự
vọng ngữ, hoặc bảo người
vọng ngữ, hoặc tự uống rượu, hoặc bảo người uống rượu, hoặc giết một thôn, một thành, một nước, hoặc dùng đao luân giết tất cả
chúng sanh, hoặc phía nam
sông Hằng Bố Thí chúng sanh, phía Bắc
sông Hằng giết hại
chúng sanh, tất cả đều không tội không phước, không thí,
không giới,
không định. Nếu
Đại Vương gặp được
Đại Sư ấy thời những
tội lỗi sẽ dứt trừ.”
Vua bảo Đại thần Tất Tri Nghĩa : “ Nếu thật được như vậy ta sẽ
quy y.”
Lại có Đại thần tên là Kiết Đắc tâu cùng vua rằng : “ Ai đến phỉnh gạt
Đại Vương mà nói rằng là có
địa ngục ? Như đầu gai nhọn ai làm ra ? Loài chim khác màu ai làm ra? Tánh nước nhuần ướt, tánh đá cứng rắn, tánh lửa thời nóng, tánh gió thời động, tất cả muôn vật tự sanh tự chết ai làm ra ? Thuyết
địa ngục chính là
văn tự của người trí. Hạ thần nầy xin trình bày nghĩa
địa ngục : Chữ địa là đất, chữ ngục nghĩa là phá,
phá địa ngục không có
tội báo, đây gọi là
địa ngục. Lại chữ địa là người, chữ ngục là trời, bởi hại cha mình nên đến trong người
trên trời. Do nghĩa nầy nên
Bà Tẩu Tiên Nhơn nói rằng : Giết dê đặng quả vui
cõi trời cõi người, đây gọi là
địa ngục. Lại chữ địa là mạng, chữ ngục là dài, do
sát sanh nên đặng
thọ mạng dài, đây gọi là
địa ngục. Tâu
Đại Vương do đây nên biết
thật không có
địa ngục. Như gieo bắp đặng bắp, gieo lúa đặng lúa, giết
địa ngục mắc phải
địa ngục, giết hại người lẽ ra phải đặng báo người.
Đại Vương nên
nghe lời hạ thần trình bày,
thật không có sự giết hại, vì nếu có ngã thời không hại,
nếu không ngãlại không chỗ hại. Vì có ngã thời thường còn không
biến đổi, vì thường còn nên chẳng thể giết hại, chẳng phá, chẳng hoại, chẳng trói, chẳng buộc, không giận, không mừng, dường như
hư không, sao lại có tội giết hại.
Nếu không ngã thời các pháp đều
vô thường, vì
vô thường nên
niệm niệm hoại diệt, vì
niệm niệm hoại diệt nên người giết, người chết đều
niệm niệm diệt, nếu đã
niệm niệm diệt thời ai sẽ có tội. Tâu
Đại Vương như lửa đốt cây, lửa không có tội, như búa chặt cây, búa cũng không tội, như liềm cắt cỏ liềm
thật không tội, như dao giết người, dao chẳng phải người dao đã không tội, sao người lại có tội ? Như thuốc độc giết người, thuốc độc chẳng phải người, thuốc độc đã không tội, sao người lại có tội ? Tất cả muôn vật cũng đều như vậy,
thật không giết hại, sao lại có tội. Mong
Đại vương chớ nên
sầu khổ, vì thường
sầu khổ thời
sầu khổ càng thêm.
Nay gần thành
Vương Xá có vị
Đại Sư hiệu là
Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên thấy biết tất cả, rõ suốt
ba đời,
trong khoảng một niệm có thể thấy
vô lượng vô biên thế giới, nghe tiếng cũng vậy,
Đại Sư ấy có thể làm cho
chúng sanh xa lìa tội lỗi, như
sông Hằng bao nhiêu đồ nhơ uế, đều làm cho sạch sẽ.
Đại sư ấy dạy
đệ tử rằng : Nếu người giết hại tất cả
chúng sanh mà lòng không
ăn năn hổ thẹn thời trọn chẳng đọa
ác thú, như
hư không chẳng dính bụi dính nước, nếu lòng
ăn năn hổ thẹn liền đọa
địa ngục, như nước thấm ướt đất. Tất cả
chúng sanh đều do
Tự Tại Thiên tạo ra.
Tự Tại Thiên mừng
thời chúng sanh an vui,
Tự Tại Thiên sân
thời chúng sanh khổ não. Tất cả tội phước của
chúng sanh đều do
Tự Tại Thiên làm ra, sao lại nói rằng
loài người có tội có phước.
Ví như thợ máy chế ra người máy, cũng đi đứng ngồi nằm,
chúng sanh cũng như vậy.
Tự Tại thiên dụ như máy, thân
chúng sanh dụ như người máy. Tạo hoá như vậy thời ai là người có tội.
Nếu
Đại vương gặp được
Đại Sư ấy thời
tội chướng sẽ
tiêu trừ.
Vua bảo Đại Thần Kiết Đắc : “ Nếu thật được như vậy thời ta sẽ quy y”.
Lại có Đại Thần tên Vô Sơ Úy tâu cùng
vua A Xà Thế rằng : “Xin
Đại Vương chớ
sầu khổ. Xét về dòng
Sát Đế Lợi là dòng vua chúa, nếu vì nước, vì
Sa Môn và
Bà La Môn, vì
vấn đề an ổn nhân dân, dầu có giết hại nhưng không tội.
Tiên Vương dầu
cung kính Sa Môn mà chẳng
phụng thờ các
Bà La Môn,
tâm không bìng đẳng chẳng phải thật dòng
Sát Đế LợiNay
Đại Vương muốn
cúng dường các
Bà La Môn mà giết hại Tiên Vương thời có tội gì ?
Tâu
Đại vương ! Thật ra không có giết hại. Xét về sự giết hại là giết hại mạng sống. Mạng là hơi gió, tánh hơi gió không thể giết hại được, sao lại nói rằng hại mạng thời sẽ có tội. Mong
Đại vương chớ
sầu khổ, vì thường
sầu khổ thời
sầu khổ càng thêm. Nay trong thành
Vương Xá có vị
Đại Sư hiệu là
Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử thấy biết tất cả,
thương xót chúng sanh, rõ biết
căn tánh lợi độn,
tám pháp thế gian không làm
ô nhiễm được ngài,
tu tập phạm hạnh thanh tịnh,
Đại Sư ấy dạy hàng
đệ tử rằng : Không
Bố Thí, không
nghiệp lành, không cha, không mẹ, không đời nay, không
đời sau, không
A La Hán, không
đạo hạnh, không
tu hành. Tất cả
chúng sanh trải qua bốn muôn kiếp,
tự nhiên sẽ
thoát khỏi dòng
sanh tử, không luận là người có tội hay vô tội, như
bốn con sông lớn đều chảy vào biển cả, tất cả
chúng sanh lúc đặng
giải thoát đều đồng nhau không khác. Nếu
Đại vương gặp được
Đại sư ấy thời các
tội chướng sẽ
tiêu trừ.”
Vua bảo Đại Thần
Vô Sở Úy : “ Nếu thật như vậy ta sẽ quy y”.
Mặc dầu các Đại thần khuyên lơn giảng dạy đủ điều như vậy, nhưng
vua A Xà Thế vẫn
sầu khổ.
Lúc đó
Đại Y Sĩ
Kỳ Bà tâu cùng vua rằng : “
Đại Vương ngủ nghỉ có đặng yên
chăng ?”
Vua A Xà Thế liền nói kệ rằng :
Nếu có người dứt hẳn được, Tất cả những
phiền não hoặc, Chẳng
tham nhiễm trong
ba cõi. Mới ngủ nghỉ được
an ổn. Nếu người chứng
Đại Niết Bàn,
Diễn thuyết nghĩa lý rất sâu. Gọi là thiệt
Bà La Môn. Mới ngủ nghỉ được
an ổn, Thân không tạo
nghiệp ác, Miệng
xa lìa bốn điều lỗi,
Tâm không có những lưới nghi, Mới ngủ nghĩ đặng
an ổn.
Thân tâm đều không
nhiệt não, An trụ nơi chỗ
tịch tịnh, Đặng đến cảnh vui
vô thượng, Mới ngủ nghỉ được
an ổn. Trong lòng không có chấp lấy,
xa lìa những niệm oán thù, Thường
hòa thuận không tránh tụng, Mới ngủ nghỉ được
an ổn. Nếu chẳng tạo những
nghiệp ác,
Thường có tâm niệm hổ thẹn, Tin làm ác có
quả báo, Mới ngủ nghỉ được
an ổn.
Cung kính phụng dưỡng
cha mẹ, Chẳng giết hại một sanh mạng. Chẳng trộm cướp tài vật người, Mới ngủ nghỉ được
an ổn.
Điều phục sửa trị sáu căn.
Gần gũi bậc
thiện tri thức,
Phá hoại tất cả
bốn ma, Mới ngủ nghỉ được
an ổn. Chẳng thấy lành cùng chẳng lành, Với những sự khổ sự vui, Vì
cứu độ những
chúng sanh, Nên
luân chuyển trong
sanh tử, Nếu người có thể như vậy, Mớ ngủ nghỉ được
an ổn. Ai đặng ngủ nghỉ
yên ổn ? Đáp rằng : Chính là Chư Phật. Quán sâu nơi
tam muội. Thân cùng tâm an chẳng động. Ai ngủ nghỉ được
an ổn ? Đáp rằng : Là đấng
Từ Bi. Thường siêng tu chẳng
phóng dật, Xem
chúng sanh như con một.
Chúng sanh bị tội
vô minh, Chẳng thấy quả khổ
phiền não, Thường gây tạo những
nghiệp ác, Nên ngủ nghỉ chẳng được yên, Hoặc vì lợi chính thân mình, và đến thân những người khác, mà gây tạo
mười nghiệp ác, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Nếu nói vì
lên ngôi vua, Hại cha vẫn không
tội lỗi,
Thuận theo ác tri thức nầy, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Nếu
ăn uống không
tiết độ, Uống chất lạnh mà quá nhiều, Do đây phải mang
bịnh khổ, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Nếu đối với vua có lỗi, Tà niệm với
vợ con người, Cùng đi trên đường xa vắng, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Trì giới chưa được quả lành.
Thái tử chưa được nối ngôi,
Kẻ trộm chưa lấy được của, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Nầy
Kỳ Bà ! Nay ta mang bịng nặng nầy chính vì ta nghịch lại vua cha. Cha ta trị nước đúng pháp
thật không tội lỗi mà ta lại giết hại. Vì thế nên tất cả
lương y diệu dược
chú thuật đều không thể trị lành bịnh ta. Lòng ta khổ sở như cá mắc cạn, như nai mắc bẩy v.v… Ta từng nghe người
trí bảo rằng người
phạm tội nghịch ắt đọa
địa ngục. Ta làm sao ngủ
yên ổn được. Lại không bậc
vô thượng đại y sĩ dùng
pháp dược để dứt trừ
bịnh khổ cho ta.
Kỳ Bà tâu cùng vua : “
Lành thay !
Lành thay ! Vua dầu tạo tội nhưng có lòng
ăn năn hổ thẹn. Tâu
Đại Vương ! Chư Phật thường nói rằng có hai pháp lành có thể cứu
chúng sanh. Một là tàm, hai là quí. Tàm là tự chẳng
phạm tội. Quí là chẳng bảo người phạm. Tàm là trong lòng tự
hổ thẹn. Quí là đối người
phát lồ. Tàm là hổ cùng người. Quí là thẹn với trời. Kẻ không tàm, quí thời chẳng gọi là người, nên gọi là
súc sanh. Vì có tàm quí thời có thể
cung kính cha mẹ sư trưởng. Người có tàm quí thời gọi là có
cha mẹ anh em chị em.
Lành thay !
Đại Vương có lòng tàm quí. Xin
Đại Vương nghe hạ thần trình bày.
Hạ thần từng nghe
đức Phật nói : Có hai hạng người trí : Một là người chẳng tạo điều ác, hai là tạo điều ác rồi biết
sám hối. Cùng có hai hạng nguời ngu : Một là người tạo tội, hai là người tạo tội rồi che giấu.
Dầu trước tạo tội lúc sau
phát lồ ăn năn hổ thẹn chẳng dám
tái phạm, như đem
minh châu để trong nước đục, do
thế lực của
minh châu nước liền trong. Như khói mây tan thời
mặt trăng chói sáng. Người tạo
tội ác có thể
sám hối cũng như vậy.
Đại Vương nếu
sám hối có lòng tàm quí thời
tội chướng sẽ
trừ diệt,
trong sạch như xưa.
Tâu
Đại Vương !
Giàu có hai hạng : Một là nhiều voi ngựa,
lục súc,. Hai là nhiều
vàng bạc các thứ
châu báu. Voi ngựa nhiều chẳng sánh được một hột châu. Cũng vậy,
chúng sanh có hai hạng giàu : Một là giàu điều ác, hai là giàu điều lành. Tạo nhiều điều ác chẳng bằng một điều lành. Hạ thần nghe Phật nói tu một tâm lành phá tâm điều ác. Như chút
kim cang có thể hoại
núi Tu Di. Cũng như chút lửa có thể đốt cháy tất cả. Như chút thuốc độc có thể hại
chúng sanh. Cũng vậy, chút ít điều lành có thể phá
nghiệp ác lớn. Dầu gọi là chút lành nhưng kỳ thật là lớn, vì phá được
nghiệp ác lớn.
Tâu
Đại vương ! Như lời Phật nói
che dấu là
hữu lậu, chẳng
che dấu là
vô lậu.
Phát lồ sám hối tội lỗi thời là
vô lậu. Nếu tạo tội mà chẳng che chẳng dấu thời tội mỏng ít. Nếu có lòng tàm quí thời tội
tiêu diệt. Giọt nước dầu nhỏ nhưng lần đầy lu lớn. Cũng vậy, mỗi mỗi tâm lành có thể phá điều ác lớn. Nếu người
che dấu tội lỗi thời
tội lỗi thêm lớn, còn
phát lồ hổ thẹn thời
tội lỗi tiêu diệt. Vì thế nên chư Phật nói người có trí chẳng
che dấu tội lỗi.
Lành thay !
Đại Vương có thể tin
nhân quả tin
nghiệp báo. Xin
Đại Vương chớ ôm lòng
sầu khổ sợ sệt.
Nếu có
chúng sanh tạo các
tội ác rồi
che dấu chẳng
sám hối, không lòng
hổ thẹn, chẳng thấy nhơn quả cùng
nghiệp báo, chẳng thể
học hỏi nơi người trí, chẳng gần bạn lành, tất cả
lương y không thể trị lành bịnh người nầy, như bịnh
Ca Ma La, y sĩ
trong đời đều khoanh tay. Người tội nầy gọi là nhứt
xiển đề chẳng
tin nhơn quả, không biết
hổ thẹn, chẳng tin
nghiệp báo, chẳng thấy
hiện tại cùng
vị lai, chẳng gần bạn lành, chẳng
thuận theo lời dạy của Phật, chư
Phật Thế Tôn không thể chữa trị bịnh nầy.
Như
tử thi, y sĩ chẳng chữa được.
Nay
Đại vương chẳng phải hạng nhứt
xiển đề, sao lại nói rằng không thể cứu lành.
Như lời
Đại vương nói không người nào chữa trị được. Xin
Đại vương nên biết rằng : Con vua Tịnh Phan ở thành
Ca Tỳ La họ
Cù Đàm tên
Tất Đạt Đa,
tự giác ngộ thành bậc
vô thượng chánh giác, thân
trang nghiêm đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ
mười trí lực, bốn
vô sở úy, thấy tất cả,
đại từ đại bi thương xót chúng sanh như
La Hầu La,
tùy thuận chúng sanh như nghé theo trâu mẹ,
thuyết pháp đúng thời, lời Phật chơn thiệt,
thanh tịnh,
vi diệu, đúng nghĩa đúng pháp,
duy nhứt, có thể làm cho
chúng sanh lìa hẳn
phiền não khéo biết
căn tánh của
chúng sanh,
tùy nghi phương tiện không gì chẳng
thông đạt. Trí của Phật cao lớn như
núi Tu Di,
thâm thúy rộng xa như biển cả.
Đức Phật có trí
kim cang phá tất cả
tội ác của
chúng sanh.
Đức Phật cách đây mười hai
do tuần trong rừng
Ta La Song Thọ nơi thành
Câu Thi Na, đương vì
vô lượng vô số Bồ Tát đại chúng mà
thuyết pháp. Nếu
Đại Vương được nghe Phật dạy về nghĩa
vô tác,
vô thọ thời bao nhiêu
trọng tội sẽ được
tiêu trừ.
Xưa kia Thích Đề Hòan Nhơn lúc sắp chết có năm tướng hiện : Một là áo xiêm nhơ nhớp, hai là hoa trên đầu héo, ba là
thân thể hôi dơ, bốn là dưới nách ra mồ hôi, năm là chẳng thích chỗ mình ở. Lúc đó
Thiên Đế Thích, hoặc nơi chỗ vắng vẻ thấy
Sa Môn, hoặc thấy
Bà La Môn, liền đi đến kính ngưỡng như Phật. Các
Sa Môn cùng
Bà La Môn thấy
Thiên Đế Thích đến rất
vui mừng nói rằng : Thưa Thiên Chúa ! Nay tôi
quy y với ngài.
Thiên Đế biết chẳng phải Phật, nghĩ rằng : Người đó
nếu không phải là
Phật thời không thể chửa trị
năm tướng suy của ta.
Thiên tử theo hầu tên Bát Giá Thi tâu cùng
Thiên Đế : Vua
Càn Thát Bà tên Đôn Phù Lâu có
công chúa hiệu là
Tu Bạt Đà,
Thiên Vương nếu ban
công chúa nầy cho hạ thần, hạ thần sẽ chỉ người có thể trừ tướng suy cho
Thiên Vương.
Thiên Đế đáp rằng : Nầy
Thiên Tử ! Nếu được như lời khanh vừa tâu,
công chúa Xá Chỉ, con gái của vua
A Tu La Tỳ Ma Chất Đa hiện ta đương
kính ái, nếu khanh muốn ta cũng sẽ
ban cho, huống là
công chúa Tu Bạt Đà.
_ Tâu
Thiên Vương,
hiện tại có
đức Phật Thế Tôn hiệu
Thích Ca Mâu Ni đương ở thành
Vương Xá,
Thiên Vương nếu đến
cầu pháp nơi
Phật thời tướng suy
chắc chắn sẽ
trừ diệt.
Thiên Đế liền khiến xa giá đến
núi Kỳ Xà Quật.
Thiên Đế đầu mặt
đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi qua một bên bạch cùng Phật rằng : “
Thế Tôn ! trong hàng Thiên Nhơn những gì là
trói buộc ?”
Phật nói : “ Nầy
Kiều Thi Ca ! Chính là
xan tham và tật đố.”
Bạch
Thế Tôn !
Xan tham tật đố nhơn đâu mà sanh ?
_ Do
vô minh mà sanh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Vô minh lại do đâu mà sanh ?
_ Do
phóng dật mà sanh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Phóng dật lại do đâu mà sanh ?
_ Do
điên đảo mà sanh.
_ Bạch
Thế Tôn !
Điên đảo lại do đâu mà sanh ?
_ Do lòng nghi mà sanh.
_ Bạch
Thế Tôn ! Đúng như
lời Phật dạy, vì tâm tôi nghi nên sanh
điên đảo, đối với người chẳng phải Phật mà tưởng là Phật. Giờ đây tôi được thấy
Thế Tôn, lưới nghi của tôi liền trừ. Vì lưới nghi trừ nên
điên đảo cũng hết. Vì
điên đảo hết nên không có tâm
xan tham tâm tật đố.
Phật nói : “ Ông nói rằng không có tâm
xan tham tật đố, thời ông đã đặng quả
A Na Hàm chăng ? Bậc
A Na Hàm không có tâm tham.
Nếu không tâm tham sao lại vì mạng sống mà tìm đến ta. Mà bậc
A Na Hàm thật chẳng cầu sống.
_ Bạch
Thế Tôn ! Người có
điên đảo thời có cầu mạng sống, người không
điên đảo thời chẳng cầu mạng sống. Nay tôi thật chẳng cầu mạng sống, tôi chỉ
cầu pháp thân cùng
trí huệ của Phật.
_ Nầy
Kiều Thi Ca ! Người
cầu pháp thân cùng
trí huệ của Phật,
thời tương lai
quyết định sẽ được.
Nghe lời Phật nói xong
năm tướng suy của
Thiên Đế liền
tiêu diệt.
Thiên Đế đứng dậy đảnh lễ rồi đi
nhiễu Phật ba vòng
chắp tay cung kính bạch Phật :
“
Thế Tôn ! Nay tôi sắp chết được sống, sắp
mất mạng được mạng, lại được
Phật thọ ký sẽ thành
vô thượng chánh giác. Bạch
Thế Tôn ! Tất cả nhơn thiên thế nào được
tăng ích ? Lại do
nhơn duyên gì mà phải tổn giảm ?
_ Nầy
Kiều Thi Ca do đấu tránh nên
nhơn duyên tổn giảm. Khéo tu hòa kính thời đặng
tăng ích.
_Bạch Thế Tôn! Nếu do đấu tránh mà tổn giảm, từ nay trở đi tôi chẳng cùng
A Tu La đánh nhau nữa.
_
Lành thay !
lành thay ! Nầy
Kiều Thi Ca chư
Phật Thế Tôn đều nói hạnh
nhẫn nhục là nhơn
vô thượng Bồ Đề.
Thích Đề Hoàn Nhơn lễ tạ Phật
trở về Thiên cung.
Tâu
Đại Vương vì
đức Như Lai có thể trừ những tướng ác , nên gọi Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu
Đại vương ra mắt Phật
chắc chắn sẽ trừ được
trọng tội.
Ngày trước thanh niên dòng
Bà La Môn, tên là
Bất Hại, vì giết hại nhiều người nên hiệu là
Ương Quật Ma La. Thanh niên nầy lại muốn hại mẹ, lúc tâm ác nổi lên cầm gươm tìm mẹ, vì
thân tâm ác nên
thành nhân tội nghịch, tất phải đọa
địa ngục. Lát sau thấy
Phật thân tâm khởi ác muốn hại Phật, đây cũng là nhân tội nghịch sẽ đọa
địa ngục. Thanh niên nầy được
đức Như Lai giáo hoá, tâm ác liền trừ,
nghiệp nhân địa ngục tiêu diệt,
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì thế nên
đức Phật hiệu là
Y Vương vô thượng, chẳng phải như hàng
lục sư ngoại đạo kia.
Tâu
Đại Vương lại có Vương Tử Tu Tỳ La, vua cha giận chặt cả tay chân xô xuống giếng sâu. Vương mẫu thấy
xót thương sai người đem Vương Tử đến trước Phật. Lúc Vương Tử thấy Phật, tay chân đầy đủ lại như cũ, liền
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì Vương Tử được thấy Phật nên đặng
quả báo hiện tại. Do đây nên
đức Phật hiệu là
Y Vương vô thượng, chẳng phải như hàng
lục sư ngoại đạo.
Tâu
Đại vương ngày trước trên
bờ sông Hằng có năm trăm
ngạ quỷ đã nhiều năm chẳng thấy nước, chẳng được uống, dầu họ đến bên sông nhưng họ thấy thuần là lửa, vì quá
đói khát nên họ
kêu la than khóc. Lúc đó
đức Như Lai ngồi dưới bóng cây ở rừng Uất Đàm Bát cạnh bờ sông. Các
ngạ quỷ đến
bạch Phật : “Thế Tốn !
Chúng tôi đói khát sắp chết đến nơi.
Phật nói : “ Sao các người chẳng uống
nước sông Hằng ?”
Các
ngạ quỷ thưa : “
Đức Như Lai thấy nước còn
chúng tôi thấy là lửa “.
Phật nói : “ Trong
sông hằng tòan nước trong mát thật chẳng phải lửa. Vì
nghiệp ác nên các người sanh tâm
điên đảo cho là lửa. Phật sẽ trừ tâm
điên đảo cho các người, để các người thấy được nước.
Như Lai liền vì các
ngạ quỷ giảng nói
tội lỗi của tâm
xan tham.
Các
ngạ quỷ thưa : “ Nay
chúng tôi đang
đói khát, dầu
nghe lời thuyết pháp nhưng đều chẳng nhập tâm”.
Phật nói : “ Các người nếu
đói khát có thể vào
sông Hằng tha hồ uống đó”.
Nhờ
công đức của Phật các
ngạ quỷ uống đặng nước. Uống nước xong họ
trở về chỗ Phật ngồi.
Đức như Lai vì họ
thuyết pháp, tất cả đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Lúc đó năm trăm
ngạ quỷ đều đặng sanh lên
cõi trời.
Do cớ đây nên
đức Phật hiệu là
Y Vương vô thượng, chẳng như hàng
lục sư ngoại đạo.
Tâu
Đại Vương ! Nước
Xá Bà Đề có đảng cướp năm trăm người, bi
vua Ba Tư Nặc bắt được khoét cả đôi mắt bỏ trong rừng sâu. Đảng cướp khổ sở khóc than tưởng niệm đến Phật.
Đức Phật xót thương hiện thân trước đảng cướp khuyên bảo rằng : Các người phải khéo
giữ gìn nhân khẩu, chớ gây tạo
nghiệp ác nữa. Đảng cướp nghe tiếng Phật
dịu dàng trong trẻo , đôi mắt sáng
trở lại. Đồng
chắp tay đảnh lễ Phật bạch rằng :
Thế Tôn ! Nay
chúng tôi biết rõ Phật có lòng
đại từ che chở tất cả
chúng sanh, chẳng phải riêng là nhơn thiên.
Đức Như Lai vì họ
thuyết pháp tất cả đều được
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Do đây nên
đức Như Lai thật là
lương y vô thượng trong
thế gian, chẳng phải như hàng
lục sư ngoại đạo.
Tâu
Đại vương ! Nước
Xá Bà Đề có ngườiChiên
Đà la tên là Khí Hứ giết hại nhiều mạng người, gặp được
đệ tử của Phật là ngài
Ma Ha Mục Kiền Liên, liền phá được
nhân địa ngục sanh lên
cõi trời Đao Lợi. Vì có hàng thánh
đệ tử như vậy nên
đức Như Lai hiệu là
Y Vương vô thượng chẳng phải như hàng
lục sư ngoại đạo.
Tâu
Đại Vương thành
Ba La Nại có
trưởng giả tử tên là
A Dật Đa, dâm bà mẹ, giết chết ông cha. Bà mẹ lại
tư thông với người khác, Trưởng gỉa tử bèn lại giết mẹ. Có vị
A La Hán là
thân hữu của nhà nầy. Vì
hổ thẹn nên
Trưởng giả tử lại giết
A La Hán. Sau đó
Trưởng giả tử đến
Kỳ Hoàn Tinh Xá cầu
xuất gia. Các
Tỳ kheo rõ biết người nầy phạm ba tội nghịch, nên không vị nào dám nhận.
Trưởng giả tử oán gận, giữa đêm phóng lửa đốt phòng của
chư tăng, giết hại nhiều người vô tội. Lúc sau đó
Trưởng giả tử qua thành
Vương Xá cầu xin đức Như Lai cho
xuất gia.
Đức Như Lai liền nhận lời rồi giảng nói
pháp yếu khiến tội nghịch nặng lần lần giảm nhẹ, Tưởng giả tử
phát tâm vô thượng Bồ đề. Do đây nên đưc
Phật hiệu là
Y Vương vô thượng.
Đại Vương bổn tánh
bạo ác nghe lời người ác là
Đề Bà Đạt Đa, thả voi say để chà Phật, voi thấy Phật liền
tỉnh ngộ, Phật lấy tay xoa đầu voi, nói
pháp yếu voi
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Tâu Đại Vương!
Súc sanh thấy Phật còn phá được
nghiệp quả súc sanh, huống là
loài người ư !
Đại Vương nếu gặp được Phật, bao nhiêu
trọng tội tất sẽ
tiêu trừ.
Đưc
Thế Tôn lúc chưa thành
vô thượng Bồ Đề,
Ma Vương dẫn
vô lượng quyến thuộc đến chỗ
Bồ Tát ngồi,
Bồ Tát dùng sức nhẫn nhục phá tan
ác tâm của ma, làm cho ma
thọ pháp phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Tâu
Đại Vương có Khoáng Dã quỷ giết hại nhiều người. Vì cứu
Thiện Hiền trưởng giả,
đức Như Lai đến thôn Khoáng Dã
hiện thân thuyết pháp, Khoáng Dã quỷ
nghe pháp vui mừng, bèn đem
Thiện Hiền Trưởng giả trao cho
Như Lai, rồi sau bèn
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Tâu
Đại Vương Nước
Ba La Nại có người hàng thịt tên là Quảng Ngạch, mỗi ngày giết hại cả trăm ngàn con dê, gặp ngài
Xá Lợi Phất liền thọ
bát quan trai một ngày một đêm. Nhờ công đưc nầy,
sau khi chết Quảng Ngạch sanh là con trai của
Tỳ Sa Môn Thiên Vương.
Đệ tử của
đức Như Lai còn có
công đức lớn như vậy huống là Phật.
Tâu
Đại Vương Thành Tế Thạch ở
bắc Thiên Trúc, có vua Long ẩn vì tham ngôi vua mà giết hại vua cha, về sau sanh lòng
ăn năn bỏ nước đến xin
đức Phật xuất gia, làm
Tỳ Kheo, tội nặng
tiêu diệt phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Đức Phật có
vô lượng vô biên công đức như vậy.
Tâu
Đại Vương ! Phật có một người em họ là
Đề Bà Đạt Đa, ông nầy
phá tăng, làm thân Phật chảy máu, giết chết
A La Hán Liên Hoa Tỳ Kheo Ni, phạm cả ba tội nghịch, đưc
Như Lai vì ông giảng nói
pháp yếu làm cho tội nghịch nặng của ông được giảm nhẹ, nên
đức Như Lai là
Y Vương vô thượng chẳng phải như hàng
lục sư ngoại đạo.
Đại Vương nếu có thể tin lời của hạ thần xin
Đại Vương mau đến
đức Như Lai. Nếu
Đại Vương chưa tin, hạ thần cũng mong
Đại Vương suy nghĩ kỹ lại.
Tâu
Đại Vương ! Chư Phật có lòng
Đại Bi che chở tất cả, chẳng hạn cuộc nơi một người.
Chánh pháp của Phật
rộng rãi,
bao gồm chẳng sót với kẻ oán người thân Phật xem
bình đẳng lòng không ghét không yêu.
Đức Như Lai chẳng phải là thầy riêng của
bốn bộ chúng, mà là thầy của tất cả trời, người rồng, thần,
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ. Tất cả
chúng sanh cũng nên xem Phật như
cha mẹ.
Đức Như Lai chẳng riêng vì người
sang giàu như vua
Bạt Đề Ca mà
thuyết pháp, cũng
thuyết pháp cho cả người hạ tiện như U Ba Ly. Chẳng riêng thọ xứ cúng dàng của
Trưởng Giả Tu Đạt Đa,
Trưởng Giả A Na Bân Kỳ mà cũng nhận lấy đồ ăn của người nghèo.
Đức Phật chẳng riêng vì hạng
trí huệ như ngài
Xá Lợi Phất mà
thuyết pháp, cũng
giáo hóa cả người ngu tối như Châu Lợi
Bàn đặc.
Đức Như Lai chẳng riêng cho người
tánh không tham như ngài
Ca Diếp xuất gia mà cũng cho cả người rất tham như
Bàn Đà xuất gia,
đức Phật chẳng riêng cho người ít
phiền não như
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp xuất gia mà cũng cho người
phiền não sâu nặng tạo
trọng tội như ông
Tu Đà Da em
vua Ba Tư Nặc xuất gia.
Đức Phật chẳng vì ông Tá Thảo
cung kính cúng dàng mà nhổ từ gốc
sân hận cho ông ấy cũng độ cả kẻ
ác tâm muốn làm hại là
Ương Quật Ma La. Chẳng riêng
độ người xuất gia làm cho chứng đặng bốn
thánh quả, cũng làm cho hàng
tại gia chứng đặng ba
thánh quả,
đức Như Lai chẳng riêng vì người nhàn tịch như ông
Phú Đa La mà
thuyết pháp, cũng
giảng thuyết cho vua
Tần Bà Ta La bận rộn việc nước. Người nghiền rượu như ông Út Già
Trưởng Giả Phật cũng
giáo hóa chớ chẳng phải riêng vì những người kiêng rượu.
Đức Phật cũng
giáo hóa nàng
Bà Tư Tra là người mẹ cuồng tâm vì con chết, chớ chẳng phải riêng
thuyết pháp cho bậc nhập
thiền định như
Ly Bà Đa.
Đức Phật chẳng riêng vì
đệ tử của mình mà cũng
thuyết pháp cho hàng
ngoại đạo Ni Kiền Tử. Phật cũng
giáo hóa cho người già suy tám mươi tuổi, cũng như với hạng trai trẻ hai mươi lăm. Người căn lành chưa
thuần thục, cũng được
Phật giáo hóa như người đã
thuần thục,
Phật thuyết pháp cho người
dâm nữ Liên Hoa cũng như vì
Mạt Lợi phu nhân. Phật nhận món ăn độc của
Trưởng Giả Thi Lợi Cúc Đa như lãnh
thực phẩm thượng soạn của
vua Ba Tư Nặc.
Tâu
Đại Vương Trưởng Giả Thi Lợi Cúc Đa trước kia cũng tạo tội nghịch, nhờ đến Phật nghe
thuyết pháp bèn
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Giả sử trong một tháng thường đem
y phục vật thực
cung kính cúng dường cho tất cả
chúng sanh, chẳng bằng người
niệm Phật khoảng một niệm.
Giả sử đúc vàng làm người, xe ngựa chở đầy
châu báu đến số trăm dùng để
bố thí, chẳng bằng người
phát tâm muốn đến Phật dở chân
bước một bước.
Giả sử dùng trăm xe voi chở các thứ
trân bảo của nước
Đại Tần, cùng trăm người nữ nước ấy thân đeo đầy
chuỗi ngọc dùng để
bố thí, vẫn không bằng
bước một bước hướng đến Phật.
Cho đến giả sử Đại Vương cung kính cúng dường hàng
hà sa vô lượng chúng sanh, chẳng bằng
một lần đến rừng
Long Thọ thành tâm nghe
đức Như Lai thuyết pháp.
Vua A Xà Thế bảo rằng: “Nầy
Kỳ Bà đức Như Lai tâm tánh đã điều nhu, thời
quyến thuộc phải là người điều nhu, như rừng
Chiên Đàn thời thuần cây
chiên đàn,
đức Như Lai thanh tịnh quyến thuộc của ngài cũng
thanh tịnh, như rồng thời thuần dùng rồng làm
quyến thuộc.
Đức Như Lai tịch tịnh không tham không
phiền não,
quyến thuộc của ngài cũng không
phiền não . Nay ta là người cực ác,
thân thể hôi nhơ, thuộc hạng
địa ngục, đâu đáng là người đến chỗ
đức Như Lai.
Giả sử ta có qua, e rằng
đức Như Lai chẳng đoái tới. Khanh dầu khuyên ta, nhưng ta
xấu hổ sợ sệt không có lòng muốn đi.
Vua A Xà Thế nói vừa dứt, trên không bỗng có tiếng rằng :
Phật pháp vô thượng sắp suy mất, dòng sông pháp rộng sâu sắp cạn, đèn sáng
đại pháp sắp tắt, núi pháp sắp lở, thuyền pháp sắp chìm,
cầu pháp sắp hư, điện pháp sắp đổ, tràng pháp sắp ngã, cây pháp sắp gãy, bạn lành sắp đi, sự
khủng bố sắp đến,
chúng sanh sắp
đói khát, bịnh dịch phiến não sắp
lưu hành, sự
tối tăm sắp đến,
ma vương vui mừng cởi mở giáp trụ,
mặt trời Phật sắp lặn nơi núi
Đại Niết Bàn. Phật nếu
diệt độ tội nghịch trọng của
Đại Vương không còn ai trị được.
_ Nay
Đại Vương đã tạo
tội nghiệp A Tỳ địa ngục, đã có
tội nghiệp tất phải
thọ báo. Sao gọi là
A Tỳ địa ngục ? A là không , Tỳ là xen hở, tức là
Vô Gián. Người đọa trong đó luôn bị
khổ không hở, một người tội thân lớn đầy khắp cả ngục tám muôn
do tuần, nhiều người tội, thân mỗi người cũng đầy khắp cả ngục không
chướng ngại nhau, do đây nên gọi là ngục
Vô Gián.
Trong
địa ngục lạnh tạm thời có gió ấm nóng, trong
địa ngục ấm nóng tạm thời có gió mát lạnh,
địa ngục A Tỳ toàn không có việc nầy. Ngục
A Tỳ bốn phía có cửa, ngoài mỗi cửa đều có ngọn lửa rất mạnh cháy suốt cả bốn phương tám muôn
do tuần, vách ngục bằng sắt, nền cũng bằng sắt, lưới phủ trùm ở trên lửa, dưới nền cháy suốt đến nóc ngục, lửa trên nóc cháy suốt đến nền ngục. Người tội trong đó bị đốt cháy
đau khổ như cá bị chiên trong chảo. Phạm một tội nghịch bị trọn sự khổ như vậy, nếu tạo hai tội nghịch, thời sự khổ gấp hai, nếu tạo đủ
ngũ nghịch thời sự khổ gấp năm lần. Tôi biết chắc
ác nghiệp của
Đại Vương không thể
thoát khỏi. Mong
Đại Vương mau đến gặp Phật, ngoài Phật ra không ai cứu
Đại Vương được. Vì
xót thương nên tôi có mấy
lời khuyên Đại Vương.
Vua A Xà Thế trong lòng quá sợ,
toàn thân run rẩy, ngước mặt lên hỏi rằng : Ngài là ai ? Sao chỉ nghe tiếng mà chẳng
hiện thân ?
Trên
hư không có tiếng đáp : “ Tôi là
Tần Bà Ta La, cha đẻ của
Đại Vương.
Nay
Đại Vương phảinghe lời
Kỳ Bà, chớ
nghe lời tà kiến của
sáu đại thần.”
Nghe xong
vua A Xà Thế ngất xỉu trên đất, ghẻ nhọt thêm nhiều càng hôi nhơ hơn trước. Dầu ngự y đem thuốc đến thoa, nhưng ghẻ độc càng thêm nóng nhức.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn ở trong rừng Song Thọ,
Phật nhãn thấy
vua A Xà Thế ngất xỉu xuống đất, liền bảo
đại chúng : “ Nay Phật sẽ vì vua nầy ở lại đời đến
vô lượng kiếp chẳng
nhập Niết Bàn.”
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật :
Thế Tôn !
Đức Như Lai nên vì
vô lượng chúng sanh chẳng
nhập Niết Bàn. Cớ sao riêng vì
vua A Xà Thế ?
_ Nầy
Thiện nam tử ! Trong
đại chúng đây không có một người nào cho rằng Phật
quyết định sẽ
nhập Niết Bàn.
Vua A Xà Thế cho rằng Phật
quyết định sẽ
nhập Niết Bàn hẳn nên ngất xỉu.
Nầy
Thiện nam tử ! Như Phật nói vì
A Xà Thế chẳng
nhập Niết Bàn ý nghĩa ấy rất sâu kín ông chưa hiểu được. Ta nói “vì” là vì tất cả
phàm phu,
A Xà Thế là khắp đến tất cả người tạo tội
ngũ nghịch. Lại :”vì’ chính là tất cả
chúng sanh hữu vi. Ta trọn chẳng vì
vô vi chúng sanh mà ở lại đời. Luận về
vô vi thời chẳng phải là
chúng sanh. “ A Xà Thế” chính là người đầy đủ
phiền não. Lại “vì” chính là
chúng sanh chẳng thấy
Phật tánh. Nếu đã thấy
Phật tánh thời Phật trọn chẳng vì họ mà ở lâu nơi đời. Vì người thấy
Phật tánh thời chẳng phải là
chúng sanh. “A Xà Thế” chính là tất cả người chưa
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Lại “vì’ là vì hai chúng
Đại Ca Diếp và
A Nan. “A Xà Thế” chính là Phi hậu của nhà vua và tất cả
phụ nữ trong thành
Vương Xá. Lại “vì” là nói
Phật tánh, “A Xà” là chẳng sanh “Thế” là oán. Bởi chẳng
sanh Phật tánh thời sanh
phiền não oán thù. Vì sanh
phiền não oán thù nên chẳng thấy
Phật tánh. Bởi chẳng sanh
phiền não thời thấy được
Phật tánh. Do thấy
Phật tánh thời được an trụ
Đại Niết Bàn. Đây gọi là
bất sanh, đây gọi là “vì A Xà Thế”.
Nầy
Thiện nam tử ! “A Xà” là chẳng sanh, chẳng sanh gọi là
Niết Bàn. “Thế” là nói
thế pháp. “Vì” nói là chẳng
nhiễm ô. Bởi
tám pháp trong đời chẳng
ô nhiễm được,
vô lượng vô biên vô số kiếp chẳng
nhập Niết Bàn. Do đây nên Phật nói vì
A Xà Thế vô lượng kiếp chẳng
nhập Niết Bàn.
Nầy
Thiện nam tử !
Lời nói sâu kín của
Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng,
Bồ Tát Ma Ha Tát đều chẳng thể nghĩ bàn.
Kinh Đại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Bây giờ
đức Thế Tôn vì
vua A Xà Thế mà nhập
nguyệt ái tam muội, phóng ánh sáng lớn . Ánh sáng nầy
mát mẻ chiếu đến thân vua. Ghẻ lở trên thân liền lành, hết nóng hết nhức.
Vua bảo
Kỳ Bà : “Ta từng nghe : Lúc sắp tận
kiếp ba mặt trăng đồng
hiện lên, do đó những khổ hoạn của
chúng sanh đều trừ. Nay chưa đến
thời kỳ ấy, do đâu có ánh sáng
mát mẻ chiếu đến thân ta làm cho thân ta được
an ổn ghẻ lở đều lành ?
Kỳ Bà tâu : Đây không phải là tận kiếp, không phải ánh sáng của ba
mặt trăng, cũng chẳng phải ánh sáng
mặt trời,
tinh tú bảo châu,
dược thảo cũng chẳng phải ánh sáng
chư thiên.
Vua lại hỏi như vậy thời là ánh sáng của ai ?
_ Tâu
Đại vương ! Đây là ánh sáng của đấng
Thiên Trung Thiên. Ánh sang nầy chẳng có ngằn mé, chẳng nóng, chẳng lạnh, chẳng thường, chẳng diệt, chẳng phải sắc cùng
vô sắc, chẳng phải tướng cùng
vô tướng, chẳng phải xanh , vàng, đỏ, trắng. Vì độ
chúng sanh nên
hiện ra có tướng có thể thấy. Dầu thấy được nhưng thiệt ra ánh sáng nầy vốn
không tướng.
Vua nói : Nầy
Kỳ Bà ! Đấng
Thiên Trung Thiên do
nhơn duyên gì mà phóng ánh sáng nầy ?
_ Tâu
Đại Vương ! Nay tướng lành nầy chính là vì
Đại Vương. Bởi vừa rồi
Đại Vương nói
trong đời không có
lương y trị được
thân bịnh, tâm bịnh của
Đại Vương, nên
đức Thế Tôn phóng ánh sáng nầy, trước chữa lành bịnh nơi thân của
Đại Vương, rồi sau sẽ trị bịnh nơi tâm.
_ Nầy
Kỳ Bà đức Như Lai cũng
nghĩ tưởng đến ta ư ?
_ Tâu
Đại Vương !
Ví như một người mà có bảy đứa con, một đứa bị bịnh, lòng
cha mẹ săn sóc đứa
con bịnh tật nhiều hơn. Cũng vậy,
đức Như Lai chẳng phải là không
bình đẳng đối với
chúng sanh, nhưng với người có tội thời lòng
Phật thiên trọng. Với kẻ
phóng dật lòng Phật thương tưởng, người chẳng
phóng dật thời Phật phóng xả. Người chẳng
phóng dật là bực đệ
lục trụ Bồ Tát. Chư Phật đối với
chúng sanh, chẳng nhìn ngó đến
dòng họ, già trẻ, giàu nghèo, năm tháng ngày giờ, nghề nghiệp khéo vụng, tôi tớ hèn hạ, chỉ ngó đến
chúng sanh có tâm lành. Nếu người có tâm lành thời Phật thương tưởng.
Tâu
Đại Vương ! Đây chính là
đức Như Lai nhập
nguyệt ái tam muội phóng ra ánh sáng ấy.
Nhà vua hỏi : Sao gọi là
nguyệt ái tam muội ?
Kỳ Bà tâu : “
Ví như ánh sáng
mặt trăng có thể làm cho tất cả
hoa sen sanh nở xòe, cũng vậy,
nguyệt ái tam muội có thể làm cho tâm lành
chúng sanh nở xòe.
Ví như ánh sáng
mặt trăng có thể làm cho tất cả người đi đêm
vui mừng, cũng vậy,
nguyệt ái tam muội có thể làm cho người
tu tập đạo
Niết Bàn vui mừng.
Ví như ánh sáng
mặt trăng từ đêm mùng một đến rằm,
hình sắc ánh sáng lần lần thêm đầy đủ, cũng vậy,
nguyệt ái tam muội làm cho người mới
phát tâm những căn lành lần lần thêm lớn đầy đủ
Đại Niết Bàn.
Ví như ánh sáng
mặt trăng từ đêm mười sáu đến đêm ba mươi
hình sắc ánh sáng lần lần
giảm bớt, cũng vậy,
nguyệt ái tam muội có thể làm cho
phiền não lần lần
tiêu diệt.
Ví như đang lúc nắng nóng, tất cả
chúng sanh thường nghĩ đến ánh sáng
mặt trăng, lúc trăng sáng đã soi thời liền hết
nóng bức, cũng vậy
nguyệt ái tam muội có thể làm cho
chúng sanh trừ được
phiền não nóng bức.
Ví như mặt trăng tròn là vua trong các
tinh tú, là
cam lộ vị, tất cả
chúng sanh đều
ưa thích, cũng vậy,
nguyệt ái tam muội là vua trong các pháp lành, là
cam lộ vị
chúng sanh đều
ưa thích.
Vua nói :Ta nghe
đức Như Lai chẳng cùng người ác
ở chung đàm luận. Như biển lớn chẳng chứa
tử thi. Như chim Oan Ương chẳng đậu nhà xí.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn chẳng
ở chung với quỷ. Chim Cưu Súy La chẳng đậu cây khô. Cũng vậy, ta đâu có thể gần được
đức Như Lai. Theo ta xét
đức Như Lai thà gần voi say,
sư tử, cọp, sói, lửa hừng, trọn chẳng gần gũi nơi người tạo
tội ác quá nặng.
Vì vậy nên ta không lòng nào dám đến gặp Phật.
Kỳ Bà tâu :
Ví như người khát nước thời gấp đến suối trong, người đói cầu vật thực, người kinh sợ
cầu cứu, người bịnh tìm
lương y, người
nóng bức tìm bóng mát, người lạnh tìm lửa. Nay
Đại Vương cũng nên cầu Phật như vậy.
Đức Như Lai còn vì hạng Nhứt
Xiển Đề mà
thuyết pháp huống là
Đại Vương chẳng phải Nhứt
Xiển Đề.
Vua nói : Nầy
Kỳ Bà ! Ta từng nghe Nhứt
Xiển Đề là kẻ chẳng tin, chẳng nghe, chẳng thể
quán sát, chẳng hiểu đặng
nghĩa lý, tại sao
đức Như Lai lại
thuyết pháp cho họ ?
Kỳ Bà tâu : “ Như có người mang
bịnh nặng, đêm ngủ mơ thấy lên trên điện một cột, uống chất tợ dầu mỡ và lấy thoa nơi thân, nằm trên tro ăn tro, leo lên cây khô hoặc thấy cùng khỉ vượn làm bạn, chìm
dưới nước, lún trong bùn, té rơi xuống điện lầu, hoặc thấy núi cao, rừng rậm, voi, ngựa, trâu, dê, thân mặc
y phục xanh, vàng, đỏ, đen, vui cười ca múa, hoặc thấy kên kên, chồn, cáo, rụng răng, rụng tóc, trần truồng, gối đầu trên mình chó, nằm trên phẩn nhơ, hoặc thấy cùng người đã chết đi đứng nằm ngồi dắt tay
ăn uống, đi trong đường đầy
rắn độc, hoặc mơ thấy ôm ẵm người nữ trùm tóc,
y phục bằng lá
Đa La, ngồi xe lừa hư gãy qua hướng chánh Nam.
Người nầy
tỉnh dậy lòng
buồn rầu bịnh nơi thân càng thêm. Vì bịnh thêm nên
thân thuộc sai người mời y sĩ. Người đi mời nầy lùn thấp tàn tật, đầu đầy bụi bặm,
y phục rách nát, ngồi xe hư cũ, đến nói với y sĩ : Xin mau qua thăm bịnh.
Y sĩ tự nghĩ : Người đến mời nầy
tướng mạo chẳng lành, bịnh chắc khó trị. Lại coi ngày, thấy nhằm ngày bịnh khó trị tức là ngày mùng bốn, mùng sáu, mùng tám, mười hai, mười bốn. Lại coi sao cũng nhằm sao khó trị, tức là
hỏa tinh, khuê tinh, mão tinh,
Diêm La Tinh, thấp tinh, mãn tinh. Lại coi nhằm
mùa thu,
mùa đông, giờ
mặt trời lặn nửa đêm, giờ
mặt trăng lặn, nhằm những giờ nầy bịnh cũng khó trị. Y Sĩ lại nghĩ rằng : Dầu tất cả đều chẳng lành, nhưng xem người bịnh nếu có
phước đức thời trị được, bằng không
phước đức dầu lành tốt có ích gì !
Y Sĩ liền cùng đi với người đến mời, giữa đường nghĩ rằng : Nếu người bịnh có tướng
trường thọ thời trị được, nếu là tướng đoản thọ thời chẳng thể trị.
Dọc đường thấy hai đứa trẻ đánh lộn, thấy người cầm lửa
tự nhiên tắt, thấy có người đốn cây, lại thấy người kéo tấm da đi trên đường, lại thấy trên đường có vật
bỏ rơi, hoặc thấy người xách thùng không, hoặc thấy
Sa Môn đi
một mình, lại thấy cọp, sói, chồn, kên kên. Y Sĩ
suy nghĩ từ người mời nầy đến ngày giờ
thời tiết cùng những việc
dọc đường đều là điềm bất tường, người bịnh chắc khó trị, nhưng nếu ta không đến thời chẳng phải Y Sĩ.
Dọc đường lại nghe có tiếng khóc than người chết, tiếng sụp, bể, gãy, tiếng té ngã. Lại nghe phương Nam có tiếng kên kên, có tiếng
chim Xá Lợi, tiếng chó, tiếng chuột, tiếng chồn, tiếng thỏ, tiếng heo. Y Sĩ tự nghĩ : Toàn là những điềm bịnh khó trị.
Sau khi đến nhà, thấy người bịnh lúc lạnh lúc nóng, gân xương nhức, mắt đỏ lưu lệ, tiếng lỗ tai nghe đến ngoài, cổ họng nghẹn đau, trên lưỡi nức nở, sắc mặt
đen tối, cất đầu không nổi, mình khô không mồ hôi, đại tiện
tiểu tiện bế tắc, cả thân sưng phù đỏ hồng
dị thường, giọng nói chẳng đều, bụng đầy, nói không rõ.
Y Sĩ xem xong hỏi người khán bịnh : Từ qua
đến nay ý chí người bịnh thế nào ?
Người khán bịnh nói : “ Thưa Y Sĩ ! Người nầy trước kia vốn kính tin
Tam Bảo, và
chư Thiên, nay bỗng đổi khác không còn tin. Trước kia ưa
bố thí nay thời
bỏn xẻn, trước kia ăn ít nay thời quá nhiều, tánh vốn hào tốt nay thời tệ ác. Tánh vốn nhơn từ
hiếu thuận, nay thời không
cung kính cha mẹ”. Y Sĩ nghe xong đến ngửi người bịnh và rờ bóp trên thân, biết người bịnh
quyết định sẽ chết, nhưng chẳng nói ra, bảo người khán bịnh rằng : :” Nay tôi có việc gấp ngày mai tôi sẽ
trở lại, người bịnh
cần dùng thứ gì cứ
tha hồ chớ ngăn cản”. Dặn xong Y Sĩ
trở về nhà.
Rạng ngày người bịnh đến rước, Y Sĩ bảo rằng : “ Việc tôi chưa xong thuốc cũng chế chưa rồi”.
Nếu là người trí, thấy
cử chỉ của Y Sĩ thời biết rằng : Người bịnh ấy chắc chết.
Tâu
Đại Vương !
Đức Thế Tôn cũng như vậy, dầu biết rõ
căn tánh hàng Nhứt
Xiển Đề, nhưng
đức Phật cũng vì họ mà
thuyết pháp vì
nếu không thuyết pháp cho họ, tất cả
phàm phu sẽ cho rằng
Như Lai không tâm đại từ bi, đâu nên gọi là bậc
nhứt thiết trí. Vì có tâm
đại từ bi mới gọi là bậc
nhứt thiết trí, do đây nên
Như Lai thuyết pháp cho hạng Nhứt
Xiển Đề.
Đức Như Lai gặp những người bịnh thời liền ban bố
pháp dược, người bịnh nếu chẳng chịu uống đó chẳng phải là lỗi của
Như Lai.
Hạng Nhứt
Xiển Đề chia ra làm hai : Một là hạng đặng căn lành
hiện tại, hai là hạng đặng căn lành
đời sau.
Đức Như Lai biết rõ hạng Nhứt
Xiển Đề những kẻ
hiện tại có thể đặng
thiện căn thời
thuyết pháp cho. Những kẻ
đời sau đặng
thiện căn đức Phật cũng
thuyết pháp cho họ, nay dầu
vô ích nhưng để làm nhơn cho
đời sau. Do đây nên
đức Như Lai vì hạng Nhứt
Xiển Đề mà
giảng thuyết pháp yếu.
Lại có hai hạng Nhứt
Xiển Đề : Một là hạng
lợi căn, hai là hạng
trung căn. Hạng
lợi căn nơi đời
hiện tại có thể đặng
thiện căn, hạng
trung căn thời
đời sau sẽ đặng.
Chư Phật không bao giờ
thuyết pháp mà không
lợi ích.
Ví như người sạch sẽ té trong hầm tiêu, có
thiện tri thức thấy vậy
xót thương liền nắm tóc kéo ra khỏi hầm. Cũng vậy, chư Phật thấy
chúng sanh đọa trong
ba đường ác nên
phương tiện cứu tế làm cho đặng
thoát khỏi. Do đây nên
đức Như Lai vì hạng Nhứt
Xiển Đề mà
thuyết pháp.
Vua bảo
Kỳ Bà : :” Nếu
đức Như Lai thật có những điều như vậy, rạng ngày sẽ chọn
ngày lành giờ tốt rồi
chúng ta sẽ đến gặp Phật.
Kỳ Bà tâu : Trong
giáo pháp của
đức Như Lai không có chọn lựa
ngày lành giờ tốt. Tâu
Đại vương như người
bịnh nặng đâu nên chọn ngày giờ tốt xấu, chỉ nên gấp cầu
lương y. Nay
Đại Vương bịnh nặng phải gấp cầu Phật, chẳng nên chờ chọn
ngày lành giờ tốt.
Tâu
Đại Vương ! Như lửa
chiên đàn cùng lửa
y lan, tướng lửa cháy hai thứ không khác nhau. Cũng vậy, ngày tốt,
ngày xấu, nếu đến chỗ Phật đều được
diệt tội. Mong
Đại Vương giờ đây nên gấp qua gặp Phật.”
Vua A Xà Thế liền bảo cận thần
Kiết Tường : “ Nay ta muốn đến chỗ
đức Phật, khanh mau sắm sửa đồ cúng dàng”.
Vua A Xà Thế cùng Phu nhơn xa giá một muôn hai ngàn cỗ, voi lớn năm ngàn thớt, trên mỗi thớt voi đều chở ba người mang cầm phan lọng, hoa hương ,
kỹ nhạc, nhiều thứ đồ cúng dàng, dắt theo mười tám muôn kỵ mã. Nhơn dân trong nước
Ma Dà Đà năm mươi tám muôn người đồng
đi theo vua.
Lúc bấy giờ nơi thành
Câu Thi Na,
đại chúng tựu hội tất cả mười hai
do tuần,
mọi người đều thấy
vua A Xà Thế cùng quân dân từ xa đi đến.
Đức Phật bảo
đại chúng : “
Nhơn duyên gần với
vô thượng Bồ Đề của tất cả
chúng sanh không gì trước hơn bạn lành. Vì
vua A Xà Thế nếu chẳng
nghe lời Kỳ Bà, ngày mùng bảy tháng tới
quyết định phải chết đọa
địa ngục A tỳ.
Vua A Xà Thế lúc đi
dọc đường được biết tin vua
Tỳ Lưu Ly ngồi thuyền vào biển bị lửa cháy mà chết.
Tỳ Kheo Cù Ca Ly, đất nứt, thân sống sa vào
địa ngục A Tỳ. Còn
Tu Na Sát Đa gây tạo những
tội ác đến ra mắt Phật các tội đều đặng
tiêu trừ. Vua nghe những tin nầy nói với
Kỳ Bà rằng : “ Nay ta dầu được nghe những tin ấy nhưng còn chưa chắc. Khanh đến ngồi chung một thớt voi với ta.
Giả sử ta bị đọa
địa ngục trông mong khanh nắm giữ ta chớ để ta bị đọa. Vì ngày trước ta từng nghe những người
đắc đạo chẳng vào
địa ngục.”
Phật bảo đại chúng : “
Vua A Xà Thế còn lòng nghi, nay Phật sẽ làm cho vua được tâm
quyết định.”
Trong
Pháp hội có một vị
Bồ Tát hiệu là Trì Nhứt Thiết
bạch Phật rằng : Trước kia Phật nói tất cả pháp đều không có tướng nhứt định,
sắc không tướng nhứt định, nhẫn đến
Niết Bàn cũng
không tướng nhứt định. Tại sao hôm nay nói rằng vì
vua A Xà ThếLàm cho được tâm
quyết định ?
Phật nói :
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Thiện nam tử ! Nay Phật sẽ làm cho
vua A Xà Thế có tâm
quyết định, vì nếu tâm
nghi ngờ của vua có thể
phá hoại được, nên biết rằng tâm nầy là không
quyết định. Nếu tâm của vua là
quyết định, thời tội nghịch của vua làm sao
tiêu tan được. Vì không
quyết định nên có thể
tiêu trừ tội nghiệp.
Vua A Xà Thế đến rừng
Ta La Song Thọ ngước lên thấy
đức Như Lai đủ
ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, dường như tòa núi
vàng ròng.
Đức Thế Tôn cất tiếng phạm âm chào vua : “
Đại Vương !”
Lúc đó
vua A Xà Thế nhìn ngó hai bên tự nghĩ rằng : Không rõ ai là
Đại Vương trong
đại chúng nầy. Ta là người nhiều tội lại không
phước đức,
đức Như Lai chẳng lẽ gọi ta là
Đại Vương !
Đức Như Lai lại
lên tiếng gọi : “Đại Vương
A Xà Thế !”
Vua nghe dứt lời trong lòng rất
vui mừng nghĩ rằng : Nay
đức Như Lai chiếu cố đến ta rõ là
đức Như Lai có lòng
đại bi bình đẳng đối với tất cả
chúng sanh.
Vua
bạch Phật rằng : “
Thế Tôn nay lòng tôi không còn
nghi ngờ quyết định biết rằng
đức Như Lai bậc
Đại Sư Vô Thượng của tất cả
chúng sanh.
Ca Diếp Bồ Tát nói với Trì
Nhất Thiết Bồ Tát : “
Đức Như Lai đã làm cho
vua A Xà Thế được tâm
quyết định.
Vua A Xà Thế bạch Phật :
Thế Tôn !
Giả sử hôm nay tôi được ngồi chung
ăn uống với
Phạm Vương,
Đế Thích cũng chẳng
vui mừng bằng một lời kêu gọi của
đức Như Lai.
Vua liền đem những phan lọng hoa hương
kỹ nhạc dâng lên Phật,
đảnh lễ chân Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng, rồi ngồi qua một phía. Phật nói : “ Nầy
Đại Vương : Nay Phật sẽ vì nhà vua mà nói
pháp yếu. Nhà vua nên
hết lòng lóng nghe !
Hạng
phàm phu cần phải chuyên tâm quán sát nơi thân có hai mươi việc : Một là trong thân của ta đây không có
công đức vô lậu, hai là không căn lành, ba là chưa đặng điều thuận, bốn là sa rớt hầm sâu không chỗ nào chẳng
đáng sợ, năm là dùng
phương tiện gì để thấy
Phật tánh, sáu là
tu thiền định thế nào để được thấy
Phật tánh, bảy là
sanh tử khổ luôn không có thường không
ngã không tịnh, tám là khó
thoát khỏi tám nạn, chín là thường
bị oan gia theo dỏi, mười là không có một pháp gì ngăn được những
hữu lậu, mười một là chưa
thoát khỏi ba đường ác, mười hai là đầy đủ những
ác kiến, mười ba là chưa qua khỏi bờ
ngũ nghịch, mười bốn là chưa qua khỏi dòng
sanh tử không bờ, mười lăm là chẳng tạo
nghiệp lành chẳng được
quả báo lành , mười sáu là không có ta làm mà người khác chịu quả, mười bảy là chẳng gây nhơn vui thời trọn
không quả vui, mười tám là đã tạo nghiệp thời
quả báo trọn chẳng mất, mười chín là do
vô minh mà sanh cũng do
vô minh mà chết, hai mươi là
quá khứ vị lai và
hiện tại thường
buông lung phóng dật. Nầy
Đại Vương ! Người
phàm phu nên
quán sát thân nầy có hai mươi điều như vậy. Do
quán sát nầy nên chẳng
ưa thích sanh tử. Nếu chẳng
ưa thích sanh tử thời được
chỉ quán. Theo thứ
tự quán tướng sanh, trụ, diệt nơi tâm.
Quán định, huệ,
tinh tấn,
trì giới cũng như vậy. Quán tướng
sanh trụ diệt rồi biết rõ
tâm tướng nhẫn đến
giới tướng thời trọn chẳng làm ác, không có
sợ chết cũng không sợ ba
ác đạo. Nếu chẳng
chuyên tâm quán sát hai mươi điều như vậy thời tâm
buông lung phóng dật không việc ác nào chẳng làm.
Vua thưa : “
Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa nơi
lời Phật dạy : Từ trước tôi chưa từng
quán sát hai mươi điều ấy, nên gây tạo những
tội ác. Do đó nên
sợ chết và sợ ba
ác đạo.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi tự chuốc họa tạo
tội ác lớn : Vua cha vô tội, tôi lại làm hại. Đối với hai mươi điều nầy tôi dầu có
quán sát hay
không quán sát
quyết định sẽ bị đọa
địa ngục A Tỳ.
Phật nói : “ Nầy
Đại Vương ! Tất cả pháp,
tánh tướng của nó đều
vô thường không có
quyết định. Sao nhà vua lại nói
quyết định sẽ đọa
địa ngục A Tỳ ?
Vua thưa : “Thế Tôn ! Nếu tất cả
pháp không tướng
nhất định, thời tội giết cha của tôi cũng sẽ không
nhất định. Nếu tội giết hại là nhứt định thời tất cả pháp chẳng phải là nhứt định.
Phật nói : “ Nầy
Đại Vương !
Lành thay !
Lành thay ! Chư Phật nói tất cả pháp đều
không tướng nhứt định. Nhà vua lại có thể rõ biết tội giết hại cũng chẳng nhứt định.
Nầy
Đại Vương ! Như lời nhà vua nói : Vua cha vô tội lại làm hại. Gì là cha ? Chỉ ở nơi danh từ giả,
năm ấm chúng sanh mà
vọng tưởng là cha. Trong
thập nhị nhập cùng
thập bát giới, cái gì là cha ? Nếu
sắc ấm là cha thời
bốn ấm kia lẽ ra không phải. Nếu
bốn ấm là cha thời
sắc ấm cũng lẽ ra không phải. Nếu
sắc ấm cùng
phi sắc hiệp lại làm cha thời không đúng lý, vì tánh của sắc cùng
phi sắc vốn không hiệp.
Nầy
Đại Vương !
Chúng sanh phàm phu đối với
sắc ấm nầy
vọng tưởng là cha.
Sắc ấm như vậy cũng không thể hại được. Vì
sắc ấm có mười thứ, trong mười thứ nầy riêng sắc là có thể thấy có thể nắm lấy, có thể cân, có thể lường, có thể trói, có thể kéo. Dầu có thế thấy có thể trói, nhưng tánh của sắc vẫn chẳng trụ. Vì chẳng trụ nên không thể thấy được, cũng không thể nắm cầm cân lường kéo dắt cột trói.
Sắc tướng đã như vậy thời thế nào giết hại được. Nếu sắc là cha có thể giết hại mắc phải
tội báo, thời chín thứ kia lẽ ra không phải là cha. Nếu chín thứ chẳng phải là cha thời lẽ ra không mắc tội.
Nầy
Đại Vương ! Sắc có ba thứ :
Quá khứ vị lai và
hiện tại.
Quá khứ và
hiện tại thời không thể giết hại. Vì
quá khứ đã qua rồi,
hiện tại lại
niệm niệm diệt. Chỉ vì ngăn
vị lai không sanh nên gọi là giết. Một thứ sắc như vậy, hoặc có giết được, hoặc chẳng giết được. Chẳng giết thời sắc chẳng
nhất định. Nếu sắc chẳng
nhất định thời giết cũng chẳng
nhất định. Vì giết chẳng
nhất định nên
quả báo cũng chẳng
nhất định. Sao nhà vua lại nói
quyết định đọa
địa ngục ? Nầy
Đại Vương !
Tội nghiệp của tất cả
chúng sanh tạo ra có hai thứ : Một là tội khinh, hai là tội trọng. Nếu tâm và khẩu gây tạo thời gọi là tội khinh, thân khẩu và tâm gây tạo thời gọi là tội trọng. Tâm nghĩ miệng nói mà thân chẳng làm thời mắc
quả báo nhẹ. Ngày trước
Đại Vương chẳng bảo giết, chỉ nói chặt chân.
Đại Vương nếu truyền lệnh
lập tức chém đầu vua cha, thị thần liền chém, còn chẳng mắc tội, huống là
Đại Vương chẳng truyền lệnh. Nếu
Đại Vương mắc tội thời chư Phật lẽ ra cũng mắc tội. Vì Tiên Vương
Tần Bà Ta La thường
vun trồng những căn lành nơi chư Phật, do đó nên ngày nay được làm vua. Nếu chư Phật chẳng
thọ sự cúng dường thời Tiên Vương chẳng có phước làm vua. Nếu Tiên Vương chẳng làm vua
thời Đại Vương đâu có vì nước mà giết hại. Nếu
Đại vương giết cha mà có tội, thời chư Phật
chúng ta lẽ ra cũng có tội. Còn nếu chư Phật không mắc tội sao
Đại Vương lại riêng mắc tội ư.
Nầy
Đại Vương ! Tiên Vương
Tần Bà Ta La ngày trước có tâm ác. Đi săn nơi núi
Tỳ Phú La, tìm muông thú khắp nơi không đặng chỉ gặp một Tiên nhơn chứng
ngũ thông, Tiên Vương giận nói bị người nầy nên hôm nay ta đi săn không gặp muông thú. Tiên Vương đuổi đi rồi sai quan hầu theo giết. Lúc sắp chết Tiên nhơn sanh lòng oán giận, mất
thần thông, thệ rằng : Ta thật vô tội, người dùng tâm khẩu giết hại ta,
đời sau ta cũng dùng tâm khẩu mà hại ngươi.
Tiên Vương
nghe lời ấy trong lòng
ăn năn bèn cúng dàng chôn cất
tử thi.
Ngày
trước Tiên Vương như vậy còn được
thọ báo nhẹ chẳng đọa
địa ngục, huống là
Đại Vương chẳng như vậy, Tiên Vương tự làm ra
trở lại tự thọ lấy, sao nhà vua lại mắc phải tội giết hại.
Như nhàvua nói : Vua cha không tội. Nầy
Đại Vương sao lại nói rằng không tội ? Luận về người không
nghiệp ác thời không
tội báo, người có tội thời có
tội báo. Tiên Vương kia nếu vô tội thời đâu có
thọ báo. Tiên Vương
Tần Bà Ta La trong hiện đời cũng đặng quả lành cùng quả ác. Do đây nên Tiên Vương cũng là chẳng
nhất định. Do vì chẳng
nhất định nên giết hại cũng chẳng
nhất định, giết hại đã chẳng
nhất định sao nhà vua lại nói rằng
quyết định đọa
địa ngục.
Nầy
Đại vương !
Chúng sanh điên cuồng có bốn hạng : Một là
tham vọng mà
điên cuồng, hai là bị thuốc mà
điên cuồng, ba là bị bùa chú mà
điên cuồng, bốn là do
nghiệp duyên đời trước mà
điên cuồng.
Trong hàng
đệ tử Phật nếu mắc phải bốn chứng
điên cuồng nầy, dầu tạo nhiều
tội ác, ta trọn chẳng nhận người nầy là
phạm giới. Người nầy tạo tội chẳng đọa
ba đường ác. Lúc tâm tỉnh
trở lại ta cũng chẳng gọi là phạm.
Đại Vương vì tham ngôi
Quốc Vương mà nghịch hại vua cha, do tham cuồng gây tạo sao gọi mắc tội. Như người say rượu giết hại
thân mẫu, lúc đã tỉnh say sanh lòng
hối hận, nghiệp giết mẹ nầy cũng chẳng
tội báo.
Đại Vương nay tham say nơi ngôi vua, chẳng phải bổn tâm làm tội nghịch đó, sao lại bảo là mắc tội.
Ví như nhà
ảo thuật, nơi ngã tư đường dùng
chú thuật hóa ra những thứ trai, gái, voi, ngựa,
chuỗi ngọc,
y phục. Người ngu cho đó là thật, người trí biết chẳng phải thật.
Cũng vậy, sự giết hại,
phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.
Ví như tiếng vang trong khe núi, người ngu cho là tiếng thật, người trí biết là chẳng phải thật, giết hại cũng như vậy,
phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.
Như có kẻ oán thù giả
đến gần gũi, người
ngu si nhận là thật
thân thuộc, người trí rõ biết là
giả trá. Giết hại cũng như vậy,
phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.
Như người
soi gương tự thấy bóng mặt, người ngu cho là mặt thật, người trí rõ biết chẳng phải thật. Giết hại cũng như vậy,
phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.
Như
ánh nắng gợn lúc trời
nắng gắt, người ngu đứng xa thấy cho là nước, người trí rõ biết chẳng phải nước. Giết hại cũng như vậy,
phàm phu cho là thật, chư Phật biết chẳng phải thật.
Như thành
Càn Thát Bà, người ngu cho là thật, người trí rõ biết chẳng phải thật.
Sát hại cũng như vậy,
phàm phu cho là thật, chư Phật biết chẳng phải thật.
Như người ngủ mơ, thấy hưởng vui
ngũ dục, người ngu cho là thật, người trí rõ biết chẳng phải thật. Giết hại cũng như vậy,
phàm phu cho là thật chư Phật biết chẳng phải thật.
Nầy
Đại Vương ! Cách thức giết, nghiệp giết, ngườigiết, quả giết, nhẫn đến
giải thoát, ta dầu rõ thấu tất cả, ta vẫn không có tội.
Đại Vương dầu biết giết hại, nhưng sao lại có tội ?
Ví như có người cai quản hãng rượu người nầy
nếu không uống thời cũng chẳng say. Lại như người biết lửa cũng chẳng bị đốt cháy.
Đại Vương cũng như vậy, dầu biết giết hại nhưng sao lại có tội ?
Nầy
Đại Vương ! Có những
chúng sanh lúc
mặt trời mọc tạo nhiều tội, lúc
mặt trăng mọc lại đi trộm cướp, lúc
mặt trời mặt trăng chẳng mọc thời chẳng làm việc ác, dầu nhân
mặt trời mặt trăng khiến người đó làm ác, nhưng
mặt trời mặt trăng thật không mắc tội.
Sát hại cũng như vậy, dầu nhân nơi
Đại Vương nhưng
Đại Vương thật không mắc tội.
Như trong cung vua, thường truyền lệnh làm thịt dê, lòng vua vốn không nghi sợ , tại sao ở nơi vua cha riêng sanh lòng sợ, dầu là người cùng cầm súc có tôn ty sai khác, nhưng qúi sanh mạng cũng
sợ chết không khác nhau. Cớ sao đối với loài dê lòng khinh không sợ, còn nói vua cha lòng trọng lo khổ.
Người đời là tôi tớ của
tham ái, bị
tham ái sai khiến mà làm việc giết hại,
giả sử có
quả báo thời là tội của
tham ái,
Đại Vương bị sai sử thời có tội gì.
Như
Niết Bàn chẳng phải có chẳng phải không mà cũng là có.
Sát hại cũng như vậy, dầu chẳng phải có chẳng phải không mà cũng là có. Người
tàm quý thời là chẳng phải có, người không
tàm quý thời là chẳng phảikhông, người thọ
quả báo thời gọi là có. Người
chấp không thời là chẳng phải có, người
chấp có thời là chẳng phải không, người có chấp cũng gọi là có. Vì người có
chấp có thời mắc
quả báo, người
không chấp có thời không mắc
quả báo. Người chấp thường thời là chẳng phải có, người
không chấp thường thời là chẳng phải không, người có
thường kiến thời chẳng đặng gọi là không, vì người có
thường kiến thời có
nghiệp quả ác. Nên nghĩa nầy dầu chẳng phải có chẳng phải không, mà cũng là có.
Nầy
Đại Vương ! Xét về
chúng sanh gọi là
hơi thở ra vào, vì làm dứt
hơi thở ra vào cho nên gọi là giết hại. Chư Phật
thuận theo thế tục cho nên cũng nói là giết hại !
Nầy
Đại Vương !
Sắc uẩn là
vô thường,
nhân duyên của sắc cũng là
vô thường, đã từ nhơn
vô thường mà sanh, thời
sắc uẩn sao lại là thường, nhẫn đến
thức ấm cũng như vậy. Do
vô thường nên khổ, do khổ nên không, do không nên
vô ngã. Nếu khổ là
vô thường, khổ,
không vô ngã thời món nào giết hại ? Giết hại
vô thường đặng
Niết Bàn thường, giết hại khổ đặng lạc, giết hại không đặng
chân thật, giết hại
vô ngã đặng
chân ngã.
Nầy
Đại Vương ! Nếu giết
vô thường, khổ, không,
vô ngã thời cùng với Phật đồng. Phật cũng giết
vô thường, khổ , không,
vô ngã chẳng bị đọa vào
địa ngục,
Đại Vương sao lại bị đọa ?
Lúc đó
vua A Xà Thế đúng theo
lời Phật dạy quán sát sắc ấm nhẫn đến
quán sát thức ấm. Vua
quán sát như vậy rồi liền
bạch Phật : “
Thế Tôn ! Nay tôi mới biết sắc là
vô thường nhẫn đến thức là
vô thường. Trước kia nếu tôi biết được như vậy thời chẳng gây tạo tội nghịch.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi từng nghe chư Phật là
cha mẹ của
chúng sanh. Dầu nghe như vậy nhưng chưa có
lòng tin chắc. Nay tôi mới tin
quyết định.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi cũng từng nghe
núi Tu Di do bốn chất báu hiệp thành, là vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê. Nếu có loài chim đậu chỗ nào trên núi, màu chim liền đồng với màu núi, dầu nghe như vậy tôi cũng chẳng
tin chắc. Nay tôi đến trong
pháp hội của Phật liền được đồng màu sắc, nghĩa là tôi rõ biết các pháp
vô thường , khổ, không,
vô ngã.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi thấy từ hột
y lan mọc lên cây
y lan chẳng thấy hột
y lan mọc lên cây
chiên đàn. Nay tôi mới được thấy từ hộy
y lan mọc lên cây
chiên đàn. Hột
y lan chính là thân tôi, cây
chiên đàn chính là tâm
vô căn tín của tôi.
Vô căn chính là từ trước tôi chẳng biết
cung kính Như Lai, chẳng tin
chánh pháp cùng
tăng chúng, đây gọi là
vô căn.
Bạch
Thế Tôn ! Nếu tôi chẳng gặp
đức Như Lai sẽ phải thọ
vô lượng khổ nơi
đại địa ngục trong
vô lượng vô số kiếp. Nay tôi được gặp Phật trọn nên
công đức,
phá hoại tâm ác
phiền não của
chúng sanh.
Phật nói :
Lành thay !
Lành thay ! Nầy
Đại Vương ! Nay Phật biết nhà vua
chắc chắn có thể
phá hoại tâm ác của
chúng sanh.”
Bạch
Thế Tôn : Nếu tôi thật có thể
phá hoại tâm ác của
chúng sanh, thời tôi thường ở
A Tỳ địa ngục trong
vô lượng kiếp vì
chúng sanh chịu mọi sự
khổ não tôi cũng chẳng lấy làm khổ.
Lúc đó
vô lượng nhân dân nước
Ma Dà Đà đều
phát tâm vô thượng Bồ Đề. Nhờ sự
phát tâm của
nhân dân, tội nặng của
vua A Xà Thế liền nhẹ bớt.
Nhà vua cùng
phu nhân các thể nữ đồng
phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Vua A Xà Thế bảo
Kỳ Bà rằng : “ Nay ta chưa chết đã đặng thân trời, bỏ mạng ngắn đặng mạng
trường thọ, bỏ thân
vô thường đặng thân
chân thường. Làm cho các
chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề chính là thân trời, mạng
trường thọ, thân
chân thường, cũng chính là
đệ tử của tất cả chư Phật.
Nói xong, nhà vua bèn đem các thứ tràng báu, phan lọng báu,
hương hoa, chuỗingọc,
kỹ nhạc cúng dường đức Phật.
Cúng dường xong nhà vua lại nói
kệ tán thán :
Lời
chân thật rất
vi diệu, Khéo léo nơi câu cùng nghĩa. Tạng pháp rất sâu
bí mật, Vì
chúng sanh nên
hiển bày. Bao nhiêu lời dạy
rộng rãi, Vì
chúng sanh nên nói lược, Đầy đủ những lời như vậy. Khéo chữa được bệnh
chúng sanh. Nếu có các hàng
chúng sanh, Đặng
nghe lời dạy của Phật. Có
lòng tin hoặc chẳng tin.
Quyết định biết là lời Phật. Lời chư Phật thường
dịu dàng. Vì
chúng sanh nên nói thô. Lời thô cùng
lời dịu dàng, Đều về đến
đệ nhất nghĩa. Do cớ nầy nên hôm nay, Tôi
quy y đức Thế Tôn. Như lời
bình đẳng nhất vị. Dường như nước trong biển cả, Đây gọi là
đệ nhất nghĩa, Nên không có lời
vô nghĩa. Hôm nay
đức Như Lai nói,
Vô lượng vô số pháp yếu.
Nam nữ già trẻ được nghe. Đồng thấy đặng
đệ nhất nghĩa. Không có nhân cũng
không quả, Không có sanh và không diệt, Đây gọi là
Đại Niết Bàn, Người nghe phá
kiết sử.
Đức Như Lai vì tất ca,û Thường làm cha cùng mẹ lành, Nên biết các hàng
chúng sanh, Đều là con của
Như Lai.
Đức Thế Tôn đại từ bi, Vì
chúng sanh nên
khổ hạnh, Như người bị
ma quỷ dựa,
Cuồng loạn tạo nhiều
tội ác. Nay tôi đặng thấy
Như Lai,
Ba nghiệp đều được lành tốt, Nguyện đem những
công đức nầy,
Hồi hướng Phật đạo vô thượng.
Hôm nay chỗ tôi
cúng dường,
Đức Phật pháp và
chúng Tăng. Nguyện đem những
công đức nầy,
Tam Bảo thường ở
thế gian. Ngày nay chỗ tôi sẽ đặng, Tất cả
vô lượng công đức, Nguyện dùng đây đễ
phá hoại, Bốn thứ ma của
chúng sanh. Ngày trước tôi gặp bạn ác, Gây tạo
tội nghiệp ba đời, Nay đối trước Phật
sám hối, Nguyện sau nầy chẳng lại phạm. Cầu cho tất cả
chúng sanh, Đều
phát tâm đại Bồ Đề,
Chuyên tâm thường siêng nghĩ nhớ, Tất cả
chư Phật mười phương. Lại nguyện tất cả
chúng sanh. Phá hẳn những giặc
phiền não, Được thấy
Phật tánh rõ ràng. Như Ngài
Văn Thù Bồ Tát.
Đức Thế Tôn khen
vua A Xà Thế : “
Lành thay !
Lành thay ! Nếu có người phát được tâm
vô thượng Bồ Đề, phải biết người nầy
trang nghiêm chư Phật cùng
đại chúng.
Nầy
Đại Vương ! Thuở xưa nhà vua ở trước
Đức Phật Tỳ Bà Thi đã
phát tâm vô thượng Bồ Đề, từ đó đến ngày nay chưa từng bị đọa
địa ngục, nên biết tâm
Bồ Đề có
vô lượng quả báo lành như thế.
Nầy
Đại Vương ! Từ nay về sau nhà vua phải thường siêng
tu tâm Bồ Đề. Vì
tu tâm Bồ Đề sẽ
tiêu diệt được
vô lượng tội ác.”
Vua A Xà Thế cùng nhân dân nước
Ma Dà Đà đi
nhiễu Phật ba vòng, lễ từ
trở về cung.
Phẩm
Thiên Hạnh như trong
kinh Tạp Hoa đã nói.
HẾT PHẨM
PHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI