12. PHẨM NHƯ LAI TÁNH THỨ MƯỜI HAI
(Hán bộ phần trên quyển thứ tám)
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Hai mươi lăm cõi có ngã cùng chăng ?
Phật dạy : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Ngã tức là nghĩa Như-Lai tạng. Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị
vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên
chúng sanh chẳng
nhận thấy được.
Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng vòng, tất cả người nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết
phương tiện bảo cô gái nghèo : “ Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi”.
Cô gái liền đáp : “ Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi sẽ dọn cỏ rác cho ông”.
Người khách nói : “ Tôi biết cách thức, cóthể chỉ kho vàng cho cô.”
Cô gái nói : “ Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biết được, huống là ông mà có thể biết !”
Khách lại nói : “ Nay tôi có thể biết chắc chắn”.
Cô gái nói : “ Tôi gấp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi”.
Người khách liền ở trong nhà cô, đào được kho
vàng ròng. Cô gái thấy kho vàng lòng rất
vui mừng ngạc nhiên lạ lùng,
kính trọng người khách.
Nầy Thiện-nam-tử !
Phật tánh của
chúng sanh cũng như vậy, tất cả
chúng sanh chẳng
nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho vàng mà chẳng biết. Hôm nay ta chỉ bày
Phật tánh sẵn có của tất cả
chúng sanh hiện bị các
phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia trong nhà sẵn có kho vàng nhưng không thấy được. Hôm nay đức Như-Lai chỉ bày kho báu
giác tánh cho
chúng sanh, đây chính là
Phật tánh.
Chúng sanh thấy được tánh nầy lòng rất
vui mừng quy ngưỡng đức Như-Lai.
Người khách khéo biết
phương tiện dụ cho Như-Lai. Cô gái nghèo dụ cho
vô lượng chúng sanh. Kho
vàng ròng dụ cho
Phật tánh.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như cô gái sanh một trai trẻ nầy mắc bịnh, cô gái
buồn rầu tìm y sĩ. Y sĩ đến xem bịnh, dùng ba thứ bơ, sữa đường phèn hiệp lại bảo cho đứa trẻ uống. Y sĩ dặn cho cô gái, đứa trẻ sau khi uống thuốc chớ cho nó bú, phải chờ thuốc
tiêu hóa, rồi mới được cho bú
Cô gái liền lấy chất đắng thoa trên vú rồi bảo đứa bé : “ Vú của mẹ đã thoa thuốc độc, con chớ chạm đến”.
Đứa bé
đói khát muốn bú, nhưng nghe mùi đắng trên vú bèn chẳng dám gần.
Thời gian sau thuốc uống đã tiêu hoá, người mẹ lấy nước rửa sạch vú mình, gọi con đến bú.
Lúc đó đứa trẻ
mặc dầu đói khát nhưng nhớ mùi đắng nên chẳng dám đến bú.
Người mẹ bảo : “ Vì con uống thuốc nên mẹ lấy chất đắng thoa trên vú. Thuốc con uống đã
tiêu hóa, vú của mẹ cũng đã rửa sạch, giờ đây con có thể đến bú không hại gì.”
Đứa trẻ nghe mẹ bảo lần lần đến bú.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đức Như-Lai cũng vậy. Vì độ tất cả
chúng sanh nên dạy
tu pháp vô ngã. Nhờ
tu pháp đó dứt hẳn tâm
chấp ngã, được nhập Niết- bàn. Vì trừ những
vọng kiến trong đời nên
thị hiện pháp
xuất thế gian. Lại chỉ rõ
quan niệm chấp ngã của người đời là
hư vọng chẳng phải chơn thật, nên dạy
tu pháp vô ngã để được
thân thanh tịnh.
Như cô gái kia chữa bịnh cho con, nên lấy chất đắng thoa trên vú. Cũng vậy, Đức Như-Lai vì dạy
tu pháp không nên nói các pháp đều không có ngã.
Như cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng vậy,
đức Phật hôm nay nói Như-Lai tạng.
Vì thế nên các Tỳ-kheo chớ sanh lòng kinh sợ.
Như đứa trẻ kia nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng vậy, các Tỳ-kheo nên tự
phân biệt Như-Lai tạng, chẳng được, chẳng có.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Thiệt không có ngã. Vì lúc đứa trẻ mới
sanh không hiểu biết. Nếu là có ngã thời ngày mới sanh lẽ ra liền có
hiểu biết. Do nghĩ nầy nên định biết là không ngã.
Nếu
quyết định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. là
thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không hư hoại, sao lại có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, Chiên-đà-la,
Súc sanh v.v…
sai biệt nhau. Hiện nay thấy các thứ
nghiệp duyên chẳng đồng, các loài đều riêng khác. Nếu
quyết định có ngã, thời tất cả
chúng sanh lẽ ra không hơn kém.
Do những nghĩa trên đây nên định biết
Phật tánh chẳng phải là
pháp thường trụ.
Nếu cho rằng
Phật tánh quyết định là
thường trụ, thời do duyên gì lại nói có
sát sanh, trộm cướp,
tà dâm,
lưỡng thiệt,
ác khẩu.
Vọng ngôn,
ỷ ngữ,
tham lam,
sân khuể,
tà kiến.
Nếu ngã tánh là
thường trụ, cớ gì sau khi uống rươu lại say mê.
Nếu ngã tánh là
thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi.
Nếu ngãø tánh là
thường trụ, lẽ ra chẳng còn tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, dao gươm, kẻ ác,
thú dữ.
Nếu ngã là
thường trụ, thời những việc đã từng nghe thấy le õra chẳng quên. Nếu chẳng quên cớ gì lại nói : tôi đã từng thấy người nầy ở chỗ đó.
Nếu ngã là thường, thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu, tráng niên, lão thành v.v… Lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu cùng nhớ đến việc đã qua.
Nếu ngã là thường, thời nó ở chỗ nào ? Nó ở trong nước mũi, nước miếng, hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư !
Nếu ngã là thường, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu mè không chỗ hở trống. Nếu như vậy lúc chặt đứt
thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị đứt !”
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát : “ Thiện-nam-tử !
Ví như nhà vua có
đại lực sĩ. Trên trán
lực sĩ gắn hột châu
kim cương.
Lực sĩ nầy cùng người đánh vật. Hột châu
kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da, Nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da. Y sĩ hỏi lực -sĩ : “ Châu
kim cương trên trán của ông đâu rồi ?”
Lực sĩ kinh hãi đáp : “ Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi ư ? Nó rơi rớt ở đâu ?” Nói xong lo rầu khóc lóc.
Y sĩ
an ủi : “ Nay ông chẳng nên buồn khổ. Vì lúc ông đánh vật, hột châu lún vào
ở ẩn dưới da, bóng nó
hiện ra nơi ngòai. Lúc các ông vật
đánh nhau, ,lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà chẳng hay biết”.
Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ. Nghĩ rằng : Nếu hột châu ở dưới da, máu mũ chảy tuôn cớ sao hột châu chẳng trồi lên. Còn nếu hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy.
Hoặc giả y sĩ
gạt gẫm ta chăng ? Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt
lực sĩ. Hột châu
kim cương hiện ánh sáng trong gương.
Lực sĩ nhìn thấy,
ngạc nhiên mừngrỡ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả
chúng sanh cũng như vậy. Vì không được gần gũi bực thiện-tri-thức, dầu có
Phật tánh mà đều không
nhận thấy. Bị tham, sân, si
che đậy. Vì thế nên đọa
địa ngục,
súc sanh, ngạ quỹ, A-tu-la, Chiên-đà-la, Sát- đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà. Sanh vào trong các dòng đó, nhơn
tâm tưởng mà gây ra các thứ
nghiệp duyên. Dầu được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt. Thọ các
quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si,
che lấp bổn tâm, nên chẳng biết
Phật tánh. Như
lực sĩ kia hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã mất.
Cũng vậy,
chúng sanh chẳng biết gần gũi thiện-tri-thức, chẳng biết
bảo tạng Như- Lai, nên
tu học vô ngã. Như hạng chẳng phải bực Thánh, dầu nói là có ngã, nhưng lại chẳng biết chơn tánh của ngã.
Hàng
đệ tử của ta cũng giống như vậy, vì chẳng biết gần gũi bực thiện-tri- thức, nên
tu học vô ngã mà chẳng biết chỗ thật của
vô ngã. Còn chẳng tự biết chơn tánh của
vô ngã, huống lại có thể biết chơn tánh của ngã.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đức Như-Lai nói các
chúng sanh đều có
Phật tánh,
ví như y sĩ chỉ hột châu
kim cương cho
lực sĩ, các
chúng sanh nầy bị
vô lượng phiền não che đậy chẳng biết
Phật tánh. Nếu dứt hết
phiền não, bây giờ mới đặng chứng biết
rõ ràng. Như
lực sĩ thấy hạt châu tronggương sáng.
Tạng Như-Lai
vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là “Dược vị”. Thuốc đó rất ngọt, ở dưới lùm
bụi rậm, người không thấy được. Có người nghe mùi thuốc liền biết chỗ đó chắc có thuốc ấy.
Thuở trước có vua
Chuyển Luân ở nơi núi Tuyết nầy đặt những bộng cây để tiếp lấy thuốc. Lúc thuốc đó chín thời từ đất chảy ra chứa vào trong bọng cây,
mùi vị thuốc ngọt ngon. Sau khi Vua đã băng, thời thuốc đó hoặc chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc lạt, tùy địa phương của thuốc sanh ra
mùi vị đều khác nhau. Nhưng vị thật của thuốc đọng ở nơi núi như
mặt trăng tròn. Người phàm ít phước dầu có đào xới chỉ luống khốn khổ mà không thể được. Lúc có Thánh-Vương ra đời, vì phước lớn của Vua, liền đặng vị thật của thuốc.
Nầy Thiện-nam-tử !
Mùi vị tạng Như-lai cũng như vậy, bị các rừng bụi
phiền não che đậy,
chúng sanh mê mờ chẳng thấy được.
“Dược vị” trên kia dụ cho
Phật tánh. Bởi các
phiền não nên sanh ra các thứ
mùi vị sai khác như là
địa ngục,
súc sanh, ngạ quỹ, Trời, người, nam, nữ, Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà v.v…
Phật tánh hùng mãnh không thể hư hoại, vì thế nên không ai có thể
sát hại được. Nếu
sát hại được thời
Phật tánh dứt, nhưng
Phật tánh trọn không thể dứt, vì không bao giờ tánh có thể dứt được.
Như tánh của ngã tức là tạng Như-Lai không có gì
phá hoại, đốt cháy được tánh ấy. Dầu không có thể
phá hoại, nhưng chẳng thấy được. Nếu chứng đặng
vô thượng chánh đẳng chánh giác mới thấy được tánh. Do cớ đó nên không ai có thể
sát hại được.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật rằng : “
Thế Tôn !
Nếu không ai
sát hại được, thời lẽ ra không có
nghiệp bất thiện ?”
Phật nói : :” Nầy Ca-Diếp ! Thiệt có
sát sanh. Vì
Phật tánh của
chúng sanh ở trong thân
ngũ ấm, nếu
sát hại ngũ ấm, gọi là
sát sanh, đã có
sát sanh, thời đọa
ác thú.
Do
nhơn duyên của nghiệp mà có Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ- đà,Chiên-đà- la, nam-nữ v.v… hai mươi lăm cõi sai khác
lưu chuyển trong dòng
sinh tử.
Người chẳng phải bực thánh
vọng chấp tướng của ngã là lớn hay nhỏ, bằng hột cỏ, hoặc bằng hột gạo, hột đậu, nhẫn đến bằng ngón tay cái. Họ vọng sanh các thứ tưởng tượng như vậy. Tướng của
vọng tưởng không có chơn thật.
Tướng ngã
xuất thế gian, gọi là
Phật tánh. Nhận lấy ngã nầy, gọi là rất lành.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người giỏi biết kho báu
dưới đất, liền lấy cuốc bén đào đất, thẳng đến đá bàn, cát, sỏi, có thể đào qua không khó, chỉ đến lớp
kim cươngthời không thể xoi thấu.
Luận về chất
kim cương, tất cả dao búa không thể làm hư bể.
Phật tánh của
chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà
biện luận, Thiên-ma, Ba-tuần,
cho đến các hàng Trời, người, không thể
phá hoại.
Tướng
ngũ ấm là
hữu vi, tướng
hữu vi dụ như đá, cát, sỏi, có thể đào, có thể xoi.
Phật tánh dụ như
kim cương, không thể
phá hoại được.
Do nghĩa nầy, nên
phá hoại thân
ngũ ấm thời gọi đó là
sát sanh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nên biết
quyết định rằng
Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Nầy Thiện nam-tử ! Kinh Đại-thừa Phương-đẳng như chất
cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Do
nhơn duyên gì mà Đức Như-Lai nói kinh Đại- thừa Phương-Đẳng như chất
cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc”.
-Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông muốn biết
nghĩa chơn thật của tạng Như-Lai chăng ?
Ca- Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Tôi nay thiệt muốn biết nghĩa của tạng Như-Lai”.
Bấy giờ Đức Thế-Tôn nói kệ rằng :
Hoặc có người uống
cam lồ.
Hại
thân mạng mà
chết sớm.
Hoặc có người uống
cam lồ.
Thêm tuổi thọ sống được lâu,
Hoặc uống thuốc độc được sống,
Có người uống độc mà chết.
Trí
vô ngại như
cam lồ,
Đó chính là
kinh Đại thừa.
Kinh điển Đại thừa như vậy,
Cũng gọi là chất thuốc độc.
Như bơ, đề-hồ v.v…
Nhẫn đến các thứ đường phèn.
Uống vào
tiêu hóa là thuốc .
Chẳng tiêu hoá thời thành độc.
Kinh Đại- thừa cũng như vậy,
Nơi người trí là
cam lồ,
Kẻ ngu chẳng biết
Phật tánh.
Nghe Đại-thừa thành thuốc dộc.
Với bực Thanh-Văn, Duyên- Giác.
Pháp
Đại thừa là
cam lồ.
Cũng như trong các
mùi vị.
Chất sữa là hơn tất cả.
Những người siêng năng
tinh tấn.
Nhờ nương nơi pháp Đại-thừa.
Đặng đến nơi Đại-Niết-bàn.
Thành bực vua trong
loài người.
Chúng sanh chứng biết
Phật tánh.
Được chất
cam lồ vô thượng.
Thời không sanh cũng không tử.
Như Ca- Diếp Bồ-Tát thảy.
Nầy Ca-Diếp ông nên phải.
Khéo
phân biệt pháp tam-quy,
Thật tánh của pháp tam-quy.
Thời là chơn tánh của ngã.
Nếu có thể gẫm xét kỹ.
Tánh của ngã có tánh Phật.
Nên biết những người như vậy.
Đặng
chứng nhập tạng Như-Lai.
Biết ngã cùng biết
ngã sở.
Người nầy đã được
xuất thế.
Tánh, Phật, Pháp, Tăng, Tam-Bảo.
Là bực
đệ nhứt vô thượng.
Kệ trên đây của ta nói.
Phật tánh đó nghĩ như vậy.
Ca-Diếp Bồ-Tát nói kệ
bạch Phật :
Tôi nay đều chẳng biết.
Quy y nơi Tam-Bảo.
Thế nào sẽ về đến.
Vô thượng vô- sở-úy ?
Chẳng biết chỗ Tam-Bảo.
Thế nào là
vô ngã ?
Quy y Phật thế nào,
Mà đặng nơi
an ổn ?
Quy y Pháp thế nào,
Xin Phật vì tôi nói.
Thế nào đặng
tự tại ?
Thế nào chẳng
tự tại ?
Quy y Tăng thế nào,
Lại đặng lợi
vô thượng ?
Thế nào thuyết chơn thật,
Đời sau thành Phật đạo ?
Đời sau nếu chẳng thành,
Thế nào quy Tam-Bảo ?
Nay tôi không dự biết,
Nên
tuần tự quy y.
Thế nào chưa thai nghén,
Mà tưởng sẽ sanh con?
Nếu biết ở trong thai,
Thời gọi là có con,
Con nếu ở trong thai,
Chắc sẽ sanh chẳng lâu,
Đây gọi là nghĩa con,
Nghiệp
chúng sanh cũng vậy.
Như lời Phật đã nói,
Người ngu chẳng biết được.
Do vì họ chẳng biết,
Luân hồi ngục
sanh tử,
Giả danh Ưu- bà- tắc,
Chẳng biết
nghĩa chơn thật.
Xin Phật rộng
phân biệt,
Dứt trừ lưới nghi cho.
Đức Phật trí huệ lớn,
Xin thương vì
phân biệt,
Xin nói nơi Như-Lai,
Tạng báu rất
bí mật.
Ca-Diếp ông nên biết,
Ta nay sẽ vì ông,
Khéo mở tạng
bí mật,
Cho ông đặng dứt nghi,
Nay phải
hết lòng nghe :
Ông trong hàng Bồ-Tát,
Thời đồng một
danh hiệu,
Với
Đức Phật thứ bảy.
Người
quy y nơi Phật,
Thiệt là Ưu-Bà- Tắc,
Trọn chẳng lại
quy y.
Những
thiên thần nào khác.
Người
quy y nơi Pháp,
Thời lìa sự
sát hại.
Người
quy y Thánh-Tăng,
Chẳng cầu các
ngoại đạo,
Quy Tam- Bảo như vậy,
Thời đặng vô-sở-úy.
Ca-Diếp
bạch Phật rằng :
Tôi cũng quy Tam-bảo,
Đây gọi là đường chánh,
Cảnh giới của chư Phật,
Tướng Tam-bảo
bình đẳng.
Thường có tánh
trí huệ,
Tánh ngã và tánh Phật,
Không hai không sai khác,
Đạo nầy Phật khen ngợi,
Thẳng đến chỗ ở an.
Cũng gọi
chánh biến tri.
Nên được
Phật tán thán.
Tôi cũng đến
Phật đạo.
Của
Đức Phật ngợi khen.
Là
cam lồ tối thượng.
Các cõi chỗ không có.
Đức Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chẳng nên như hàng Thanh-văn, cùng hàng
phàm phu phân biệt ngôi Tam-bảo. Nơi Đại- thừa đây không có tướng Tam-quy sai khác, vì trong
Phật tánh bèn có Pháp và Tăng. Nhơn muốn
hóa độ hàng Thanh-văn và
phàm phu, nên
phân biệt nói tướng Tam- quy sai khác.
Nầy Thiện nam-tử ! Nếu muốn
tùy thuận pháp
thế gian, thời nên
phân biệt có ba pháp
quy y.
Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát nên
suy nghĩ như thế nầy, nay thân của ta đây
quy y nơi Phật, nếu chính nơi thân nầy đặng
thành Phật đạo, đã
thành Phật rồi, chẳng nên
cung kính lễ bái cúng dường các đức Thế-Tôn. Vì chư Phật đều
bình đẳng. Khắp vì
chúng sanh mà làm chỗ
quy y. Nếu muốn
tôn trọng pháp thân xá lợi, thời nên
lễ kính tháp miếu của chư Phật, vì muốn
hóa độ chúng sanh, cũng làm cho
chúng sanh đối với thân của ta tưởng là
tháp miếu mà
lễ bái cúng dường. Những
chúng sanh đó, lấy
pháp thân của ta làm chỗ
quy y.
Tất cả
chúng sanh đều nương theo pháp
tà ngụy chẳng chơn thật, ta sẽ
tuần tự vì
chúng sanh nói pháp chơn thật.
Nếu lại có
chúng sanh nương theo phái chẳng phải chơn Tăng, ta sẽ vì
chúng sanh làm chỗ chơn Tăng để chúng
quy y.
Nếu có người
phân biệt ba pháp
quy y ta sẽ vì họ mà làm chỗ
quy y duy nhứt, không ba pháp sai khác.
Đối với hạng sanh-manh (49), ta vì họ làm nhãn-mục.
Ta lại sẽ vì hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác mà làm chỗ chơn quy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như vậy, Bồ-tát vì
vô lượng chúng sanh ác và những người trí mà
làm Phật sự.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như người lúc ra trận chiến đấu, tự nghĩ rằng trong đội ngũ đây, ta là người thứ nhứt, tất cả binh sĩ đều nương cậy nơi ta.
Cũng như vương-tử
suy nghĩ thế nầy, ta sẽ điều-phục các vương-tử khác, nối ngôi
đại vương giữ gìn nghiệp bá chủ, để đặng
tự tại, khiến các vươngtử đều phải
quy y. Vì thế nên chẳng được sanh tâm
hạ liệt. Như vương tử, vua và các quan cũng như vậy. Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát cũng
suy nghĩ như vầy : Thế nào ba sự cùng ta đồng
một thể ?
Nầy Thiện-nam-tử !
Đức Phật nói ba sự tức là Niết-bàn. Như-Lai đó gọi là Vô- Thương-Sĩ.
Ví như thân người, đầu là trên tất cả, chẳng đồng với tay chơn lóng đốt. Phật cũng như vậy, là bực
tôn thượng, chẳng phải Pháp cùng Tăng. Vì muốn
hóa độ các
thế gian, nên
thị hiện những tướng sai khác,
ví như bực thang kia.
Vì thế, nay ông chẳng nên như hàng
phàm phu,
nhận biết tướng ba pháp
quy y sai khác. Đối với Đại-thừa, ông phải như dao bén mạnh mẽ quyết đoán.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Tôi vẫn biết, nhưng
cố ý hỏi, chẳng phải là không biết, tôi vì các vị Bồ-Tát đại dõng mãnh, mà bạch hỏi chỗ thật hành
thanh tịnh không nhơ, muốn đức Như-Lai vì các Bồ-Tát tuyên nói những việc kỳ-đặc,
tuyên dương kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng. Đức Đại-Bi Thế-Tôn hôm nay đã khéo
giải thuyết. Tôi cũng đã an trụ trong pháp đó. Chỗ thật hành
thanh tịnh của Bồ-Tát mà Phật đã nói đó, tức là
tuyên thuyết kinh Đại Niết- Bàn.
Thế-Tôn ! Nay tôi cũng sẽ rộng vì
chúng sanh diễn dương tạng Như-Lai
bí mật như vậy, cũng sẽ chứng biết chỗ tam-quy chơn thật.
Nếu có
chúng sanh nào có thể tin kinh Đại-Niết-Bàn nầy, người đó thời có thể
tự nhiên rõ thấu chỗ ba pháp
quy y. Vì tạng Như-Lai có
Phật tánh vậy.
Có người tuyên nói
kinh điển nầy, thời đều nói rằng trong thân
vẫn có Phật tánh. Người nầy bèn chẳng cầu ba pháp
quy y nơi đâu xa. Vì đời
vị lai đây, thân ta bèn sẽ
thành tựu ngôi Tam-Bảo. Vì thế nên hàng Thanh-Văn, Duyên-giác vànhững
chúng sanh khác đều nương nơi ta mà
cung kính lễ bái. Do nghĩa đó nên phải khéo học
kinh điển Đai thừa.
Phật tánh như vậy chẳng thể nghĩ bàn, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt cũng chẳng thể nghĩ bàn”.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử ! Ông đã
thành tựu trí huệ rất sâu.
Nay ta sẽ lại vì ông nói pháp
chứng nhập Tạng Như-Lai.
Nếu ngã là có, thời là
pháp thường chẳng rời nơi khổ.
Nếu không có ngã, thời tu hạnh
thanh tịnh không được
lợi ích.
Nếu cho rằng các pháp đều không có ngã, đó là
đoạn kiến, nếu cho rằng có ngã thời là
thường kiến.
Nếu cho rằng tất cả
hành pháp là
vô thường, thời là
đoạn kiến, cho rằng các
hành pháp là thường, thời lại là
thường kiến.
Nếu nói là khổ, thời là
đoạn kiến, nếu nói là lạc, thời lại là
thường kiến.
Tu tất cả
pháp thường đó, thời sa nơi
đoạn kiến, tu tất cả pháp đoạn đó, thời sa nơi
thường kiến. Như bước đi,
cần phải do chưn trước, mới dời đặng chưn sau. Người
tu pháp thường, pháp đoạn, cũng lại như vậy,
cần phải do nơi đoạn và thường.
Do nghĩ nầy, nên người tu các pháp khổ đều gọi là chẳng lành, người tu các
pháp lạc, thời gọi là lành. Người tu các
pháp vô ngã, thời thuộc về
phiền não, người tu các
pháp thường, thời gọi là tạng Như-Lai.
Niết-bàn, không có nơi chốn. Tu những pháp
vô thường, thời là tài vật, tu những
pháp thường, gọi là Phật, Pháp, Tăng, và chánh
giải thoát.
Nên biết
Phật pháp trung đạo như vậy,
xa lìa hai bên mà nói pháp chơn thật. Người
phàm phu ngu mê đối trong pháp đó không nghi, như người
gầy yếu, được uống thuốc bổ, thời khí lực khỏe khoắn.
Những
pháp hữu, vô,
thể tánh chẳng nhứt định.
Ví như tứ –đại tánh nó chẳng đồng, đều trái phản nhau.
Lương y khéo biết tùy món đại nào phát bịnh mà
điều chỉnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-lai đối với các
chúng sanh, cũng như vị
lương y, rõ biết
thể tướng sai khác của các
phiền não mà dứt trừ, khai-thị tạng Như-Lai
bí mật,
Phật tánh thanh tịnh thường trụ chẳng
biến đổi. Nếu cho rằng có, thời lẽ ra trí chẳng nhiễm. Nếu nói là không, bèn thành
vọng ngữ. Nếu nói là có, lẽ ra chẳng nên nín lặng. Lại cũng chẳng nên
hý luận cãi cọ, chỉ nên cầu được rõ biết chơn tánh của các pháp.
Người
phàm phu hý luận cãi cọ vì chẳng hiểu tạng Như-Lai. Nếu nói pháp khổ, người ngu bèn cho thân là
vô thường, chẳng có thể biết nơi thân có tánh lạc.
Nếu nói
vô thường, người
phàm phu chấp tất cả thân đều là
vô thường, như ngói chưa hầm chín.
Nếu là người trí nên phải
quan sát, chẳng nên nói tất cả đều
vô thường, vì nơi thân của ta có
chủng tử Phật tánh.
Nếu nói
vô ngã, người
phàm phu sẽ cho là tất cả Phật, Pháp đều không có ngã. Người trí nên phải
quan sát vô ngã là
giả danh chẳng thật, rõ biết n hư vậy chẳng nên
sanh nghi.
Nếu nói tạng Như-Lai là
không tịch, người
phàm phu nghe như thế sanh
kiến chấp đoạn diệt. Người trí nên phải
quan sát Như-Lai là thường, không có
biến đổi.
Nếu nói
giải thoát dụ
như huyễn hoá, người
phàm phu sẽ cho rằng chứng đặng
giải thoát tức là dứt mất. Người trí nên phải
quan sát đức Như-Lai
giải thoát, dầu có đến đi, nhưng vẫn
thường trụ không
biến đổi.
Nếu nói
vô minh làm
nhơn duyên mà có các
hành pháp, người
phàm phu liền
phân biệt tưởng rằng có hai pháp : “minh” đến “vô minh”. Người trí rõ biết tánh đó vốn không có hai.
Tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Nếu nói các hành làm
nhơn duyên có ra thức, người
phàm phu cho rằng có hai : “hành” cùng “thức”.
Người trí rõ biết tánh đó không hai.
Tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Nếu nói
thập thiện,
thập ác có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường lành, đường dữ, pháp lành, pháp dữ, người
phàm phu nghe đó cho là có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai.
Tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Nếu nói nên tu tất cả pháp khổ,
phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh kia không hai,
tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Nếu nói tất cả
hành pháp là
vô thường thời tạng Như-Lai cũng là
vô thường,
phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai,
tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Nếu nói tất cả
pháp vô ngã, tạng Như-Lai cũng không có ngã,
phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai,
tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Ngã với
vô ngã nơi
tánh không có hai thứ.
Tạng Như-Lai, nghĩa tánh
vô lượng vô biên như vậy, là chỗ mà chư Phật đều
tán thán, hôm nay ta ở nơi trong kinh thành-tựu tất cả
công đức này đều đã nói rồi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ngã cùng
vô ngã tánh và
tướng không có hai thứ, ông phải
trân trọng thọ trì như vậy, ông cũng phải ghi nhớ
giữ gìn kinh điển nầy. Như ta ngày trước trong kinh Đại-Bát-Nhã cũng nói ngã và
vô ngã không có hai thứ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như do sữa thành lạc, do lạc thành sanh-tô, do sanh-tô thành thục-tô, do thục-tô đặng chất đề-hồ. Chất lạc đó là từ sữa sanh ra, hay là nó tự sanh, hoặc do cái khác sanh ư, nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy. Nếu từ cái khác sanh, thời là lẽ ra chẳng phải do sữa mà thành. Nếu chẳng phải từ nơi sữa sanh, thời sữa thành
vô dụng đối với lạc, bởi sữa vốn không có lạc. Nếu lạc, tự nó sanh lấy nó, lẽ ra chẳng từ sữa lần lần
biến thành lạc. Nếu lần lần
biến thành, thời là chẳng sanh chung. Nếu chẳng sanh chung thời cả năm thứ không đồng một thời. Dầu chẳng đồng một thời nhưng
quyết định chẳng phải từ nơi chỗ khác mà có
Phải biết trong chất sữa đã có tướng của chất lạc. Vì nhiều vị ngọt nên chẳng thể tự biến, Nhẫn đến chất đề-hồ cũng lại như vậy.
Do con bò cái ăn cỏ, uống nước,
huyết mạch chuyển biến mà đặng có sữa. Nếu nó ăn cỏ ngọt thời sữa nó nhiều vị ngọt. Nếu nó ăn cỏ đắng, thời sữa nó có lẫn
vị đắng. Núi Tuyết có thứ cỏ tên là Phì-Nhị. Bò cái ăn cỏ Phì-Nhị, thời đặng thuần chất đề-hồ, không có những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
Do cỏ lúa làm
nhơn duyên mà sữa bò có màu vị khác nhau. Cũng vậy, các
chúng sanh do minh cùng
vô minh, vì nghiệp làm
nhơn duyên mà sanh có hai tướng. Nếu
vô minh chuyển thời biến làm minh. Tất cả những
pháp thiện,
bất thiện, v.v…, cũng lại như vậy, không có hai thứ.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, trong sữa có tướng lạc,
nghĩa đó như thế nào ? Thế-Tôn ! Nếu nói rằng trong sữa
quyết định có tướng lạc, do vì
vi tế chẳng thấy được, thế sao lại nói từ nơi sữa mà thành lạc. Phàm trước vốn không mà nay có thời gọi đó là sanh. Như lạc đã vốn có, sao lại nói là sanh. Nếu nói trong sữa
quyết định có tướng lạc, thời trong cỏ lúa lẽ ra cũng có sữa, và trong sữa lẽ ra cũng có cỏ lúa.
Nếu nói trong sữa
quyết định không có lạc, thế sao nhơn sữa mà đặng thành lạc. Nếu trước vốn không, sau mới sanh ra có, thời cớ gì trong sữa chẳng sanh ra cỏ lúa ?
_ Thiện-nam-tử ! Chẳng nên nói
quyết định trong sữa có lạc hay trong sữa không lạc, cũng chẳng nên nói từ
nơi khác mà sanh.
Nếu nói trong sữa
quyết định có lạc, thời chất và vị của hai thứ sao lại khác nhau. Vì thế nên chẳng nên nói trong sữa
quyết định có chất lạc.
Nếu nói trong sữa
quyết định không có lạc, cớ sao trong sữa chẳng sanh vật khác. Đem chất độc pha vào trong sữa, lúc sữa đó thành lạc, thời chất lạc đó giết chết người, vì thế nên chẳng nên nói rằng trong sữa
quyết định không có chất lạc.
Nếu nói chất lạc từ
nơi khác mà sanh, thời cớ gì trong nước lã chẳng sanh chất lạc, mà phải từ nơi sữa, vì thế nên chẳng nên nói chất lạc từ
nơi khác mà sanh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Bò cái kia ăn cỏ tiêu hoá
biến thành bạch huyết, do
phước lực của
chúng sanh, cỏ huyết
biến thành sữa. Sữa nầy dầu từ nơi cỏ huyết mà ra, nhưng chẳng đặng nói là hai thứ, chỉ đặng gọi là từ
nhơn duyên mà sanh. Chất lạc, nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy.
Do
nhơn duyên nên sau khi sữa mất
biến thành chất lạc, ủ đông, hâm nóng, đó là
nhơn duyên. Nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy. Vì thế nên chẳng đặng nói
quyết định rằng trong sữa không có tướng lạc.
Nếu nói từ
nơi khác mà sanh, thời ngoài sữa không do đâu để có chất lạc.
Nầy Thiện-nam-tử ! “Minh” cùng “vô minh” cũng lại như vậy. Nếu chung với
phiền não thời gọi là
vô minh, nếu chung với tất cã pháp lành thời gọi là minh. Do đó nên ta nói không có hai tướng. Vì thế nên trước kia ta nói bò cái ăn cỏ Phì- Nhị ở núi Tuyết, thời sanh thuần chất đề-hồ.
Phật tánh cũng vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Do vì
phiền não che đậy nên
chúng sanh chẳng thấy
Phật tánh, như người phước bạc chẳng thấy được cỏ Phì-Nhị.
Như trong biển lớn, dầu đồng một vị mặn, nhưng trong đó cũng có nước ngọt ngon, vị đồng như sữa. Như nơi núi Tuyết, dầu sanh nhiều cỏ thuốc, nhưng cũng có cỏ độc.
Thân của các
chúng sanh cũng lại như vậy, dầu có giống
rắn độc tứ đại, nhưng trong đó cũng có diệu dược, tức là
Phật tánh.
Phật tánh chẳng phải là pháp tạo tác làm ra, chỉ vì
phiền não khách trần che khuất, nếu
chúng sanh nào dứt trừ được
phiền não, thời liền thấy được
Phật tánh thành đạo vô thượng.
Ví như giữa
hư không, giăng mây nổi sấm, trên ngà của tất cả voi đều sanh bông.
Nếu không có sấm nổ, thời bông không sanh.
Phật tánh của
chúng sanh cũng lại như vậy, thường bị tất cả
phiền não che khuất nên chẳng thấy được. Vì thế nên ta nói
chúng sanh không có ngã.
Nếu được nghe
kinh điển Đại-Niết-Bàn
vi diệu nầy, thời được thấy
Phật tánh như bông hiện trên ngà voi.
Dầu nghe tất cả
tam muội trong
khế kinh, mà chẳng nghe kinh Đại-Niết-Bàn nầy, thời chẳng biết được tướng Như-Lai
vi diệu. Như lúc không có
tiếng sấm, thời chẳng thấy được bông trên ngà voi.
Nếu được nghe kinh nầy rồi, liền biết tạng
Phật tánh của tất cả Như-lai nói. Như trời sấm thấy bông trên ngà voi. Được nghe kinh nầy liền biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.
Do nghĩa trên đây, nên nói Đại-Niết-Bàn là tạng Như-Lai thêm lớn
pháp thân, như lúc trời sấm, bông trên ngà voi nhờ đó mà được sanh thêm.
Nếu có thiện-nam, tín-nữ, có thể tập học
kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn nầy, nên biết những người đây có thể báo được ân Phật, thật là
đệ tử của Phật.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn !
Phật tánh như đã nói rất sâu, khó thấy, khó vào, hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác không thể đến được.”
Phật nói : “ Nầy Thiện nam-tử ! Đúng như lời ông vừa khen, chẳng trái
lời nói của ta”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn !
Phật tánh ấy rất sâu, khó thấy, khó vào như thế nào ?”
Phật nói : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Như trăm người mù đến
lương y để trị bịnh mắt. Lúc đó
lương y dùng kim vàng lột màng mắt của họ, lột xong, giơ một ngón tay hỏi rằng : Thấy không ? Người mù đáp rằng : Tôi vẫn chưa thấy.
Lương y lại giơ hai ngón, ba ngón ; người mù mới nói rằng thấy mờ mờ.
Nầy Thiện-nam-tử !
Kinh điển Đại-Niết-Bàn
vi diệu nầy, lúc đức Như-Lai chưa nói cũng lại như vậy.
Vô lượng Bồ-tát dầu đầy đủ thật hành các ba-la- mật, nhẫn đến bậc thập-trụ vẫn còn chưa thấy được
Phật tánh. Lúc Như-Lai đã nói, mới thấy được chút ít. Lúc Bồ-Tát nầy đã được thấy, đều nói rằng : “ Thế-Tôn ! Lạ lùng thay,
chúng tôi lưu chuyển thọ
vô lượng sanh tử, thường bị
vô ngã làm
mê lầm.
Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-tát nầy lên bực thập-địa còn chưa thấy được
Phật tánh rỏ ràng, huống là hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác mà có thể thấy đặng.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người ngước mặt nhìn đàn chim nhạn trên
hư không, nhìn kỹ phưởng phất thấy dạng bầy nhạn. Bực
thập trụ Bồ-tát đối nơi
Phật tánh, thấy biết được chút ít cũng lại như vậy, huống là hàng Thanh- Văn, Duyên-Giác mà thấy biết được !
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như người say, đi trên đường xa,
ngó thấy mập mờ. Bực
thập trụ Bồ-tát đối với
Phật tánh thấy biết được ít phần cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như người khát nước, đi trong đồng trống, khắp nơi tìm nước, thấy có lùm cây, trong lùm có chim
bạch hạc, người đó bị cơn khát bức ngặt,
mê muội chẳng
phân biệt được là cây hay là nước. Đến lúc nhìn kỹ mới biết là chim
bạch hạc cùng với lùm cây. Bực
thập trụ Bồ-Tát, đối với
Phật tánh, thấy biết phần ít cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người ở trong biển lớn, nhẫn đến trăm ngàn
do tuần, trông thấy chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi xa, liền nghĩ rằng : Đó là chiếc thuyền hay là khoảng không. Nhìn lâu, trong tâm
quyết định biết là thuyền lớn. Bực
thập trụ Bồ-Tát, ở trong tự thân, thấy
Phật tánh cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như vị Vương-tử, thân rất
yếu đuối, dạo chơi suốt đêm,đến sáng ngày sau, mắt mờ thấy không được rõ. Bực Thập-trụ Bồ- Tát dầu ở nơi thân mình thấy được
Phật tánh nhưng chưa được
rõ ràng cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như quan lại, vì công sự suốt đêm
trở về nhà
chớp nhoáng thấy bầy trâu, liền nghĩ rằng : Đó là trâu ư, hay là dãy nhà, nhìn lâu, dầu nhận là trâu mà còn chưa định chắc. Bực Thập-trụ Bồ-Tát, dầu ở nơi thân mình thấy
Phật tánh, chưa có thể định chắc cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như Tỳ-kheo
trì giới, nhìn trong bát nước không có trùng, mà thấy tướng trùng, liền nghĩ rằng : Trong nước đây là trùng hay bụi đất, nhìn lâu, dầu biết là bụi nhưng chẳng
rõ ràng. Bực Thập-trụ Bồ-tát, ở trong thân mình thấy
Phật tánh chẳng được
rõ ràng lắm cũngnhư vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người, xa thấy đứa trẻ đứng trong bóng tối, liền nghĩ rằng : Đó là con vật, là chim, hay là người ? Nhìn lâu, dầu
nhận thấy là đứa trẻ, nhưng vẫn chẳng
rõ ràng. Bực Thập-trụ Bồ-tát ở nơi thân mình thấy
Phật tánh chẳng
rõ ràng lắm cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người ở trong đêm tối, thấy bức
họa tượng Bồ- Tát liền nghĩ rằng : Đây là tượng Bồ-Tát hay làtượng Thiên-thần , nhìn lâu dầu nhận là tượng Bồ-Tát, nhưng chẳng
rõ ràng. Bực Thập-trụ Bồ-Tát ở nơi thân mình thấy
Phật tánh chẳng
rõ ràng lắm cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Phật tánh ấy rất sâu như vậy, khó biết khó thấy, chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác đến được. Người trí phải
quan sát như vậy để rõ biết
Phật tánh.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : :”
Phật tánh vi-tế khó thấy như vậy, thế sao
nhục nhãn mà có thể thấy được.”
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Như trời Phi-tưởng Phi-Phi- tưởng kia, cũng chẳng phải hàng
nhị thừa biết được, chỉ
tin theo khế-kinh mà biết.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hàng Thanh-Văn
Duyên Giác tin
thuận theo kinh Đại- Niết- Bàn nầy tự
biết thân mình có
Phật tánh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vì thế nên phải
tinh tấn tu tập kinh Đại-Niết-Bàn.
Phật tánh đó chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh-Văn Duyên-Giác đến được.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Hàng
chúng sanh phàm phu chẳng phải Thánh đều nói có ngã”.
Phật nói : “
Ví như hai người làm
bạn thân nhau : Một người là vương tử, một người là dân hèn, hai người đó thường qua lại nhau, lúc đó người nghèo thấy vương tử có một con dao tốt, trong lòng thích muốn,
thời gian sau, vương tử mang dao trốn qua nước khác. Một hôm, người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, giữa giấc ngũ mơ nói con dao ! con dao ! Người nhà
nghe được bắt nộp cho vua. Vua gạn hỏi : Nhà ngươi nói con dao, nay ở đâu ? Người dân bèn thuật rõ việc trước. Nay nhà vua dầu giết thần, banh xẻ tay chân cũng không thể tìm được dao. Thần cùng vương tử vốn là
bạn thân, trước kia, dầu mắt được thấy con dao, nhưng còn không dám chạm đến, huống lại
cố ý lấy.
Vua lại hỏi : “ Lúc nhà ngươi thấy dao, hình dạng giống thứ gì “.
Người dân bèn thưa : “ Tâu Đại-Vương, thần thấy con dao ấy giống như sừng dê đen”.
Vua nghe xong,
vui mừng cả cười, bảo rằng : “ Nhà ngươi chớ sợ, ta
tha cho ngươi, trong kho tàng của ta, đều không có thứ dao ấy, huống là ngươi thấy con dao nơi vương tử”.
Lúc đó nhà vua lại hỏi các quan : “ Các khanh từng thấy con dao đó chăng ?” Nói xong vua liền băng. Triều thần liền lập vương tử khác lên làm vua.
Tân Vương lại hỏi các quan : “ Các khanh từng thấy con dao đó chăng ?
Hình dáng nó như thế nào ?”
Các quan đồng tâu : “ Chúng thần từng thấy hình nó như sừng dê đen”.
Vua nói : “ Trong kho tàng của ta, chỗ nào mà có thứ dao hình dạng như vậy ?”
Lần lượt bốn vị tân Vương tra tìm con dao ấy đều chẳng đặng.
Sau đó, vị Vương tử
đào vong ngày trước,
trở về nước, được tôn làm vua. Khi
lên ngôi xong, tân Vương nầy lại hỏi các quan : “ Các khanh có thấy con dao đó chăng ? Hình dạng nó thế nào ?”
Các quan tâu : “
Chúng tôi đều thấy”. Rồi đua nhau trình bày
hình dáng của con dao. Người thì nói sắc dao
thanh tịnh như
hoa sen xanh. Người lại nói hình như sừng dê. Người thì nói dao màu hồng đỏ như lửa. Người lại nói dao đen tuyền như rắn đen.
Nhà vua
cả cười bảo : “ Các khanh đều chẳng thấy biết
hình dáng thật của con dao của ta”.
Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát
xuất hiện nơi đời nói tướng chơn thiệt của ngã cũng như vậy. Nói xong bỏ đi. Như Vương-tử mang con dao tốt trốn qua nước khác.
Người
phàm phu ngu mê cho rằng tất cả đều có ngã, có ngã. Như người dân hèn ngũ nhờ nhà người khác, mơ nói con dao ! con dao !
Hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác hỏi các
chúng sanh, tướng của ngã như thế nào ? Đáp rằng : “ Tôi thấy tướng của ngã lớn bằng ngón tay cái. Có kẻ nói, như hột gạo. Có kẻ nói như hột cỏ. Cũng có kẽ nói tướng của ngã ở trong tâm, sáng rỡ như mặt trời”.
Những
chúng sanh đó đều chẳng biết tướng của ngã. Như các quan chẳng biết
hình dáng của con dao.
Bồ-Tát nói tướng trạng của ngã, hàng
phàm phu chẳng rõ biết,
vọng tưởng ra các
hình tướng của ngã, như những người nói
hình dáng của con dao, giống như sừng dê đen v.v…
Các hạng
phàm phu đó,
tuần tự nối nhau mà sanh những
tà kiến.
Vì dứt những
tà kiến đó, nên đức Như-Lai
hiện ra đời, nói pháp vô-ngã. Vương- tử bảo các quan : Trong kho tàng của ta không có thứ dao như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hôm nay đức Như-Lai nói ngã chơn thật gọi là
Phật tánh.
Phật tánh như vậy ở trong
phật pháp của ta, như con dao tốt kia.
Thiện-Nam-tử ! Nếu có kẻ
phàm phu, có thể
nói đúng, đó chính là do vì
tùy thuận Phật pháp vô thượng. Nếu có người khéo
phân biệt tùy thuận tuyên nói như đây, nên biết người đó chính là Bồ-tát.
THÍCH NGHĨA
(47) – PHƯƠNG- ĐẲNG : Rộng lớn cùng khắp.
(48) – THANH-VĂN : Nghe thanh âm ; hàng Tiểu-thừa nghe thanh âm thuyết pháp của Phật rồi y theo đó tu tập mà đoạn hoặc nghiệp, chứng chơn quả. Không phải như Đại-Thừa Bồ-Tát tự ngộ bổn tâm, tự chứng bổn tánh.
(49) – SANH – MANH : Kẻ mù từ khi sanh ra. Nơi đây chỉ cho hạng phàm phu không trí huệ chơn chánh.