05. PHẨM KIM CANG THÂN THỨ NĂM
(Hán bộ phần giữa quyển thứ ba)
Bấy giờ
đức Phật lại bảo
Ca Diếp Bồ Tát: "Nầy Ca Diếp! Thân
Như Lai là thân
thường trụ, thân
bất hoại,
thân kim cang chẳng phải là thân tạp thực. Chính là pháp thân".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch thế tôn! Những thân của Phật nói đó con đều chẳng thấy, con chỉ thấy những thân
vô thường,
phá hoại,
vi trần, tạp thực thôi, vì rằng
đức Như Lai sắp nhập niết bàn".
Phật dạy: "Nầy Ca Diếp! Ông chớ cho rằng thân của
Như Lai hư hoại không bền, như thân
phàm phu."
"Ông nên biết rằng thân
Như Lai trong
vô lượng ức kiếp luôn bền chắc không hư hoại, không phải thân người, thân trời, không phải thân sợ sệt, chẳng phải thân tạp thực. Thân của
Như Lai chẳng phải thân mà là thân, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng tập chẳng tu,
vô lượng vô biên, không có dấu vết,
vô tri vô hình,
rốt ráo thanh tịnh, không có lay động, không phải thọ hành, chẳng trụ chẳng làm, không
mùi vị không xen tạp, chẳng phải
hữu vi, chẳng phải nghiệp, chẳng phải quả, chẳng phải dời chẳng phải diệt, chẳng phải
tâm vương tâm sở, chẳng thể nghĩ bàn, thường chẳng thể nghĩ bàn, không thức, rời tâm cũng chẳng rời tâm, tâm đó
bình đẳng không có mà cũng có, không đến đi mà cũng đến đi, chẳng
phá hoại, chẳng
đoạn tuyệt, chẳng
sanh diệt, không chủ mà cũng là chủ, chẳng phải
hữu vô, chẳng phải
giác quán, chẳng
danh tự chẳng phải không
danh tự, chẳng phải định chẳng phải
không định, không thể thấy mà cũng thấy
rành rành, không nơi chỗ cũng là nơi chỗ, không tối không sáng,
không tịch tịnh mà cũng
tịch tịnh, là
vô sở hữu, chẳng nhận lấy chẳng
ban cho,
trong sạch không nhơ, không
tranh đua, dứt
tranh đua, trụ nơi
vô trụ, chẳng chấp lấy chẳng sa mắc, chẳng phải pháp chẳng phải
phi pháp, chẳng phải
phước điền chẳng phải không
phước điền,
vô tận bất tận, lìa tất cả tận, là rỗng không rời rỗng không, dầu chẳng
thường trụ mà cũng
thường trụ, chẳng phải
niệm niệm diệt, không có cấu trược, không
danh tự rời
danh tự, chẳng phải tiếng chẳng phải nói, cũng chẳng phải
tu tập, chẳng phải cân lường, chẳng phải nhứt dị, chẳng phải
hình tượng, chẳng phải
tướng mạo mà đủ tướng tốt
trang nghiêm, chẳng phải dõng mãnh, chẳng phải sợ sệt,
không tịch chẳng tịch, không nhiệt chẳng nhiệt, không thể xem thấy không có
tướng mạo.
Như Lai độ thoát tất cả
chúng sanh vì không ai
độ thoát cho.
Như Lai có thể làm cho
chúng sanh được
hiểu biết được
giác ngộ, vì không ai
giác ngộ cho.
Như Lai thuyết pháp đúng
như thật vì không có hai, chẳng thể nghĩ lường vì không
sánh bằng,
bình đẳng như
hư không chẳng có
hình mạo, đồng tánh
vô sanh chẳng đoạn chẳng thường,
thường hành nhứt thừa chúng sanh thấy là ba, chẳng thối chẳng chuyển, dứt tất cả
kiết sử, chẳng gây chẳng chạm, chẳng phải tánh mà trụ nơi tánh, chẳng phải hiệp chẳng phải tan, chẳng phải dài chẳng phải vắn, chẳng phải tròn chẳng phải vuông, chẳng phải
ngũ ấm lục nhập,
thập bát giới mà là ấm, nhập, giới, chẳng phải thêm chẳng phải tổn, chẳng phải hơn chẳng phải thua. Thân của
Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy, không có ai biết không ai chẳng biết, không ai thấy không ai chẳng thấy, chẳng phải
hữu vi chẳng phải
vô vi, chẳng phải
thời gian chẳng phải không
thời gian, chẳng phải làm chẳng phải chẳng làm, chẳng phải nương chẳng phải không nương, chẳng phải
tứ đại chẳng phải không
tứ đại, chẳng phải nhơn chẳng phải chẳng nhơn, chẳng phải
chúng sanh chẳng phải chẳng
chúng sanh, chẳng phải
Sa Môn chẳng phải
Bà La Môn, là
sư tử là
đại sư tử, chẳng phải thân chẳng phải chẳng thân, chẳng thể
tuyên thuyết, trừ một
pháp tướng không tính đếm được, lúc
nhập niết bàn chẳng
nhập niết bàn.
Pháp thân của
Như Lai thảy đều
thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Nầy Ca Diếp! Chỉ có
Như Lai mới biết tướng ấy, chẳng phải hàng
Thanh Văn Duyên Giác biết được. Những
công đức như vậy
thành thân của
Như Lai, chẳng phải thân do tạp thực nuôi lớn.
Nầy Ca Diếp! Chơn thân của
Như Lai có
công đức như vậy, đâu lại có các bịnh hoạn mỏng manh chẳng bền như đồ gốm chưa hầm kia ư?
Sở dĩ Như Lai thị hiện có sự khổ là vì muốn
điều phục các
chúng sanh.
Nay ông phải
biết thân Như Lai là
thân kim cang. Từ ngày nay ông phải
chuyên tâm suy nghĩ nghĩa ấy, chớ nghĩ là thân tạp thực. Cũng nên vì người mà giảng nói thân
Như Lai tức là pháp thân".
Ca Diếp bồ tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn!
Đức Như Lai thành tựu công đức như vậy, sao thân
Như Lai phải có
bịnh khổ vô thường phá hoại?
Từ ngày nay, con phải thường
suy nghĩ thân của
Như Lai là
pháp thân thường trụ, là thân
an lạc. Con cũng sẽ nói rộng nghĩa ấy cho người khác cùng nghe biết.
Kính bạch Thế Tôn!
Pháp thân của
Như Lai Kim Cang bất hoại, mà con chưa rỏ
nguyên do thế nào."
Phật dạy: "Nầy Ca Diếp! Vì
nhơn duyên hay
hộ trì chánh pháp nên được
thành tựu thân Kim Cang này.
Nầy Ca Diếp! Do vì ngày trước
Như Lai hộ pháp nên nay được
thân Kim cang thường trụ bất hoại này.
Nầy Ca Diếp! Người
hộ trì chánh pháp chẳng thọ
năm giới, chẳng tu
oai nghi. Phải cầm binh khí
hộ trì Tỳ Kheo giữ giới thanh tịnh".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu có
Tỳ Kheo rời sự
hộ trì, ở riêng nơi vắng vẻ, bên gò, dưới cây, thời nên gọi vị này là chơn
Tỳ Kheo. Nếu có người theo
giữ gìn, phải biết vị này là
cư sĩ trọc."
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ông chớ nói là
Cư sĩ trọc. Nếu có
Tỳ Kheo tùy ở chỗ nào nuôi thân
vừa đủ,
đọc tụng kinh điển,
tư duy tọa thiền. Có ai đến thưa
hỏi đạo pháp, thời giảng nói
phước đức trì giới,
bố thí, ít muốn biết đủ. Dầu hay
thuyết pháp như
vậy mà vẫn không thể
tuyên thuyết pháp
đại thừa, không có
đồ chúng đại thừa, không
hàng phục được kẻ ác
phi pháp.
Tỳ Kheo này không có thể đem
lợi ích lại cho chính mình và
chúng sanh. Phải biết
Tỳ Kheo này lười nhác biếng trễ. Dầu hay
giữ giới gìn hạnh
thanh tịnh mà không làm được việc gì.
Nếu có
Tỳ Kheo nuôi thân đầy đủ,
giữ gìn cấm giới đã thọ, có thể giảng rộng
giáo lý vi diệu đại thừa trong
chín bộ kinh, để
lợi ích an lạc các hạng
chúng sanh. Xướng lên rằng: Trong
kinh Niết Bàn,
đức Phật bảo các
Tỳ Kheo chẳng được chứa nuôi tôi tớ trâu bò dê lợn, những vật
phi pháp. Nếu có
Tỳ Kheo nào chứa nuôi những vật
bất tịnh ấy thời phải răn trị.
Đức Như Lai ở trong
bộ kinh khác đã từng nói có
Tỳ Kheo nuôi chứa những vật
phi pháp ấy, bị
quốc vương y cứ pháp trừng trị bắt phải
hoàn tục.
Nếu có
Tỳ Kheo lúc
tuyên thuyết những lời như trên đây, những kẻ
phá giới nghe được rất oán giận bèn hại vị
pháp sư này. Dầu
bị giết chết, nhưng vị
pháp sư này vẫn được gọi là bực
trì giới lợi mình lợi người. Vì do duyên này nên
Như Lai cho phép vua quan,
cư sĩ hộ trì người
thuyết pháp. Nếu ai muốn được
hộ trì chánh pháp phải nên học như vậy.
Nầy Ca Diếp! Người
phá giới chẳng
hộ trì chánh pháp, gọi là
cư sĩ trọc. Chẳng phải người
trì giới mang phải danh từ ấy.
Nầy Ca Diếp! Về đời
quá khứ đã
vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thành
Câu Thi Na này có Phật ra đời hiệu
Hoan Hỉ Tăng Ích Như Lai đủ cả mười
đức hiệu.
Lúc ấy cõi nước rộng lớn
tốt đẹp giàu vui, nhơn dân đông đầy
ấm no như chư
Bồ Tát ở cõi
An Lạc. Phật
Hoan Hỉ Tăng Ích ở đời rất lâu,
cơ duyên đã mãn, Ngài
nhập Niết Bàn, nơi rừng
Ta La. Sau khi Phật
Hoan Hỉ Tăng Ích nhập Niết Bàn.
Chánh pháp còn ở đời
vô lượng ức năm, lúc còn lại bốn mươi năm
cuối cùng, bấy giờ có một
Tỳ Kheo trì giới hiệu là
Giác Đức có đông
đồ chúng.
Tỳ Kheo Giác Đức hay
tuyên thuyết chín bộ kinh. Cấm các
Tỳ Kheo không được chứa nuôi tôi tớ trâu bò heo dê, những vật
phi pháp. Bấy giờ có các
Tỳ Kheo phá giới oán ghét theo làm
hại Giác Đức.
Quốc vương Hữu Đức
nghe được việc ấy, vì
hộ pháp nên nhà vua liền vội đến đấu chiến với bọn
phá giới, nhờ đó mà
pháp sư Giác Đức khỏi nạn. Nhà vua cả mình
bị thương rất nặng.
Pháp sư Giác Đức liền khen vua rằng: "Lành thay!
Lành thay! Nay vua thiệt là người
hộ pháp,
đời sau, thân vua sẽ là
vô lượng pháp khí". Vua
nghe lời ấy lòng rất
vui mừng, rồi liền chết sanh về
cõi Phật A Súc làm vị
đệ tử thứ nhứt. Quân lính nhơn dân hoặc người theo vua chiến đấu, hoặc
tùy hỉ đều được
không thối chuyển tâm
bồ đề,
sau khi chết họ cũng được sanh về nước của Phật
A Súc.
Pháp sư Giác Đức khi mãn thọ cũng sanh về cõi ấy làm vị
đệ tử thứ hai trong chúng
Thanh Văn của Phật
A Súc.
Nầy Ca Diếp!
Quốc Vương trước kia là
tiền thân của
Như Lai đây,
Pháp sư Giác Đức là
tiền thân của Phật
Ca Diếp.
Nếu lúc
chánh pháp sắp diệt phải nên
hộ trì như vậy. Người
hộ pháp được
vô lượng quả báo, vì thế nên nay
Như Lai được nhiều tướng tốt để tự
trang nghiêm,
thành tựu pháp thân không biến hoại".
Ca Diếp Bồ Tát lại
bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Thân chơn thường của
Như Lai cũng như khắc chạm vào đá".
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Nầy Ca Diếp! Vì
nhơn duyên như vậy nên
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di phải siêng năng
hộ trì chánh pháp.
Hộ pháp được
quả báo rộng lớn
vô lượng.
Nầy Ca Diếp! Vì những cớ ấy nên hàng
Ưu Bà Tắc v.v... phải cầm binh khí
ủng hộ vị
Tỳ Kheo trì pháp như
Giác Đức kia. Nếu cứ
thọ trì ngũ giới chẳng đặng gọi là người
đại thừa. Người
hộ trì chánh pháp nên phải cầm binh khí hầu người
thuyết pháp."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu chư
Tỳ Kheo làm bạn với hàng
Ưu Bà Tắc cầm binh khí như vậy, là có thầy hay không có thầy? Là
trì giới hay phá giới?".
Phật nói: "Ông chớ nói những người ấy là
phá giới.
Nầy
Ca Diếp ! Sau khi ta
nhập niết bàn đời trược ác, cõi nước hoang loạn, đánh cướp lẫn nhau, nhơn dân đói khổ. Bấy giờ có người vì đói khổ nên
phát tâm xuất gia, người như vậy gọi là người trọc. Hạng trọc ấy thấy
Tỳ Kheo thanh tịnh giữ giới oai nghi đầy đủ
hộ trì chánh pháp, bèn
xua đuổi hoặc giết hại".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật : "Bạch
Thế Tôn ! Nếu như vậy thời
Tỳ Kheo trì giới hộ trì chánh pháp, làm thế nào vào
tụ lạc thành ấp để giáo hóa".
Phật nói : "Vì vậy nên
Như Lai cho phép Tỳ Kheo trì giới cùng làm bạn với hàng
cư sĩ cầm
khí giới. Trong
trường hợp trên đây, các
quốc vương, đại thần,
trưởng giả,
Ưu Bà Tắc v.v... vì
hộ pháp mà cầm binh khí.
Như Lai gọi họ là người
trì giới. Dầu cầm binh khí, nhưng chẳng nên giết chết người, nếu được như vậy thời được gọi là người
trì giới bực nhứt.
Nầy
Ca Diếp ! Người đủ
chánh kiến có thể giảng rộng
kinh điển đại thừa, trọn nắm cầm tàng lọng của hàng vương giả, bình dầu, gạo thóc, các thứ dưa trái. Chẳng vì
lợi dưỡng mà thân cận vua, quan,
trưởng giả. Đối với các
đàn việt tâm không đua vạy, đầy đủ
oai nghi, phục trừ hạng ác
phá giới, đây gọi là bực thầy
trì giới hộ pháp. Người này có thể làm chơn
thiện tri thức cho
chúng sanh. Tâm người này rộng lớn như biển cả.
Nầy
Ca Diếp ! Nếu có
Tỳ Kheo vì
cầu lợi mà
thuyết pháp cho người.
Đồ chúng quyến thuộc của
Tỳ Kheo nầy cũng bắt chước thầy mà
cầu lợi,
Tỳ Kheo này bèn là tự
phá hoại tăng chúng.
Nầy
Ca Diếp !
Tăng chúng có ba hạng: một là
phạm giới tạp tăng, hai là
ngu si tăng, ba là
thanh tịnh tăng. Hạng
phá giới tạp tăng thời d
phá hoại. Hạng tăng
thanh tịnh trì giới thời lợi danh không làm hư được.
Thế nào là
phá giới tạp tăng ? Nếu thầy
Tỳ Kheo dầu là
giữ gìn giới cấm, mà vì
cầu lợi nên cùng với người
phá giới ở chung, ngồi chung, đi chung,
sự nghiệp chung, đây gọi là
phá giới cũng gọi là tạp tăng.
Thế nào là
ngu si tăng ? Nếu có
Tỳ Kheo ở nơi
A Lan Nhã,
tâm trí tối khờ
đần độn,
thiểu dục đi
khất thực. Đến ngày
thuyết giới ngày
tự tứ, bảo các
đệ tử thanh tịnh sám hối. Thấy người không phải
đệ tử phạm giới không có thể bảo
thanh tịnh sám hối, mà bèn chung
thuyết giới tự tứ. Đây gọi là hạng
ngu si tăng.
Thế nào là
thanh tịnh tăng ? Có
Tỳ Kheo Tăng không bị trăm ngàn loài ma làm trở hoại.
Đại chúng Bồ Tát nầy bổn tánh
thanh tịnh, có thể
điều phục được hai bộ chúng trên làm cho đều an trụ trong chúng
thanh tịnh. Đây gọi là bực
đại sư Hộ Pháp vô thượng.
Người khéo
trì luật vì muốn
điều phục lợi ích chúng sanh, rõ biết
hành tướng hoặc khinh hoặc trọng của giới, không phải luật thời không chứng biết, còn phải là luật thời bèn chứng biết.
Thế nào là
điều phục lợi ích chúng sanh? Nếu là
Bồ Tát vì
giáo hóa chúng sanh mà thường vào xóm làng chẳng chọn
thời tiết, hoặc đến nhà của góa phụ,
dâm nữ mà cùng
ở chung nhiều năm. Đây gọi là
điều phục lợi ích chúng sanh. Nếu là hàng
Thanh Văn thời không nên làm như vậy.
Thế nào gọi là giới trọng ? Nếu thấy
đức Như Lai nhơn sự
chế giới, từ ngày nay ông phải
cẩn thận chớ lại phạm, như bốn giới trọng người
xuất gia không nên làm mà bèn
cố ý làm là không phải là
Sa Môn, không phải hàng
Thích tử, đây gọi là trọng.
Thế nào là giới khinh? Nếu
phạm tội nhẹ, ba lần
can gián, nếu hay bỏ được, đây gọi là khinh. Chẳng phải luật không chứng biết, là khi có người khen nói những vật không
thanh tịnh nên thọ dùng thời không
ở chung với người ấy.
Phải là luật thời chứng biết, là khéo
học giới luật, chẳng gần người
phá giới, thấy ai thật hành thuận với
giới luật thời lòng
vui mừng, khéo hay
giải thuyết thế nào là chỗ làm của
Phật pháp, đây gọi là
luật sư. Khéo hiểu nhứt tự, khéo gìn
khế kinh cũng lại như vậy.
Nầy
Ca Diếp !
Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Như Lai cũng vậy chẳng thể nghĩ bàn".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch
Thế Tôn ! Đúng như lời
đức Phật dạy,
Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Như Lai cũng vậy chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế nên biết
Như Lai thường trụ chẳng
biến đổi chẳng hư hoại. Nay con khéo học và cũng sẽ giảng rộng cho người về nghĩa ấy".
Phật khen
Ca Diếp Bồ Tát : "Lành thay!
Lành thay! Thân
Như Lai là
thân Kim Cang bất hoại.
Bồ Tát phải khéo học như vậy, thấy chơn chánh biết chơn chánh như vậy.
Nếu có thể thấy biết rành rẽ như vậy, thời là thấy
thân kim cang không hư hoại của Phật, như thấy
hình sắc trong gương sáng".