HẬU PHẦN
LỜI DẠY CUỐI CÙNG
Phẩm thứ nhất[1]
Lúc ấy,
Phật bảo A-nan và
đại chúng: “Sau khi ta
diệt độ, hàng
đệ tử xuất gia và
tại gia đều nên
chuyên cần gìn giữ bảo vệ kinh Đại Niết-bàn này. Trong
vô lượng vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, ta đã
tu tập pháp Đại Niết-bàn rất khó được này. Nay ta đã
giảng thuyết rõ [cho
đại chúng] rồi.
“Đại chúng nên biết, kinh Đại Niết-bàn này chính là kho báu
Kim cang của tất cả
mười phương chư Phật ba đời; là thường, lạc, ngã, tịnh; tròn đầy
trọn vẹn không khiếm khuyết. Tất cả chư Phật đều từ nơi kinh Niết-bàn này mà nhập Niết-bàn. Kinh này là chỗ
cứu cánh rốt ráo,
nghĩa lý thấu đáo đến cùng cực không sai sót. Chư Phật từ nơi kinh này mà
buông xả thân mạng, nên gọi là Niết-bàn.
“Nếu các ông muốn
quyết lòng báo đáp ơn Phật một cách
chân thật, sớm
đạt được [
quả vị] Bồ-đề, được chư Phật xoa đầu [
thọ ký],
đời đời sanh ra không mất
Chánh niệm, thường được
chư Phật mười phương hiện ra trước mặt, ngày đêm
gìn giữ bảo vệ, khiến cho tất cả đều
đạt được pháp
xuất thế, vậy phải
chuyên cần tu tập kinh Niết-bàn này.”
Phật lại bảo A-nan: “Khi chưa
thành Phật, ta có
thị hiện vào pháp
ngoại đạo của Uất-đầu-lam-phất,
tu học Bốn thiền, Tám định,[2] thọ nhận và
thực hành giáo pháp của ông ấy. Từ khi
thành Phật đến nay, ta
chê trách pháp của ông ấy;
dần dần khuyến khích, dắt dẫn cho
mọi người đều được vào
đạo Phật, mà Tu-bạt-đà là người sau chót.
Như Lai dùng ngọn đuốc
trí tuệ lớn để đốt cháy ngọn cờ
tà kiến như lá cỏ khô bị ném vào giữa ngọn lửa lớn.
“Này A-nan! Nay ta cũng nghĩ nhiều đến những
thân thích trong
dòng họ Thích-ca. Sau khi ta nhập Niết-bàn, ông nên
chuyên cần tinh tấn, đem những điều lành mà khuyên răn dạy dỗ, trao truyền
Chánh pháp nhiệm mầu cho họ,
hết lòng dạy bảo, dẫn dắt họ; đừng để cho họ mê đắm chuyện
ăn chơi, buông thả lười nhác,
để tâm tán loạn chạy theo [trần] cảnh, thọ nhận và
thực hành các pháp
tà vạy.
“Những ai còn chưa
thoát khỏi sự
thống khổ của
thế gian trong
Ba cõi, hãy sớm cầu
sự giải thoát. Trong chốn
ái dục có
năm sự uế trược này,[3] nên sanh
tư tưởng lo âu sợ sệt, [rằng] không có ai cứu vớt
che chở [được cho mình]. Một khi đã mất thân người rất khó lòng được lại, nên suốt
một đời này phải thường luôn
tỉnh táo giữ gìn suy xét. Con quỷ lớn
vô thường không thể dùng [xúc] tình mà cầu
thoát khỏi.
“Hãy
thương xót chúng sanh, đừng giết hại lẫn nhau,
cho đến loài sâu bọ nhỏ nhoi cũng nên
mang đến cho chúng sự [
bình an] không lo sợ. Nghiệp của thân được
thanh tịnh sẽ thường được sanh nơi
cảnh giới tốt đẹp; nghiệp của miệng được
thanh tịnh sẽ tránh được mọi
tội lỗi xấu ác. Không
ăn thịt, không uống rượu!
Điều phục con
rắn độc là tâm mình, khiến nó được theo vào
Chánh đạo. Phải
suy xét sâu xa những chỗ tạo nghiệp:
Quả báo lành, dữ như bóng theo hình;
nhân quả trong
ba đời xoay vần chẳng [bao giờ] mất.
“[Nếu để]
một đời này luống qua, sau dù có hối cũng không còn kịp. Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn [nên có mấy lời] dặn dò các ông như vậy.”
Bấy giờ, A-nan nghe qua những
lời Phật dạy rồi thì
thân tâm đều rúng động,
tinh thần hoang mang
mê muội, buồn khổ nghẹn ngào, chìm sâu trong biển sầu đau,
thân thể mê man,
lòng dạ rối loạn hôn ám,
ngã xuống trước mặt đức Như Lai, [
bất động] như người đã chết.
Khi ấy, ngài A-na-luật[4] liền đến
an ủi khuyên giải để giúp A-nan
giảm bớt cơn
sầu khổ. Ngài nói rằng: “Than ôi!
Sầu khổ có ích gì? Đã đến lúc
Như Lai [sắp] nhập Niết-bàn, nay tuy thấy đó, mai đã không còn! [Vì thế] ông nên theo lời tôi, thưa thỉnh
Như Lai về bốn việc này.
“Một là, sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, nhóm sáu thầy tỳ-kheo xấu[5] làm những việc nhơ nhớp hoen ố nhà người khác, [tỳ-kheo]
Ác tánh Xa-nặc[6] [tánh tình xấu ác], làm sao có thể sống chung với họ để chỉ bày, dạy bảo?
“Hai là, khi
Như Lai tại thế, Phật là thầy của tất cả
chúng ta; sau khi
Thế Tôn diệt độ,
chúng ta biết lấy ai làm thầy?
“Ba là, khi Phật
tại thế,
chúng ta đều
y theo Phật mà an trụ; khi
Như Lai diệt độ rồi,
chúng ta sẽ dựa theo đâu mà an trụ?
“Bốn là, sau khi
Như Lai diệt độ, lúc
kết tập kho tàng
giáo pháp, nên ghi như thế nào ở phần mở đầu tất cả các kinh?”
Bấy giờ, ngài A-nan như vừa ra khỏi
giấc mộng, nghe A-na-luật
an ủi, nhắc nhở việc thưa hỏi Phật bốn
vấn đề trên, liền
dần dần tỉnh ngộ, [dù vẫn] không tự kiềm được nỗi bi ai [nhưng cũng gắng] thưa hỏi Phật đủ bốn việc như trên.
Phật bảo A-nan: “Sao ông lại
sầu khổ đau thương đến thế? Chư
Phật giáo hóa khi đã
trọn vẹn,
mọi việc làm đã xong, theo đúng pháp đều nhập Niết-bàn.
“Lành thay,
lành thay! A-nan! Bốn việc ông hỏi đó là những câu hỏi
cuối cùng [trước khi ta
nhập diệt], có
lợi ích lớn đối với tất cả
thế gian.
Đại chúng hãy lắng nghe và hãy khéo
suy xét kỹ.”
A-nan
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện
ưa thích lắng nghe.”
Phật dạy: “A-nan! Như lời ông vừa hỏi: ‘Phật vào Niết-bàn rồi, nhóm sáu thầy tỳ-kheo [xấu] với [tỳ-kheo]
Ác tánh Xa-nặc làm những việc nhơ nhớp hoen ố nhà người khác, làm sao sống chung với họ để chỉ dạy?’ A-nan! [Riêng về] tỳ-kheo Xa-nặc, tánh tình xấu ác, nhưng sau khi ta nhập Niết-bàn sẽ
dần dần được
điều phục,
lòng dạ sẽ trở nên nhu hòa,
từ bỏ tánh xấu ác.
“Này A-nan! Như em trai ta là Nan-đà vốn có đủ những sự
tham dục nặng nề, tánh tình lại xấu ác.
Như Lai dùng
phương tiện khéo léo chỉ dạy cho ông ấy được sự
lợi ích,
vui vẻ.
Như Lai rõ biết
căn tánh của ông ấy nên dùng
trí tuệ Bát-nhã
giảng thuyết Mười hai nhân duyên, rằng
vô minh là duyên của hành; hành là duyên của thức...
cho đến già chết, lo buồn,
khổ não... hết thảy là một khu rừng [những điều]
tham muốn, ghét bỏ, đều do
vô minh mà có. Tất cả những
khổ não do
vô thường biến đổi tràn đầy trong
Ba cõi,
luân chuyển khắp
sáu đường; cội gốc của những sự khổ lớn đều
sanh khởi từ
vô minh.
Như Lai dùng
trí tuệ Bát-nhã chỉ bày rằng, dùng tánh
thanh tịnh quán xét kỹ cội gốc [
vô minh] liền dứt trừ được mọi
lỗi lầm tai hại trong các
cảnh giới hiện hữu. Vì cội gốc của
vô minh đã diệt nên
vô minh phải diệt;
vô minh đã diệt ắt hành phải diệt...
cho đến già chết, lo buồn,
khổ não... thảy đều diệt hết. Khi
đạt được phép quán này, giữ tâm
an định, liền nhập tam-muội. Nhờ sức tam-muội được vào
Sơ thiền,
dần dần tiến lên theo trình tự, vào đến
Đệ tứ thiền.
Tiếp tục duy trì tâm
Chánh niệm tu tập như vậy, sau đó
tự nhiên sẽ
chứng đắc được
thánh quả cao thượng, lìa hết mọi sự khổ trong
Ba cõi.
“A-nan!
Lúc ấy tỳ-kheo Nan-đà
sanh khởi lòng tin sâu xa,
y theo giáo pháp Phật dạy,
chuyên cần tu tập, không bao lâu
chứng đắc quả A-la-hán.
“A-nan! Sau khi ta nhập Niết-bàn, các người nên
y theo pháp quán chân chánh ta đã dạy [như trên] mà chỉ bày
dạy bảo cho nhóm sáu thầy tỳ-kheo xấu và tỳ-kheo Xa-nặc;
hết lòng nương theo
giáo pháp chân chánh
thanh tịnh này thì không bao lâu sẽ
tự nhiên chứng đắc được
thánh quả cao thượng.
“Này A-nan! Nên biết rằng cội cây
sanh tử to lớn trong
Ba cõi tăng trưởng được đều
do nơi vô minh; [khiến
chúng sanh] trôi giạt
chìm đắm giữa dòng sông
tham ái, trong đêm dài
khổ não, dưới vực sâu tăm tối, [
mãi mãi] quẩn quanh cây cột
sanh tử.
“Sáu thức chỉ là cành nhánh,
vọng niệm mới là cội gốc.
Vô minh như sóng nước xô đẩy
tâm thức rong chơi theo
sáu trần,[7] gieo nhân
khổ não, không gì
chế ngự được nên
tự do [gây hại] như vị [bạo] chúa [trong một nước]. Cho nên ta nói: ‘Vô minh là ông chủ [xấu ác], mỗi phút mỗi giây đều gây hại.’
Chúng sanh không rõ biết [điều đó], phải
luân chuyển trong
sanh tử.
“Này A-nan! Tất cả
chúng sanh đều nhân nơi
vô minh mà
sanh khởi những
tham ái trói buộc; do
quan điểm chấp ngã[8]
che lấp nên để cho tám mươi bốn ngàn loại
phiền não trở thành ông chủ
sai khiến chính mình, [làm cho]
thân tâm rời rã, không có được sự
tự do tự tại.
“Này A-nan! Nếu phá trừ
vô minh thì
Ba cõi đều không còn nữa. Vì
nhân duyên ấy nên [những ai phá trừ được
vô minh] gọi là người
xuất thế.
“A-nan!
Nếu có thể quán xét kỹ
Mười hai nhân duyên, [thấy được rằng]
hoàn toàn không hề có
bản ngã,
thể nhập sâu vào cội nguồn
thanh tịnh thì có thể lìa xa nạn lửa lớn là
Ba cõi.
“Này A-nan!
Như Lai là bậc nói lời chân chánh, [nay]
thành thật có lời căn dặn
cuối cùng,
đại chúng nên [theo đó mà]
tu hành.
“A-nan! Lại như lời ông hỏi: ‘Sau khi
Phật diệt độ, lấy ai làm thầy?’ Này A-nan!
Giới luật [Phật đã chế định sẽ] là bậc thầy lớn nhất của các ông,
y theo đó mà
tu hành có
thể đạt được định và tuệ rất
thâm sâu,
thoát khỏi thế tục.
“A-nan! Lại như lời ông hỏi: ‘Sau khi Phật nhập Niết-bàn, sẽ
y theo đâu mà an trụ?’ Này A-nan, hãy
y theo Bốn niệm xứ, giữ tâm
nghiêm cẩn mà an trụ. [
Bốn niệm xứ đó là:] Quán xét
thể tánh và
hình tướng của thân đồng với
hư không, gọi là
thân niệm xứ; quán xét mọi
cảm thọ không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở khoảng giữa, gọi là
thọ niệm xứ; quán xét tâm này chỉ là tên gọi,
tính chất của tên gọi là lìa khỏi [
thực thể],[9] gọi là
tâm niệm xứ; quán xét các
pháp không [rơi vào]
pháp thiện, không [rơi vào] pháp
bất thiện, gọi là
pháp niệm xứ.[10]
“A-nan! Tất cả những người
tu hành nên
y theo Bốn niệm xứ ấy mà an trụ.
“A-nan! Lại như lời ông hỏi: ‘Sau khi
Như Lai diệt độ, lúc
kết tập kho tàng
giáo pháp, nên ghi như thế nào ở phần mở đầu tất cả các kinh?’ Này A-nan, sau khi
Như Lai diệt độ, lúc
kết tập kho tàng
giáo pháp, ở phần mở đầu tất cả các kinh nên ghi rằng: ‘Tôi nghe như thế này, vào lúc Phật đang ở tại... vì
bốn chúng đệ tử mà
thuyết kinh này.’”[11]
Lúc ấy, A-nan lại bạch hỏi Phật: “Thế Tôn! Trong lúc Phật còn
tại thế hay khi Phật đã nhập Niết-bàn, nếu có người đàn-việt có
đức tin đem
vàng bạc,
bảy món báu, đủ các món
ưa thích mà dâng cúng
Như Lai thì nên
sắp đặt thế nào?”
Phật dạy A-nan: “Lúc Phật còn
tại thế, những vật dâng
cúng Phật thì
chúng tăng nên được biết. Sau khi
Phật diệt độ, tất cả những vật mà người ta do
lòng tin dâng cúng lên Phật thì nên dùng để tạo
hình tượng Phật, áo Phật, phướn, lọng bằng
bảy báu, hoặc mua
các loại hương, dầu, hoa quý mà dâng
cúng Phật. Trừ việc dâng
cúng Phật,
ngoài ra không ai được dùng. Người nào dùng [những phẩm vật ấy] tức là
phạm tội ăn cắp tài vật của Phật.”[12]
A-nan lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Trong khi Phật còn
tại thế,
ví như có người dùng
vàng bạc châu báu, phòng xá,
điện đường,
vợ con, tôi tớ,[13]
y phục,
thức ăn uống, đủ các món
ưa thích, đem
hết lòng cung kính lễ bái cúng dường Như Lai; rồi sau khi Phật nhập Niết-bàn, cũng có người dùng
vàng bạc châu báu,
vợ con, tôi tớ, áo quần,
thức ăn uống, đủ các món
ưa thích mà dâng cúng lên
hình tượng Như Lai, đem
hết lòng cung kính lễ bái cúng dường.
“Bạch Thế Tôn! Trong hai người
hết lòng cúng dường ấy, ai được
phước đức nhiều hơn?”
Phật bảo A-nan: “Hai người ấy đều đem
hết lòng [
thành kính] để
cúng dường, [nên] chỗ được
phước đức của họ không khác gì nhau. Vì sao vậy? Tuy Phật đã
diệt độ, nhưng
Pháp thân thường còn. Vì cả hai đều đem
hết lòng [
thành kính] để
cúng dường nên
phước đức đều như nhau.”
A-nan lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Trong khi Phật còn
tại thế,
ví như có người đem
hết lòng [
thành kính]
cúng dường Như Lai cũng giống như trên; sau khi Phật nhập Niết-bàn lại có người đem
hết lòng [
thành kính]
cúng dường cung kính xá-lợi
toàn thân [của Phật]. Bạch Thế Tôn! Trong hai người ấy, ai được
phước đức nhiều hơn?”
Phật bảo A-nan: “Hai người ấy được
phước đức như nhau,
công đức của họ là rộng lớn
vô lượng vô biên [không thể
cùng tận], cho dù biển khổ cạn hết,
phước đức của họ cũng không hết.”
A-nan lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Trong khi Phật còn
tại thế,
ví như có người
hết lòng [
thành kính]
cúng dường Như Lai cũng giống như trên; sau khi Phật nhập Niết-bàn lại có người cũng
hết lòng [
thành kính]
cúng dường như trên đối với xá-lợi một nửa thân Phật. Bạch Thế Tôn! Trong hai người ấy, ai được
phước đức nhiều hơn?”
Phật bảo A-nan: “Hai người ấy đều
hết lòng [
thành kính]
cúng dường, nên chỗ được
phước đức không khác gì nhau, đều là
vô lượng vô biên.
“A-nan! Sau khi
Phật diệt độ,
ví như có người
hết lòng [
thành kính]
cúng dường xá-lợi
Như Lai, dù chỉ là một phần tư, một phần tám, một phần mười sáu, một phần trăm, một phần ngàn, một phần mười ngàn, hoặc một phần trong
vô số phần nhiều như
số cát sông Hằng,
cho đến một phần nhỏ như hạt cải, nhưng cũng đều
hết lòng [
thành kính] mà
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán. [Nếu so với] khi Phật còn
tại thế có người
hết lòng [
thành kính]
cúng dường cung kính Như Lai, thì chỗ được
phước đức của cả hai người đều không khác gì nhau.
Phước đức của họ là
vô lượng, không thể đo lường, không thể nói hết.
“A-nan! Nên biết rằng, dù khi Phật còn
tại thế hay sau khi Phật đã nhập Niết-bàn, nếu có người
hết lòng cung kính cúng dường,
lễ bái,
tôn trọng,
tán thán [
Như Lai], chỗ được
phước đức [trong cả hai
trường hợp] đều không khác gì nhau.”
Phật bảo A-nan và
đại chúng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn, tất cả những
chúng sanh nào ở các
cõi trời, người, khi nhận được xá-lợi của ta, buồn vui
lẫn lộn, vừa thương cảm vừa
hân hoan, liền
hết lòng cung kính,
lễ bái,
cúng dường, sẽ được
vô lượng vô biên công đức.
“Này A-nan! Nhìn thấy xá-lợi của
Như Lai tức là thấy Phật; thấy Phật là thấy Pháp; thấy Pháp là thấy Tăng; thấy Tăng là thấy được Niết-bàn.
“A-nan! Nên biết rằng, vì
nhân duyên ấy nên
Tam bảo là
thường trụ, không hề
biến đổi, có thể làm chỗ
quy y cho tất cả
chúng sanh.”
A-nan lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Sau khi Phật nhập Niết-bàn, tất cả
đại chúng nên
y theo phép tắc nào để trà-tỳ[14] [nhục thân]
Như Lai rồi thu lấy xá-lợi và
hết lòng [
thành kính] cúng dường?”
Phật dạy A-nan: “Sau khi ta nhập Niết-bàn,
đại chúng nên
y theo phương pháp trà-tỳ [như đối với vị]
Chuyển luân Thánh vương.”
A-nan lại hỏi: “Phương pháp trà-tỳ [đối với vị]
Chuyển luân Thánh vương là như thế nào?”
Phật bảo A-nan: “Sau khi vị
Chuyển luân Thánh vương băng hà, [di thể được] giữ lại bảy ngày rồi mới cho vào một cỗ kim quan. Sau đó dùng loại dầu thơm tốt nhất để rót đầy vào quan tài rồi đóng kín lại.
Trải qua bảy ngày sau mới đưa di thể ra khỏi kim quan, dùng các thứ
nước thơm mà tắm gội, rồi đốt
các loại danh hương để
cúng dường. Sau đó dùng hoa đâu-la[15] bọc lót khắp quanh di thể. Kế đó, dùng ngàn tấm lụa trắng loại quý nhất để quấn quanh khắp di thể thành nhiều lớp, lớp này bọc lên lớp kia. Tiếp đó lại dùng các thứ dầu thơm rót đầy vào kim quan, sau đó mới đặt di thể [
trở lại] vào trong đó và đậy kín lại.
“Bấy giờ mới dùng loại xe quý bằng
gỗ thơm và
bảy món báu để đưa kim quan đi. Bốn phía xe đều treo
các loại chuỗi ngọc, lại dùng tất cả các món trang sức
quý báu để
trang hoàng. Bao quanh xe là
vô số phướn hoa, cờ lọng bằng
bảy món báu, [lại đốt lên] tất cả
các loại hương thơm
vi diệu, dùng tất cả
các loại âm nhạc [như ở
cõi trời] vây quanh [xe chở kim quan] để
cúng dường. Bấy giờ mới dùng toàn những thanh
gỗ thơm loại tốt, có trang trí ở cả bên trong và bên ngoài, cùng với loại dầu thơm tốt nhất để trà-tỳ nhục thân của vị
Chuyển luân Thánh vương.
“Trà-tỳ xong,
thu nhặt xá-lợi, dựng một tháp báu nơi ngã tư giữa đô thành để đặt xá-lợi vào. Tháp ấy có bốn cửa vào, để tất cả
nhân dân đều được cùng nhau
chiêm ngưỡng xá-lợi ấy.
“Này A-nan! Vị
Chuyển luân Thánh vương ấy chỉ nhờ chút ít
phước đức, được nối ngôi vua, thật chưa
thoát khỏi các
cảnh giới hiện hữu, [vẫn còn] đủ năm món dục, thê thiếp, thể nữ,
ba độc [tham, sân, si] và các
quan niệm xấu ác, [
cho đến] tất cả
phiền não và những thứ
trói buộc sai khiến, chưa trừ bỏ được
mảy may nào. [
Vậy mà] sau khi băng hà người đời còn dùng những phép tắc [
trang nghiêm] như vậy [để trà-tỳ], xây tháp
cúng dường [xá-lợi],
ai nấy đều
chiêm ngưỡng.
“A-nan! Huống chi
Như Lai đã trải
vô lượng vô biên vô số a-tăng-kỳ kiếp,
vĩnh viễn buông bỏ năm món dục, thê thiếp, thể nữ? Đối với các pháp
thế gian,
Như Lai có thể [phá bỏ tất cả] như cơn mưa đá [
phá hoại cây cỏ]; việc khó
chuyên cần có thể
chuyên cần; việc khó
thực hành có thể
thực hành; hết thảy những sự
khổ hạnh của hàng
Bồ Tát xuất thế [
Như Lai] đều [đã từng]
chuyên cần khó nhọc
tu tập. Tất cả những sự
hành đạo của chư Phật
ba đời trong khắp
mười phương, những pháp
hết sức thâm sâu nhiệm mầu
thanh tịnh như giới, định, tuệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, sáu Ba-la-mật,
Như Lai đều có đủ. Ngài đã
tu tập đủ Mười sức, tâm
đại bi,
Bốn đức chẳng sợ,
Ba môn giải thoát, Mười
tám pháp không, Sáu
thần thông,
Năm loại mắt, Ba mươi bảy phẩm [
trợ đạo], Mười
tám pháp chẳng chung cùng [với
Hai thừa],
Ba mươi hai tướng tốt, Tám mươi vẻ đẹp.
“Như Lai đã
thành tựu thọ mạng như tất cả chư Phật,
thế giới thanh tịnh như tất cả chư Phật, cùng tất cả những
pháp thành tựu cho
chúng sanh, tất cả những sự
khổ hạnh khó
tu tập, tất cả những
giới luật thâu nhiếp các pháp lành, tất cả những
giới luật thâu nhiếp
chúng sanh, tất cả những
giới luật thâu nhiếp
oai nghi, tất cả
công đức, tất cả
trí tuệ, tất cả sự
trang nghiêm, tất cả các nguyện lớn, tất cả các
phương tiện. Hết thảy những
giới hạnh,
phước đức và
trí tuệ không thể nghĩ bàn như vậy
Như Lai đều đã
thành tựu đầy đủ không
thiếu sót.
“Như Lai đã dứt trừ tất cả pháp
bất thiện, dứt trừ tất cả
phiền não, dứt trừ tất cả
tập khí phiền não còn sót lại.
Như Lai thông đạt Bốn chân đế,
Mười hai nhân duyên, nơi cội cây Bồ-đề đã
hàng phục Bốn thứ ma,
thành tựu [
Nhất thiết]
chủng trí. [Hết thảy những] pháp nhiệm mầu như vậy ngài đều đã
tu tập đầy đủ, nên tất cả chư Phật mới xướng lên lời
ngợi khen rằng: ‘Lành thay, lành thay!’ Chư Phật đồng lấy nước
trí tuệ pháp tánh mà rưới nơi
đỉnh Pháp thân; ngài mới đắc thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Do
nhân duyên ấy được tôn xưng là
Thiên nhân sư,
Thập lực chủng giác, Chí cực
Thế Tôn. Khắp
cõi trời, người không ai
sánh bằng Như Lai.
“Như Lai đối với tất cả
chúng sanh đều
bình đẳng [
thương yêu] như [con trai là] La-hầu-la. Cho nên được tôn xưng là:
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn.
“Như Lai
thương xót thế gian,
tùy duyên giáo hóa thảy đều
trọn vẹn; [lại cũng] vì
chúng sanh mà nay [
thị hiện] nhập Niết-bàn [sẽ]
tùy theo pháp
thế gian [mà cho làm lễ trà-tỳ] như vị
Chuyển luân Thánh vương, là muốn cho
chúng sanh đều được [có cơ hội]
cúng dường [
xá-lợi Phật].
“A-nan! [Sau khi] ta nhập Niết-bàn rồi, cũng như
Chuyển luân Thánh vương, hãy giữ thánh thể lại qua bảy ngày rồi mới đặt vào kim quan. Sau đó dùng dầu thơm loại tốt nhất rót đầy vào quan, rồi đóng nắp lại. Ở bốn phía quan tài nên dùng
bảy món báu xen lẫn để
trang nghiêm, dùng
các loại cờ báu,
hương hoa mà
cúng dường.
“Trải qua bảy ngày, lại đưa thánh thể ra khỏi kim quan, dùng tất cả những thứ
nước thơm tốt nhất mà tắm gội thân
Như Lai. Sau đó dùng loại hoa đâu-la mềm mịn nhất mà bọc lót khắp quanh thánh thể. Kế đó, dùng ngàn tấm lụa trắng
vô cùng quý giá mà quấn quanh phía ngoài hoa đâu-la, che kín thân
Như Lai, rồi đặt
trở lại vào kim quan.
Tiếp theo lại rót đầy dầu thơm loại tốt nhất vào trong kim quan và đóng kín nắp lại.
“Sau đó dùng toàn những loại gỗ quý như
chiên-đàn Ngưu Đầu,[16]
trầm thủy,[17] và
các loại gỗ thơm để làm thành một cỗ xe có
bảy món báu, lại
trang nghiêm cỗ xe ấy bằng tất cả những vật
quý báu, rồi dùng xe ấy đưa kim quan đến chỗ trà-tỳ.
“Khi ấy lại dùng
vô số cờ quý, lọng quý, vải quý, cùng với
âm nhạc cõi trời,
vô số hương hoa, đầy khắp
hư không,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường. Tất cả hàng trời, người và
vô số đại chúng mỗi người đều nên dùng các thứ chiên-đàn,
trầm thủy, dầu thơm
vi diệu để trà-tỳ nhục thân
Như Lai,
lưu luyến ngưỡng mộ mà cất lên những tiếng than khóc bi ai.
“Sau khi lễ trà-tỳ đã xong, hàng trời, người và
Bốn chúng đệ tử cùng nhau
thu nhặt lấy
xá-lợi Phật, đựng trong bình bằng
bảy món báu. Sau đó xây tháp bằng
bảy món báu tại ngã tư đường giữa thành lớn, thiết lễ
cúng dường xá-lợi Phật, khiến cho
chúng sanh được
công đức lớn, lìa xa
khổ não trong
Ba cõi, [có thể]
đạt đến cõi Niết-bàn an vui.
“A-nan nên biết rằng, sau khi tất cả
Bốn chúng đã xây tháp
bảy báu thờ
xá-lợi Phật rồi, [cũng nên biết việc] xây ba loại tháp khác mà
cúng dường. Đó là tháp
Phật Bích-chi, tháp A-la-hán và tháp
Chuyển luân Thánh vương. [
Cúng dường như vậy] là để khiến cho người
thế gian biết chỗ
quy y.”
A-nan
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai ra đời,
thương xót chúng sanh, khiến họ được thấy rõ Mười sức,
Đại bi,
Bốn đức chẳng sợ,
Mười hai nhân duyên,
Bốn chân đế,
Ba môn giải thoát; phát ra
âm thanh đủ tám giọng
Phạm âm chấn động Ba cõi như sấm rền;
hào quang từ bi năm sắc chiếu khắp sáu nẻo;
tùy thuận tâm nghiệp của
chúng sanh mà
chuyển hóa, có người
chứng đắc Bốn
thánh quả,
tu hành theo pháp của
Hai thừa, có người
chứng đạo Duyên giác vô vi, dứt sạch
phiền não; có người
đạt được địa vị Bồ Tát không còn
sanh diệt; có người
đạt được vô lượng các môn Đà-la-ni; có người
chứng đắc Năm thứ mắt; hoặc được Sáu
thần thông; hoặc ra khỏi
Ba đường ác; hoặc thoát được
Tám nạn; hoặc dứt được
khổ não cõi người,
cõi trời hoặc trong cả
Ba cõi.
Uy lực từ bi thanh tịnh của
Như Lai,
pháp môn giải thoát của
Như Lai đều là không thể nghĩ bàn, nên sau khi ngài nhập Niết-bàn, tất cả
thế gian, người và
chư thiên,
Bốn chúng đệ tử xây tháp
bảy báu cúng dường xá-lợi, ắt được
công đức lớn, có thể khiến
chúng sanh thoát khỏi khổ não trong
Ba cõi, được vào
giải thoát chân chánh.
“Do
nhân duyên ấy, sau khi Phật nhập Niết-bàn, tất cả
thế gian, người và
chư thiên,
đại chúng, vì muốn
báo đáp ân điển
từ bi sâu xa vô lượng của Phật mà xây tháp
bảy báu,
cúng dường xá-lợi Phật. Điều đó là
hợp lý.
“Thế Tôn! Còn như ba loại tháp kia, có những
lợi ích gì đối với
chúng sanh mà Phật dạy phải xây cất,
cung kính cúng dường?”
Phật bảo A-nan: “Vị
Phật Bích-chi đã
chứng ngộ được
nhân duyên các pháp,
thể nhập sâu vào tánh của các pháp, đã
thoát khỏi tất cả những
lỗi lầm tai hại của các
cảnh giới hiện hữu, có thể làm bậc
phước điền cho hàng trời, người. Vì
nhân duyên ấy, xây tháp
cúng dường [vị
Phật Bích-chi] được
phước đức chỉ kém hơn
phước đức cúng dường tháp
Như Lai, có thể khiến cho
chúng sanh đều
đạt được quả vị [
giải thoát]
mầu nhiệm.
“Này A-nan! Vị A-la-hán đã dứt hẳn sự
tái sanh trong
Ba cõi, không còn phải thọ thân sau nữa;
Phạm hạnh đã
thành tựu, có thể làm bậc
phước điền cho
thế gian. Vậy nên xây tháp
cúng dường [vị A-la-hán] sẽ được
phước đức kém hơn
phước đức cúng dường tháp
Phật Bích-chi, cũng khiến cho
chúng sanh đều
đạt được giải thoát.
“A-nan! Vị
Chuyển luân Thánh vương tuy chưa
giải thoát phiền não trong
Ba cõi, nhưng nhờ sức
phước đức mà được cai trị Bốn
thiên hạ, dùng
Mười điều thiện để
giáo hóa và
che chở chăm sóc
chúng sanh. [Vì thế nên] được
chúng sanh tôn kính. Do đó,
Bốn chúng xây tháp
cúng dường [
Chuyển luân Thánh vương] cũng sẽ được
phước đức vô lượng.”
A-nan lại
bạch Phật: “Sau khi
Như Lai nhập Niết-bàn, tất cả
Bốn chúng nên trà-tỳ [nhục thân]
Như Lai ở nơi nào để
thu nhặt xá-lợi? Xin Phật chỉ dạy.”
Phật dạy A-nan: “Sau khi
Như Lai nhập Niết-bàn, nếu tất cả
Bốn chúng trà-tỳ [nhục thân]
Như Lai trong thành Câu-thi-na,[18] [về sau]
nhân dân trong thành ấy thảy đều [vì việc] tranh nối ngôi vua, ắt phải
đánh dẹp lẫn nhau,
tranh chấp không ngừng, sẽ khiến cho
phước đức của mỗi người đều sai khác.
“A-nan! Tất cả
Bốn chúng nên trà-tỳ [nhục thân]
Như Lai ở bên ngoài thành, để khiến cho tất cả
thế gian đều được
phước đức bình đẳng như nhau.”
A-nan
bạch Phật: “Sau khi
Như Lai nhập Niết-bàn, lễ trà-tỳ đã xong, tất cả
Bốn chúng đã
thu nhặt xá-lợi đặt yên trong bình quý, nên
xây dựng tháp bằng
bảy báu ở nơi đâu để tất cả đều được
cúng dường với
lòng thành kính
sâu xa nhất? Xin Phật chỉ dạy.”
Phật dạy A-nan: “Sau khi
Như Lai nhập Niết-bàn, lễ trà-tỳ xong, tất cả
Bốn chúng đã
thu nhặt xá-lợi đặt yên trong bình quý bằng
bảy món báu, nên
xây dựng tháp bằng
bảy món báu, cao mười ba tầng trong thành Câu-thi-na, ngay nơi ngã tư đường. Trên tháp có tướng [pháp] luân, dùng tất cả các vật
quý báu tốt đẹp đặt
xen lẫn nhau để
trang nghiêm, lại dùng tất cả các thứ hoa đẹp, cờ xí nghiêm lệ để trang sức thêm; bốn phía quanh tháp đều có lan can, làm bằng
bảy món báu; tất cả các món trang trí [như thế] không đâu là không đầy đủ. Ở bốn phía tháp đều có cửa mở ra. Mỗi tầng tháp nối tiếp đều có cửa sổ mở
đối xứng nhau.
“Bình quý đựng
xá-lợi Phật được đặt yên [trong tháp ấy], tất cả hàng trời, người và
Bốn chúng đệ tử cung
chiêm ngưỡng cúng dường.
“A-nan! Tháp của vị
Phật Bích-chi nên xây cao mười một tầng, cũng dùng đủ các món
vật báu để
trang nghiêm.
“A-nan! Tháp của vị A-la-hán nên xây cao bốn tầng, cũng dùng đủ các món
vật báu để
trang nghiêm.
“A-nan! Tháp của vị
Chuyển luân Thánh vương cũng xây bằng
bảy món báu, nhưng không cao lên tầng nào cả. Vì sao vậy? Vì chưa
thoát khỏi các nỗi khổ
hiện hữu trong
Ba cõi, [vẫn còn trong
sanh tử].”
Bấy giờ, ngài A-na-luật
bạch Phật: “Sau khi
Như Lai nhập Niết-bàn, lễ trà-tỳ đã xong, tất cả hàng trời, người và Bốn bộ
đại chúng nên
phân chia xá-lợi Phật như thế nào để cúng dường?”
Phật dạy A-na-luật: “Sau khi
Như Lai nhập Niết-bàn, hàng trời người và tất cả
đại chúng nên dùng
tâm bình đẳng để
phân chia xá-lợi Phật trong khắp
Ba cõi,
Sáu đường, khiến cho tất cả
thế gian đều được
cúng dường.”
Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân[19]
bạch Phật: “Nay con thưa trước Phật, xin được
cung kính thỉnh về một nửa phần xá-lợi
toàn thân Như Lai để
cúng dường với
lòng thành kính
sâu xa nhất.”
Phật bảo Thiên Đế: “Như Lai xem tất cả
chúng sanh bình đẳng như nhau, [đều
yêu thương] như La-hầu-la [con trai ta]. Ông không nên thỉnh về nửa phần xá-lợi
toàn thân Như Lai. Vì sao vậy? Vì để giúp cho
chúng sanh được sự
lợi ích bình đẳng.
“Này Thiên Đế! Nay ta cho ông phần xá-lợi của một cái răng hàm trên bên phải, nên mang về
cõi trời xây tháp
cúng dường, có thể giúp cho ông được
phước đức vô tận.”
Lúc ấy, khắp hàng trời, người và tất cả
đại chúng đều bi ai
rơi lệ, không sao ngăn được.
Bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo
Bốn chúng đệ tử rằng: “Nay Phật nhập Niết-bàn, khắp hàng trời, người và tất cả các người đừng quá
sầu não. Vì sao vậy? Tuy Phật nhập Niết-bàn, nhưng [lưu lại] xá-lợi thường còn để
cúng dường; lại có
Pháp bảo cao quý nhất là
Kinh tạng,
Luật tạng và
Luận tạng. Vì
nhân duyên ấy,
Tam bảo và
Bốn chân đế là
thường trụ thế gian, có thể khiến
chúng sanh đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
quay về nương theo. Vì sao vậy?
Cúng dường xá-lợi Phật tức là
Phật bảo, nhìn thấy [xá-lợi] Phật tức là thấy được
Pháp thân, thấy được
Pháp thân tức là thấy
chư hiền thánh, thấy
chư hiền thánh tức là thấy
Bốn chân đế, thấy
Bốn chân đế tức là thấy Niết-bàn.
“Cho nên phải biết rằng,
Tam bảo là
thường trụ, không hề
biến đổi, có thể làm chỗ
quy y cho tất cả
thế gian.”
Đức Phật lại dạy hết thảy
đại chúng: “Các người đừng quá
sầu khổ. Nay ta sắp nhập Niết-bàn tại nơi này. Trong các người nếu ai còn có chỗ
hoài nghi chưa rõ về
giới luật, về sự
quy y, về
lẽ thường hoặc
vô thường, về
Tam bảo,
Bốn chân đế, Sáu Ba-la-mật,
Mười hai nhân duyên... hãy mau mau thưa hỏi, vì đây là cơ hội
cuối cùng. [Đừng để] sau khi Phật nhập Niết-bàn lại sanh lòng
nghi ngờ,
hối tiếc.”
Đức Phật nhắc nhở khắp
đại chúng ba lần như vậy.
Lúc ấy,
Bốn chúng đệ tử đều
bi thương khổ não, nghẹn ngào tuôn lệ, trong lòng
đau đớn khôn xiết,
suy tưởng miên man, ngưỡng mộ
lưu luyến, sầu đau đến mức như chết được. Nhưng rồi nhờ oai lực của Phật nên
ai nấy đều ngăn được lệ sầu. Tất cả đều
an nhiên đứng lặng không thưa hỏi. Vì sao vậy? Vì tất cả
Bốn chúng đều đã
thông đạt,
hiểu rõ về
giới luật, về sự
quy y, về
Tam bảo,
Bốn chân đế...; không ai có điều gì
nghi hoặc cả.
Lúc ấy,
đức Phật biết rằng trong
Bốn chúng không còn ai
nghi hoặc gì nữa, liền
ngợi khen rằng: “Lành thay,
lành thay! Tất cả
Bốn chúng đều đã
thông đạt về
Tam bảo,
Bốn chân đế, không còn ai
nghi ngờ gì nữa, khác nào như [đã dùng] nước sạch tẩy rửa được hết mọi chất
dơ bẩn trên
thân hình.
“Đại chúng! Các người nên
chuyên cần tinh tấn để sớm được ra khỏi [
sanh tử], đừng sanh lòng
sầu não, mê muộn
rối loạn.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn ngồi trên tòa
sư tử, đưa cánh tay có màu sáng như
vàng ròng vén tấm y tăng-già-lê đang đắp trên người, để lộ bộ ngực
sư tử chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía,[20] rồi bảo tất cả
đại chúng rằng: “Khắp hàng trời, người và
đại chúng các người nên đem
hết lòng thành kính sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Lúc ấy, tất cả
Bốn chúng đều
hết lòng chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng của đấng
Đại Giác Thế Tôn, mắt không chớp nghỉ. Hết thảy đều
cảm thấy vô cùng sảng khoái an vui, dù cho vị tỳ-kheo
thể nhập cảnh giới thiền định thứ ba cũng khó mà phát sanh được sự sảng khoái an vui như thế.
Bấy giờ,
đức Thế Tôn sau khi đã hiện
sắc thân màu
vàng ròng cho
đại chúng chiêm ngưỡng rồi, liền phóng ra
vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức đạo
hào quang Đại Niết-bàn chói lọi, soi chiếu khắp tất cả
thế giới trong
mười phương, khiến cho ánh sáng của
mặt trời,
mặt trăng như không còn sáng nữa.
Phóng quang như vậy rồi, Phật lại bảo khắp
đại chúng rằng: “Các người nên biết, vì tất cả
chúng sanh mà
Như Lai đã
trải qua bao kiếp
chuyên cần khổ nhọc,
cho đến chịu cắt xẻo
thân thể, chân tay; đã
tu tập tất cả những pháp
khổ hạnh khó
thực hành; vì bổn nguyện
đại bi nên [
thị hiện] trong cõi đời có
năm sự uế trược này mà
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; được
sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía này, [
kiên cố] như
kim cang không hư hoại, đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
vô lượng hào quang chói sáng chiếu khắp
mọi nơi. [Nếu được] nhìn thấy
sắc thân Như Lai, gặp
hào quang Như Lai, thì không ai là không
được giải thoát.”
Tiếp đó Phật dạy: “Đại chúng! Phật ra đời rất khó gặp, cũng như hoa ưu-đàm[21] rất hiếm khi được thấy.
Đại chúng các người được gặp ta vào giờ phút
cuối cùng,
xem như đã không uổng phí sanh ra
trong đời này. Ta
dùng sức thệ nguyện từ
thuở trước mà [
thị hiện] sanh ra trong cõi uế trược này;
cơ duyên giáo hóa đã
trọn vẹn, nay sắp vào Niết-bàn; các người đã đem lòng
chí thành chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai; đã
tu tập được
nghiệp lành thanh tịnh như thế,
trong đời vị lai sẽ được
quả báo [
tốt đẹp] như thế.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn ân cần lặp lại những lời như trên ba lần, rồi
hiển bày cho
đại chúng [đều được thấy rõ]
sắc thân Như Lai màu
vàng ròng chói sáng. Từ nơi giường
thất bảo,
Phật hiện thân bay lên
hư không, cao khoảng ngang tầm một cây đa-la,[22]
cất tiếng bảo khắp
đại chúng lần thứ nhất rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Tiếp đó,
đức Thế Tôn lần lượt hiện thân bay lên
hư không cao khoảng hai cây đa-la, rồi ba cây đa-la...
cho đến lượt thứ bảy thì cao đến khoảng bảy cây đa-la, mỗi lượt đều nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Rồi từ trên không trung,
đức Phật hạ xuống ngồi trên giường
sư tử, lại
cất tiếng nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Sau đó,
đức Thế Tôn lần thứ hai lại từ nơi giường
sư tử hiện thân bay lên
hư không, cao khoảng một cây đa-la, lại bảo với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Rồi
Phật hiện thân bay lên
hư không cao khoảng hai cây đa-la, rồi ba cây đa-la...
cho đến cao đến khoảng bảy cây đa-la, mỗi lượt đều nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Bấy giờ, từ trên không trung,
đức Phật lại hạ xuống ngồi trên giường
sư tử,
cất tiếng nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Sau đó,
đức Thế Tôn lần thứ ba lại từ nơi giường
sư tử hiện thân bay lên
hư không, cao khoảng một cây đa-la, nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Rồi Phật lại
hiện thân bay lên
hư không cao khoảng hai cây đa-la, rồi ba cây đa-la...
cho đến cao đến khoảng bảy cây đa-la, mỗi lượt đều nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Sau đó, từ trên không trung,
đức Phật hạ xuống ngồi trên giường
sư tử,
cất tiếng nhắc lại với
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người hãy đem
lòng thành kính
sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn đã
hiển bày sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai cho tất cả
đại chúng đều được
chiêm ngưỡng. Ngài đã lặp lại ba lần
hiện thân bay lên
hư không, mỗi lần bảy lượt từ chiều cao một cây đa-la lên đến khoảng bảy cây đa-la; và cũng lặp lại ba lần từ trên không trung hạ xuống ngồi trên giường
sư tử.
Như vậy cả thảy đã hai mươi bốn lần ngài đều
ân cần nhắc nhở
đại chúng rằng: “Ta sắp nhập Niết-bàn.
Đại chúng các người nên đem
hết lòng thành kính sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng sắc thân Như Lai chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía, [là thân] không có sự sợ sệt, là
thân kim cang bền chắc không hư hoại.
Sắc thân Như Lai như hoa ưu-đàm, rất khó được gặp.
“Đại chúng nên biết rằng, ta sắp vào Niết-bàn, các người nên
hết lòng chí thành chiêm ngưỡng sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai.
Ví như kẻ nóng khát, khi gặp nước trong mát liền uống thỏa thuê, không còn muốn gì khác nữa.
Đại chúng các người cũng vậy. Nay ta sắp vào Niết-bàn, các người nên đem
hết lòng thành kính sâu xa nhất mà
chiêm ngưỡng, vì đây là lần
cuối cùng còn được nhìn thấy
Như Lai. Từ sau lần này, các người sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy nữa.
Đại chúng các người hãy
chiêm ngưỡng cho
thỏa mãn, đừng để về sau phải
hối tiếc.”
Tiếp đó, Phật dạy khắp
đại chúng rằng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn,
đại chúng các người phải rộng tu [các
pháp môn], để sớm thoát ra khỏi [cảnh khổ]
hiện hữu trong
Ba cõi, không được trì trệ lười nhác, buông thả
phóng túng để tâm tán loạn.”
Lúc ấy, tất cả [
chúng sanh trong khắp các]
thế giới, hàng trời, người và
Bốn chúng đệ tử Phật, sau khi được
hào quang Niết-bàn soi chiếu, được
chiêm ngưỡng [
sắc thân] Phật rồi thì tất cả
Ba đường ác,
Tám nạn khổ, cùng những
phiền não trong
thế gian cõi trời,
cõi người; những
tội lỗi nặng nề
nhất như Bốn tội trọng,
Năm tội nghịch, hết thảy đều được
vĩnh viễn diệt sạch không sót lại gì cả. Tất cả đều
được giải thoát.
Bấy giờ,
đức Thế Tôn sau khi đã
hiển lộ sắc thân chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía cho tất cả
đại chúng chiêm ngưỡng và
ân cần nhắc nhở nhiều lần, liền kéo tấm y Tăng-già-lê che thân
trở lại như thường.
DUYÊN DỨT VỀ NGUỒN
Phẩm thứ nhì
Phật lại bảo
đại chúng: “Nay
thời khắc đã đến,
toàn thân ta đều đau nhức.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn vừa nói dứt lời liền nhập
Sơ thiền,
phóng hào quang Niết-bàn, quán xét khắp
thế giới,
nhập Tịch diệt định.[23]
Đức Thế Tôn nhập
Sơ thiền rồi,[24] ra khỏi
Sơ thiền lại nhập
Đệ nhị thiền; ra khỏi
Nhị thiền lại nhập
Đệ tam thiền; ra khỏi
Tam thiền lại nhập
Đệ tứ thiền; ra khỏi
Tứ thiền lại nhập
Hư không xứ; ra khỏi
Không xứ lại nhập
Vô biên thức xứ; ra khỏi
Vô biên thức xứ lại nhập
Vô sở hữu xứ;[25] ra khỏi
Vô sở hữu xứ lại nhập
Phi tưởng phi phi tưởng xứ; ra khỏi
Phi tưởng phi phi tưởng xứ lại
nhập Diệt tận định.
Sau đó,
Như Lai ra khỏi
Diệt tận định liền
quay trở lại nhập
Phi tưởng phi phi tưởng xứ; ra khỏi
Phi tưởng phi phi tưởng xứ liền
quay trở lại nhập
Vô sở hữu xứ; ra khỏi
Vô sở hữu xứ liền
quay trở lại nhập
Vô biên thức xứ; ra khỏi
Vô biên thức xứ liền
quay trở lại nhập
Hư không xứ; ra khỏi
Hư không xứ liền
quay trở lại nhập
Đệ tứ thiền; ra khỏi
Đệ tứ thiền liền
quay trở lại nhập
Đệ tam thiền; ra khỏi
Đệ tam thiền liền
quay trở lại nhập
Đệ nhị thiền; ra khỏi
Đệ nhị thiền liền
quay trở lại nhập
Sơ thiền.
Lúc ấy,
Đức Thế Tôn sau khi đã [
thị hiện] nhập tất cả các
cảnh giới thiền định theo hai chiều
thuận nghịch như vậy rồi, liền bảo khắp
đại chúng rằng: “Ta dùng trí Bát-nhã
hết sức thâm sâu để quán xét khắp trong
Ba cõi:[26] trong khắp Sáu nẻo [
luân hồi],[27] hết thảy núi non, biển cả, đất đai và tất cả các loài sanh sống trong đó. [Ta thấy rõ rằng trong]
Ba cõi này,
tính chất căn bản [chung] là lìa khỏi [
thực thể], [quán xét đến chỗ]
rốt ráo đều
vắng lặng diệt mất, đồng với tướng trạng của
hư không; không có tên gọi, không có
nhận biết,
vĩnh viễn dứt trừ mọi sự
hiện hữu.
“[Các pháp trong
Ba cõi này] vốn
xưa nay bình đẳng, không [tự có] niệm tưởng là cao hay thấp, không thấy, không nghe, không biết, không hiểu; không thể bị
trói buộc, không thể
được giải thoát; không có
chúng sanh, không có mạng sống [của
chúng sanh], không
sanh không khởi, không dứt không mất; chẳng phải
thế gian cũng chẳng phải không là
thế gian; Niết-bàn và
sanh tử đều không
thể đạt đến, hai bờ mé ấy
bình đẳng như nhau, vì cùng
bình đẳng với tất cả các pháp. [Thấy được như vậy rồi thì tự mình] trụ yên trong
an nhàn tĩnh lặng, không có việc gì phải làm; chỗ
rốt ráo an bày đều không
thể đạt được; nương theo pháp và
pháp tánh vô trụ mà hành xử, dứt trừ tất cả các tướng, không một tướng nào còn
hiện hữu.
“Tướng của pháp là như vậy. Ai rõ biết như vậy gọi là người
xuất thế; [ai] không rõ biết những điều này là [không
thoát khỏi] cội nguồn
sanh tử.
Đại chúng các người nên phá tan
vô minh,
diệt trừ cội nguồn
sanh tử.”
Đức Thế Tôn sau khi thuyết dạy như trên lại [
thị hiện] nhập
siêu thiền;[28] sau khi ra khỏi
Sơ thiền liền nhập
Đệ tam thiền; ra khỏi
Tam thiền liền nhập
Hư không xứ; ra khỏi
Hư không xứ liền nhập
Vô sở hữu xứ; ra khỏi
Vô sở hữu xứ liền
nhập Diệt tận định.
Sau khi ra khỏi
Diệt tận định,
Thế Tôn liền nhập
Phi tưởng phi phi tưởng xứ; ra khỏi
Phi tưởng phi phi tưởng xứ liền nhập
Vô biên thức xứ; ra khỏi
Vô biên thức xứ liền nhập
Đệ tứ thiền; ra khỏi
Đệ tứ thiền liền nhập
Đệ nhị thiền; ra khỏi
Nhị thiền liền nhập
Sơ thiền.
Sau khi đã [
thị hiện]
siêu thiền [qua các
cảnh giới thiền định] bằng cách thuận và nghịch như vậy,
đức Thế Tôn lại bảo khắp
đại chúng rằng: “Ta dùng
trí tuệ Đại Bát-nhã để quán xét khắp trong
Ba cõi: các loài có tình thức, không có tình thức, kẻ
nghe pháp và người
thuyết pháp, hết thảy [đến chỗ
rốt ráo] đều không có người bị
trói buộc, không có người
được giải thoát; không có chủ thể, không có [đối tượng] nương theo; không thể nắm giữ, không ra khỏi
Ba cõi, không
đi vào các
cảnh giới hiện hữu;
xưa nay vốn là
thanh tịnh, không có nhơ bẩn, không có
phiền não, đồng như
hư không; không
bình đẳng, chẳng phải không
bình đẳng; dứt hết mọi động niệm,
tư tưởng,
tâm thức.
“Tướng của
pháp như vậy gọi là Đại Niết-bàn.
Chân thật thấy được pháp này gọi là
giải thoát; những kẻ
phàm phu không rõ biết như vậy gọi là
vô minh.”
Đức Thế Tôn sau khi thuyết dạy như vậy rồi lại [
thị hiện] nhập
siêu thiền, sau khi ra khỏi
Sơ thiền [lại
lần lượt nhập và xuất các
cảnh giới thiền,]
cho đến nhập Diệt tận định. Sau khi ra khỏi
Diệt tận định, [
lần lượt quay ngược lại nhập và xuất các
cảnh giới thiền,]
cho đến nhập
Sơ thiền.
Sau khi đã [
thị hiện]
siêu thiền [qua các
cảnh giới thiền định] bằng cách thuận và nghịch như vậy,
đức Thế Tôn lại dạy
Đại chúng rằng: “Ta dùng con mắt [
trí tuệ của] Phật để quán xét khắp trong
Ba cõi: Tất cả các pháp [đều có] nguồn gốc
ban đầu từ
vô minh; tánh [của
vô minh] vốn là
giải thoát, nếu
tìm kiếm [
giải thoát] trong khắp
mười phương, rốt cùng cũng không thể được; vì cội gốc [
vô minh] là không, nên hết thảy cành nhánh đều
được giải thoát. Vì
vô minh được giải thoát, cho nên
lần lượt đến già chết[29] cũng đều
được giải thoát. Vì
nhân duyên ấy, nay ta trụ yên trong
hào quang thường tịch diệt, gọi là Đại Niết-bàn.”
Lúc ấy, ngài A-nan
hết sức bi ai, buồn đau khốn khổ,
lòng dạ rối loạn, tình thức
hôn mê như người quá say không còn
nhận biết gì nữa, không nhìn thấy
Bốn chúng, cũng không biết
đức Như Lai đã nhập Niết-bàn hay chưa.
Đức Thế Tôn khi ấy đã [
thị hiện]
siêu thiền, nhập và xuất các
cảnh giới thiền định ba lần, quán xét khắp
pháp giới, lại vì khắp
đại chúng mà
thuyết pháp ba lần như vậy; cộng cả thảy
Như Lai đã hai mươi bảy lượt xuất và nhập các
cảnh giới thiền định.[30]
Vì ngài A-nan không [còn
tỉnh táo nhận] biết, nên mỗi khi Phật nhập một
cảnh giới thiền định đều theo hỏi ngài A-na-luật rằng: “Phật đã nhập Niết-bàn hay chưa?” Cả thảy là hai mươi bảy lần hỏi. [Mỗi lần như vậy,] ngài A-na-luật vì rõ biết
sâu xa rằng
đức Như Lai chỉ nhập các
cảnh giới thiền định nên đều
trả lời: “Phật chưa nhập Niết-bàn.”
Lúc ấy, tất cả
đại chúng cũng đều hoảng loạn, không biết được
Như Lai đã vào Niết-bàn hay chưa!
Bấy giờ, sau khi đã ba lần nhập và xuất các
cảnh giới thiền định cũng như ba lần chỉ dạy cho
đại chúng rồi,
đức Thế Tôn bèn nằm duỗi người trên giường
thất bảo, nghiêng hông bên phải xuống dưới, đầu hướng về phương bắc, mặt hướng về phương tây; có những
chuỗi ngọc xinh đẹp nhiệm mầu
trang nghiêm quanh giường
thất bảo. Trong rừng cây sa-la khi ấy có tám cây mọc sóng đôi thành bốn cặp, một cặp phía tây,
trước mặt Như Lai; một cặp phía đông, sau lưng
Như Lai; một cặp phía bắc, trên đầu
Như Lai; một cặp phía nam, dưới
chân Như Lai.
Lúc ấy,
đức Thế Tôn nằm trên giường báu dưới rừng cây sa-la. Đến khoảng nửa đêm, Phật nhập
Đệ tứ thiền,
vắng lặng an nhiên không một
tiếng động; trong khoảnh khắc ấy Phật nhập Niết-bàn.
Đấng
Đại giác Thế Tôn nhập Niết-bàn rồi, trong rừng sa-la ấy, hai cặp cây đứng phía đông và phía tây Phật liền hợp [tán cây] thành một, hai cặp cây sóng đôi đứng phía nam và phía bắc Phật cũng hợp [tán cây] thành một, tạo thành một cái lọng lớn che kín phía bên trên giường báu Phật nằm. Trong chốc lát, những cây ấy đều đau buồn chuyển thành màu trắng muốt như [lông] con hạc trắng; cành lá, hoa trái, [
cho đến] vỏ cây, thân cây đều nứt nẻ, rơi rụng,
dần dần khô héo, gãy rụng, không còn gì cả...
Lúc ấy,
từ vô lượng muôn ức
thế giới nhiều như
số cát sông Hằng của
chư Phật mười phương, tất cả những cõi đất đều
chấn động mạnh, phát ra đủ mọi thứ
âm thanh, [nghe như] tiếng
than thở rằng: “Khổ thay, khổ thay!
Thế gian [đã
trở thành] trống rỗng!”
[Những
âm thanh ấy] lại tạo thành những tiếng
diễn đạt lẽ
vô thường, khổ, không và sự buồn đau ai oán.
Bấy giờ, tất cả núi non trong các
thế giới mười phương, như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi
Thiết vi, núi
Đại Thiết vi, núi Tu-di,
Bảo sơn,
Hương sơn,
Kim sơn,
Hắc sơn... tất cả núi non trên khắp các cõi đất đều
cùng lúc rúng động, sụp lở, phát ra những
âm thanh vang dội khắp
thế giới, [nghe như] tiếng
than thở rằng: “Khổ thay, khổ thay! Vì sao chỉ trong chốc lát
thế gian đã
trở thành không nơi nương tựa?
Mặt trời trí tuệ đã lặn khuất sau núi Đại Niết-bàn! Tất cả
chúng sanh mất đi đấng cha lành
chân thật, mất đi bậc trời [xứng đáng cho tất cả
mọi người]
cung kính, [từ nay] không còn nơi chiêm ngưỡng!”
Lúc ấy, tất cả biển cả trong các
thế giới mười phương đều ngầu đục,
cuồn cuộn nổi sóng, phát ra đủ mọi
âm thanh, [nghe như] tiếng
than thở rằng: “Khổ thay, khổ thay! Đấng
Chánh giác đã ra đi!
Chúng sanh tội lỗi khổ não, trôi giạt mãi trong biển cả
sanh tử như đêm dài tăm tối, mê lạc mất
con đường chân chánh, biết nhờ đâu mà được giải thoát?”
Tất cả sông ngòi, kênh rạch, suối khe, ao hồ, giếng nước... [bỗng nhiên] đều ngiêng đổ khô cạn.
Bấy giờ, mặt đất và
hư không trong khắp các
thế giới mười phương đều
vắng lặng u ám,
mặt trời,
mặt trăng không còn chiếu sáng. Sự
tối tăm,
sầu não lan khắp
thế giới. Ngay
trong lúc ấy, bỗng nhiên nổi lên cuồng phong mù mịt,
chấn động kinh hồn, thổi tung bụi cát như
che lấp cả
thế giới.
Trên mặt đất, tất cả
các loại cỏ, cây, cỏ thuốc, cây lớn [bỗng nhiên] hoa, trái, cành lá thảy đều khô gãy, rơi rụng, không còn gì cả.
Ngay
trong lúc ấy, tất cả
chư thiên [
hiện ra] đầy khắp
hư không trong
mười phương thế giới, than khóc bi ai,
chấn động cả
Tam thiên đại thiên thế giới, rải xuống như mưa
vô số trăm ngàn
các loại hương, hoa
tốt đẹp nhất
cõi trời, đầy khắp cõi
Tam thiên đại thiên thế giới, chất lại thành đống cao như núi Tu-di để
cúng dường Như Lai.
Từ trên không trung lại đổ xuống như mưa
vô số cờ phướn,
chuỗi ngọc, lọng báu,
ngọc như ý, đều là những
vật báu của
cõi trời, đầy khắp
hư không,
biến thành một đài báu bốn mặt có
châu ngọc,
bảy món báu đan xen vây quanh,
chói sáng rực rỡ để
cúng dường Như Lai.
Từ trên không trung lại trỗi lên
vô số giai điệu
âm nhạc cõi trời rất
mầu nhiệm như tiếng trống, tiếng sáo, tiếng đàn hát... đủ mọi thứ
âm thanh, [nghe như] tiếng
than thở rằng: “Khổ thay, khổ thay! Phật đã nhập Niết-bàn,
thế gian [bây giờ] trống rỗng, tất cả
chúng sanh phải
mù lòa, quỷ la-sát tham cầu
phiền não tràn lan khắp nơi, sự
khổ não vô thường biến dị
tiếp nối không dứt, bánh xe
đau đớn chẳng ngừng quay!”
Lúc ấy, ngài A-nan buồn khổ
mê muội không còn
nhận biết gì nữa, không biết
Như Lai đã nhập Niết-bàn hay chưa,
trước mắt chỉ thấy toàn những
cảnh tượng khác thường, liền quay sang hỏi lại ngài A-na-luật: “Phật đã nhập Niết-bàn rồi phải không?”
Ngài A-na-luật đáp rằng: “Đại giác
Thế Tôn đã nhập Niết-bàn!”
Ngài A-nan vừa nghe qua câu này thì buồn đau
cực độ, ngã nhào xuống đất như người đã chết,
hơi thở dứt hẳn,
tâm thức mờ mịt không còn biết
gì nữa cả.
Lúc ấy, ngài A-na-luật dùng nước trong mát tưới
lên mặt A-nan [cho
tỉnh lại], đỡ dậy, rồi dùng
phương tiện khéo léo mà
an ủi rằng: “Buồn khổ thay!
Đau đớn thay! Nhưng biết làm sao được? Thôi ông cũng đừng buồn đau
sầu não thái quá mà
rối loạn tâm.
Nhân duyên giáo hóa của
Như Lai đã dứt, hết thảy
chư thiên và
loài người không ai có thể lưu giữ ngài lại được. Khổ thay, khổ thay! Nhưng biết làm sao được? Ngờ đâu hôm nay bậc thầy của
chư thiên và
nhân loại, khi việc cần làm đã làm xong, không ai có thể lưu giữ được? Biết làm sao được! Nay ông và tôi,
chúng ta phải cùng nhau kìm nén nỗi đau này!”
Ngài A-na-luật lại
an ủi thêm: “A-nan! Tuy Phật nhập Niết-bàn nhưng vẫn còn lưu lại xá-lợi và
Pháp bảo cao quý nhất,
thường trụ ở
thế gian, có thể làm chỗ
quay về nương theo cho tất cả
chúng sanh. Nay ông và tôi,
chúng ta nên
chuyên cần tinh tấn đem
Pháp bảo ấy truyền trao cho
chúng sanh, khiến họ được
thoát khỏi các nỗi khổ, [như vậy mới]
báo đáp được
ân đức của
Như Lai.”
Lúc ấy, ngài A-nan
nghe lời an ủi khuyên nhủ rồi,
dần dần tỉnh ngộ, [nhưng vẫn còn] nghẹn ngào
rơi lệ, không kìm nổi sự bi ai.
Bấy giờ, trong
phạm vi vuông vức mười hai do-tuần ở rừng sa-la thuộc thành Ca-thi-na,
đại chúng và
chư thiên,
loài người tụ tập đầy kín; mỗi khoảnh đất chỉ bằng mũi nhọn một cây kim cũng chứa được đến
vô lượng người, [nhưng
phạm vi này vẫn] không còn một khoảng trống nào. [Dù vậy, tất cả
đại chúng đều] không hề chen chúc che chướng lẫn nhau.
Lúc ấy,
vô số ức
Bồ Tát và tất cả
đại chúng đều
mê muội, hoang mang
rối loạn, không thể biết được là
đức Như Lai đã nhập Niết-bàn hay chưa, chỉ thấy
trước mắt toàn những cảnh khác thường
biến động. Các vị liền
đồng thanh cất tiếng hỏi ngài A-na-luật: “Phật đã nhập Niết-bàn rồi phải không?”
Lúc ấy, ngài A-na-luật nói với
đại chúng, tất cả
chư thiên và
nhân loại rằng: “Đại giác
Thế Tôn đã nhập Niết-bàn!”
Nghe qua lời ấy rồi, có
vô số người trong
đại chúng đồng thời cảm thấy sầu khổ choáng ngợp trong lòng, nghẹn ngào không nói được gì, thảy đều ngã nhào xuống đất,
mê man bất tỉnh. Lại có những người [ngay khi ấy]
nhập diệt theo Phật. Lại có những người
lòng dạ rối bời
tán loạn. Lại có những người
thân tâm đều rúng động, run rẩy. Lại có những người
nắm chặt tay nghẹn ngào
rơi lệ. Lại có những người luôn tay đấm ngực, than khóc lớn tiếng. Lại có những người [không nén được
đau thương,] vò đầu
bứt tóc.
Lại có những người kêu thét lên: “Đau đớn thay,
đau đớn thay!
Cay đắng khổ não thay!”
Lại có những người
than tiếc: “Sao
Như Lai vội nhập Niết-bàn quá sớm như vậy!”
Lại có những người
than thở rằng: “Than ôi!
Chúng ta đã mất đi một vị trời đáng
tôn kính.”
Lại có những người kêu than: “Ôi!
Thế gian [đã
trở thành] trống rỗng!
Chúng sanh [từ nay phải chịu] mù lòa!”
Lại có những người
than thở: “Con quỷ lớn
phiền não từ nay sẽ lan tràn khắp chốn!”
Lại có những người than rằng: “Than ôi!
Hạt giống lành của
chúng sanh đã dứt, không còn nảy sanh mầm chồi được nữa!”
Lại có những người
ta thán: “Ôi!
Ma vương từ nay
vui sướng, cởi bỏ áo giáp [vì chẳng còn ai
đối trị]!
Lại có những người tự
chê trách thân tâm, quán xét
lý vô thường; lại có những người
thực hành pháp quán chân chánh, liền
được giải thoát.
Lại có những người
đau xót than rằng: “Nay
chúng ta không còn chỗ để
quy y.”
Trong [số
đại chúng] lại có những người [quá
đau đớn nên]
toàn thân rướm máu, rỉ chảy xuống mặt đất.
[Tất cả
đại chúng] như vậy, thuộc các loài khác nhau, tiếng nói khác nhau, thảy đều
cất tiếng bi ai,
chấn động khắp các
thế giới.
Lúc ấy,
Đại Phạm Thiên vương Thi-khí là vị
đứng đầu thế giới Ta-bà, biết rằng Phật đã nhập Niết-bàn, liền cùng
chư thiên từ cảnh trời
Sơ thiền vượt qua hư không mà đáp xuống,
cất tiếng khóc lớn, nghẹn ngào tuôn lệ, phủ phục trước thân
Như Lai, rồi ngã lăn ra đất
mê man, hồi lâu mới
tỉnh lại. Không tự chế được sự
bi thương, ngài đứng trước thân Phật đọc kệ than rằng:
Thế Tôn xưa từng có
thệ nguyện,
Vì chúng con
thị hiện Ta-bà;
Che giấu sức
tự tại vô lượng,
Dùng pháp
thích hợp độ
chúng sanh.
Phương tiện giảng thuyết tùy người nghe,
Ai ai cũng đều được
an lạc;
Khuyến khích dẫn dụ cho thoát khổ,
Niết-bàn nẻo
cuối cùng hướng đến.
Như Lai như mẹ hiền thương con,
Dòng sữa
đại bi thường
nuôi dưỡng;
Ngờ đâu một sớm dứt ra đi,
Trời, người bơ vơ không chỗ dựa!
Đau đớn thay! Mầm thiện
chúng sanh,
Không còn
cam lộ giúp
tăng trưởng;
Từ nay mầm thiện phải suy diệt,
Nghiệp ác kéo lôi vào nẻo ác.
Thế gian trống rỗng, biết làm sao!
Mắt tuệ chánh chân diệt mất rồi!
Chúng sanh lạc vào đêm tăm tối,
Chìm trong
Ba cõi, khổ xoay vần!
Tội lỗi chúng sanh, ai cứu giúp?
Nương
xá-lợi Phật được giải thoát;
Nguyện cầu sức
đại bi Như Lai,
Che chở cứu giúp con thoát khổ.
Ngờ đâu
đau đớn giữa cõi này,
Như Lai buông bỏ, nhập Niết-bàn!
Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân cùng
đại chúng [
chư thiên] từ trên
hư không hạ xuống kêu than rằng: “Khổ thay, khổ thay!”
Thiên Đế lớn tiếng than khóc,
đau thương tuôn lệ, phủ phục trước thân
Như Lai, rồi ngã lăn ra đất
mê man, hồi lâu mới
tỉnh lại,
đau đớn nghẹn ngào quỳ mọp trước thân Phật đọc kệ than rằng:
Như Lai bao kiếp tu hạnh khổ,
Đều vì
thương xót mọi
chúng sanh.
Thành tựu đạo
Vô thượng Chánh giác,
Nuôi dưỡng chúng sanh đồng như con.
Pháp lành ban ra là thuốc quý,
Trị bệnh vượt hơn mọi thầy hay;
Mây
đại từ bi che mát chúng,
Mưa tuệ
cam lộ tưới khắp cả.
Mặt trời trí tuệ phá
vô minh,
Chúng sanh mê mờ gặp
Thánh đạo;
Trăng sáng ánh từ soi sáu nẻo,
Ba cõi nhờ ơn được thoát khổ.
Ngờ đâu nay dứt lòng
đại bi,
Nhập cảnh Niết-bàn, không ai thấy!
Nay biết nơi đâu, nguyện đại bi?
Nỡ bỏ
chúng sanh không luyến tiếc!
Chúng con muôn loài trong
Ba cõi,
Như bê con mất mẹ sắp chết;
Bốn chúng nắm tay nhau than khóc,
Đau thương đấm ngực động
Ba cõi.
Khổ thay, khổ thay! Hỡi người đời,
Cớ sao một sớm thành côi cút?
Chúng con dứt phước, khổ biết bao!
Mầm thiện úa tàn, không xanh lại.
Cầu mong
Pháp bảo,
xá-lợi Phật,
Chiếu sáng giúp ta thoát cõi khổ!
Buồn thay!
Đau đớn thay!
Chúng ta,
Biết bao giờ gặp lại Như Lai?
Bấy giờ, ngài A-na-luật
bi thương than khóc,
đau xót khôn lường, rồi quỳ mọp xuống trước thân Phật đọc kệ
than tiếc rằng:
Chánh giác Pháp vương nuôi chúng con,
Nhờ dòng sữa pháp, lớn
Pháp thân;
Pháp thân chúng sanh nay chưa thành,
Hành trang
trí tuệ còn ít ỏi!
Ước chi
Pháp âm thường
giảng thuyết,
Khiến
chúng sanh nghe đều
ngộ Đạo;
Thêm ánh
đại từ năm sắc chiếu,
Giúp
chúng sanh đều
được giải thoát.
Cớ sao sớm dứt, nhập Niết-bàn!
Chúng sanh khổ biết nương về đâu?
Đại bi Thế Tôn nay không còn,
Chúng con bơ vơ ắt phải chết!
Tuy rõ biết
Thế Tôn phương tiện,
Chúng con không
thể không bi thương!
Bốn chúng mê muội,
tâm tán loạn,
Buồn đau
chấn động khắp Ba cõi!
Thế Tôn riêng vào chốn an vui,
Chúng sanh quá khổ, còn mong gì?
Thuở xưa
Thế Tôn vì chúng con,
Nhiều kiếp đầu rơi, tay chân đứt;
Nay
thành đạo Vô thượng Chánh giác,
Sao chẳng ở lâu, sớm nhập diệt?
Chúng con
Bốn chúng giữa
vô minh,
Ma vương vui mừng cởi áo giáp!
Thương thay! Nguyện
Thế Tôn đại bi,
Ánh từ xá-lợi soi khắp chúng.
Lại mong
Thế Tôn thương
Bốn chúng,
Gia hộ Pháp bảo truyền không dứt!
Hận sao không thể chết theo được,
Dẫu chút sống thừa có là bao?
Khổ thay!
Đau đớn khôn nhẫn chịu!
Chẳng còn cơ hội gặp Như Lai!
Lúc ấy, ngài A-nan đã
ngất đi hồi lâu,
dần dần tỉnh lại, đưa tay vò đầu, đấm ngực, nghẹn ngào tuôn lệ, không kìm nổi
đau thương, quỳ mọp xuống trước thân Phật đọc kệ than rằng:
Con nhờ sức nguyện của
Thế Tôn,
May được cùng sanh trong dòng Thích;
Kể từ
Như Lai thành Chánh giác,
Đã hai mươi năm theo kề cận.
Hết lòng kính dưỡng, tình chưa trọn,
Một sớm nỡ dứt vào Niết-bàn.
Thương thay!
Cay đắng, buồn khổ thay!
Đêm dài
vô tận lòng xiết đau!
Thân con chưa thoát mọi
nghi tình,
Vỏ bọc
vô minh còn
kiên cố.
Thế Tôn chưa giúp con phá vỡ,
Sao nỡ sớm dứt nhập Niết-bàn?
Con như trẻ sơ sanh non nớt,
Mất mẹ, không lâu ắt phải chết;
Sao
Thế Tôn nỡ đành dứt bỏ,
Riêng ngoài
Ba cõi hưởng an vui?
Nay con
sám hối trước
Thế Tôn,
Hầu Phật hai mươi năm đã tròn;
Đi, đứng, nằm, ngồi nhiều biếng trễ,
Chưa đủ
vui lòng đức Thế Tôn.
Nguyện đức
Chánh giác đại từ bi,
Ban cho cam lộ, được an vui.
Con nguyện
mai sau vô số kiếp,
Luôn được cận kề hầu
Thế Tôn.
Ngưỡng nguyện
Thế Tôn phóng
từ quang,
Chiếu khắp
thế gian,
cứu độ con.
Đau đớn thay!
Tỏ bày khôn xiết!
Nghẹn lời không kể hết Phật ân!
Lúc ấy,
vô số ức
Bồ Tát nhiều như
số cát sông Hằng, hết thảy
đại chúng cõi trời và
cõi người đều nắm tay nhau
bi thương than khóc, nước mắt tuôn tràn, không ai ngăn được lòng
đau xót. Rồi tất cả bảo nhau cùng nén lệ sầu, bày biện
vô số hương hoa tươi đẹp như hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa;
vô số các loại chiên-đàn,
trầm thủy [quý giá được lấy từ những vùng] ven biển xa xôi,
cõi trời và
cõi người; trăm ngàn muôn thứ hương thơm hòa trộn,
vô số loại hương bột, hương nước; cùng những lọng báu, cờ phướn quý giá,
chuỗi ngọc trai quý... đầy khắp cả
hư không, rồi đưa đến trước thân
Như Lai,
bi thương đau xót [dâng lên]
cúng dường.
Bấy giờ, hết thảy
đại chúng và
nhân dân nam, nữ, già, trẻ trong thành Câu-thi-na đều
bi thương,
đau xót rơi lệ, mỗi người đều bày biện
vô số hương hoa tươi đẹp cùng những phướn, lọng... các thứ, còn nhiều hơn cả những phẩm vật đã nói trên, cùng đưa đến trước thân
Như Lai,
bi thương đau xót [dâng lên]
cúng dường.
Lúc ấy, Bốn vị
thiên vương cùng với
đại chúng chư thiên đều
bi thương,
đau xót rơi lệ, mỗi người cũng đều bày biện
vô số hương hoa, đủ
các loại phẩm vật
cúng dường, nhiều
gấp ba lần những phẩm vật đã nói trên, nước mắt
ràn rụa cùng nhau đến chỗ
Như Lai, cũng đưa tất cả phẩm vật đến trước thân
Như Lai,
bi thương đau xót [dâng lên]
cúng dường.
[Các vị
Thiên vương và
đại chúng chư thiên ở] năm
cõi trời [còn lại][31] cũng giống như vậy, [đều bày biện phẩm vật
cúng dường] nhiều hơn đã nói trên [để dâng lên
cúng dường đức Như Lai].
Chư thiên ở
Sắc giới và
Vô sắc giới lại cũng như vậy, [đều bày biện phẩm vật
cúng dường] nhiều hơn đã nói ở trên,
mang đến [dâng lên]
cúng dường đức Như Lai.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BỐN MƯƠI MỐT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN (PHẦN CUỐI)
QUYỂN BỐN MƯƠI HAI
Các vị sa-môn Nhã-na-bạt-đà-la, Hội Ninh... cùng dịch
LINH ỨNG KHI TRÀ-TỲ
Phẩm thứ ba
Bấy giờ, tất cả
nam nữ trong thành Câu-thi-na đều
rơi lệ khóc thương, không biết phép tắc trà-tỳ [thân
Như Lai] như thế nào, liền hỏi ngài A-nan: “Như Lai đã nhập Niết-bàn, vậy nên theo phép tắc như thế nào để trà-tỳ thân Phật?”
Lúc ấy,
Đế Thích liền thuật lại đầy đủ [những lời Phật] đã dạy trước đó, bảo
mọi người rằng: “Cứ theo
lời Phật dạy thì hãy theo phép trà-tỳ [như đối với]
Chuyển luân Thánh vương.”
Bấy giờ,
nhân dân trong thành Câu-thi-na đều than khóc
thảm thiết, suối lệ tuôn tràn, kéo nhau vào trong thành làm ngay một kim quan
trang nghiêm bằng
bảy món báu, lại chuẩn bị một ngàn tấm lụa trắng đẹp quý giá nhất cùng
vô số hoa đâu-la loại mềm mịn
tốt đẹp nhất.
Ngoài ra còn có
vô số chiên-đàn,
trầm thủy loại tốt nhất, trăm ngàn muôn thứ hương thơm hòa trộn,
các loại hương bột, hương nước, đủ các thứ lọng che bằng lụa, cờ phướn, hoa, hương... Những phẩm vật ấy nhiều như mây trôi choán đầy bầu trời, chất cao [thành đống] như núi Tu-di.
Chuẩn bị đầy đủ như vậy rồi,
mọi người đều
bi thương rơi lệ, cùng nhau đi đến chỗ Phật, [bày biện phẩm vật] trước thân
Như Lai, rồi không kìm nén được sự
đau thương nghẹn ngào, cùng
cung kính dâng lên
cúng dường.
Lúc ấy, tất cả
nhân dân và
đại chúng trong thành Câu-thi-na càng thêm
đau thương, nghẹn ngào
rơi lệ, lại mang
vô số hương, hoa, phướn, lọng và đủ loại phẩm vật
cúng dường nhiều như mây choán đầy bầu trời, cùng nắm tay nhau, đấm ngực khóc than, nghẹn ngào
rơi lệ, nỗi
đau thương chấn động cả [
thế giới]
đại thiên, họ cùng đưa [các phẩm vật] đến trước thân
Như Lai,
bi thương đau xót [dâng lên]
cúng dường.
Bấy giờ,
đại chúng nghẹn ngào không nói được thành lời, thảy đều đem
hết lòng cung kính sâu xa, [mỗi người đều] dùng lụa trắng mịn bao quanh tay rồi đưa [thánh thể]
Như Lai nhập kim quan, rót đầy dầu thơm vào. Nắp quan
tức thời [
tự nhiên] đóng kín lại.
Lúc ấy,
nhân dân nam nữ trong thành Câu-thi-na đều có lòng tham phước lành, muốn giành hết
công đức [
cúng dường]
Như Lai nên không để cho
chư thiên,
đại chúng và tất cả những người khác cùng đưa kim quan của Phật đi. Họ bàn nhau cử ra bốn vị
lực sĩ tráng kiện,
sức mạnh vô song, cởi bỏ hết [những đồ trang sức như]
chuỗi ngọc, áo ngoài... rồi
quyết lòng tự đưa thánh quan
Như Lai vào trong thành để
cúng dường.
Nhưng dù họ đem
hết sức bình sanh cũng không nhấc nổi thánh quan lên!
Lúc ấy, người trong thành lại cử ra tám
đại lực sĩ cùng đến chỗ thánh quan, cởi bỏ áo ngoài, tận lực cùng nhau khiêng Phật quan. Nhưng dù họ đem
hết sức bình sanh cũng không nhấc lên nổi!
Người trong thành Câu-thi-na lại cử ra mười
sáu vị đại lực sĩ cùng đến chỗ thánh quan, cởi bỏ áo ngoài, tận lực cùng nhau khiêng Phật quan, nhưng cũng không sao nhấc lên nổi!
Bấy giờ, ngài A-na-luật bảo các
lực sĩ rằng: “Cho dù tất cả
nhân dân nam nữ lớn bé trong thành [đều hợp sức] cùng nhau khiêng thánh quan
Như Lai để đưa vào thành, cũng không thể nhấc lên nổi, huống chi các ông lại có thể nhấc lên được sao? Các ông nên nhờ đến sức của
đại chúng và
chư thiên, cùng trợ giúp các ông nhấc thánh quan lên, thì mới có thể đưa thánh quan vào thành.”
Ngài A-na-luật còn chưa dứt lời,
Đế Thích đã cầm lọng lớn rất đẹp bằng
bảy báu,
vô số hương, hoa, phướn, lọng,
âm nhạc, cùng với
chư thiên đều buồn khóc
rơi lệ, từ trên không trung
cúng dường thánh quan.
Lần lượt [
chư thiên sáu cõi trời thuộc Dục giới], cao nhất là
chư thiên cõi trời Tha hóa tự tại, và các vị
chư thiên thuộc
Sắc giới đều
cúng dường thánh quan giống như
Đế Thích.
Lúc ấy, lòng
đại bi của
đức Thế Tôn bao
trùm khắp cả, [vì muốn cho
mọi người trong]
thế gian đều được
tâm bình đẳng, được phước báu chẳng khác gì nhau, liền tự nhấc thánh quan từ giữa rừng sa-la bay lên
hư không, cao ngang tầm một cây đa-la. [Vì thế,] tất cả
nhân dân trong thành Câu-thi-na và
chư thiên,
đại chúng cùng
mọi người trong
thế gian đều không ai được khiêng thánh quan của Phật.
Bấy giờ,
Đế Thích cùng
đại chúng chư thiên liền cầm lọng lớn bằng
bảy báu, đài báu có bốn trụ, bốn mặt
trang nghiêm bằng
chuỗi ngọc bảy báu, từ trên không trung [bay theo] che thánh quan Phật; lại dùng
vô số hương, hoa, cờ, phướn,
chuỗi ngọc,
âm nhạc, đủ các màu sắc
rực rỡ xen lẫn, để
cúng dường từ trên không trung.
Lần lượt [
chư thiên sáu cõi trời thuộc Dục giới], cao nhất là
chư thiên cõi trời Tha hóa tự tại, và các vị
chư thiên thuộc các
cõi trời Sắc giới đều
cúng dường thánh quan, còn nhiều hơn cả
Đế Thích. Tất cả đều [bay theo] che thánh quan của Phật và rải xuống những phẩm vật
cúng dường.
Lúc ấy, tất cả
nhân dân trong thành Câu-thi-na nhìn thấy thánh quan của Phật bay
lơ lửng trên
hư không thì đấm ngực kêu khóc lớn, nghẹn ngào
sầu não.
Bấy giờ, tất cả
chư thiên và người ta cùng tung rải rất nhiều các thứ
ngọc trai quý,
bảy món báu, cùng với hương, hoa,
chuỗi ngọc xinh đẹp và đủ màu
xen lẫn nhau, nhiều như mây bay choán đầy khắp mặt đất và
hư không; tất cả đều khóc thương
thảm thiết, tuôn lệ như mưa, cùng
cúng dường linh quan
thất bảo của
Như Lai,
đồng thanh khóc than rằng: “Khổ thay, khổ thay! Chúng con vô phước, muốn khiêng thánh quan của Phật mà rốt cùng chẳng được. Nay chúng con bơ vơ [không còn có Phật], nào có chút căn lành gì?”
Lúc ấy, kim quan của
Đại Thánh Thế Tôn lơ lửng trên không trung, từ giữa rừng sa-la
chầm chậm bay vào thành Câu-thi-na theo cửa thành phía tây.
Trong thành Câu-thi-na, tất cả
nhân dân nam nữ cùng
vô số Bồ Tát,
thanh văn, trời, người và
đại chúng đông đảo choán đầy khắp cả mặt đất và không trung, cùng
đi theo linh quan của
Đại Thánh Như Lai, nắm tay nhau kêu gào khóc lóc, đấm ngực
than thở, nghẹn ngào
rơi lệ. Tất cả đều
mang theo vô số hương, hoa, cờ báu, phướn, lọng, choán đầy khắp mặt đất và
hư không; khóc thương
thảm thiết,
than thở bi ai,
cung kính dâng lên
cúng dường linh quan
Như Lai.
Thành Câu-thi-na này mỗi phía đều rộng ngang dọc bốn mươi tám
do tuần.
Lúc ấy kim quan
thất bảo của
Như Lai từ từ bay trên không trung, [sau khi vào cửa thành phía tây lại] theo cửa thành phía đông mà ra. Tiếp đó vẫn bay trên không trung, quanh về bên phải để theo cửa thành phía nam mà vào, sau đó
tiếp tục bay trên không trung đến cửa thành phía bắc mà ra. Tiếp đó vẫn bay trên không trung, quanh về bên trái để theo cửa thành phía tây mà vào.
Lần lượt như vậy, thánh quan
Như Lai bay quanh khắp thành đủ ba vòng.
Sau đó, kim quan từ từ bay trên không trung, lại vào nơi cửa thành phía tây, bay tiếp đến cửa thành phía đông mà ra. Từ đó quanh về bên trái để vào cửa thành phía bắc, rồi
dần dần bay đến cửa thành phía nam mà ra. Lại quanh về bên phải để vào nơi cửa thành phía tây.
Lần lượt như vậy, thánh quan
Như Lai bay quanh khắp thành đủ bốn vòng.
Như vậy, sau khi đã bay quanh thành Câu-thi-na theo cả hai chiều quanh về bên trái và bên phải, thánh quan
Như Lai đã bay quanh khắp thành đủ bảy vòng.
Lúc ấy,
đang khi thánh quan
thất bảo của
Như Lai bay vào thành, tất cả
đại chúng đều
bi thương than khóc nghẹn ngào,
mang đến vô số những
gỗ thơm quý loại tốt nhất, cùng với chiên-đàn,
trầm thủy, tất cả
các loại hương thơm
đẹp đẽ thanh khiết, xông khắp
thế giới. Lại mang
vô số cờ quý, phướn, lọng, hương, hoa,
chuỗi ngọc đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường.
Bấy giờ, Bốn vị
thiên vương và
chư thiên chúng đều khóc thương
thảm thiết, mắt lệ đầm đìa,
mang đến những chiên-đàn,
trầm thủy quý giá nhất ở
cõi trời, cả
hai mặt trong ngoài đều thơm tho
tinh khiết,
tỏa ra khắp nơi, mỗi vị đều đủ năm trăm khối lớn như bánh xe. Các vị mang tất cả hương quý, cờ báu, lọng quý,
chuỗi ngọc hoa đẹp đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường.
Chư thiên ở
cõi trời Đao-lợi
mang đến mỗi vị một ngàn khối chiên-đàn;
chư thiên ở
cõi trời Dạ-ma
mang đến mỗi vị hai ngàn khối;
chư thiên ở
cõi trời Đâu-suất mang đến mỗi vị ba ngàn khối;
chư thiên ở
cõi trời Hóa Lạc
mang đến mỗi vị bốn ngàn khối;
chư thiên ở
cõi trời Tha hóa tự tại mang đến mỗi vị năm ngàn khối; tất cả đều kèm theo với các thứ phướn, hoa... đều
mang đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường.
Lúc ấy,
chư thiên ở các
cõi trời thuộc
Sắc giới và
Vô sắc giới chỉ
đem theo hoa, hương đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường.
Bấy giờ,
đại chúng trong khắp
thế gian đều
đem theo chiên-đàn,
trầm thủy,
các loại hương, hoa, cờ, lọng
tốt đẹp đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường.
Lúc ấy, ngài A-na-luật nước mắt
ràn rụa,
đau xót khôn cùng,
đi theo chư thiên và những người [đến dự lễ] mà xin các thứ hương thơm, chiên-đàn,
trầm thủy... được đủ số sáu ngàn khối, thơm tho
tinh khiết, tỏa hương ngào ngạt; liền
mang đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường.
[
Thuở ấy có] hồ A-nậu-đạt [rất lớn], bốn mặt đều rộng ngang dọc đến hai trăm do-tuần, từ đó phát nguyên
bốn con sông lớn, [trong đó có
sông Hằng.] Khi Phật vừa
thành đạo, ven bờ phía bắc
sông Hằng có một cây chiên-đàn cũng
nhân dịp ấy mà sanh ra. Thân cây to lớn như bánh xe, cao ngang tầm bảy cây đa-la, hương thơm thường tỏa khắp nơi
cúng dường Như Lai. Vị thần cây
gỗ thơm ấy cũng sanh ra
cùng lúc với cây, thường mang hương thơm của cây đến
cúng dường Phật. Phật vừa nhập Niết-bàn, cây chiên-đàn ấy cũng theo Phật mà diệt mất, cành lá khô rụng, vị thần cây cũng chết theo. Bấy giờ, những vị thần khác liền mang cây
gỗ thơm ấy đến chỗ trà-tỳ,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường Như Lai.
Vùng đất này chính là nơi trà-tỳ chư Phật trong
ba đời. Đức
Đại Giác Thế Tôn nương sức bổn nguyện nên cũng trà-tỳ tại đây. Nơi này có
vô số tháp báu của chư Phật trong
quá khứ, là vùng đất
kiên cố như
kim cang, không thể hư hoại.
Lúc ấy, kim quan của đức
Đại Thánh Như Lai chầm chậm bay trên không trung, hướng đến nơi trà-tỳ, rồi từ trên không trung
dần dần hạ xuống trên giường
thất bảo. Giường ấy đã được
trang nghiêm bởi mọi thứ
chuỗi ngọc tốt đẹp, quý giá
vô cùng,
rực rỡ đủ màu.
Cho đến lúc này, tính ra đã
trải qua bảy ngày [kể từ lúc Phật nhập Niết-bàn]. Tất cả
nhân dân nam nữ trong thành Câu-thi-na,
vô số Bồ Tát,
Thanh văn và
chư thiên cõi trời Đao-lợi, cùng với tất cả
đại chúng đều
bi thương nghẹn ngào, cầm các thứ phướn, lọng, cờ báu, hương, hoa...
đi theo thánh quan Phật
trong suốt bảy ngày ấy. Nhờ oai lực của Phật, tất cả
chư thiên và
mọi người không một ai
cảm thấy đói khát, không một ai nhớ nghĩ đến việc
ăn uống, chỉ một lòng
bi thương lưu luyến, ngưỡng mộ
Như Lai mà thôi.
Bảy ngày đã
trôi qua, [theo phép tắc đã định thì di thể]
Đại Thánh Như Lai sẽ được đưa ra khỏi thánh quan.
Lúc ấy, tất cả
nhân dân nam nữ trong thành Câu-thi-na cùng
vô số đại chúng lại lớn tiếng than khóc,
chấn động cả
thế giới, cùng nhau mang
vô số hương, hoa, cờ phướn, [trỗi lên]
âm nhạc cõi trời vi diệu... đến trước thánh quan
đức Phật, nghẹn ngào
thảm thiết dâng lên
cúng dường.
Bấy giờ,
đại chúng bi thương đau đớn, nghẹn ngào
rơi lệ, [mỗi người đều] dùng lụa trắng mịn bọc kín quanh tay, rồi với lòng
tôn kính sâu xa nhất, họ đưa tay vào kim quan nhẹ nâng di thể
Như Lai [vẫn còn]
chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía, đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
kiên cố như
kim cang không thể hư hoại, đưa thánh thể
Như Lai ra bên ngoài kim quan, đặt
yên ổn trên giường
thất bảo.
Lúc ấy,
đại chúng càng thêm bi thiết, tiếng than khóc
chấn động khắp các
thế giới Phật trong
mười phương. Tất cả đều mang hương, hoa, lọng che bằng lụa... [và trỗi lên]
âm nhạc,
hết lòng cúng dường; nghẹn ngào
đau đớn, nhiều người
ngã xuống hôn mê trước thân
Như Lai.
Đại chúng lúc này càng
đau đớn thống thiết hơn nữa,
ai nấy nước mắt
ràn rụa,
mang đến vô số các loại nước thơm, hương bột nhão,
hết lòng cung kính sâu xa mà cùng nhau tắm gội thân
Như Lai từ đầu đến chân.
Thân sắc Như Lai đến lúc này vẫn hiện bày đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía,
kiên cố như
kim cang không thể hư hoại, được
trang nghiêm bởi
vô lượng phước đức và
trí tuệ.
Sau đó,
mọi người lại dùng
nước thơm rửa thật sạch kim quan.
Mọi việc đã xong,
đại chúng lại lớn tiếng than khóc,
bi thương nghẹn ngào, cùng nhau đốt lên những loại hương thơm quý giá,
tốt đẹp nhất; rồi
rải hoa thất bảo cùng
vô số cờ phướn, lọng che
quý báu đầy khắp cả mặt đất và không trung,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường Như Lai.
Lúc ấy,
đại chúng chưa hết
bi thương nghẹn ngào,
nén lòng dùng
vô số hoa đâu-la mềm mịn đặt khắp quanh
thân kim cang của Phật, từ đầu đến chân. Sau đó, người ta dùng một ngàn tấm lụa trắng tốt nhất, quý giá
vô cùng, quấn nhiều vòng quanh thân
Như Lai, bên ngoài lớp hoa đâu-la. Lúc bọc kín thân Phật như vậy rồi,
đại chúng càng thêm
bi thương than khóc, nhiều người ngất xỉu. Rồi tất cả lại cùng nhau mang hương, hoa, phướn, lọng, cờ báu... [trỗi lên các thứ]
âm nhạc, nghẹn ngào chua xót dâng lên
cúng dường Như Lai.
Đại chúng buồn thương khôn dứt, mắt lệ hoen mờ, lại đem
hết lòng cung kính sâu xa nhất mà dùng lụa trắng bọc quanh tay rồi
đau đớn nâng nhẹ thân
Như Lai đưa lại vào kim quan. Sau đó,
mọi người chế đầy dầu thơm vào trong kim quan. Nắp quan liền [
tự nhiên] đóng kín lại.
Lúc ấy,
đại chúng càng thêm bi thiết, tiếng than khóc
chấn động khắp
thế giới. Tất cả lại mang hương, hoa, phướn lọng... [và trỗi lên]
âm nhạc,
đau đớn than khóc, nghẹn ngào dâng lên
cúng dường kim quan
Như Lai.
Bấy giờ,
đại chúng gom hết
các loại gỗ thơm tốt đẹp [do
chư thiên và
mọi người mang đến], chất cao thành đống như núi Tu-di, hương thơm [từ đó] tỏa lan ra khắp
thế giới. Những
gỗ thơm ấy được xếp kín chất chồng lên nhau, thành một lầu cao rất lớn toàn bằng
gỗ thơm. Bốn mặt lầu ấy được
trang nghiêm bằng
bảy món báu và cờ, lọng, phướn,
chuỗi ngọc đủ màu
xen lẫn, đầy kín trong không trung như mây cuộn, làm cho cảnh lầu càng thêm
rực rỡ.
Âm nhạc của
cõi người và
cõi trời lại
cùng lúc trỗi lên,
bi thương đau xót cúng dường Như Lai.
Lúc ấy,
đại chúng gồm
chư thiên và
loài người sắp sửa nhấc kim quan để đặt lên lầu hương, lại sanh lòng
bi thương thống thiết, đấm ngực than khóc,
chấn động [cả
thế giới]
đại thiên. Rồi tất cả lại mang cờ, lọng, hương, hoa, [trỗi lên]
âm nhạc cõi trời...
bi thương đau xót cúng dường Như Lai.
Đại chúng khi ấy [cố nén]
bi thương đau đớn, đem lòng
tôn kính sâu xa nhất mà dùng lụa trắng quấn quanh tay rồi cùng nhau nâng kim quan
Đại Thánh Như Lai đặt lên trên lầu
gỗ thơm trang nghiêm. Tất cả lại than khóc lớn tiếng, mê
ngất đi từng chặp, rồi cùng nhau
than thở rằng: “Khổ thay, khổ thay! Cớ sao
chúng ta [giờ đây] phải bơ vơ không nơi nương dựa?”
Bi thương thảm thiết, lệ rơi chan hòa, tất cả lại cùng nhau tung rải
các loại hương, hoa; rồi cầm cờ báu, phướn lọng
rực rỡ đủ màu, [trỗi lên các thứ]
âm nhạc...
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường Như Lai.
Lúc ấy, kim quan của
Như Lai Đại Thánh đã được đặt lên trên lầu cao bằng
gỗ thơm,
đại chúng sắp sửa nổi lửa trà-tỳ di thể
Như Lai. Bấy giờ, tiếng than khóc trong
đại chúng lại càng lớn hơn, kinh động cả
thế giới Đại thiên.
Mọi người càng đem lòng
kính trọng sâu xa và
bi thương thống thiết cúng dường [trước] kim quan
Đại Thánh và lầu cao bằng
gỗ thơm ấy.
Bấy giờ, tất cả
đại chúng đều buồn thương
thảm thiết, mắt lệ tuôn tràn, mỗi người cầm một ngọn đuốc thơm
thất bảo, lớn như bánh xe, ánh sáng
rực rỡ chiếu khắp
thế giới,
cùng lúc khóc rống lên rất lớn và châm lửa đốt lầu
gỗ thơm; tiếng khóc
bi thương chấn động khắp cả
thế giới Đại thiên. Rồi lại mang hương, hoa... dâng lên đầy khắp mọi chỗ để
cúng dường.
Khi ấy, những ngọn đuốc quý vừa chạm đến chỗ lầu
gỗ thơm bỗng dưng tắt hết. Bấy giờ, tất cả
đại chúng lại
mang đến những ngọn đuốc
thất bảo lớn nhất, ánh sáng chiếu khắp nơi, rồi họ
bi thương rơi lệ cùng châm những đuốc ấy vào lầu
gỗ thơm. Nhưng tất cả những ngọn đuốc cũng đều tắt cả!
Lúc ấy, tất cả các vị thần biển liền
mang đến thứ lửa trong biển của họ, [đốt thành] những ngọn đuốc lớn
thất bảo, chiếu ra
vô số ánh sáng, đến châm vào lầu
gỗ thơm, nhưng cũng đều tắt cả!
Bấy giờ,
đại chúng [chỉ còn biết] than khóc hồi lâu, quay sang lo việc
cúng dường, vì không ai hiểu được do
nhân duyên nào chưa dứt khiến cho khi châm lửa vào lầu
gỗ thơm để trà-tỳ
Như Lai, lửa lại không thể cháy!
[Thật ra, đó là do] lòng
đại bi của
đức Thế Tôn trải khắp, nên đợi cho
chúng tăng cùng đi với ngài
Đại Ca-diếp[32] về đến nơi mới cho lửa cháy.
Lúc ấy,
Đại Ca-diếp cùng năm trăm [tỳ-kheo]
đệ tử đang ở tại núi Kỳ-xà-quật, cách thành Câu-thi-na năm mươi do-tuần.
Thân tâm vắng lặng an nhiên, ngài nhập
chánh định. Trong
chánh định,
thình lình ngài bỗng thấy trong
tâm kinh động,
toàn thân run rẩy. Ngài liền
xuất định, nhìn thấy núi non, đất đai đều
chấn động, biết rằng
đức Như Lai đã nhập Niết-bàn. Ngài liền bảo các
đệ tử: “Đức
Đại sư Thế Tôn của
chúng ta đã nhập Niết-bàn, đã
trải qua bảy ngày, hiện [thánh thể] đã đưa vào kim quan rồi. Khổ thay, khổ thay! Chúng phải mau mau đến chỗ
Như Lai, e rằng nếu để lễ trà-tỳ đã xong thì không còn được nhìn thấy
sắc thân chân thật thanh tịnh với
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật.”
Vì lòng
tôn kính Phật, ngài Ca-diếp không dám [dùng
thần thông] bay trên
hư không để đến chỗ
Như Lai. Ngài liền dẫn các
đệ tử gấp rút theo đường bộ đi thật nhanh, trong lòng
hết sức bi thương thống thiết. Đi suốt bảy ngày mới đến thành Câu-thi-na.
Nơi đầu đường phía đông của thành, ngài gặp được một thầy bà-la-môn đang đi đến, tay cầm một cành hoa trời. Ngài Ca-diếp liền hỏi: “Ông từ đâu đến đây?”
Người ấy đáp: “Đức Phật đã nhập Niết-bàn, tôi từ chỗ trà-tỳ đi lại đây.”
Ngài Ca-diếp lại hỏi: “Đó là hoa gì vậy?”
Đáp: “Đây là hoa
cõi trời, tôi nhặt được ở chỗ trà-tỳ.”
Ngài Ca-diếp hỏi xin [cành hoa], nhưng người kia từ chối: “Không được, tôi định mang hoa này về cho những người thân trong nhà xem, rồi
cúng dường trong nhà.”
Ngài Ca-diếp liền hỏi mượn tạm cành hoa [ở chỗ trà-tỳ] ấy, đặt lên trên đầu, [tưởng nhớ đến
Như Lai]. Ngay khi ấy ngài liền ngất xỉu,
ngã xuống đất
hôn mê, hồi lâu mới
tỉnh dậy, nghẹn ngào không nói ra được lời nào. Rồi ngài tự nghĩ: “Nay ta ở nơi đây mà
đau thương khóc lóc cũng chẳng ích gì, không thể được nhìn thấy
sắc thân Như Lai chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía với [
ba mươi hai tướng tốt,] tám mươi vẻ đẹp.”
Ngài liền cùng các
đệ tử nhanh chân tiến bước, thẳng vào thành Câu-thi-na theo cửa thành phía bắc. Vào thành rồi, ngài liền ghé vào một
Tăng phường,[33] thấy có một số tỳ-kheo đang
tụ tập. Họ bảo ngài Ca-diếp: “Các ông từ xa đến đây, chắc là mệt nhọc lắm. Xin ngồi nghỉ trong chốc lát chờ
ăn uống.”
Ngài Ca-diếp đáp: “Bậc
đại sư của tôi đã nhập Niết-bàn, tôi còn
lòng dạ nào ngồi đây chờ ăn uống?”
Các tỳ-kheo liền hỏi: “Thầy của ông là ai?”
Ngài Ca-diếp đáp: “Các ông chẳng biết gì sao? Thật
bi thương đau đớn thay! Đấng
Đại giác Thế Tôn nay đã nhập Niết-bàn!”
Những tỳ-kheo kia nghe như vậy rồi đều tỏ vẻ mừng vui, nói rằng: “Thật
vui sướng thay! Khi
Như Lai còn
tại thế thường ngăn cấm
chúng ta [đủ điều],
giới luật quá
nghiêm khắc,
chúng ta thật không chịu đựng nổi, không thể làm theo. Nay ông ấy đã nhập Niết-bàn, những
giới luật nghiêm khắc kia ắt sẽ phải bỏ đi thôi. Các ông hãy
thư thả chờ
ăn uống, có chi phải vội?”
Do oai lực của Phật nên
chư thiên và các
đệ tử của ngài Ca-diếp đều không
nghe được những lời [đáng
xấu hổ] của các tỳ-kheo xấu ác ấy, chỉ riêng ngài Ca-diếp nghe rõ mà thôi.[34] Ngài Ca-diếp
rơi lệ thảm thương, liền [
lập tức] dẫn các
đệ tử của mình
vội vàng đi đến chỗ [trà-tỳ thân] Phật.
Lúc ấy, ngài Ca-diếp với các
đệ tử cùng
suy nghĩ rằng: “Chúng ta phải làm sao có những phẩm vật
cúng dường để
mang đến chỗ [trà-tỳ thân] Phật mà
cúng dường Như Lai?”
Ngài Ca-diếp lại nghĩ: “Ta vốn sanh trưởng tại thành này, nếu đi xin các phẩm vật
cúng dường chắc là có thể được.” Ngài liền cùng với các
đệ tử vào trong thành,
tuần tự đi xin khắp các nhà, được đủ một ngàn tấm lụa trắng tốt,
vô số hoa đâu-la mềm mịn,
vô số các loại hoa quý, hương bột nhão, hương nước, hương dầu, cờ báu, phướn lọng,
chuỗi ngọc đủ màu
rực rỡ... mọi thứ đều đầy đủ.
Sau đó, ngài Ca-diếp và các
đệ tử cùng
bi thương đau xót mang tất cả những phẩm vật ấy nhanh chân đi ra khỏi thành theo cửa phía tây.
Bấy giờ, ngài Ca-diếp
nghe được tiếng khóc than
bi thảm của tất cả
đại chúng từ nơi làm lễ trà-tỳ, lại nghe họ cùng nhau hỏi
Đế Thích rằng: “Cúng dường đã xong, làm sao có thể nổi lửa đốt lầu
gỗ thơm này để trà-tỳ Như Lai?”
Đế Thích đáp: “Đại chúng hãy đợi trong chốc lát.
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sắp đến đây rồi.”
Đế Thích chưa dứt lời thì tất cả
đại chúng đang trong cơn
bi thương ấy liền nhìn thấy ngài Ca-diếp cùng với các
đệ tử trên đường bước đến, dáng vẻ
bi thảm.
Đại chúng liền nén sự
bi thương, rẽ đường cho ngài Ca-diếp và các
đệ tử [
đi vào].
Vừa
bước tới trước, trông thấy thánh quan của Phật từ xa, ngài Ca-diếp liền cùng các vị
đệ tử đồng thời lễ bái, than khóc nghẹn ngào, rồi ngã lăn xuống đất
mê man bất tỉnh,
tinh thần tối tăm rối loạn, hồi lâu mới tỉnh, lệ tuôn không dứt.
Ngài Ca-diếp khi ấy
chầm chậm tiến lên [về phía thánh quan của Phật], hỏi
đại chúng rằng: “Làm sao để có thể mở nắp kim quan của Đại Thánh?”
Đại chúng đáp: “Phật nhập Niết-bàn đã hai tuần rồi, e rằng [thánh thể] đã hư hoại, làm sao có thể mở ra?”
Ngài Ca-diếp nói: “Thân
Như Lai kiên cố như
kim cang, là thường, lạc, ngã, tịnh, không thể hư hoại; hương thơm
giới đức của ngài lan tỏa khắp nơi như núi chiên-đàn [thơm ngát, làm sao có thể hư hoại?].”
Ngài Ca-diếp nói xong lời ấy thì nước mắt
ràn rụa, tiến bước đến chỗ thánh quan của Phật.
Bấy giờ, lòng
đại bi của
Như Lai bình đẳng [đối với tất cả
chúng sanh], liền vì ngài Ca-diếp mà
tự nhiên mở nắp thánh quan, cả ngàn tấm lụa trắng và hoa đâu-la [quanh thân Phật] cũng
tức thời tháo mở ra,
hiển bày sắc thân chân thật kiên cố chói sáng màu
vàng ròng có sắc tía, có đủ
ba mươi hai tướng tốt với tám mươi vẻ đẹp.
Ngài Ca-diếp cùng các
đệ tử nhìn thấy như vậy rồi thì
bi thương đau đớn,
ngã xuống đất
hôn mê, hồi lâu mới
tỉnh lại, nghẹn ngào không nói được thành lời, nước mắt
ràn rụa. Rồi ngài cùng với các
đệ tử chầm chậm tiến lên lầu
gỗ thơm, đến sát bên thánh quan của Phật, lại nghẹn ngào tức tưởi than khóc
bi thảm, mang ra tất cả những phẩm vật đã xin được như hương, hoa, phướn, lọng, cờ báu,
chuỗi ngọc... rồi khóc than
đau đớn mà dâng lên
cúng dường.
Sau đó, ngài Ca-diếp cùng các
đệ tử lại dùng
các loại hương bột nhão,
nước thơm... để tắm gội
sắc thân chói sáng màu
vàng ròng của
Như Lai; rồi
đốt hương thơm,
rải hoa,
bi thương than khóc dâng lên
cúng dường.
Tắm gội [
sắc thân Như Lai] rồi, ngài Ca-diếp cùng với các
đệ tử liền mang ra số hoa đâu-la mềm mịn nhất đã xin được, đặt quanh
sắc thân màu
vàng ròng có sắc tía của
Như Lai. Sau đó lại dùng những hoa đâu-la cũ đắp thêm quanh số hoa đâu-la mới, sau đó dùng một ngàn tấm lụa trắng đã xin được
tuần tự quấn thành nhiều lớp bên ngoài, khắp quanh thân
Như Lai. Quấn như vậy rồi, lại dùng số lụa cũ để
tuần tự quấn thêm nhiều lớp bên ngoài các lớp lụa mới. Việc quấn lụa như thế vừa xong, nắp thánh quan liền [
tự nhiên] đóng kín lại.
Mọi người lại dùng những
chuỗi ngọc bằng
thất bảo để
trang nghiêm bên ngoài.
Lúc ấy, ngài Ca-diếp càng thêm
bi thương đau xót, cùng với các
đệ tử đi nhiễu [quanh thánh quan
đức Phật] theo chiều bên phải bảy vòng, rồi mắt lệ rưng rưng, ngài quỳ mọp xuống
chắp tay đọc kệ
than thở rằng:
Đớn đau thay!
Đại Thánh Chí Tôn!
Con nay
khổ não, đắng cay lòng!
Thế Tôn sao vội sớm
nhập diệt,
Chẳng rủ
lòng từ nán đợi con?
Con nhập
thiền định trong
núi Quật,[35]
Quán khắp
mọi nơi không Như Lai!
Rồi lại thấy Phật đã Niết-bàn,
Hốt nhiên tâm thần con rúng động.
Bỗng thấy mây đen phủ
thế gian,
Đất đai, núi non đồng
chấn động;
Con biết
Như Lai đã Niết-bàn,
Vội đến vẫn không kịp gặp Phật!
Thế Tôn đại từ nỡ quên sao,
Khiến con chẳng thấy Phật Niết-bàn;
Chẳng được
nghe lời vàng
dạy bảo,
Bơ vơ còn biết
dựa vào đâu?
Thế Tôn ôi! Con quá đớn đau!
Tâm tình
rối loạn, như mê muội!
Nay con
kính lễ đầu
Thế Tôn,
Và
kính lễ đến ngực
Như Lai.
Lại
kính lễ cả tay
Đại Thánh,
Đau thương cúi lễ lưng
Như Lai,
Và
kính lễ đến rốn
Như Lai,
Chí thành kính lễ đến
chân Phật.
Khổ sao không thấy Phật Niết-bàn!
Nguyện Phật hiển bày nơi con lễ!
Như Lai ở đời, thảy thảy vui,
Nay nhập Niết-bàn người người khổ!
Đớn đau thay!
Khổ não lớn thay!
Xin
Đại bi hiện chỗ con lễ!
Sau khi ngài Ca-diếp
bi thương nghẹn ngào đọc kệ như vậy rồi,
đức Thế Tôn vì lòng
đại bi liền
hiển bày hai chân, mỗi bàn chân có tướng bánh xe đủ ngàn nan hoa,[36] [
tự nhiên] đưa ra khỏi thánh quan, hướng về phía ngài Ca-diếp. Từ nơi tướng bánh xe ngàn nan hoa ấy phóng ra ngàn đạo
hào quang, chiếu sáng khắp tất cả
thế giới trong
mười phương.
Lúc ấy, ngài Ca-diếp và các
đệ tử nhìn thấy
chân Phật,
đồng thời lễ bái tướng bánh xe ngàn nan hoa, ngay khi ấy liền ngã lăn xuống đất
hôn mê, hồi lâu mới
tỉnh lại. Rồi ngài và các
đệ tử cùng nhau than khóc nghẹn ngào,
bi thương đau xót đi quanh [thánh quan] bảy vòng theo chiều bên tay phải. Đi quanh bảy vòng rồi, lại cúi lễ
chân Phật, than khóc bi ai,
chấn động cả
thế giới. Sau đó, vẫn không nén được sự
đau thương, ngài nghẹn ngào đọc
kệ tán thán chân Phật:
Như Lai tâm
đại bi rốt ráo,
Ánh từ soi khắp không
phân biệt;
Chúng sanh chí thành tất
ứng hiện:
Cho con được thấy tướng hai chân.
Nay con
hết lòng cung kính lễ:
Hai
chân Phật với tướng bánh xe.
Từ bánh xe ấy
phóng hào quang,
Soi khắp
mười phương các
cõi Phật.
Nay con
quy y, cúi đầu lễ:
Tướng bánh xe quý, chiếu
hào quang;
Chúng sanh thấy
hào quang, thoát khổ,
Ba ác,
Tám nạn, đều lìa xa!
Con lại
quy y, cúi đầu lễ,
Hào quang cứu độ các đường ác.
Thế Tôn vô số kiếp thuở xưa,
Vì chúng con tu mọi
khổ hạnh;
Nay đã
thành tựu thân kim cang,
Từ bàn chân phóng ngàn
tia sáng.
Buồn thương,
cung kính xin cúi lễ:
Tướng bánh xe quý, đời được yên.
Phật
tu công đức vì
chúng sanh,
Dưới cội Bồ-đề, trị
Bốn ma;
Trị
Bốn ma rồi, thu
ngoại đạo,
Nhờ đó
chúng sanh được
Chánh kiến.
Cung kính quy y, cúi đầu lễ:
Hào quang chân Phật soi
Chánh kiến;
Phật là cha lành khắp tất cả,
Chân
phóng hào quang, độ
chúng sanh.
Con lại
quy y, cúi đầu lễ,
Bình đẳng thoát khổ, chân
phóng quang;
Con được
hào quang chân Phật chiếu,
Buồn vui
lẫn lộn, thương cảm thay!
Con lại
bi thương cúi đầu lễ:
Cảm thay, tướng quý bánh xe sáng!
Cúi đầu
quy y hào quang chân,
Giáo pháp rốt ráo, thoát
Ba cõi.
Kính lễ chân Phật, trời, người nương,
Hào quang chiếu khắp
Ba cõi khổ;
Chúng sanh chưa
bước ra cửa khổ,
Thảy đều nương theo
hào quang chân.
Chúng con chưa ra khỏi
luân hồi,
Làm sao
chân Phật nỡ buông bỏ?
Đau đớn thay! Tất cả
chúng sanh,
Đêm dài không thấy
hào quang chân.
Sám hối với
Thế Tôn từ bi.
Hiển bày chân quý tỏa
hào quang;
Thương thay! Nay gặp
hào quang này,
Biết đến bao giờ được thấy nữa?
Lúc ấy, ngài Ca-diếp cùng các
đệ tử đọc kệ ấy rồi, lại
ngã xuống đất
hôn mê lần nữa, hồi lâu mới
dần dần tỉnh lại,
đau đớn nghẹn ngào không sao tự chế. Khi ấy, hai
chân kim cang có tướng bánh xe ngàn nan hoa của đấng
Đại giác Thế Tôn tự nhiên rút trở vào thánh quan, [tất cả lại] đóng kín như cũ.
Bấy giờ,
nhân dân nam nữ trong thành và
chư thiên,
mọi người cùng
đại chúng nhìn thấy ngài
Đại Ca-diếp nhiều lần than khóc, đấm ngực
kêu la,
bi thương chấn động vô số thế giới đại thiên, tất cả đều cùng nhau mang các phẩm vật đến,
bi thương nghẹn ngào dâng lên
cúng dường.
Lúc ấy, trong thành Câu-thi-na có bốn vị
lực sĩ thân đeo
chuỗi ngọc trang nghiêm, tay cầm đuốc
thất bảo lớn như bánh xe, chiếu sáng khắp nơi, định châm lửa vào lầu
gỗ thơm để trà-tỳ thân
Như Lai. Đuốc ấy vừa chạm đến lầu
gỗ thơm bỗng nhiên tắt mất. Ngài Ca-diếp liền nói: “Bảo quan của
Đại Thánh, [dù là tất cả] lửa trong
Ba cõi còn không thể thiêu cháy, huống chi sức các ông lại có thể đốt được sao?”
Trong thành lại có tám
đại lực sĩ tay cầm đuốc lớn
thất bảo cháy sáng, cùng nhau đến châm lửa đốt thánh quan, nhưng tất cả đuốc cũng đều tắt cả.
Lại có mười sáu
lực sĩ khỏe nhất trong thành, mỗi người đều cầm đuốc lớn
thất bảo mang đến châm vào lầu
gỗ thơm, nhưng đuốc cũng đều tắt hết.
Trong thành lại có ba mươi sáu
lực sĩ khỏe nhất, tất cả đều cầm đuốc lớn
thất bảo đến châm đuốc vào lầu
gỗ thơm, nhưng tất cả đuốc cũng đều tắt cả.
Lúc ấy, ngài Ca-diếp bảo các
lực sĩ và tất cả
đại chúng rằng: “Các vị nên biết rằng, dù cho dùng đến tất cả lửa đuốc của
chư thiên và
loài người cũng không thể trà-tỳ bảo quan
Như Lai. Các vị không
cần phải phí công khổ nhọc cố làm việc ấy!”
Bấy giờ, hết thảy
nhân dân nam nữ trong thành cùng với
chư thiên,
mọi người và
đại chúng càng thêm
bi thương, cùng nhau mang thêm phẩm vật đến, than khóc
đau xót dâng lên
cúng dường, cùng nhau
lễ bái [thánh quan],
đi nhiễu quanh bảy vòng theo về bên mặt, lớn tiếng than khóc,
chấn động khắp cõi
Tam thiên [
đại thiên thế giới].
Lúc ấy,
đức Như Lai dùng sức đại bi [khiến cho] từ nơi quả tim trong lồng ngực của ngài bùng lên ngọn lửa rất mạnh
tỏa ra bên ngoài thánh quan,
chầm chậm trà-tỳ [
sắc thân Như Lai]. Ngọn lửa thiêu cháy lầu
gỗ thơm,
trải qua đủ bảy ngày mới tàn.
Bấy giờ, hết thảy
nhân dân nam nữ trong thành cùng với
chư thiên,
mọi người và
đại chúng cùng
trải qua bảy ngày than khóc
bi thảm, tiếng
đau thương không chút lắng dịu; tất cả cùng nhau mang thêm phẩm vật đến
cúng dường không ngớt.
Lúc ấy, cả bốn vị
thiên vương đều có
ý nghĩ giống nhau rằng: “Ta sẽ dùng
nước thơm dập tắt lửa để mau chóng thâu nhặt lấy xá-lợi mang về
cõi trời cúng dường.”
Nghĩ như vậy rồi, mỗi vị liền lấy bình vàng
thất bảo đựng đầy
nước thơm; lại
mang theo bốn cây
đại thọ ở bốn núi Tu-di, là loại cây
đặc biệt thơm tho,
tinh khiết, chảy ra chất nước như sữa ngọt. Mỗi cây này đều to lớn đến ngàn vòng ôm, cao cả trăm do-tuần, bay theo bốn vị
thiên vương rồi từ trên không trung
đồng thời hạ xuống chỗ trà-tỳ. Khi ấy, từ những cây này tuôn chảy chất nước như sữa ngọt, các
thiên vương thì nghiêng bình vàng chứa
nước thơm,
cùng lúc tưới cả vào lửa. [Không ngờ] tưới xong thì lửa càng mạnh hơn, không
giảm bớt chút nào.
Bấy giờ, các vị thần biển,
Long vương Sa-già-la[37] cùng với các vị thần sông thấy lửa không tắt thì mỗi vị đều nghĩ giống nhau rằng: “Ta sẽ dùng
nước thơm tưới cho tắt lửa để mau chóng thâu nhặt xá-lợi về chỗ ta ở mà
cúng dường.”
Nghĩ như vậy rồi, mỗi vị đều mang bình báu chứa
vô lượng nước thơm đến chỗ trà-tỳ,
cùng lúc tưới vào lửa. Sau khi tưới xong lửa vẫn như trước, không
giảm bớt chút nào.
Lúc ấy, ngài A-na-luật bảo bốn vị
thiên vương và các thần biển rằng: “Các vị dùng
nước thơm muốn tưới cho lửa tắt, há chẳng phải là muốn thâu lấy xá-lợi đem về
cúng dường đó sao?”
Tất cả cùng đáp: “Quả đúng như vậy.”
Ngài A-na-luật liền bảo bốn vị
thiên vương: “Các vị thật là
tham lam quá! Các vị ở trên
cõi trời, nếu xá-lợi theo quý vị lên
cõi trời thì người ở trần gian làm sao lên đến đó được mà cúng dường?”
Rồi ngài A-na-luật bảo các vị thần biển: “Các vị đều ở những nơi biển lớn, sông sâu, nếu quý vị thâu lấy xá-lợi của
Như Lai, làm sao người ở trần gian đến được chỗ cung điện của các vị mà cúng dường?”
Khi ấy, bốn vị
thiên vương liền
ngỏ lời sám hối, rồi
ai nấy cùng
trở về thiên cung. Các vị thần biển, thần sông cũng đều xin
sám hối và nói: “Quả đúng như lời dạy của
thánh tăng.”
Sám hối rồi, các vị đều
trở về chỗ ở của mình.
PHÂN CHIA XÁ-LỢI
Phẩm thứ tư
Bấy giờ,
Đế Thích cầm bình
thất bảo và phẩm vật
cúng dường hiện đến chỗ trà-tỳ. Ngay lúc đó thì lửa ở chỗ ấy
tự nhiên tắt hết.
Đế Thích định mở nắp thánh quan
Như Lai để thỉnh [xá-lợi của] một cái răng Phật. Ngài A-na-luật thấy vậy liền hỏi: “Ông định làm gì đó?”
Đế Thích đáp: “Tôi muốn thỉnh [xá-lợi của] một chiếc răng Phật đem về
cõi trời cúng dường.
Ngài A-na-luật nói: “Xin ông đừng vội tự ý lấy. Hãy đợi
đại chúng cùng
phân chia.”
Đế Thích liền nói: “Trước đây Phật đã có hứa
ban cho tôi [phần xá-lợi của] một chiếc răng.
Vì vậy nên tôi vừa đến thì lửa
tự nhiên tắt.”
Đế Thích nói rồi liền mở nắp thánh quan, nhặt lấy xá-lợi của một chiếc răng trong miệng Phật ở hàm trên, bên phải. Sau đó
trở về thiên cung xây tháp
cúng dường.
Lúc ấy, có hai quỷ
dạ-xoa và la-sát[38]
ẩn mình theo sau Đế Thích, không ai nhìn thấy, liền trộm lấy xá-lợi hai chiếc răng của Phật.
Bấy giờ, tất cả
nhân dân nam nữ trong thành và
đại chúng liền
cùng lúc kéo đến, định tranh nhau lấy
xá-lợi Phật. Ngài A-na-luật bảo họ: “Đại chúng nên bình tâm
thư thả một chút để
mọi việc được
an lành. Phật đã có dạy, nên theo đúng phép tắc mà
phân chia xá-lợi để cùng nhau
cúng dường.”
Nhưng
lúc ấy tất cả
nhân dân nam nữ trong thành và
đại chúng đều chẳng
nghe lời ngài A-na-luật. Mỗi người đều
mang theo giáo mác, cung tên, đao kiếm... tất cả
các loại vũ khí.
Ai nấy đều tự trang bị đầy đủ, muốn
tranh đoạt lấy xá-lợi.
Bấy giờ,
mọi người trong thành liền mở thánh quan của Phật ra, thấy tất cả hoa đâu-la và lụa trắng [đặt quanh thân Phật] vẫn còn
nguyên không cháy. Thấy vậy rồi,
đại chúng lại lớn tiếng kêu khóc, nước mắt tuôn tràn. Họ mang thêm phẩm vật đến,
bi thương đau xót dâng lên
cúng dường, đem
hết lòng thành kính sâu xa lễ bái [trước thánh quan], rồi quỳ mọp xuống, cùng nhau
rơi lệ mà đọc kệ
xưng tán rằng:
Như Lai dùng sức đại tự tại,
Trong cả
ba đời luôn
tự tại;
Vì nguyện
đại bi đến cõi này,
Hiện khắp biển khổ độ
chúng sanh.
Thần thông,
trí tuệ, khôn kể xiết,
Vào ra
sanh tử, không
chướng ngại;
Thường hóa một thân làm nhiều thân,
Nhiều thân, một
thân thành vô số.
Thần biến hiện khắp, ai cũng thấy,
Vì không duyên nên hiện Niết-bàn;
Chúng con hết phước, không duyên ứng,
Nên
Như Lai mới đành
buông bỏ.
Thánh quan Phật trong rừng sa-la,
Dù
đại lực sĩ không nhấc nổi;
Do sức
đại bi tự bay lên,
Cao đến ngang tầm cây đa-la.
Bay chậm quanh thành Câu-thi-na,
Bảy ngày, bay quanh đủ bảy vòng;
Sau đó tự đến chỗ trà-tỳ,
Chỉ có sức Phật làm được vậy.
Khắp cả trời người khôn xét lường,
Như Lai thị hiện Đại Niết-bàn.
Kim cang chẳng hoại, sức
tự tại,
Trà-tỳ, lửa
thế gian chẳng cháy.
Phải nhờ lửa
từ bi tâm Phật,
Tự thiêu sắc thân suốt bảy ngày;
Trời, người không thể tắt lửa ấy,
Sức
đại bi Như Lai ứng hiện,
Đế Thích vừa đến, lửa liền tắt.
Hoa đâu-la mịn quanh thân Phật,
Dù lửa thiêu đốt vẫn không cháy.
Và lụa quấn Phật trong bảo quan,
Mặc cho lửa đốt vẫn không cháy.
Mới biết sức
Như Lai tự tại,
Tự tại muôn pháp, xưng
Pháp vương.
Kính lễ Đại bi thầy
Ba cõi,
Kính lễ bậc thánh Không
run sợ,
Kính lễ Đại từ che chở khắp,
Kính lễ bậc
thần biến tự tại.
Chúng con từ nay lìa
Thế Tôn,
Chìm trong biển khổ, không người cứu.
Thương thay! Hỡi ôi,
Đại Thánh Tôn!
Vĩnh biệt từ nay, đến bao giờ?
Bấy giờ,
đại chúng đọc kệ như vậy rồi lại
bi thương khóc kể,
ai nấy cùng mang thêm phẩm vật đến,
hết lòng đau xót dâng lên
cúng dường.
Lúc ấy, ngài A-na-luật vì khắp hàng trời, người và tất cả
đại chúng,
nhân dân trong thành đang cùng nhau [
tụ tập] quanh thánh quan của Phật, liền từ từ tháo mở từng lớp lụa trắng và hoa đâu-la. Một ngàn tấm lụa trắng của ngài Ca-diếp và các
đệ tử vẫn còn
nguyên không cháy; một ngàn tấm lụa trắng của
nhân dân trong thành chỉ trừ một lớp quấn ngoài cùng, còn lại bao nhiêu đều cháy thành tro; riêng hoa đâu-la thì vẫn còn
nguyên không cháy.
Bấy giờ, ngài A-na-luật liền lấy số lụa trắng và hoa đâu-la [không cháy] ấy phân thành từng miếng nhỏ, chia đều cho
đại chúng, dạy họ xây
bảo tháp mà
cúng dường.
Ngài A-na-luật lại lấy số tro của lụa đã cháy, cũng phân ra từng phần nhỏ mà chia cho
đại chúng, dạy họ xây
bảo tháp mà
cúng dường.
Ngoài ra,
các loại tro khác [ở nơi trà-tỳ] không cần
phân chia, mỗi người đều
tùy ý lấy về để xây tháp
cúng dường.
Trước đó,
nhân dân trong thành đã thuê thợ khéo làm ra tám cái bình vàng và tám tòa
sư tử, đều trang trí bằng
bảy món báu. Mỗi cái bình quý ấy đều chứa được một hộc, được đặt trên tòa
sư tử làm bằng
bảy báu. Mỗi tòa
sư tử quý ấy đều có ba mươi hai vị
lực sĩ, trang sức bằng những
chuỗi ngọc bảy báu, màu sắc
rực rỡ xen lẫn trên thân, cùng nhấc bổng các tòa
sư tử ấy lên. Trên mỗi tòa
sư tử lại có tám cô thể nữ trang sức bằng các
chuỗi ngọc thất bảo, nhiều màu
rực rỡ xen lẫn, cùng nâng bình quý; lại có tám cô thể nữ trang sức bằng
chuỗi ngọc, cầm lọng bằng
bảy báu che trên bình quý; lại có tám cô thể nữ trang sức bằng các
chuỗi ngọc, tay cầm gươm bằng
bảy báu đứng
bảo vệ bình quý; lại có tám cô thể nữ trang sức bằng
chuỗi ngọc, cầm cờ lông trĩ cắm ở bốn phía bình quý.
Mỗi tòa
sư tử quý ấy đều có
vô số người cầm
các loại nhạc khí
vi diệu, cờ phướn, lọng quý, hoa, hương,
chuỗi ngọc vây quanh
cúng dường; lại có
vô số người cầm cung tên, giáo mác, dây trói, lưỡi câu dài... và mọi thứ chiến cụ vây quanh.
Từ trong thành Câu-thi-na, họ vây quanh các tòa
sư tử với bình báu ấy, cùng tiến về nơi trà-tỳ [thân
Như Lai].
Khi tám tòa
sư tử bằng
bảy báu ấy đã ra khỏi thành rồi, những người trong thành liền
mang theo vô số hương bột nhão, hương nước, đi sau các
lực sĩ mà dọn dẹp, san lấp đất đai, làm cho đường đi trở nên mềm ướt,
mát mẻ, thơm tho,
rộng rãi,
nghiêm trang, kéo dài
cho đến tận nơi trà-tỳ. Hai bên đường lại có
vô số cờ quý, phướn lọng, hương, hoa,
chuỗi ngọc trai quý, đủ các màu sắc
rực rỡ xen lẫn, [lại trỗi lên
các loại]
âm nhạc huyền ca, tô điểm cho đường xá, chờ rước xá-lợi của
Đại Thánh Thế Tôn về qua đó.
Mọi người cũng vây quanh các
lực sĩ khiêng tám tòa
sư tử thất bảo mà đến nơi trà-tỳ.
Đến nơi, họ khóc lóc rất
thảm thiết,
kêu la khản tiếng,
chấn động cả cõi [
thế giới]
đại thiên. Họ lại
mang theo các phẩm vật,
hết lòng chí thành dâng lên
cúng dường [xá-lợi
Như Lai].
Bấy giờ, do sức
đại bi của
Thế Tôn nên
thân kim cang của
Phật tự nhiên tan nát thành [
vô số] hạt xá-lợi rất nhỏ, chỉ còn lại [nguyên vẹn xá-lợi của] bốn chiếc răng không thể hư hoại.
Lúc ấy,
đại chúng được nhìn thấy xá-lợi [
Như Lai] rồi càng thêm
bi thương đau đớn, liền mang thêm phẩm vật đến,
rơi lệ chua xót dâng lên
cúng dường.
Khi ấy, ngài A-na-luật và
mọi người trong thành, nước mắt lưng tròng, cùng nhau thâu nhặt lấy xá-lợi [Phật] cho vào tám cái bình quý làm bằng
bảy báu trên tòa
sư tử. Khi nhặt hết xá-lợi thì vừa đầy tám bình quý ấy.
Bấy giờ, tất cả
đại chúng,
chư thiên và
mọi người nhìn thấy
xá-lợi Phật được đưa hết vào trong bình quý rồi, lại càng thêm
bi thương đau đớn; họ
rơi lệ, lại dùng phẩm vật đã
mang theo chí thành dâng lên
cúng dường [xá-lợi
Như Lai].
Lúc ấy, các
lực sĩ và
nhân dân nam nữ trong thành Câu-thi-na sắp sửa mang các bình quý chứa
xá-lợi Phật vào thành.
Đại chúng càng thêm
bi thương,
ai nấy đều dùng những phẩm vật đã
mang theo dâng lên
cúng dường.
Bấy giờ, các
đại lực sĩ vây quanh theo họ đều là dân trong thành, thảy đều
bi thương đau xót, nghẹn ngào
rơi lệ, cùng nhau khiêng tám tòa
sư tử bằng
bảy báu theo
con đường rưới
nước thơm đã được sửa
dọn sạch sẽ để về thành Câu-thi-na.
Lúc ấy, tất cả
đại chúng,
chư thiên và
mọi người càng thêm bi ai
đau đớn, [kêu khóc]
chấn động thế giới; họ mang các phẩm vật
theo sau xá-lợi [Phật], khóc than
thảm thiết mà
cúng dường. Khi xá-lợi của
Như Lai đã đưa vào trong thành rồi,
mọi người liền đặt yên tại một ngã tư đường.
Bấy giờ,
nhân dân trong thành Câu-thi-na liền bố trí đủ
bốn đạo binh,[39]
vô số binh lính, thân mang áo giáp, tay cầm vũ khí, đi tuần quanh thành Câu-thi-na. Khắp bốn phía thành và chung quanh thành đều có
vô số binh lính xếp thành nhiều vòng, phòng bị nghiêm mật, vì e có những người từ
nơi khác kéo đến cướp đoạt [
xá-lợi Phật]. Tuy chuẩn bị đầy đủ
hình thức phòng bị như vậy, nhưng họ
thật không có lòng muốn gây chiến.
Lại có năm trăm vị thầy
chú thuật rất giỏi trấn giữ ở bốn cửa thành để
ngăn ngừa tai ách. Lại dùng
vô số cờ báu, phướn lọng
trang nghiêm vi diệu, cờ lớn bằng lông chim trĩ, cắm ở bốn góc thành,
nghiêm trang cúng dường, vì muốn
phù hợp với
nghi thức.
Khi ấy, tất cả
nhân dân nam nữ trong thành cùng với
đại chúng,
chư thiên và
mọi người khác càng thêm
bi thương ai oán, cùng nhau mang thêm các phẩm vật rồi
hết lòng chí thành dâng lên
cúng dường [
xá-lợi Phật].
Các bình quý đựng xá-lợi [Phật] đặt trên tòa
sư tử trải qua được bảy ngày. Trong bảy ngày ấy, tất cả
đại chúng đều than khóc ngày đêm, tiếng
bi thương không ngớt.
Mọi người đều dùng những phẩm vật đã
mang đến để
hết lòng thành kính dâng lên
cúng dường [
xá-lợi Phật].
Tám tòa
sư tử làm bằng
bảy báu ấy đều có năm trăm vị thầy
chú thuật rất giỏi [
thường xuyên]
canh giữ,
đề phòng có những hạng trời, rồng, dạ-xoa, thần, quỷ lẻn đến lấy [
xá-lợi Phật].
Trải qua bảy ngày ấy rồi,
quyến thuộc trong
dòng họ Phật sanh ra, [tức là]
quốc vương thành Ca-tỳ-la và những người trong họ Thích-ca, mới biết là Phật đã nhập Niết-bàn. Do oai lực của Phật nên trước đó dù Phật đã nhập Niết-bàn đến
ba tuần lễ họ vẫn không hề hay biết.
Bấy giờ,
quốc vương Ca-tỳ-la cùng với những người họ Thích-ca đều than khóc
bi thảm, cùng nhau đi thật nhanh đến thành Câu-thi-na. Đến nơi, họ thấy
vô số binh lính đang bao quanh canh gác bên ngoài thành. Họ lại nhìn thấy [khắp nơi đầy] những cờ báu, phướn lọng giăng bày, khắp bốn góc thành,
che khuất cả cõi nước; lại có những vị thầy
chú thuật giỏi
canh giữ nơi bốn cửa thành.
Quốc vương [Ca-tỳ-la] và những người
dòng họ Thích-ca liền hỏi các thầy
chú thuật: “Phật đã nhập Niết-bàn rồi sao?”
Các thầy ấy đáp: “Phật nhập Niết-bàn
đến nay đã bốn tuần rồi.[40] Lễ trà-tỳ đã xong, bây giờ sắp sửa
phân chia xá-lợi.”
Quốc vương [Ca-tỳ-la] nói: “Chúng tôi đều là
quyến thuộc trong
dòng họ Phật đản sanh. Oai lực của Phật khiến cho
chúng tôi [
trong suốt ba tuần] không hay biết rằng
Như Lai đã vào Niết-bàn. Nay
chúng tôi muốn được thấy xá-lợi của
Như Lai, vậy các ông hãy mở đường cho
chúng tôi vào.”
Nghe vậy rồi, các thầy
chú thuật và binh lính [canh gác] liền để cho
quốc vương [Ca-tỳ-la] và những người họ Thích-ca vào thành. Khi vào thành rồi, vua và những người họ Thích-ca nhìn thấy
xá-lợi Phật trên những tòa
sư tử thì
đau đớn nghẹn ngào, nước mắt
ràn rụa, cùng nhau
đi nhiễu quanh [các tòa
sư tử] bảy vòng theo chiều bên phải. Nhiễu quanh bảy vòng rồi, họ cùng nhau
nuốt lệ, nói rằng: “Chúng tôi muốn thỉnh một phần xá-lợi
Như Lai đem về
cúng dường.”
Đại chúng đáp rằng: “Tuy
chúng tôi biết các vị là
quyến thuộc dòng họ Thích-ca, nhưng
Phật Thế Tôn trước đã có dạy việc
phân chia xá-lợi, không hề có dặn chia phần cho các vị. Xá-lợi ở đây đều đã có người thỉnh, các vị làm sao có được? Xin hãy về đi thôi!”
Bấy giờ,
quốc vương [Ca-tỳ-la] và những người họ Thích-ca
thỉnh cầu không được, tất cả đều buồn khổ than khóc
bi thương, rồi
ngã xuống đất
hôn mê, hồi lâu mới
tỉnh lại. Họ không nén được lòng
đau thương, liền nói với người trong thành rằng: “Như
Lai Thế Tôn thuộc
dòng họ Thích-ca của
chúng tôi, vì
thương xót các ông nên mới nhập Niết-bàn tại đây. Vì sao các ông lại khinh thường, không chịu chia cho
chúng tôi một phần xá-lợi?”
Nói như vậy rồi, tất cả cùng nhau
lễ bái xá-lợi,
đi nhiễu quanh bảy vòng về bên phải, khóc lóc
thảm thiết, nước mắt
ràn rụa, sanh lòng tức giận và
đau xót ra về.
Bấy giờ, [nhắc lại chuyện trước đây,] vua nước Ma-kiệt-đà[41] là A-xà-thế sau khi đã giết hại cha [là vua Tần-bà-sa-la], sanh lòng
hối hận vô cùng, trên người phát sanh ghẻ độc [
đau đớn cùng cực]. Nhờ
đức Thế Tôn [
từ bi nhập tam-muội] Nguyệt ái
phóng hào quang chiếu lên thân ông, bệnh ghẻ độc nơi thân liền khỏi hẳn.[42] Vua liền tìm đến chỗ Phật,
bi thương khẩn thiết
cầu xin sám hối.
Đức Thế Tôn đại bi liền dùng nước thuốc
cam lộ nhiệm mầu là
Chánh pháp để rửa sạch ghẻ độc [
tội lỗi trong tâm vua].[43]
Tội lỗi rất nặng của vua liền được dứt trừ, vua
trở về cung, không hề hay biết việc
Như Lai [sắp] nhập Niết-bàn.
Ngay trong đêm Phật nhập Niết-bàn, vua A-xà-thế
nằm mộng thấy
mặt trăng rơi xuống;
mặt trời từ
dưới đất mọc lên,
tinh tú mây mưa rơi rớt
tán loạn; lại thấy hơi khói
dưới đất xông lên, rồi thấy bảy ngôi sao chổi hiện
trên trời. Vua lại mộng thấy
trên trời có đám lửa lớn, ửng đỏ khắp
hư không, rồi cùng một lúc rơi xuống đất. Ngay khi vừa
tỉnh mộng, vua
cảm thấy trong lòng
hết sức kinh sợ, run rẩy; liền
triệu tập quần thần, kể lại
giấc mộng ấy và hỏi: “Đó là điềm gì vậy?”
Các quan tâu rằng: “Đó là điềm chẳng lành, Phật đã nhập Niết-bàn. Sau khi
Phật diệt độ,
phiền não sẽ khởi sanh mạnh mẽ trong
chúng sanh Ba cõi,
Sáu đường, cho nên bệ hạ thấy lửa lớn
hiện ra, từ trên không trung rơi xuống đất.
“Phật
diệt độ rồi,
hào quang từ bi [của tam-muội] Nguyệt ái và mây lành
trí tuệ che khắp [
chúng sanh] thảy đều dứt mất, nên vua mộng thấy
mặt trăng rớt xuống,
tinh tú rụng rơi. [Đó là điềm báo] sau khi Phật nhập Niết-bàn, tám mươi ngàn điều
luật nghi cùng tất cả phép tắc
giới hạnh đều sẽ bị
chúng sanh phạm vào; vì họ không
y theo lời Phật dạy, chỉ làm theo
tà pháp nên phải đọa xuống
địa ngục.
“Mặt trời từ
dưới đất mọc lên, đó là điềm sau khi Phật nhập Niết-bàn các sự
khổ não trong
ba đường ác tích tụ [rất nhiều, giống như]
ánh mặt trời xuất hiện ở
thế gian.
“[Vì những việc trên] nên vua
cảm ứng thấy
giấc mộng như vậy.”
Vua
nghe lời tâu như vậy rồi, ngay giữa đêm ấy liền cùng các quan
lên đường hướng đến thành Câu-thi-na. Đến nơi, vua nhìn thấy
vô số binh lính đang phòng vệ hành Câu-thi-na. Vua lại thấy ở cửa thành có những thầy
chú thuật giỏi để
phòng ngừa tai biến đến từ bên ngoài. Thấy như vậy rồi, vua liền hỏi các thầy
chú thuật: “Phật đã nhập Niết-bàn rồi sao?”
Các thầy
chú thuật đáp: “Phật nhập Niết-bàn
đến nay đã
trải qua bốn tuần.
Hiện giờ đại chúng sắp
phân chia xá-lợi Phật.”
Vua nói: “Phật nhập Niết-bàn tôi không hay biết chi cả. Đến khi tôi
nằm mộng thấy sự chẳng lành liền đem ra hỏi các quan, mới biết rằng
Như Lai đã nhập Đại Niết-bàn. Nay tôi muốn vào thành
lễ bái xá-lợi
kim cang của
Như Lai, xin các vị hãy mở đường cho
chúng tôi vào.”
Các thầy
chú thuật liền để cho vua vào. Vua vào trong thành, đến tại ngã tư đường, nhìn thấy những bình quý đựng xá-lợi [
Như Lai] đặt trên các tòa
sư tử, lại thấy
đại chúng đang
bi thương đau xót cúng dường. Vua liền cùng các quan
tùy tùng đồng thời lễ bái,
đau đớn khóc lóc, nước mắt
ràn rụa, cùng
đi nhiễu quanh [
xá-lợi Phật] bảy vòng về phía bên phải,
bi thương thảm thiết [dâng phẩm vật]
cúng dường.
Sau đó, vua thưa với
đại chúng xin thỉnh một phần xá-lợi
Như Lai để đem về nước mình [xây tháp]
cúng dường.
Đại chúng đáp rằng: “Sao ngài đến muộn thế? Phật trước đây có dạy cách
phân chia xá-lợi, tất cả đều đã có người thỉnh rồi, không có phần của ngài. Vậy ngài nên
trở về đi thôi!”
Thỉnh cầu không được
toại nguyện, vua A-xà-thế
sầu khổ không vui, liền
lễ bái xá-lợi [lần nữa] rồi
buồn bực ra về.
Lúc ấy, Phật nhập Niết-bàn đã
ba tuần, vị vua
nổi tiếng của nước
ngoại đạo Tỳ-ly[44] mới hay biết, liền dẫn theo các quan vội vã đi nhanh đến thành Câu-thi-na. Đến nơi, vua nhìn thấy
vô số binh lính của
bốn đạo binh phòng vệ thành Câu-thi-na, vây quanh rất nhiều vòng.
Bấy giờ, Phật nhập Niết-bàn đã
ba tuần, vua xứ A-lặc-già-la mới hay biết, liền dẫn theo các quan vội vã đến thành Câu-thi-na. Đến nơi, vua nhìn thấy
vô số binh lính của
bốn đạo binh phòng vệ thành Câu-thi-na, vây quanh rất nhiều vòng.
Lúc ấy, Phật nhập Niết-bàn đã
ba tuần, vua Bất Úy nước Tỳ-nậu mới hay biết.
Lại có vua nước Già-la-ca-la, Phật nhập Niết-bàn đã
ba tuần mới hay biết.
Lại có vua nước Sư-già-na, Phật nhập Niết-bàn đã
ba tuần mới hay biết.
Bấy giờ, Phật nhập Niết-bàn đã
ba tuần, vị vua
nổi tiếng của nước
ngoại đạo Ba-kiên-la mới hay biết, liền dẫn theo các quan, vội vã đến thành Câu-thi-na. Đến nơi, vua nhìn thấy
vô số binh lính của
bốn đạo binh phòng vệ thành Câu-thi-na, vây quanh rất nhiều vòng. Vua lại thấy ở cửa thành có những thầy
chú thuật rất giỏi, để
phòng ngừa tai biến đến từ bên ngoài. Vua liền hỏi các thầy
chú thuật rằng: “Phật đã nhập Niết-bàn rồi sao?”
Các thầy
chú thuật đáp: “Phật nhập Niết-bàn
đến nay đã bốn tuần rồi,
hiện giờ đại chúng sắp
phân chia xá-lợi.”
Vua liền bảo các thầy
chú thuật: “Phật đã nhập Niết-bàn nhưng tôi không hay biết gì cả nên mới đến muộn. Nay tôi muốn vào thành
lễ bái,
cúng dường xá-lợi
Như Lai, xin các ông mở đường cho.”
Các thầy
chú thuật nghe vậy rồi liền để cho vua vào. Đi tới ngã tư đường, vua nhìn thấy những tòa
sư tử trang nghiêm bằng
bảy món báu, trên có đặt
xá-lợi Phật đựng trong những bình quý làm bằng
bảy báu. Vua lại thấy
đại chúng đang
bi thương đau xót cúng dường. Vua cùng với các quan
tùy tùng liền
đồng thời lễ bái,
bi thương đau đớn rơi lệ, đi quanh [
xá-lợi Phật] bảy vòng theo chiều bên phải,
ai nấy đều dâng
lễ vật,
bi thương thảm thiết cúng dường.
Vua lại bảo
đại chúng rằng: “Phật nhập Niết-bàn nhưng tôi không hay biết.
Đau đớn thay! Tôi chẳng được nhìn thấy Phật [lần cuối]. Xin
đại chúng chia cho tôi một phần xá-lợi để mang về nước
cúng dường.”
Đại chúng đáp rằng: “Sao ngài đến muộn thế? Phật trước đây có dạy cách
phân chia xá-lợi, tất cả đều đã có người thỉnh rồi, không có phần của ngài. Vậy ngài nên
trở về đi thôi.”
Thỉnh cầu không được, vua và các quan đều lấy làm
buồn rầu,
lễ bái xá-lợi [lần nữa] rồi
bi thương luyến tiếc
quay về.
Bấy giờ, vua và quần thần của bảy nước như Ca-tỳ-la, [Ma-kiệt-đà, A-lặc-già-la]... vì
thỉnh cầu không được
toại nguyện nên sanh lòng
bi thương, giận dỗi,
bực tức quay về mà lòng chưa yên. [Vì thế,] khi về nước rồi mỗi vị đều sai sứ thần đến thành Câu-thi-na để
thỉnh cầu xá-lợi
một lần nữa. Người trong thành Câu-thi-na
trả lời rằng: “Đức
Từ phụ Thế Tôn đã nhập Niết-bàn tại đất nước
chúng tôi,
toàn thân xá-lợi của ngài phải được lưu giữ muôn đời tại đây để
cúng dường.
Chúng tôi sẽ không bao giờ
phân chia cho người ngoài nước.”
[Vua] các nước liền nói rằng: “Nếu chịu
phân chia thì tốt, bằng
như không chịu
phân chia,
chúng tôi sẽ
dùng sức mạnh mà
đoạt lấy.”
Người trong thành
đáp lại: “Nếu [các ngài] chỉ dùng sự
đánh nhau [để giành lấy] thì sẽ không bao giờ có được [
xá-lợi Phật].
Vua A-xà-thế lại sai đại thần là
Vũ Hành[45] đem binh đến thỉnh một phần [xá-lợi], bảo người trong thành Câu-thi-na rằng: “Nếu chịu
phân chia [xá-lợi] thì tốt, bằng không chịu
phân chia,
chúng tôi chia sẽ tăng thêm binh lực, quyết
dùng sức mạnh mà
đoạt lấy cho bằng được.”
Người trong thành đáp: “Xin cứ
tùy ý mà làm.”
Liền đó, trong thành Câu-thi-na có bao nhiêu những tráng sĩ, [
cho đến]
nhân dân nam nữ, thảy đều phòng vệ bằng cung tên, tất cả cùng kéo ra [ngoài thành], bốn binh
tề chỉnh, chuẩn bị giao chiến với quân các nước khác.
Khi ấy, nước Tỳ-ly, những người họ Lê-xa, chiêu tập đủ
bốn đạo binh, kéo đến [ngoài] thành Câu-thi-na, đóng giữ một phía.
Nước A-lặc-già-la, những người dòng Sát-đế-lợi, cũng tập trung đủ
bốn đạo binh, kéo đến [ngoài thành Câu-thi-na], đóng giữ một phía.
Nước Tỳ-nậu, những người dòng bà-la-môn, cũng tập trung đủ
bốn đạo binh, kéo đến [ngoài thành Câu-thi-na], đóng giữ một phía.
Nước Già-la-ca-la, những người
dòng họ Thích-ca, cũng tập trung đủ
bốn đạo binh, kéo đến [ngoài thành Câu-thi-na], đóng giữ một phía.
Nước Sư-già-na, những người Câu-lâu-la, cũng tập trung đủ
bốn đạo binh, kéo đến [ngoài thành Câu-thi-na], đóng giữ một phía.
Nước Ba-kiên-la, những người
lực sĩ, cũng tập trung đủ
bốn đạo binh, kéo đến [ngoài thành Câu-thi-na], đóng giữ một phía.[46]
Lúc ấy, thành Câu-thi-na bị quân bảy nước vây quanh, tất cả đều sắp sửa [tiến vào thành để]
đoạt lấy xá-lợi Phật.
Bấy giờ, trong
đại chúng có vị bà-la-môn là
Tánh Yên[47] ở giữa quân binh các nước mà
cất tiếng nói lớn rằng: “Các vị
đứng đầu những
lực sĩ trong thành Câu-thi-na, xin hãy nghe đây! Trong
vô số kiếp,
đức Phật đã tích chứa điều lành, tu hạnh
nhẫn nhục. Các vị cũng thường được nghe [
Thế Tôn]
ngợi khen pháp nhẫn nhục. Nay có lẽ nào
ngay sau khi Phật vừa
diệt độ, các vị chỉ vì
xá-lợi Phật mà khởi binh tranh đoạt? Các vị nên biết, đó không phải là kính thờ xá-lợi! Nay [tôi đề nghị] chỉ nên chia đều xá-lợi thành tám phần, [không nên
tranh giành nhau].”
Các
lực sĩ [trong thành Câu-thi-na] đều nói: “Chúng tôi xin
cung kính vâng theo lời ngài.”
Lúc ấy, Bà-la-môn
Tánh Yên liền
phân chia xá-lợi làm tám phần [bằng nhau] rồi nói rằng: “Thưa tất cả các vị! Những bình rỗng này đã từng chứa xá-lợi, xin cho tôi được nhận. Tôi sẽ mang về xứ Đầu-na-la xây Tháp Bình và
dâng hoa, hương, phướn, lọng,
âm nhạc để
cúng dường.”
Mọi người đáp rằng: “Chúng tôi
chấp thuận thỉnh cầu của ngài.”
Bấy giờ, có
vị cư sĩ bà-la-môn tên là Tất-ba-diên-na lớn tiếng thưa rằng: “Các vị
đứng đầu những
lực sĩ thành Câu-thi-na, xin hãy nghe đây! [Tất cả] tro tàn ở nơi trà-tỳ Phật, xin cho tôi được nhận. Tôi sẽ đem về nước xây Tháp Tro,
cúng dường bằng hoa, hương,
âm nhạc.”
Mọi người đáp rằng: “Chúng tôi
chấp thuận thỉnh cầu của ngài.”
Lúc ấy, người trong thành Câu-thi-na được nhận phần
xá-lợi Phật thứ nhất, liền xây tháp trong nước, dùng hoa, hương,
âm nhạc các thứ để
cúng dường.
Người nước Ba-kiên-la được nhận phần
xá-lợi Phật thứ nhì, mang về nước xây tháp, dùng mọi thứ [phẩm vật] để
cúng dường.
Những người Câu-lâu-la của nước Sư-già-na được nhận phần
xá-lợi Phật thứ ba, liền
trở về xây tháp, dâng mọi thứ [phẩm vật] để
cúng dường.
Những người Sát-đế-lợi của nước A-lặc-già-la được nhận phần
xá-lợi Phật thứ tư, liền
trở về nước xây tháp
cúng dường.
Những người Bà-la-môn nước Tỳ-nậu được nhận phần
xá-lợi Phật thứ năm, liền
trở về nước xây tháp, dùng mọi thứ [phẩm vật] để
cúng dường.
Những người Lê-xa nước Tỳ-ly được nhận phần
xá-lợi Phật thứ sáu,
trở về nước xây tháp,
cúng dường bằng mọi thứ [phẩm vật].
Những người họ Thích-ca[48] nước Già-la-ca-la được nhận phần
xá-lợi Phật thứ bảy,
trở về nước xây tháp,
dâng hoa, hương
cúng dường.
Vua A-xà-thế của nước Ma-kiệt-đà được nhận phần
xá-lợi Phật thứ tám,
trở về thành
Vương Xá xây tháp,
dâng hoa, hương,
âm nhạc mọi thứ
cúng dường.
Bà-la-môn
Tánh Yên được nhận những bình đã dùng đựng
xá-lợi Phật,
trở về xứ Đầu-na-la xây tháp,
dâng hoa, hương
cúng dường.
Vị cư sĩ bà-la-môn Tất-ba-diên-na được nhận [tất cả] tro tàn [còn lại ở nơi trà-tỳ
Như Lai], liền mang tro ấy về nước mình xây tháp
cúng dường.
[Như vậy, vào]
lúc ấy trong khắp cõi Diêm-phù-đề có tám tháp thờ
xá-lợi Phật, tháp thứ chín thờ bình [đựng xá-lợi], tháp thứ mười thờ tro tàn [ở nơi trà-tỳ
Như Lai].[49] Việc
phân chia xá-lợi như vậy là
hoàn tất.
Lúc ấy, các vị
Bồ Tát và chúng
Thanh văn,
chư thiên,
loài người, loài rồng, loài quỷ, các vị
quốc vương,
trưởng giả, đại thần,
nhân dân [
cho đến] tất cả
đại chúng đều
bi thương đau đớn, đấm ngực than khóc lớn tiếng rồi ngã lăn ra đất. Sau đó, tất cả đều
lễ bái [
xá-lợi Phật] rồi ra về.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BỐN MƯƠI HAI
[1] Các bản Hán văn đều gọi từ đây là phẩm thứ nhất, tức là tính theo bản Hậu phần, nên phần nối tiếp của phẩm Kiều-trần-như được gọi là “Kiều-trần-như phẩm dư” hoặc “Kiều-trần-như phẩm chi mạt”. Chúng tôi vẫn tính tiếp theo phần trước nên gọi là “phẩm thứ 13 phần thứ tư” để quý độc giả tiện theo dõi.
[2] Bốn thiền, tám định: các mức độ trình tự chứng đắc của người tu tập thiền định. Bốn thiền gồm có Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền, đều còn thuộc trong phạm vi Sắc giới. Tám định bao gồm cả bốn mức định thuộc Sắc giới của Bốn thiền, cộng với bốn mức định thuộc Vô sắc giới là: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
[3] Chỉ thế giới Ta-bà, vì có đủ năm sự uế trược (ngũ trược), là những tính chất xấu xa, ô nhiễm bao gồm kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.
[4] A-na-luật, nguyên bản Hán văn dùng A-nê-lâu-đậu, cũng chính là vị này. Ngoài ra còn có rất nhiều cách phiên âm khác như A-ni-lâu-đà, A-nê-luật-đà, A-nê-lâu-đà, A-nô-luật-đà, A-na-luật-đề... Danh xưng này được dịch nghĩa là Vô Diệt, Như Ý, Vô Tham, Vô Chướng, Thiện Ý... Đây là một trong Thập đại đệ tử của Phật, được Phật ngợi khen là Thiên nhãn đệ nhất. Ông cũng là một trong các vương tử xuất gia cùng lúc với ngài A-nan. Chúng tôi không dùng tên gọi A-nê-lâu-đậu theo nguyên bản mà chọn dùng tên gọi A-na-luật vì thấy có sự quen thuộc hơn với nhiều người, do tên gọi này thường xuất hiện trong nhiều kinh luận khác hơn.
[5] Sáu tỳ-kheo xấu: tức Lục quần tỳ-kheo, là nhóm tỳ-kheo xấu tánh, ngay trong khi Phật còn tại thế vẫn thường làm nhiều việc phạm vào giới luật, khiến chúng tăng phải mang tai tiếng. Vì thế nên ngài A-na-luật mới nêu vấn đề này ra để hỏi trước khi Phật nhập Niết-bàn.
[6] Xa-nặc, phiên âm từ Phạn ngữ Chandaka, là một tỳ-kheo tính tình kiêu mạn, xấu ác; cũng là một trong nhóm Lục quần tỳ-kheo. Xa-nặc chính là người hầu cận và đánh xe cho thái tử Tất-đạt-đa khi còn ở vương cung, sau khi Phật thành đạo xin xuất gia tu học, ỷ mình có xuất thân gần gũi với Phật năm xưa nên khinh thị các tỳ-kheo khác, thường làm nhiều việc xấu, ác khẩu, vì thế thường có tên gọi là Ác khẩu Xa-nặc hay Ác tánh Xa-nặc. Sau khi Phật nhập diệt, ông có lần bị chúng tăng trừng trị bằng phép mặc tẩn; cuối cùng theo ngài A-nan được dạy bảo đến khi chứng quả A-la-hán.
[7] Sáu trần (lục trần): tức các đối tượng nhận biết của các giác quan, gồm hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm và các pháp.
[8] Quan điểm chấp ngã (ngã kiến hay ngã chấp): quan điểm cho rằng có một bản ngã thực sự tồn tại độc lập so với các đối tượng bên ngoài nó gọi là ngoại cảnh. Nhận thức này là sai lầm, không đúng thật với thực tại vốn hiện hữu do sự kết hợp của nhân duyên, kể cả cái gọi là bản ngã đó cũng không ngoại lệ.
[9] Tính chất của tên gọi là lìa khỏi thực thể (danh tự tánh ly): tên gọi là do con người đặt ra để phân biệt sự vật, nhưng một khi tên gọi được hình thành thì con người lại xem tên gọi đó chính là sự vật, nên nếu chỉ trói buộc vào tên gọi thì không còn nhận biết được thực thể của sự vật ấy. Như nói “me chua” (tên gọi) để chỉ trái me (sự vật), nhưng thực thể của trái me không chỉ là chua, càng không chỉ có sự giới hạn trong tên gọi đó. Vì thế nên nói tính chất của tên gọi là lìa khỏi thực thể.
[10] Sự tu tập Bốn niệm xứ được trình bày ở đây có sự khác biệt với trong các kinh điển Tiểu thừa, theo đó hành giả tu tập quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường và quán pháp vô ngã.
[11] Những điều được Phật dặn dò ghi lại ở phần mở đầu tất cả các kinh có ý nghĩa xác tín, khẳng định tính chân thật và lợi ích của kinh điển. Thứ nhất, vì người ghi chép quả thật đã có nghe biết đúng như vậy (như thị ngã văn). Thứ hai, vì những gì kể lại trong kinh có sự xác định rõ ràng về thời gian, không gian (nhất thời Phật tại...). Thứ ba, vì đối tượng của những điều thuyết dạy trong kinh là bốn chúng đệ tử Phật, nên chắc chắn là những điều rất thiết thực, cần thiết cho sự tu tập giải thoát.
[12] Đức Phật từ bi để lại lời dặn dò này hẳn đã lường trước được những người đời sau sẽ vì việc thọ nhận và thụ hưởng những phẩm vật cúng dường Tam bảo mà xao nhãng chuyện tu tập. Vì thế, nếu ai còn biết nhớ đến và vâng theo sự dặn dò này thì không thể buông thả chạy theo sự hưởng thụ những phẩm vật dâng cúng của thí chủ, mà phải luôn nghĩ nhớ đến việc chuyên tâm tu tập hành trì.
[13] Vợ con, tôi tớ: Theo quan điểm thời bấy giờ, vợ con và những người tôi tớ trong gia đình đều được xem là thuộc về sở hữu của người chủ gia đình. Những cách diễn đạt như thế này chỉ hàm ý một sự cung kính muốn cúng dường tất cả những gì mình có, chứ không thật sự có nghĩa là đem vợ con, tôi tớ... làm phẩm vật dâng cúng.
[14] Trà-tỳ: cũng đọc là xà-duy, chỉ nghi thức hỏa thiêu nhục thân của một vị Phật hay cao tăng Phật giáo. Trong Hán ngữ dịch chữ này là phần thiêu.
[15] Hoa đâu-la, cũng được đọc là đổ-la hay đố-la... là một loài hoa có màu trắng và rất mềm mại, mịn màng; dịch nghĩa là miên hoa hay tế miên hoa. Nguyên bản Hán văn dùng đâu-la miên là thừa vì kết hợp cả dịch âm và dịch nghĩa.
[16] Chiên-đàn Ngưu Đầu, là một loại chiên-đàn cực quý, chỉ có ở núi Ngưu Đầu, nên gọi là chiên-đàn Ngưu Đầu. Ngọn núi này cao vút, đỉnh có hình giống đầu trâu nên gọi là núi Ngưu Đầu. (Theo sách Danh nghĩa tập, quyển 3) Theo Trí độ luận quyển 18 thì ngoài ngọn núi này ra không còn nơi nào khác có thể tìm được loại gỗ thơm chiên-đàn này.
[17] Trầm thủy, cũng gọi là trầm hương, là một loại gỗ quý thơm, thả vào nước thì chìm nên gọi là “trầm thủy”. Trầm hương là một phần đặc biệt trong lõi cây, loại có màu đen rất thơm, rất quý, gọi là “hắc trầm thủy”. (Theo Bổn thảo chú)
[18] Câu-thi-na: bản Hán văn đôi khi dùng Câu-thi hay Câu-thi-na-già đều là xuất phát từ một tên này. Chúng tôi vẫn chuyển dịch bằng một tên để độc giả tiện theo dõi.
[19] Thích-đề-hoàn-nhân: tên gọi của vị Thiên Đế-thích, tức vị vua ở cõi trời Đao-lợi, còn gọi là cõi trời Ba mươi ba (Tam thập tam thiên).
[20] Vàng ròng có sắc tía (tử ma kim hay tử ma hoàng kim): loại vàng ròng tinh luyện được xem là quý nhất, màu chói sáng có ửng sắc đỏ tía.
[21] Ưu-đàm: tên hoa được phiên âm từ Phạn ngữ Udumbara, nên còn đọc là ưu-đàm-bát-la, ưu-đàm-bà-la, ô-đàm-bạt-la... đều chỉ một loại hoa này; Hán dịch nghĩa là linh thụy, tức là hoa báo điềm lành. Pháp Hoa văn cú quyển 4, phẩm thượng, nói rằng hoa này đến ba ngàn năm mới nở một lần, khi hoa nở ắt có Chuyển luân Thánh vương ra đời. Kinh Phật nói chung thường dùng hình ảnh hoa ưu-đàm để so sánh với chuyện hiếm có, nhất là việc Phật ra đời.
[22] Đa-la: tên cây phiên âm từ Phạn ngữ là tla, tên khoa học là borassus flabelli-formis, mọc phổ biến ở Ấn Độ, Myanma, rỵ Lanka và một số vùng nhiệt đới thuộc châu Phi. Cây cao to, mọc thẳng, hoa trắng lớn, trái chín màu đỏ, ăn được. Lá cây có phiến lớn, rộng, xưa dùng để viết chữ lên và lưu giữ được, gọi là lá bối-đa-la, hay lá bối, đặc biệt là giai đoạn đầu tiên của việc ghi chép kinh điển chủ yếu dùng loại lá bối này, nên gọi là bối diệp kinh. Chiều cao cây trung bình khoảng bảy, tám mươi thước cổ (mỗi thước cổ khoảng 0,33 mét), nhưng trong Tuệ uyển âm nghĩa nói rằng người xưa ước lệ chiều cao cây này là 10 trượng (tức 100 thước cổ) để làm đơn vị đo chiều cao. Nếu vậy thì ngang tầm một cây đa-la tức là khoảng hơn 30 mét.
[23] Tịch diệt định hay Đại tịch diệt định: một trong Thất chủng vô thượng của đức Như Lai, tức Trụ vô thượng, nghĩa là đức Như Lai tuy thị hiện trong khắp các cõi phàm thánh, trời người, nhưng vốn thường an trụ trong Tịch diệt định. Đây là điều mà ngoài Phật ra không ai có thể hơn được, nên gọi là Trụ vô thượng. Nay đức Như Lai sắp thị hiện Niết-bàn nên trước hết thị hiện cho Đại chúng thấy ngài nhập Tịch diệt định, nhưng thật ra ngài vẫn thường an trú trong phép định này. Đoạn tiếp theo Phật thị hiện nhập và xuất tất cả các cảnh giới thiền định theo từng thứ bậc, nhưng vẫn không hề ra khỏi Tịch diệt định này.
[24] Nguyên bản Hán văn có một đoạn lặp lại ý câu trước đó, chúng tôi ngờ là do lỗi khi khắc bản, vì trong bản chữ Vạn thì hai phần này nằm ở hai trang khác nhau. Khi chuyển dịch, chúng tôi chỉ ghi lại đủ ý, không ghi đoạn mang ý trùng lặp.
[25] Vô sở hữu xứ: nguyên bản Hán văn dùng Bất dụng xứ, là tên gọi khác của Vô sở hữu xứ. Chúng tôi chọn dùng tên gọi Vô sở hữu xứ vì đã xuất hiện nhiều lần trong kinh này cũng như quen thuộc hơn với nhiều người.
[26] Ba cõi: tức Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Tất cả chúng sanh hữu tình đều không ra ngoài Ba cõi này.
[27] Sáu nẻo luân hồi: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Hết thảy chúng sanh trong vòng luân hồi đều rơi vào một trong sáu nẻo này, tùy theo nghiệp lực.
[28] Siêu thiền hay siêu việt thiền, thường gặp hơn là danh xưng siêu việt tam-muội, chỉ cách xuất nhập thiền định tự tại của Phật và các vị Bồ Tát, không theo trình tự thông thường như hàng Thanh văn, như từ Sơ thiền lên Nhị thiền, Tam thiền... Với siêu việt tam-muội, hành giả có thể trực nhập bất cứ cảnh giới thiền định nào tùy ý, không cần phải theo trình tự. Vì thế cũng gọi là Tự tại định.
[29] Lần lượt đến già chết: câu này nói tóm ý cả 12 nhân duyên, từ vô minh cho đến già chết (lão tử).
[30] Từ Sơ thiền lên đến Diệt tận định là 9 cảnh giới thiền định, cả thảy ba lần là 27 lượt.
[31] Trong sáu cõi trời thuộc Dục giới (Lục dục thiên) thì ngoài cõi trời của Tứ thiên vương (Tứ vương thiên) còn năm cõi trời khác là Đao-lợi thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên và Tha hóa tự tại thiên. Mỗi cõi trời đều có một vị Thiên vương đứng đầu chư thiên chúng.
[32] Đại Ca-diếp: là một trong Thập đại đệ tử của Phật, cũng là người được đức Phật giao phó Tăng đoàn sau khi ngài nhập diệt. Vị này khác với Bồ Tát Ca-diếp đã thưa hỏi Phật trong phẩm Bồ Tát Ca-diếp cũng như ở các nơi khác trong kinh này.
[33] Tăng phường: nơi trú ngụ, chỗ ở của chư tăng, ni.
[34] Đức Phật từ bi không để chư thiên nghe được những lời này, vì biết rằng các vị vì bảo hộ Chánh pháp sẽ trừng trị các tỳ-kheo này; lại không để các đệ tử của ngài Ca-diếp nghe được vì e rằng tín tâm và trí tuệ của họ chưa đủ vững vàng sẽ có thể sẽ bị ảnh hưởng xấu.
[35] Núi Quật: tức núi Kỳ-xà-quật.
[36] Tướng bánh xe đủ ngàn nan hoa: một trong các tướng tốt của Phật, là giữa lòng bàn chân có các đường vân xoáy hình bánh xe có đủ ngàn cây nan hoa, nên gọi là tướng Thiên phúc luân.
[37] Long vương Sa-già-la.
[38] Dạ-xoa và la-sát. Nguyên bản Hán văn dùng tiệp tật la-sát; tiệp tật là cách dịch cũ (Cựu dịch) theo nghĩa của dạ-xoa, còn la-sát dịch nghĩa là bạo ác quỷ.
[39] Bốn đạo binh: gồm binh dùng voi, binh dùng ngựa, binh dùng xe và binh đi bộ. Quân đội thời ấy thường có đủ bốn đạo binh này.
[40] Đoạn này không thấy nói rõ, nhưng có thể hiểu là những người dòng họ Thích-ca đã phải đi mất một tuần mới đến được thành Câu-thi-na. Vì sau ba tuần thì họ biết tin và khi đến nơi thì đã bốn tuần.
[41] Nước Ma-kiệt-đà, là tên nước do vua Tần-bà-sa-la cai trị, sau bị con trai là A-xà-thế giết chết để cướp ngôi. Nguyên bản Hán văn dùng Ma-già-đà, cũng là một cách phiên âm khác nhưng không quen thuộc lắm với nhiều người. Tên nước này còn được phiên âm là Ma-ha-đà,Ma-kiệt-đề...
[42] Xem lại chi tiết chuyện này ở quyển 19, thuộc Tập 4 của kinh này.
[43] Nguyên bản Hán văn viết: “dĩ cam lộ pháp dược tẩy đãng thân sang” chắc là nhầm, vì không đúng với chi tiết đã kể rõ trong quyển 19. Chúng tôi ngờ chữ thân ở đây phải là chữ tâm mới hợp nghĩa.
[44] Nước Tỳ-ly, cũng thường đọc là Tỳ-ly-tử, là một trong mười sáu nước lớn vào thời đức Phật, còn có rất nhiều cách phiên âm khác như Bạt-kỳ, Bạt-xà, Tỳ-lê-kỳ, Việt-kỳ, Phất-lật-thị... Thời Phật tại thế, vua A-xà-thế có lần muốn mang quân đánh nước này, sai đại thần là Vũ Xá đến thỉnh ý Phật. Phật đưa ra bảy điều để khuyên vua không nên đánh. Vua A-xà-thế nghe lời bãi binh. Theo Đại Đường Tây vực ký, quyển 7, thì nước này có chu vi hơn bốn ngàn dặm, nằm ở vị trí cao, đất đai cây cối xanh tốt, khí hậu rất lạnh, người dân đa phần tin theo ngoại đạo, ít người tin Phật pháp, chư tăng ở đây theo học cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Trong kinh này gọi đây là nước ngoại đạo, chứng tỏ vào thời đức Phật thì dân nước này cũng đã tin theo ngoại đạo nhiều hơn theo Phật.
[45] Vũ Hành, phiên âm là Bà-lợi-ca hoặc Bà-lợi-sa-ca-la, cũng dịch nghĩa là Vũ Xá, Vũ Thế, Hành Vũ... chính là người trước đây cùng Đề-bà-đạt-đa xúi giục vua làm chuyện ác hại cha. Sau khi vua A-xà-thế lên ngôi, Vũ Hành trở thành đại thần nắm giữ binh quyền, được vua tin cậy.
[46] Đoạn này nguyên bản Hán văn e có nhiều sự nhầm lẫn, chẳng hạn như những người họ Thích-ca là thuộc nước Ca-duy-la-vệ mà trên đây đã gọi là Ca-tỳ-la, chứ không thuộc nước Già-la-ca-la. Chúng tôi tham khảo thêm Du hành kinh trong Trường A-hàm, quyển 4 (Đại chánh tạng quyển 1, kinh số 01), xin dẫn ra các nước đến cầu xá-lợi Phật để độc giả tiện tham khảo: 1. Nước Già-la-ba, dân tộc Bạt-la; 2. Nước La-ma-ca, dân tộc Câu-lợi; 3. Nước Tỳ-lưu-đề, người dòng Bà-la-môn; 4. Nước Ca-duy-la-vệ, dòng họ Thích-ca; 5. Nước Tỳ-xá-ly, dòng họ Ly-xa; 6. Nước Ma-kiệt-đà của vua A-xà-thế; 7. Nước Tỳ-ly hay Tỳ-ly-tử; tất cả cùng tranh chấp với người trong thành Câu-thi-na. Có một chi tiết cũng được nêu ra trong Trường A-hàm là những người của nước Già-la-ca-la (hay Già-la-phả-la) viện cớ rằng đức Thế Tôn xưa thuộc dòng Sát-đế-lợi (kinh này gọi là Võ sĩ tộc), cũng giống như họ, nên họ có quyền được thỉnh một phần xá-lợi Phật. Phải chăng do chi tiết này mà có sự nhầm lẫn là họ Thích-ca thuộc nước Già-la-ca-la?
[47] Tánh Yên: các bản trước đây đều dịch là “Bà-la-môn họ Yên”. Tham khảo Trường A-hàm quyển 4 (Đại chánh tạng quyển 1, kinh số 01), Du hành kinh, trong đoạn kể lại sự việc giống như ở đây thì vị này là Hương Tánh Bà-la-môn, đã vâng sắc chỉ của vua A-xà-thế đến thành Câu-thi-na đòi chia xá-lợi Phật, nhưng người trong thành không chịu nghe theo. Sau đó cũng chính vị này đứng ra giảng hòa sự xung đột này. Tánh Yên và Hương Tánh, vì từ này có nghĩa là hương, khói... nên đây chỉ là một người mà thôi. Kinh Đại Bát Niết-bàn thuộc Trường A-hàm do ngài Pháp Hiển dịch (Đại chánh tạng quyển 1, kinh số 07) cũng có nhắc đến vị bà-la-môn này với tên phiên âm là Đồ-lô-na và kể lại sự việc giảng hòa tương tự, nhưng lại nói rằng vị này là người trong thành Câu-thi-na.
[48] Theo Du hành kinh thuộc Trường A-hàm thì đây phải là dân tộc Bạt-la chứ không phải họ Thích-ca.
[49] Trong Trường A-hàm còn kể thêm tháp thứ mười một thờ tóc của Phật lúc còn tại thế.