PHẨM BỒ TÁT CA DIẾP
Phẩm thứ mười hai – Phần một
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai thương xót tất cả
chúng sanh, những kẻ chưa
điều phục có thể khiến cho
điều phục; những kẻ chưa
thanh tịnh có thể khiến cho
thanh tịnh; những kẻ không
quy y có thể khiến cho
quy y; những kẻ chưa
giải thoát có thể khiến cho
giải thoát. Ngài đã
đạt được Tám đức tự tại, làm bậc
Đại y sư, làm Đại
dược vương.
“Khi Phật còn là
Bồ Tát, tỳ-kheo
Thiện Tinh từng là con trai của Phật,[1] sau khi
xuất gia liền
thọ trì,
đọc tụng,
phân biệt giảng thuyết được
Mười hai bộ kinh, phá trừ hết
phiền não Dục giới,
tu tập chứng đắc Bốn thiền. Vì sao
Như Lai có lời
báo trước rằng
Thiện Tinh là nhất-xiển-đề, là người hèn kém trọn kiếp sống trong
địa ngục, là kẻ không thể sửa trị? Vì sao
Như Lai không vì
Thiện Tinh mà
diễn thuyết Chánh pháp trước tiên, sau mới vì các Bồ Tát? Nếu
Như Lai Thế Tôn không thể
cứu độ tỳ-kheo
Thiện Tinh, làm sao có thể xưng là có
lòng từ bi lớn lao, có
phương tiện lớn lao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Ví như cha mẹ có ba người con. Người thứ nhất biết tin nhận và
vâng lời,
cung kính cha mẹ,
trí tuệ căn tánh lanh lợi, đối với
mọi việc ở đời đều có thể nhanh chóng rõ biết. Người thứ nhì không
cung kính, không tin nhận và
vâng lời cha mẹ, nhưng
trí tuệ căn tánh lanh lợi, đối với
mọi việc ở đời cũng đều có thể nhanh chóng rõ biết. Người thứ ba không
cung kính, cũng không tin nhận và
vâng lời cha mẹ, lại là kẻ
ngu si đần độn. Vậy khi
cha mẹ muốn
dạy bảo thì trước nhất nên
dạy bảo đứa con nào? Nên gần gũi
thương yêu đứa con nào trước? Trước nhất nên
dạy bảo cho đứa con nào cho rõ biết
mọi việc đời?”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Trước nhất nên
dạy bảo người con biết tin nhận và
vâng lời,
cung kính cha mẹ,
trí tuệ căn tánh lanh lợi,
hiểu biết việc đời. Kế đó nên dạy cho người con thứ nhì; sau rốt mới dạy người con thứ ba. Tuy hai đứa con này không biết tin nhận và
vâng lời, không
cung kính cha mẹ, nhưng vì lòng thương con nên sau đó cũng [từ từ]
dạy bảo chúng.”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Đức Như Lai cũng vậy. Trong ba người con ấy, người thứ nhất ví với hàng
Bồ Tát, người thứ nhì ví với hàng
Thanh văn, người thứ ba ví với hạng nhất-xiển-đề. Như kinh Tu-đa-la trong
Mười hai bộ kinh,
trước tiên Phật dùng những nghĩa
vi tế giảng nói với hàng
Bồ Tát; sau lại dùng những nghĩa cạn hơn để giảng nói với hàng
Thanh văn;
cuối cùng mới dùng những nghĩa
thế tục để giảng nói với hạng nhất-xiển-đề, những kẻ phạm
năm tội nghịch. Tuy
trong đời hiện tại không có
lợi ích gì, nhưng Phật vì
thương xót mà gieo trồng
hạt giống lành cho họ trong những
đời sau.
“Thiện nam tử!
Ví như có ba loại ruộng. Thứ nhất là ruộng dẫn nước ra vào dễ dàng, không có cát, phèn, sỏi đá,
gai góc, có thể gặt hái gấp trăm lần số giống gieo trồng. Thứ hai là ruộng không có cát, phèn, sỏi đá,
gai góc, nhưng khó khăn trong việc dẫn nước ra vào nên chỉ có thể gặt hái được phân nửa so với loại ruộng thứ nhất. Thứ ba là ruộng dẫn nước ra vào khó khăn, có nhiều cát, phèn, sỏi đá,
gai góc, chỉ có thể gặt hái bằng với số giống đã gieo, vì
xen lẫn rất nhiều cây khô, cỏ dại.
“Thiện nam tử! Đến thời vụ gieo trồng
mùa xuân, người
nông dân trước hết nên gieo trồng loại ruộng nào?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Trước hết nên gieo trồng ở loại ruộng thứ nhất. Kế đó gieo trồng ở loại ruộng thứ nhì. Sau chót mới tới loại ruộng thứ ba.”
Phật dạy: “Loại ruộng thứ nhất ví với hàng
Bồ Tát, loại ruộng thứ nhì ví với hàng
Thanh văn, loại ruộng thứ ba ví với hạng nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử!
Ví như có ba cái bát. Cái thứ
nhất nguyên vẹn, cái thứ nhì rỉ chảy, cái thứ ba đã vỡ. Nếu muốn dùng đựng sữa, kem sữa, bơ hay nước, trước hết nên chọn dùng cái bát nào?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Trước hết nên dùng cái bát nguyên vẹn. Kế đó mới dùng cái bát rỉ chảy.
Cuối cùng mới phải dùng đến cái bát đã vỡ.”
Phật dạy: “Cái bát nguyên vẹn ví với hàng
Bồ Tát Tăng, cái bát rỉ chảy ví với hàng
Thanh văn, cái bát đã vỡ ví với hạng nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử!
Ví như có ba người bệnh cùng đến chỗ một vị
lương y. Người thứ nhất có bệnh dễ trị. Người thứ nhì có bệnh khó trị. Người thứ ba mang bệnh không thể trị.
“Thiện nam tử! Vị
lương y nếu
điều trị thì nên chọn người nào trước?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Trước nhất nên
điều trị người dễ nhất. Kế đó đến người thứ nhì. Sau cùng mới trị cho người thứ ba. Vì sao vậy? Là vì những người
thân thuộc [của họ].”
Phật dạy: “Bệnh nhân dễ trị là ví với hàng
Bồ Tát Tăng. Bệnh nhân khó trị là ví với hàng
Thanh văn Tăng. Bệnh
nhân không thể trị là ví với hạng nhất-xiển-đề. Tuy không có quả lành
trong đời hiện tại, nhưng Phật vì
thương xót mà gieo trồng
hạt giống lành cho họ trong những
đời sau.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
đại vương có ba loại ngựa. Loại thứ nhất đã thuần phục, còn đang non tơ,
sức lực mạnh mẽ. Loại thứ nhì chưa thuần phục, trẻ khỏe,
sức lực mạnh mẽ. Loại thứ ba chưa thuần phục, lại già yếu, không có
sức lực. Như vua muốn cưỡi ngựa thì trước hết nên chọn loại ngựa nào?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Trước hết nên chọn cưỡi loại ngựa đã thuần phục, còn đang non tơ,
sức lực mạnh mẽ. Kế đó đến loại ngựa thứ nhì. Sau cùng mới dùng đến loại ngựa thứ ba.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ngựa đã thuần phục, còn đang non tơ,
sức lực mạnh mẽ là ví với hàng
Bồ Tát Tăng. Loại ngựa thứ nhì ví với hàng
Thanh văn Tăng. Loại ngựa thứ ba ví với hạng nhất-xiển-đề. Tuy
trong đời hiện tại không có
lợi ích gì, nhưng Phật vì
thương xót mà gieo trồng
hạt giống lành cho họ trong những
đời sau.
“Thiện nam tử! Như khi mở hội lớn
bố thí cúng dường, có ba người đến thọ nhận. Người thứ nhất thuộc dòng
quý tộc,
thông minh,
tu hành trì giới. Người thứ hai thuộc dòng
trung lưu,
ngu độn, nhưng cũng
tu hành trì giới. Người thứ ba thuộc
dòng dõi thấp kém hạ tiện, lại
ngu độn, hủy
phạm giới cấm.
Thiện nam tử! Vị
đại thí chủ mở hội ấy nên
cúng dường trước tiên cho người nào?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn!
Trước tiên nên
cúng dường cho người thuộc dòng
quý tộc,
căn tánh lanh lợi,
tu hành trì giới. Kế đó
cúng dường người thứ nhì. Sau cùng mới đến người thứ ba.”
Phật dạy: “Người thứ nhất là ví với hàng
Bồ Tát Tăng. Người thứ nhì ví với hàng
Thanh văn Tăng. Người thứ ba ví với hạng nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử! Như
sư tử lớn những khi giết con voi tơ phải cố
hết sức, nhưng khi giết con thỏ cũng vậy, không hề có ý khinh thường.
Chư Phật Như Lai cũng thế, cho dù
thuyết pháp với hàng
Bồ Tát hay với hạng nhất-xiển-đề, sự
dụng công cũng không khác gì nhau.
“Thiện nam tử! Khi ta ở tại thành
Vương Xá, tỳ-kheo
Thiện Tinh làm thị giả.
Lúc đầu hôm, ta vì Thiên Đế-thích
diễn thuyết yếu nghĩa của
Chánh pháp. Theo phép tắc thì
đệ tử [
thị giả] phải chờ đi nghỉ sau thầy. Bấy giờ,
Thiện Tinh thấy ta ngồi lâu liền sanh lòng xấu ác.
Thuở ấy, mỗi khi trẻ con ở thành
Vương Xá khóc mãi không dỗ nín được thì
cha mẹ thường dọa rằng: ‘Nếu còn khóc nữa ta sẽ đem giao mày cho quỷ Bạc-câu-la.’ Bấy giờ,
Thiện Tinh bị
bó buộc [theo phép tắc không đi nghỉ được], liền bảo ta rằng: ‘Thầy mau vào
thiền thất đi, quỷ Bạc-câu-la đến kìa!’
“Ta đáp: ‘Ông thật là si mê! Ông chẳng thường nghe rằng
Như Lai Thế Tôn là bậc không còn
sợ hãi điều gì cả hay sao?’
“Bấy giờ, Đế-thích bạch rằng: ‘Thế Tôn! Những người như
vậy mà cũng được vào trong pháp Phật hay sao?’ Ta đáp: ‘Kiều-thi-ca! Những người như vậy được vào pháp Phật, cũng có tánh Phật, rồi sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Tuy ta vì
Thiện Tinh thuyết pháp, nhưng ông ấy
hoàn toàn không có
lòng tin nhận!
“Thiện nam tử! Khi ta ở tại thành Thi-bà-phú-la, nước Ca-thi, tỳ-kheo
Thiện Tinh cũng
làm thị giả.
Lúc ấy, ta muốn vào thành
khất thực.
Vô số chúng sanh ở đó đều
hết lòng khát ngưỡng, muốn được nhìn thấy
dấu chân ta. Tỳ-kheo
Thiện Tinh đi theo sau liền
cố ý xóa hết những
dấu chân của ta đi. Nhưng rồi ông ta cũng không thể xóa hết, chỉ làm cho
chúng sanh khởi tâm bất thiện.
“Ta vào thành rồi, thấy ở một nhà nấu rượu có người
ngoại đạo Ni-kiền ngồi xổm
dưới đất mà ăn hèm rượu.
“Tỳ-kheo
Thiện Tinh thấy vậy liền nói: ‘Thế Tôn!
Nếu thế gian có bậc A-la-hán thì người này là vị A-la-hán cao trổi nhất. Vì sao vậy? Vì người này dạy rằng không có nhân, không có quả.’
“Ta
quở trách rằng: ‘Ông thật là si mê! Ông chẳng thường nghe rằng vị A-la-hán không uống rượu, không hại người, không
dối trá, không trộm cướp, không
dâm dục hay sao? Người này giết hại
cha mẹ, mê ăn hèm rượu, sao có thể gọi là A-la-hán? Người này
sau khi chết chắc chắn sẽ đọa vào
địa ngục A-tỳ. Vị A-la-hán đã dứt trừ
mãi mãi ba đường ác, sao có thể gọi người này là A-la-hán?’
“Thiện Tinh liền nói ngay: ‘Tánh của
bốn đại còn có thể thay đổi, nhưng nếu muốn cho người này
chắc chắn phải đọa
địa ngục A-tỳ là điều không thể có!’
“Ta bảo: ‘Ông thật si mê! Ông chẳng thường nghe rằng
lời nói của
chư Phật Như Lai là
thành thật không thay đổi hay sao?’
“Tuy ta vì
Thiện Tinh thuyết pháp, nhưng ông ấy
tuyệt nhiên không có
lòng tin nhận!
“Thiện nam tử! Khi ta cùng với tỳ-kheo
Thiện Tinh ở thành
Vương Xá, trong thành có một người
ngoại đạo Ni-kiền tên là Khổ Đắc thường nói rằng: ‘Phiền não của
chúng sanh không có nhân, không có duyên;
sự giải thoát của
chúng sanh cũng không có nhân, không có duyên.’
“Tỳ-kheo
Thiện Tinh lại nói rằng: ‘Thế Tôn!
Nếu thế gian có A-la-hán thì Khổ Đắc là bậc cao nhất!’
“Ta
quở trách rằng: ‘Ông thật si mê! Ni-kiền Khổ Đắc ấy
thật không phải A-la-hán, không thể
hiểu rõ được đạo A-la-hán.’
“Thiện Tinh lại nói rằng: ‘Vì sao A-la-hán lại sanh lòng tật đố với A-la-hán?’
“Ta đáp: ‘Ông thật si mê! Ta đối với A-la-hán không hề sanh lòng tật đố, chỉ là do ông tự sanh ra chỗ thấy biết xấu ác,
tà vạy. Nếu nói rằng Khổ Đắc là A-la-hán thì [hãy chờ xem,] sau bảy ngày nữa [ông ấy] sẽ bị trúng thực, đau bụng mà chết;
sau khi chết sẽ sanh vào loài quỷ ăn đồ nôn mửa; những bạn
đồng học của ông ta sẽ khiêng
xác chết bỏ vào trong
rừng tha ma.’[2]
“Bấy giờ,
Thiện Tinh liền đến chỗ người Ni-kiền Khổ Đắc, bảo rằng: ‘Trưởng lão! Nay ông đã biết việc này chưa? Sa-môn Cồ-đàm
nói trước rằng sau bảy ngày nữa ông sẽ bị trúng thực, đau bụng mà chết,
sau khi chết sanh vào loài quỷ ăn đồ nôn mửa, các bạn cùng học một thầy sẽ khiêng xác ông bỏ vào trong
rừng tha ma. Trưởng lão! Ông hãy khéo suy tư quán xét, dùng đủ các
phương tiện [thay đổi sự việc], khiến cho Cồ-đàm phải rơi vào chỗ nói lời
hư dối.’
“Lúc ấy, Khổ Đắc
nghe lời ấy rồi liền nhịn ăn từ ngày thứ nhất
cho đến ngày thứ sáu. Vào cuối ngày thứ bảy mới ăn đường đen vào, sau đó lại uống nước lạnh. Sau khi uống nước lạnh liền bị đau bụng mà chết.
Sau khi chết rồi, các bạn
đồng học liền khiêng xác ông ta đem vất trong
rừng tha ma. Khi ấy ông liền thọ thân của loài quỷ đói ăn đồ nôn mửa, ở kề bên
xác chết ấy.
“Tỳ-kheo
Thiện Tinh nghe biết việc ấy rồi liền
đi vào rừng tha ma, nhìn thấy Khổ Đắc thọ thân quỷ đói ăn đồ nôn mửa, đang ngồi xổm
dưới đất bên cạnh
xác chết.
Thiện Tinh liền hỏi: ‘Đại đức đã chết rồi sao?’
“Khổ Đắc đáp: ‘Tôi đã chết rồi.’
“Lại hỏi: ‘Vì sao chết?’
“Đáp: ‘Vì đau bụng mà chết.’
“Lại hỏi: ‘Ai mang xác ông đi?’
“Đáp: ‘Các bạn
đồng học.’
“Lại hỏi: ‘Mang bỏ nơi nào?’
“Khổ Đắc nói: ‘Đồ ngu! Ông chẳng biết đây là
rừng tha ma hay sao?’
“Thiện Tinh lại hỏi: ‘Ông [chết rồi] thọ thân gì?’
“Đáp: ‘Tôi thọ thân quỷ đói ăn đồ nôn mửa. Này Thiện Tinh! Ông hãy nghe cho kỹ đây:
Đức Như Lai khéo nói ra những lời
chân thật,
đúng lúc, có
ý nghĩa, đúng
Chánh pháp. Thiện Tinh!
Đức Như Lai nói ra lời
chân thật như vậy, vì sao
lúc ấy ông lại không tin? Nếu
chúng sanh nào không tin lời
chân thật của
Như Lai, rồi sẽ phải thọ thân [quỷ đói] như tôi đây.’
“Lúc ấy,
Thiện Tinh liền
trở về chỗ ta, nói rằng: ‘Thế Tôn! Người Ni-kiền Khổ Đắc sau khi
mạng chung đã sanh lên
cõi trời Ba mươi ba.’
“Ta liền
quở trách rằng: ‘Ông thật ngu si! Bậc A-la-hán không có chỗ sanh ra, sao ông nói rằng Khổ Đắc sanh lên
cõi trời Ba mươi ba?’[3]
“Thiện Tinh liền
thú thật: ‘Bạch Thế Tôn! Quả như
lời Phật dạy, người Ni-kiền Khổ Đắc thật chẳng sanh lên
cõi trời Ba mươi ba. Hiện ông ấy đã thọ thân quỷ đói ăn đồ nôn mửa.’
“Phật dạy: ‘Ông thật si mê!
Chư Phật Như Lai nói ra lời
thành thật, không thay đổi. Nếu bảo rằng
Như Lai nói hai lời,
thật không thể có.’
“Thiện Tinh liền nói: ‘Lúc ấy tuy
Như Lai đã nói như vậy, nhưng đối với việc ấy tôi
hoàn toàn không sanh
lòng tin.’
“Thiện nam tử! Ta cũng thường vì tỳ-kheo
Thiện Tinh giảng nói
pháp chân thật, nhưng ông ấy
tuyệt nhiên không có
lòng tin theo.
“Thiện nam tử! Tỳ-kheo
Thiện Tinh tuy cũng
đọc tụng Mười hai bộ kinh,
chứng đắc Bốn thiền, nhưng thậm chí không hiểu được
ý nghĩa của một
bài kệ hay một câu, một chữ [trong kinh]. Vì gần gũi những bạn xấu nên dần
sa sút mất cả
Bốn thiền. Mất cả
Bốn thiền rồi liền sanh
tà kiến xấu ác, nói rằng: ‘Không có Phật, không có Pháp, không có Niết-bàn. Sa-môn Cồ-đàm chỉ nhờ khéo biết được tướng pháp nên rõ được tâm ý người khác đó thôi.’
“Lúc đó, ta bảo
Thiện Tinh rằng: ‘Những pháp do
Như Lai thuyết, dù là
ban đầu, khoảng giữa hay về sau đều là hiền thiện,
tốt lành. Lời của
Như Lai là khéo léo, nhiệm mầu,
từ ngữ chân chánh, chỗ
thuyết giảng không
lẫn lộn,
thành tựu trọn vẹn Phạm hạnh thanh tịnh.’
“Tỳ-kheo
Thiện Tinh lại nói rằng: ‘Tuy
Như Lai vì tôi
thuyết pháp, nhưng tôi thật lòng cho rằng không có
nhân quả.’
“Thiện nam tử! Nếu ông không tin có những việc như vậy, thì hiện nay tỳ-kheo
Thiện Tinh đang ở
gần đây, nơi bờ sông Ni-liên-thiền,
chúng ta hãy cùng đến đó mà hỏi.”
Lúc đó,
đức Như Lai cùng với Ca-diếp đi đến chỗ
Thiện Tinh. Tỳ-kheo
Thiện Tinh từ xa đã trông thấy Phật. Vừa thấy rồi liền sanh lòng xấu ác,
tà vạy. Vì lòng xấu ác đó mà
lập tức sa vào
địa ngục A-tỳ ngay trong khi đang sống!
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tuy tỳ-kheo
Thiện Tinh được vào trong pháp Phật có
vô lượng món báu, nhưng không thu hoạch được gì, thậm chí không có được
lợi ích của một pháp nào cả! Đó là do sự buông thả, lười nhác; do [gần gũi] những bạn bè xấu ác,
hiểu biết sai lầm.
“Ví như người
đi vào biển cả, nhìn thấy nhiều thứ
trân bảo, nhưng không lấy được gì cả chỉ vì lười nhác. Lại
ví như người
đi vào biển cả, tuy nhìn thấy
trân bảo chất đống, nhưng vì đuối sức nên chết, hoặc bị
ác quỷ la-sát giết chết.
Thiện Tinh cũng vậy, tuy vào được trong pháp Phật rồi nhưng lại bị quỷ la-sát lớn là những bạn hữu xấu ác giết hại.
“Thiện nam tử! Cho nên
Như Lai vì lòng
thương xót thường dạy rằng: ‘Thiện Tinh có nhiều sự buông thả, lười nhác.’
“Thiện nam tử! Như người vốn dĩ bần cùng
nghèo khó, người khác nhìn thấy tuy có đem lòng
thương xót nhưng không sâu đậm. Với kẻ vốn xưa
hết sức giàu có, sau bị mất hết
tài sản, người khác nhìn thấy ắt sanh lòng
thương xót rất sâu đậm.
“Tỳ-kheo
Thiện Tinh cũng vậy. Ông ấy đã từng
thọ trì,
đọc tụng Mười hai bộ kinh,
đạt được Bốn thiền, nhưng về sau lại
sa sút mất đi, thật đáng thương thay! Cho nên ta nói: ‘Tỳ-kheo
Thiện Tinh có nhiều sự buông thả, lười nhác. Vì có nhiều sự buông thả, lười nhác nên dứt mất các căn lành. Đối với ông ấy, những
đệ tử của ta nghe biết đến thảy đều đem lòng
thương xót một cách sâu đậm, cũng như người ta
thương xót kẻ
hết sức giàu có lại trở nên nghèo khốn.
“Thiện Tinh
đi theo ta
trong suốt nhiều năm, nhưng ông ấy tự sanh lòng
tà vạy, xấu ác. Vì lòng
tà vạy, xấu ác, ông ấy không
buông bỏ được chỗ thấy biết xấu ác.
“Thiện nam tử! Từ trước tới nay ta luôn thấy căn lành của
Thiện Tinh rất ít ỏi, chỉ như mảy lông, sợi tóc mà thôi, nhưng ta chưa hề nói rằng ông ấy đã dứt hẳn căn lành, rơi vào hạng nhất-xiển-đề, là kẻ hèn hạ
thấp kém, sẽ đọa vào
địa ngục trọn kiếp. Chỉ vì ông ấy nói ra thuyết không
nhân không quả, không có nghiệp tạo tác, nên ta mới nói rằng
Thiện Tinh đã dứt hẳn căn lành, rơi vào hạng nhất-xiển-đề, là kẻ hèn hạ
thấp kém, sẽ đọa vào
địa ngục trọn kiếp.
“Thiện nam tử!
Ví như có người
ngã xuống hố xí, có bậc
thiện tri thức đưa tay xuống dò tìm [để cứu lên]. Nếu sờ chạm được tóc trên đầu người ấy mới kéo lên được; như tìm lâu không được sẽ
từ bỏ ý định cứu vớt.
“Như Lai
cũng thế, nếu
tìm thấy Thiện Tinh có chút ít căn lành mới có thể cứu vớt ông ta, nhưng
tìm kiếm mãi cũng không thấy được chút căn lành nào, dù chỉ như mảy lông, sợi tóc; cho nên không thể cứu vớt ông ấy
thoát khỏi địa ngục.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Vì sao
Như Lai phải
nói trước rằng ông ấy sẽ đọa
địa ngục A-tỳ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tỳ-kheo
Thiện Tinh có nhiều
quyến thuộc. Những người ấy đều cho rằng
Thiện Tinh là A-la-hán, đã
chứng đắc đạo quả. Vì muốn phá trừ lòng
tà vạy xấu ác như thế nên ta mới phải
nói trước rằng: ‘Vì buông thả, lười nhác,
Thiện Tinh sẽ đọa vào
địa ngục.’
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết rằng
lời nói của
đức Như Lai là
chân thật, không thay đổi. Vì sao vậy? Nếu Phật đã
nói trước là sẽ đọa
địa ngục mà không đúng thật như vậy là điều vô lý!
“Hàng
Thanh văn,
Duyên giác khi
nói trước điều gì thì có hai khả năng: hoặc sai, hoặc đúng. Như Mục-kiền-liên khi ở nước Ma-già-đà nói với
mọi người rằng: ‘Bảy ngày nữa trời sẽ đổ mưa.’
Thời hạn ấy đã
trôi qua nhưng chẳng có mưa! Lại có lần, Mục-kiền-liên
nói trước việc con bò sẽ sanh con màu trắng. Đến khi sanh ra lại là bò có lông nhiều màu! Lại có lần
nói trước việc sanh con trai, nhưng sau người mẹ ấy lại sanh ra con gái!
“Thiện nam tử! Tỳ-kheo
Thiện Tinh thường giảng nói với
vô số chúng sanh rằng: ‘Hoàn toàn không có quả lành, quả dữ.’ Vào lúc giảng nói như vậy, tất cả căn lành của ông ấy đều dứt hẳn, không còn chút nào, dù chỉ như mảy lông, sợi tóc.
“Thiện nam tử! Ta đã
biết trước từ lâu rằng tỳ-kheo
Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, nhưng ta vẫn sống chung với ông ấy.
Trong suốt hai mươi năm ta vẫn
nuôi dưỡng, cùng làm
mọi việc với ông ấy. Nếu ta
xa lìa không gần gũi bên cạnh thì ông ấy sẽ [có
điều kiện để]
dạy bảo cho
vô số chúng sanh tạo tác các nghiệp xấu ác. Đó gọi là
Giải lực thứ năm[4] của
Như Lai.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Do
nhân duyên gì mà hạng nhất-xiển-đề không có các pháp lành?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì hạng nhất-xiển-đề đã dứt mất căn lành. Mọi
chúng sanh đều có đủ năm căn
như tín căn,
tinh tấn căn...[5] nhưng hạng nhất-xiển-đề thì
vĩnh viễn dứt mất cả năm căn ấy. Vì nghĩa ấy nên giết một con kiến cũng mang tội giết hại, nhưng giết kẻ nhất-xiển-đề không mang tội giết hại!”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Có phải vì hạng nhất-xiển-đề
mãi mãi chẳng bao giờ có được pháp lành nên mới gọi họ là nhất-xiển-đề hay chăng?”
Phật đáp: “Đúng vậy, đúng vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Tất cả
chúng sanh có ba loại giống lành. Đó là giống lành trong
quá khứ, tương lai và
hiện tại. [Dù là] hạng nhất-xiển-đề cũng không thể dứt mất pháp lành trong tương lai, sao có thể nói rằng dứt hết pháp lành nên gọi là nhất-xiển-đề?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có hai cách dứt mất. Một là dứt mất ngay trong
hiện tại, hai là do sự việc
hiện tại làm ngăn trở tương lai. Hạng nhất-xiển-đề có đủ hai cách dứt mất ấy, cho nên ta nói rằng họ đã dứt hết các căn lành.
“Thiện nam tử!
Ví như có người
ngã xuống hố xí, đã chìm hẳn chỉ còn mỗi một sợi tóc trên đầu nhô lên. Tuy còn lại một sợi tóc trên đầu nhô lên, nhưng sợi tóc ấy không chịu nổi sức nặng
toàn thân. Hạng nhất-xiển-đề cũng vậy, tuy
trong đời vị lai cũng sẽ có chút căn lành nhưng không cứu nổi sự khổ
địa ngục. Tuy
trong đời vị lai có thể được cứu vớt, nhưng
trong đời hiện tại thật chẳng biết làm sao [để cứu vớt]. Cho nên gọi là không thể cứu vớt. Do
nhân duyên là tánh Phật thì có thể cứu được, vì tánh Phật không phải
quá khứ, không phải
vị lai, không phải
hiện tại, cho nên không thể dứt mất. Nhưng cũng giống như
hạt giống đã hư mất thì không thể nảy mầm, hạng nhất-xiển-đề cũng giống như vậy đó!”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Hạng nhất-xiển-đề không dứt mất tánh Phật, nhưng tánh Phật cũng là [pháp] lành, vì sao nói rằng hạng nhất-xiển-đề dứt mất tất cả [pháp] lành?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu
chúng sanh nào
trong đời hiện tại có tánh Phật thì không gọi là nhất-xiển-đề. Cũng như tánh ngã của
chúng sanh trong
thế gian, tánh Phật là thường, không thuộc về
ba đời. Nếu thuộc về
ba đời [
hiện tại,
quá khứ và
vị lai] thì gọi là
vô thường. Vì trong tương lai
chúng sanh sẽ thấy được tánh Phật, nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Vì nghĩa ấy, hàng
Bồ Tát Thập trụ đầy đủ [
công hạnh]
trang nghiêm mới thấy được đôi chút tánh Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Tánh Phật là thường, cũng như
hư không, vì sao
Như Lai lại nói đến tương lai? Nếu
Như Lai nói rằng hạng nhất-xiển-đề không có pháp lành, nhưng hạng nhất-xiển-đề ấy đối với những bạn bè cùng học một thầy, đối với
cha mẹ,
thân tộc,
vợ con, lẽ nào không sanh lòng thương yêu? Nếu có sanh lòng
thương yêu, đó chẳng phải là pháp lành hay sao?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Ông đã nêu được câu hỏi
thú vị thay! Tánh Phật dường như
hư không, chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai, chẳng phải
hiện tại. Tất cả
chúng sanh đều có ba loại thân: thân
quá khứ, thân
vị lai và thân
hiện tại.
Trong đời vị lai, nếu
chúng sanh có được thân đầy đủ [
công hạnh]
trang nghiêm và
thanh tịnh thì sẽ thấy được tánh Phật. Cho nên ta nói tánh Phật trong tương lai.
“Thiện nam tử!
Như Lai vì
chúng sanh nên có khi dạy rằng nhân là quả, có khi dạy rằng quả là nhân. Cho nên trong kinh có nói mạng sống là vật thực, hoặc nói nhìn thấy
hình sắc tức là xúc chạm; vì thân trong tương lai sẽ
thanh tịnh nên ta nói tánh Phật [trong tương lai].”
Bồ Tát Ca-diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói nghĩa như vậy, vì sao nói rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tánh Phật của
chúng sanh tuy
hiện tại không có, nhưng không thể nói là không có. Cũng như tánh của
hư không tuy
hiện tại là không có, nhưng không thể nói là không có. Tất cả
chúng sanh tuy là
vô thường, nhưng tánh Phật này là
thường trụ, không
biến đổi. Cho nên trong kinh này ta có nói: ‘Tánh Phật của
chúng sanh chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, cũng như
hư không chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài. Nếu
hư không có ở trong, ở ngoài, thì
hư không không gọi là một, là thường, cũng không nói rằng
hư không ở khắp
mọi nơi. Tuy
hư không chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, nhưng
chúng sanh đều có
hư không. Tánh Phật của
chúng sanh cũng giống như vậy.
“Như lời ông vừa nói, rằng ‘hạng nhất-xiển-đề có pháp lành’, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Hạng nhất-xiển-đề nếu như có những nghiệp của thân, của miệng, của ý; những nghiệp nắm giữ, mong cầu; những nghiệp
bố thí,
giải thoát... tất cả những nghiệp như thế của họ đều là nghiệp
tà vạy. Vì sao vậy? Vì họ [
dụng tâm] không cầu
nhân quả.
“Thiện nam tử! Như cây ha-lê-lặc, từ trái cây, rễ cây, thân cây, cành lá,
hoa quả đều có
vị đắng; nghiệp của hạng nhất-xiển-đề cũng giống như vậy, [tất cả đều là
tà vạy].
“Thiện nam tử!
Như Lai có đầy
đủ sức rõ biết các hạng
căn tánh, nên khéo
phân biệt được những
căn tánh bậc cao, bậc vừa, bậc thấp của
chúng sanh; biết được những người [như thế] này có thể chuyển từ bậc thấp lên bậc vừa; người [như thế] này có thể chuyển từ bậc vừa lên bậc cao; người [như thế] này sẽ phải chuyển từ bậc cao xuống bậc vừa; người [như thế] này sẽ phải chuyển từ bậc vừa xuống bậc thấp.
“Nên phải biết rằng
căn tánh của
chúng sanh không
nhất thiết là cố định. Vì không cố định nên có khi dứt mất căn lành, nhưng dứt rồi
vẫn có thể sanh ra lại. Nếu
căn tánh của
chúng sanh nhất thiết là cố định thì không thể có sự dứt mất trước đó rồi sau lại sanh ra; cũng không thể nói rằng hạng nhất-xiển-đề sẽ đọa vào
địa ngục,
đời sống kéo dài
mãi mãi trong đó.
“Thiện nam tử! Cho nên
Như Lai dạy rằng tất cả các
pháp không có tướng
nhất định.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai có đầy
đủ sức rõ biết các hạng
căn tánh, biết chắc rằng
Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, vậy do
nhân duyên gì lại
cho phép ông ấy xuất gia?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Ngày xưa, khi ta mới
xuất gia, em ta là Nan-đà, em họ ta là A-nan, Đề-bà-đạt-đa,[6] con ta là La-hầu-la... thảy đều theo ta
xuất gia tu hành. Nếu ta không
cho phép Thiện Tinh xuất gia, ông ấy sẽ nối ngôi vua, có được
thế lực tùy ý rồi sẽ
phá hoại Phật pháp. Vì
nhân duyên ấy, ta liền
cho phép ông ấy
xuất gia tu hành.
“Thiện nam tử! Nếu tỳ-kheo
Thiện Tinh không
xuất gia, ông ấy cũng dứt mất căn lành, trong
vô lượng kiếp không được
lợi ích gì! Nay ông ấy đã
xuất gia rồi, dù dứt mất căn lành nhưng có thể thọ nhận và
giữ giới,
cúng dường cung kính những bậc
kỳ cựu tôn túc, những người
đức độ; rồi
tu tập từ
Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Đó gọi là [gieo] nhân lành. Nhân lành ấy có thể sanh ra pháp lành. Pháp lành đã sanh thì có thể
tu tập Chánh đạo. Đã
tu tập Chánh đạo thì sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế ta
cho phép Thiện Tinh xuất gia.
“Thiện nam tử! Nếu ta không
cho phép Thiện Tinh xuất gia thọ giới thì không xứng đáng được tôn xưng là bậc
Như Lai có đủ
Mười trí lực.
“Thiện nam tử! Phật quán xét thấy
chúng sanh có đủ pháp lành và pháp chẳng lành. Thấy rõ được những người như thế này tuy có đủ hai pháp ấy, nhưng không bao lâu nữa sẽ dứt mất tất cả căn lành, chỉ còn toàn những căn chẳng lành mà thôi. Vì sao vậy? Vì những
chúng sanh này không gần gũi bạn lành, không nghe
Chánh pháp, không khéo
suy xét thực hành theo đúng
Chánh pháp. Vì
nhân duyên ấy nên sẽ dứt hết căn lành, chỉ còn lại tất cả những căn chẳng lành.
“Thiện nam tử!
Như Lai lại cũng rõ biết được những người như thế này,
trong đời hiện tại hoặc đời
vị lai, lúc còn nhỏ tuổi hoặc khi
trưởng thành, già cả, rồi sẽ gần gũi bạn hữu
tốt lành, lắng nghe và thọ nhận
Chánh pháp: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vào
lúc ấy, các căn lành sẽ có thể sanh ra lại.
“Thiện nam tử!
Ví như có một con suối ở cách thôn xóm không xa, nước suối ấy ngon ngọt, đầy đủ
tám công đức. Có người nóng khát muốn đi đến chỗ con suối. Gần đó có
bậc trí giả quan sát người khát nước ấy, liền biết chắc rằng sẽ đi tới chỗ con suối. Vì sao vậy? Vì không còn
con đường nào khác.
Như Lai Thế Tôn quán sát chúng sanh cũng giống như vậy. Cho nên tôn xưng
Như Lai là Bậc có đầy
đủ sức rõ biết các hạng
căn tánh.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn lấy một chút đất để trên móng tay, hỏi
Bồ Tát Ca-diếp: “Ca-diếp! Chút đất này là nhiều hay đất ở khắp các
thế giới trong
mười phương là nhiều?”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Đất trên móng tay không thể so với đất trong khắp
mười phương.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có những người sau khi bỏ thân này rồi được sanh
trở lại làm người; hoặc sau khi bỏ thân trong
ba đường ác được thọ thân người, có đủ các căn, được sanh ra giữa nơi
văn minh tiến bộ, đầy đủ
đức tin chân chánh, có thể
tu tập đạo.
Tu tập đạo rồi có thể [
nhận ra được để] tu theo
Chánh đạo. Tu theo
Chánh đạo rồi có
thể đạt được giải thoát.
Được giải thoát rồi có
thể nhập Niết-bàn. Số người như vậy [rất ít], chỉ như chút đất trên móng tay này.
“Lại có những kẻ sau khi bỏ thân người rồi phải sanh vào
ba đường ác; bỏ thân trong
ba đường ác rồi lại sanh
trở lại vào đó nữa; [hoặc sanh làm người thì] các căn không đầy đủ, sanh ra nơi những vùng xa xôi hẻo lánh,
tối tăm chậm tiến; đặt
niềm tin vào những
kiến giải sai lầm,
điên đảo;
tu tập tà đạo, không
đạt được những đức:
giải thoát, thường, lạc, Niết-bàn. Số người như vậy [rất nhiều], cũng như đất trong các
thế giới ở khắp
mười phương.
“Thiện nam tử! [Có những người]
bảo vệ giữ gìn giới cấm,
tinh tấn chuyên cần không
biếng nhác, không phạm vào
bốn giới cấm nặng, không làm
năm tội nghịch, không
sử dụng tài vật
cúng dường Tam bảo, không làm kẻ nhất-xiển-đề, không dứt mất căn lành, có
lòng tin vào những
kinh điển như kinh Niết-bàn này. Số người như vậy [rất ít], chỉ như chút đất trên móng tay này.
“[Lại có những người]
phá hủy giới cấm,
biếng nhác trì trệ, phạm vào
bốn giới cấm nặng, làm
năm tội nghịch,
sử dụng tài vật
cúng dường Tam bảo, làm kẻ nhất-xiển-đề, dứt mất căn lành, không có
lòng tin nơi kinh [Đại Bát Niết-bàn] này. Số người như vậy [rất nhiều], cũng như đất trong các
thế giới ở khắp
mười phương.
“Thiện nam tử!
Như Lai khéo léo rõ biết những
căn tánh bậc cao, bậc vừa, bậc thấp như vậy của
chúng sanh, nên tôn
xưng Phật là bậc đầy
đủ sức rõ biết các
căn tánh.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai có
đủ sức rõ biết các
căn tánh nên biết được
căn tánh bậc cao, bậc vừa, bậc thấp của tất cả
chúng sanh; rõ biết sự khác biệt giữa
căn tánh lanh lợi và
ngu độn; rõ biết các căn của
chúng sanh đời
hiện tại, cũng rõ biết các căn của
chúng sanh đời
vị lai.
“[
Như Lai rõ biết] những
chúng sanh [như thế này thì] sau khi
Phật diệt độ sẽ nói: ‘Như Lai đã dứt bỏ tất cả mà vào Niết-bàn’; hoặc [những
chúng sanh như thế này] sẽ nói: ‘Như Lai không dứt bỏ tất cả mà vào Niết-bàn’; hoặc [những
chúng sanh như thế này] sẽ nói: ‘Có ngã’; hoặc [những
chúng sanh như thế này] sẽ nói: ‘Không có ngã’. Hoặc nói: ‘Có thân trung ấm’; hoặc nói: ‘Không có thân trung ấm’; hoặc nói: ‘Có thối chuyển’; hoặc nói: ‘Không có thối chuyển’; hoặc nói: ‘Thân
Như Lai là hữu vi’; hoặc nói: ‘Thân
Như Lai là vô vi’; hoặc nói: ‘Mười hai
nhân duyên là
pháp hữu vi’; hoặc nói: ‘Nhân duyên là pháp vô vi’; hoặc nói: ‘Tâm là vô thường’; hoặc nói: ‘Sự hưởng thụ năm món
dục lạc có thể ngăn trở Thánh đạo’; hoặc nói: ‘Không hề ngăn trở’; hoặc nói: ‘Pháp cao nhất trong
thế gian chỉ là
Dục giới mà thôi’; hoặc nói: ‘Là cả Tam giới’; hoặc nói: ‘Bố thí chỉ là nghiệp của ý mà thôi’; hoặc nói: ‘[
Bố thí] tức là năm ấm’; hoặc nói: ‘Có ba pháp vô vi’;[7] hoặc nói: ‘Không có ba pháp vô vi’; hoặc nói: ‘Có sắc được tạo thành’; hoặc nói: ‘Không có sắc được tạo thành’; hoặc nói: ‘Có
hình sắc không do tạo tác mà có’; hoặc nói: ‘Tất cả
hình sắc đều do tạo tác mà có’; hoặc nói: ‘Có pháp là đối tượng của tâm’; hoặc nói: ‘Không có pháp là đối tượng của tâm’; hoặc nói: ‘Có năm cách hiện hữu’; hoặc nói: ‘Có sáu cách hiện hữu’; hoặc nói: ‘Phải thọ đủ giới ưu-bà-tắc mới được
truyền pháp Bát [quan] trai’; hoặc nói: ‘Không thọ đủ cũng truyền được’; hoặc nói: ‘Tỳ-kheo sau khi phạm
Bốn giới cấm nặng rồi, giới tỳ-kheo vẫn còn’; hoặc nói: ‘Không còn nữa’; hoặc nói: ‘Các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán đều
đạt đến Phật đạo’; hoặc nói: ‘Không đạt đến’; hoặc nói: ‘Tánh Phật
do nơi chúng sanh mà có’; hoặc nói: ‘Không có
chúng sanh cũng có tánh Phật’; hoặc nói: ‘Những kẻ phạm
Bốn giới cấm nặng, làm
Năm tội nghịch, cùng hạng nhất-xiển-đề, thảy đều có tánh Phật’; hoặc nói: ‘Không có’; hoặc nói: ‘Có chư Phật trong mười phương’; hoặc nói: ‘Không có chư Phật trong mười phương’...
“Bạch Thế Tôn! Nếu
đức Như Lai đã
thành tựu đầy
đủ sức rõ biết các hạng
căn tánh [của
chúng sanh], vì sao hôm nay không
giảng thuyết rõ ràng xác định [những nghĩa như trên]?”
Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy không phải dùng
nhãn thức [mà có thể] rõ biết,
cho đến cũng không phải dùng
ý thức [mà có thể] rõ biết,[8] chính là chỗ rõ biết của
trí tuệ. Đối với người có trí ta không bao giờ nói ra
hai nghĩa; người ấy cũng [tự] biết rằng ta không nói
hai nghĩa. Với người không có trí ta phải nói
nghĩa không xác định, mà người không có trí cũng biết là ta nói
nghĩa không xác định.
“Thiện nam tử! Tất cả
hạnh lành của
Như Lai đều là để
điều phục chúng sanh, cũng như các phương thuốc của Bậc
y vương đều là để
điều trị tất cả
bệnh khổ.
“Thiện nam tử!
Đức Như Lai Thế Tôn do [sự khác biệt về]
quốc độ,
tùy theo điều kiện nhân duyên, vì
lời nói của kẻ khác, vì muốn
hóa độ người, vì [
thích hợp với] nhiều hạng
căn tánh nên đối với một pháp mà giảng nói hai thuyết [khác nhau], đối với một tên gọi của pháp mà nói ra
vô số tên gọi, đối với một nghĩa mà giảng nói
vô số tên gọi, đối với
vô số nghĩa cũng nói ra
vô số tên gọi.
“Thế nào là đối với một tên gọi mà nói ra
vô số tên gọi? Ví dụ như Niết-bàn, vừa gọi là Niết-bàn, vừa gọi là
vô sanh, cũng gọi là vô xuất, cũng gọi là
vô tác, cũng gọi là
vô vi, cũng gọi là
quy y, cũng gọi là nơi
nương náu, cũng gọi là
giải thoát, cũng gọi là
quang minh, cũng gọi là đèn sáng, cũng gọi là
bờ bên kia, cũng gọi là không
sợ hãi, cũng gọi là
không thối chuyển, cũng gọi là trụ yên, cũng gọi là rỗng không
vắng lặng, cũng gọi là
vô tướng, cũng gọi là
vô nhị, cũng gọi là một hạnh
duy nhất, cũng gọi là
trong trẻo mát mẻ, cũng gọi là không
tối tăm, cũng gọi là không ngăn ngại, cũng gọi là không
tranh chấp, cũng gọi là không uế trược, cũng gọi là rộng lớn, cũng gọi là
cam lộ, cũng gọi là
tốt đẹp an lành... Đó là do một tên gọi mà tạo ra
vô số tên gọi.
“Thế nào là đối với một nghĩa mà giảng nói
vô số tên gọi?
Ví như Đế-thích, vừa gọi là Đế-thích, vừa gọi là Kiều-thi-ca, cũng gọi là Bà-sa-bà, cũng gọi là Phú-lan-đà-la, cũng gọi là Ma-pháp-bà, cũng gọi là Nhân-đà-la, cũng gọi là
Thiên nhãn, cũng gọi là Xá-chỉ-phu, cũng gọi là
Kim cang, cũng gọi là Bảo đỉnh, cũng gọi là
Bảo tràng... Đó gọi là đối với một nghĩa mà giảng nói
vô số tên gọi.
“Thế nào là đối với
vô số nghĩa nói ra
vô số tên gọi? Như
đức Phật Như Lai cũng gọi là
Như Lai, nghĩa khác, danh xưng khác; cũng gọi là A-la-ha, nghĩa khác, danh xưng khác; cũng gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà, nghĩa khác, danh xưng khác; cũng gọi là
Thuyền sư, cũng gọi là
Đạo sư, cũng gọi là
Chánh giác, cũng gọi là
Minh hạnh túc, cũng gọi là
Đại Sư tử vương, cũng gọi là Sa-môn, cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là
Tịch tĩnh, cũng gọi là
Thí chủ, cũng gọi là
Đáo bỉ ngạn, cũng gọi là
Đại y vương, cũng gọi là Đại
tượng vương, cũng gọi là Đại
long vương, cũng gọi là Thí nhãn, cũng gọi là
Đại lực sĩ, cũng gọi là Đại
vô úy, cũng gọi là
Bảo tụ, cũng gọi là
Thương chủ, cũng gọi là
Đắc thoát, cũng gọi là
Đại trượng phu, cũng gọi là
Thiên nhân sư, cũng gọi là Đại phân-đà-lỵ, cũng gọi là Độc
vô đẳng lữ, cũng gọi là Đại
phước điền, cũng gọi là
Đại trí tuệ, cũng gọi là
Vô tướng, cũng gọi là
Cụ túc bát trí... Như vậy là tất cả nghĩa đều khác, danh xưng cũng khác.
“Thiện nam tử! Đó gọi là đối với
vô số nghĩa nói ra
vô số tên gọi.
“Lại có khi đối với một nghĩa mà nói ra
vô số tên gọi. Như nói về ấm, vừa gọi là ấm, vừa gọi là
điên đảo, cũng gọi là
sự thật, cũng gọi là
Bốn niệm xứ, cũng gọi là Bốn cách ăn, cũng gọi là Chỗ trụ của bốn thức, cũng gọi là
hiện hữu, cũng gọi là đạo, cũng gọi là thời, cũng gọi là
chúng sanh, cũng gọi là
thế gian, cũng gọi là
đệ nhất nghĩa, cũng gọi là Ba pháp tu, là nói
tu thân, tu giới,
tu tâm; cũng gọi là
nhân quả, cũng gọi là
phiền não, cũng gọi là
giải thoát, cũng gọi là
Thập nhị nhân duyên; cũng gọi là
Thanh văn,
Phật Bích-chi, Phật; cũng gọi là
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, nhân, thiên; cũng gọi là
quá khứ,
hiện tại,
vị lai...
“Đó gọi là đối với một nghĩa mà nói ra
vô số tên gọi.
“Thiện nam tử!
Như Lai Thế Tôn vì
chúng sanh nên [có khi] đối với việc [có nghĩa] rộng mà
diễn thuyết sơ lược; đối với việc [có nghĩa]
sơ lược mà
diễn thuyết mở rộng; [có khi] đối với
Đệ nhất nghĩa đế mà nói là
Thế đế,[9] đối với pháp
Thế đế lại nói là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Thế nào là đối với việc rộng
diễn thuyết sơ lược? Như
Phật bảo các tỳ-kheo rằng: ‘Hôm nay ta giảng nói
Mười hai nhân duyên. Thế nào gọi là Mười hai nhân duyên? Đó là nói
nhân quả.’
“Thế nào là đối với việc
sơ lược,
diễn thuyết mở rộng? Như
Phật bảo các tỳ-kheo rằng: ‘Hôm nay ta giảng nói về khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là nói
vô lượng các khổ... Tập là nói
vô lượng phiền não... Diệt là nói
vô lượng giải thoát... Đạo là nói
vô lượng phương tiện...’
“Thế nào là đối với
Đệ nhất nghĩa đế nói là Thế đế? Như
Phật bảo các tỳ-kheo rằng: ‘Thân này của ta hiện nay có đủ già, bệnh, chết.’
“Thế nào là đối với
Thế đế nói là
Đệ nhất nghĩa đế? Như
Phật bảo Kiều-trần-như: ‘Vì ông đã
đắc pháp nên gọi tên là
A-nhã Kiều-trần-như.’[10]
“Như vậy là [
Như Lai thuyết pháp] tùy nơi người [nghe],
tùy ý [muốn nói],
tùy thời điểm [
thích hợp], đó gọi là sức rõ biết các hạng
căn tánh của
Như Lai.
“Thiện nam tử! Nếu đối với các nghĩa như trên mà giảng nói một cách cứng nhắc thì không thể tôn xưng là
Như Lai, có sức rõ biết đủ các hạng
căn tánh.
“Thiện nam tử! Người có trí nên biết rằng sức chuyên chở của con lừa không thể hơn được sức con voi tơ.
Hành vi [tạo tác] của tất cả
chúng sanh là
vô lượng, nên
Như Lai cũng vì
chúng sanh mà
thuyết giảng đủ mọi pháp
vô lượng. Vì sao vậy? Vì
chúng sanh có nhiều
phiền não. Nếu
Như Lai chỉ giảng nói một
công hạnh duy nhất thì không thể gọi là
Như Lai thành tựu trọn vẹn sức rõ biết các hạng
căn tánh. Cho nên trong những kinh khác ta có dạy rằng: ‘Có năm hạng
chúng sanh không nên giảng nói năm việc. Đó là: Với kẻ không có
lòng tin không
ngợi khen lòng tin chân chánh; với kẻ hủy
phạm giới cấm không
ngợi khen việc
trì giới; với kẻ
tham tiếc keo lận không
ngợi khen sự
bố thí; với kẻ lười nhác biếng trễ không
ngợi khen sự nghe nhiều
học rộng; với kẻ
ngu si không
ngợi khen trí tuệ.’
“Vì sao vậy? Nếu người có trí giảng nói năm việc trên với năm hạng người ấy, thì nên biết rằng người giảng nói như vậy là không
đạt được đầy
đủ sức rõ biết các hạng
căn tánh, cũng không gọi là người
thương xót chúng sanh. Vì sao vậy? Năm hạng người ấy khi nghe những việc như vậy rồi ắt sẽ đánh
mất lòng tin, sanh tâm xấu ác,
sân hận. Vì
nhân duyên ấy mà trong
vô lượng kiếp sẽ phải chịu
quả báo khổ não. Cho nên người giảng nói như vậy không thể gọi là
thương xót chúng sanh, [không gọi] là có sức rõ biết đủ các
căn tánh.
“Vì thế, trước đây trong một kinh khác ta có dạy Xá-lợi-phất: ‘Ông phải
thận trọng, đối với người
căn tánh lanh lợi đừng
thuyết pháp mở rộng; đối với kẻ
ngu độn chậm lụt đừng
thuyết pháp sơ lược.’ Xá-lợi-phất bạch rằng: ‘Thế Tôn! Con vì lòng
thương xót nên
thuyết pháp, không phải vì có sức rõ biết các hạng
căn tánh mà
thuyết pháp.’
“Thiện nam tử! [Việc
tùy nghi]
thuyết pháp mở rộng hay
sơ lược là
cảnh giới của chư Phật, hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể rõ biết được.
“Thiện nam tử! Như lời ông nói, sau khi Phật vào Niết-bàn, các
đệ tử mỗi người đều sẽ
thuyết giảng khác nhau. Những người ấy đều do
nhân duyên điên đảo, không có
Chánh kiến, nên không thể làm
lợi ích cho mình và người khác.
“Thiện nam tử!
Chúng sanh không phải chỉ có một tánh, một hạnh, một căn, một loại
quốc độ, một
thiện tri thức. Cho nên
Như Lai vì
chúng sanh mà
tuyên thuyết mọi thứ
pháp yếu. Do
nhân duyên ấy mà
ba đời chư Phật Như Lai trong
mười phương đều vì
chúng sanh mở bày diễn giảng
Mười hai bộ kinh.
“Thiện nam tử!
Như Lai thuyết giảng Mười hai bộ kinh chẳng phải vì sự
lợi ích cho mình, chỉ
vì lợi ích cho
chúng sanh mà thôi. Cho nên
trí lực thứ năm của
Như Lai gọi là Giải lực. Lại do
trí lực thứ hai [là Tri
tam thế nghiệp báo
trí lực] nên
Như Lai rõ biết
sâu xa rằng những người [như thế] này trong
hiện tại có thể dứt mất căn lành; những người [như thế] này
trong đời tương lai sẽ dứt mất căn lành; những người [như thế] này
trong đời hiện tại có
thể đạt được giải thoát; những người [như thế] này
trong đời tương lai có
thể đạt được giải thoát... Cho nên
Như Lai được tôn xưng là Đấng
Vô thượng Lực sĩ.
“Thiện nam tử! Nếu ai nói rằng
Như Lai dứt hết tất cả mà vào Niết-bàn, hoặc
Như Lai không dứt tất cả mà vào Niết-bàn, những người ấy đều không hiểu được ý
Như Lai nên mới nói ra những thuyết như vậy.
“Thiện nam tử! Trong
Hương sơn có năm mươi ba ngàn vị
tiên nhân, đều là những người vào thuở
quá khứ đã tu các
công đức nơi chỗ
đức Phật Ca-diếp. Họ chưa
chứng đắc Thánh đạo, chưa được gần gũi chư Phật để nghe và thọ nhận
Chánh pháp.
Như Lai vì những người này mới bảo A-nan rằng: ‘Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
Chư thiên nghe được rồi bèn truyền tin ấy đến tận
Hương sơn. Các vị
tiên nhân kia
nghe được tin ấy liền sanh lòng
hối tiếc rằng: ‘Vì sao
chúng ta được sanh trong
loài người mà không được gần gũi Phật?
Chư Phật Như Lai ra đời là việc rất khó gặp, cũng như hoa Ưu-đàm. Nay
chúng ta nên đến chỗ
Phật Thế Tôn để nghe và thọ nhận
Chánh pháp.’
“Thiện nam tử! Bấy giờ, năm mươi ba ngàn
tiên nhân liền đến chỗ ta. Ta liền
thuyết pháp thích hợp với họ: ‘Chư đại sĩ! Sắc là
vô thường. Vì sao vậy? Vì
nhân duyên của sắc là
vô thường. Do
nhân duyên vô thường sanh ra nên sắc làm sao có thể là thường?...
Cho đến thức[11] cũng giống như vậy.” Bấy giờ, các
tiên nhân nghe pháp ấy rồi
tức thời chứng đắc quả A-la-hán.
“Thiện nam tử! Ở thành Câu-thi-na có tộc họ Lực-sĩ[12] khoảng ba trăm ngàn người. Họ không chịu
phụ thuộc ai, thường
tự thị,
kiêu căng với
hình sắc,
sức mạnh,
thân mạng và
tài sản mà họ có được; tâm ý họ
rối loạn, cuồng say.
Thiện nam tử! Vì muốn
điều phục những người họ Lực-sĩ ấy, ta bảo Mục-kiền-liên rằng: ‘Ông nên
điều phục những người họ Lực-sĩ ấy.’
“Bấy giờ, Mục-kiền-liên kính
vâng lời dạy của ta,
trong suốt năm năm trời cố dùng mọi cách để
giáo hóa họ, nhưng không thể khiến cho một người nào [trong số họ]
thọ pháp, được
điều phục. Cho nên, ta lại vì những người họ Lực-sĩ ấy mà bảo A-nan rằng: ‘Còn ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Bấy giờ,
nghe được lời ấy, những người họ Lực-sĩ liền rủ nhau
tụ tập, sửa
dọn đường sá. Qua ba tháng rồi, ta bèn từ giã thành Tỳ-xá-ly, đi đến thành Câu-thi-na. Giữa đường, trông thấy những người họ Lực-sĩ từ xa, ta liền tự
hóa thân làm một thầy sa-môn,
đi thẳng đến chỗ bọn họ nói rằng: ‘Bọn trẻ các con đang làm việc chi đó?’ Nghe hỏi như vậy, những người họ Lực-sĩ đều sanh tâm
sân hận,
trách mắng rằng: ‘Sa-môn! Sao nay ông dám gọi
chúng tôi là bọn trẻ?’ Ta liền đáp rằng: ‘Các con số đông đến ba trăm ngàn người, cùng đem
hết sức mình mà chẳng dời được hòn đá nhỏ này, chẳng đáng gọi là bọn trẻ hay sao?’ Những người họ Lực-sĩ nói rằng: ‘Nếu ông dám gọi
chúng tôi là bọn trẻ, hẳn ông phải là một bậc đại nhân!’
“Thiện nam tử! Bấy giờ, ta chỉ dùng hai ngón chân hất văng hòn đá lên. Thấy việc ấy rồi, những người họ Lực-sĩ ấy liền đối với thân mình tự sanh lòng
chê trách là
yếu ớt. Họ lại hỏi rằng: ‘Sa-môn! Nay ông có thể dẹp hòn đá này ra khỏi đường đi chăng?’ Ta nói: ‘Này các con! Do
nhân duyên gì mà các con sửa
dọn đường này?’ Những người họ Lực-sĩ thưa rằng: ‘Sa-môn! Ông chẳng biết gì sao? Đức Thích-ca
Như Lai sẽ theo
con đường này đi đến rừng Sa-la để nhập Niết-bàn. Vì
nhân duyên ấy nên
chúng tôi dọn dẹp đường sá cho cho bằng thẳng.’
“Ta liền
ngợi khen họ: ‘Lành thay! Các con đã phát lòng lành như vậy, ta sẽ giúp trừ bỏ hòn đá này cho các con.’ Ta bèn dùng tay nhấc hòn đá, ném lên tận
cõi trời A-ca-ni-trá.[13]
“Bấy giờ, thấy hòn đá còn đang
lơ lửng trên không, những người họ Lực-sĩ đều lấy làm kinh sợ, muốn bỏ chạy. Ta liền bảo họ rằng: ‘Những người họ Lực-sĩ các con, nay chớ sanh lòng hoảng hốt muốn
chạy trốn.’ Những người họ Lực-sĩ thưa rằng: ‘Sa-môn! Nếu ngài có thể cứu giúp
bảo vệ chúng tôi,
chúng tôi mới dám
đứng yên nơi đây.’
“Bấy giờ, ta liền đưa tay ra đón lấy hòn đá, đặt trên lòng bàn tay mặt. Thấy vậy rồi, những người họ Lực-sĩ sanh lòng
hoan hỷ, hỏi rằng: ‘Sa-môn! Hòn đá này là thường còn chăng? Là
vô thường chăng?’
“Lúc ấy, ta dùng miệng thổi vào hòn đá.
Tức thời, hòn đá tan nát thành bụi nhỏ. Thấy vậy rồi, những người họ Lực-sĩ cùng nói rằng: ‘Sa-môn! Đá này là
vô thường.’ Họ liền sanh lòng
hổ thẹn, tự trách mình rằng: ‘Tại sao
chúng ta lại
dựa vào sự
tự tại,
hình sắc,
sức lực, mạng sống,
tài sản của
chúng ta mà sanh lòng kiêu mạn?’
“Biết rõ tâm ý của họ rồi, ta liền bỏ thân
biến hóa, hiện nguyên hình [Phật] và
thuyết pháp với họ. Những người họ Lực-sĩ được thấy nghe như vậy rồi, tất cả đều
phát tâm Bồ-đề.
“Thiện nam tử! Tại thành Câu-thi-na,[14] có một người thợ khéo tên là Thuần-đà. Người này
thuở trước từng ở chỗ
đức Phật Ca-diếp phát lời
thệ nguyện lớn rằng: ‘Đến khi đức Thích-ca
Như Lai nhập Niết-bàn, tôi sẽ là người sau cùng phụng thí ẩm thực!’
Vì vậy nên khi còn ở thành Tỳ-xá-ly, ta có bảo tỳ-kheo Ưu-bà-ma-na rằng: ‘Thiện nam tử! Còn ba tháng nữa ta sẽ đến thành Câu-thi-na, trong rừng cây sa-la mọc sóng đôi mà nhập Niết-bàn. Ông nên đến báo cho Thuần-đà được biết.’
“Thiện nam tử! Tại thành
Vương Xá có một vị
tiên nhân ngũ thông[15] tên là Tu-bạt-đà, được một trăm hai mươi tuổi, thường tự xưng là bậc
Nhất thiết trí [rõ biết tất cả], sanh lòng
kiêu mạn lớn. Người ấy đã từng gieo trồng
thiện căn vào thuở
quá khứ, đối trước
vô lượng chư Phật. Vì muốn
điều phục người ấy, ta có bảo A-nan rằng: ‘Còn ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
Nghe được lời ấy, Tu-bạt-đà ắt sẽ tìm đến chỗ ta, sanh tâm tín kính. Ta sẽ vì ông ấy mà
thuyết giảng đủ mọi pháp lành.
Nghe pháp rồi, người ấy sẽ được dứt hết
phiền não [
chứng quả A-la-hán].
“Thiện nam tử! Ở thành La-duyệt-kỳ có vị vua là Tần-bà-sa-la.
Thái tử con vua tên là
Thiện Kiến,[16] vì
nghiệp nhân duyên nên sanh lòng ác nghịch, muốn làm hại cha, nhưng chưa có cơ hội
thuận tiện. Bấy giờ, kẻ xấu ác là Đề-bà-đạt-đa cũng do
nghiệp nhân duyên
quá khứ nên sanh lòng dữ, muốn làm hại ta. Đề-bà-đạt-đa liền tu
Ngũ thông, chẳng bao lâu liền
đạt được năm phép
thần thông ấy. Sau đó, Đề-bà-đạt-đa
kết thân với
thái tử Thiện Kiến, vì
thái tử mà
biến hóa mọi phép
thần thông: không đi qua cửa mà vẫn ra ngoài được, lại theo cửa mà vào; hoặc đi qua cửa mà ra, lại không qua cửa mà vẫn vào được; hoặc
thị hiện thân voi, thân ngựa, thân bò, thân dê, thân nam, thân nữ...
“Thấy vậy,
thái tử Thiện Kiến liền sanh lòng yêu mến,
vui vẻ, kính
tin theo [Đề-bà-đạt-đa]. Vì thế,
thái tử Thiện Kiến liền bày biện
nghiêm trang các món phẩm vật mà dâng hiến cho Đề-bà-đạt-đa, lại thưa rằng: ‘Đại sư Thánh nhân! Tôi muốn được thấy hoa mạn-đà-la.’
Đề-bà-đạt-đa
tức thời hiện lên cõi trời Đao-lợi hỏi xin hoa ấy. Nhưng Đề-bà-đạt-đa là người đã hết phước nên
chư thiên ở đó chẳng ai cho. Xin hoa không được, Đề-bà-đạt-đa bèn
suy nghĩ rằng: ‘Cây mạn-đà-la vốn là không có tự ngã,
ngã sở; nếu ta tự lấy hoa ấy cũng không có tội gì.’ Đề-bà-đạt-đa liền
bước tới toan hái hoa,
tức thời mất hết
thần thông, nhìn lại thấy mình [đã rơi xuống] đang ở giữa thành
Vương Xá. Lòng sanh
hổ thẹn, Đề-bà-đạt-đa không dám đến viếng
thái tử Thiện Kiến, lại nảy ra
ý nghĩ rằng: ‘Nay ta nên đến chỗ
Như Lai, xin ngài giao lại
đại chúng [
chư tăng] cho ta. Nếu Phật
ưng thuận, ta sẽ có thể
tùy ý dạy bảo,
sai khiến những người như Xá-lợi-phất.’
“Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa đi đến chỗ ta, nói rằng: ‘Xin
Như Lai đem
đại chúng này mà
phó chúc cho tôi. Tôi sẽ dùng mọi cách
thuyết pháp giáo hóa, khiến họ được
điều phục.’ Ta đáp: “Ông thật ngu si! Đến cả người
thông minh đại trí, được người đời tin phục như Xá-lợi-phất ta còn chưa đem cả
đại chúng mà
phó chúc, huống chi ông là kẻ
ngu si, chỉ biết lặp lại những lời người khác đã nói?’[17]
“Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa đối với ta càng sanh tâm xấu ác, liền nói: ‘Cồ-đàm! Nay tuy ông
điều phục được
đại chúng, nhưng
thế lực chẳng
tồn tại được lâu,
chắc chắn rồi sẽ tàn diệt.’ Đề-bà-đạt-đa vừa nói ra lời ấy, toàn cõi đất này liền
chấn động sáu lần. Đề-bà-đạt-đa đứng trơ trên đất, bên thân ông ấy có luồng gió cực mạnh thổi qua, làm cho bụi bặm, đất cát bám dơ cả người. Đề-bà-đạt-đa thấy tướng dữ ấy rồi lại nói rằng: ‘Nếu thân đời này của ta phải vào
địa ngục A-tỳ, thế nào ta cũng phải trả mối oán thù sâu nặng này!’
“Liền đó, Đề-bà-đạt-đa đến chỗ
thái tử Thiện Kiến. Vừa thấy người,
thái tử hỏi rằng: ‘Thánh nhân! Tại sao
dung nhan ngài
tiều tụy, ưu sầu?’ Đề-bà-đạt-đa nói rằng: ‘Tôi thường như vậy,
thái tử há chẳng biết sao?’
Thiện Kiến đáp rằng: ‘Xin ngài nói rõ ý, vì
nhân duyên chi vậy?’
Đề-bà-đạt-đa liền nói: ‘Nay tôi với ngài rất
thân thiết, người bên ngoài
nói xấu ngài, thật là
vô lý. Tôi nghe biết việc ấy, há có
thể không ưu sầu hay sao?’
Thái tử Thiện Kiến lại hỏi rằng: ‘Người trong nước
nói xấu tôi như thế nào? Đề-bà-đạt-đa đáp: ‘Người trong nước
nói xấu ngài, gọi ngài là
Vị sanh oán, [nghĩa là kẻ oán thù từ lúc chưa sanh].’[18]
Thái tử Thiện Kiến lại hỏi: ‘Tại sao họ gọi tôi là Vị sanh oán? Ai đã đặt tên ấy?’
“Đề-bà-đạt-đa đáp: ‘Khi ngài chưa sanh ra, tất cả các thầy tướng đều nói rằng: ‘Đứa trẻ ấy về sau sẽ giết cha nó.’
Vì vậy, nên người bên ngoài đều gọi ngài là
Vị sanh oán. Tất cả người trong cung vì muốn được lòng ngài nên gọi ngài là
Thiện Kiến.
Phu nhân Vi-đề
nghe lời thầy tướng rồi, sau khi sanh ra liền từ trên lầu cao ném ngài rơi xuống đất, làm ngài gãy mất một ngón tay. Vì
nhân duyên ấy, người ta lại gọi ngài là Bà-la-lưu-chi.[19] Tôi nghe những điều như vậy lấy làm
buồn rầu lộn xộn, nhưng không thể mang ra
nói thẳng với ngài.’
“Đề-bà-đạt-đa đem những việc xấu ác như vậy kể ra để xúi giục
thái tử giết cha, nói rằng: ‘Nếu cha ngài đã chết, tôi cũng có thể giết chết sa-môn Cồ-đàm.’
“Thái tử
Thiện Kiến liền hỏi một đại thần tên
Vũ Hành:[20] ‘Đại thần! Tại sao
Đại vương đặt tên cho tôi là Vị sanh oán?’ Đại thần liền kể nguồn gốc
câu chuyện, cũng giống
y như Đề-bà-đạt-đa đã nói, không khác chi cả.
“Nghe rồi,
Thiện Kiến liền sai đại thần ấy đi bắt vua cha, giam ở ngoài thành, sai
bốn loại quân[21]
canh giữ cẩn thận.
Phu nhân Vi-đề[22] nghe việc ấy rồi, liền đi đến chỗ giam giữ vua. Những người
canh giữ ngăn cản không cho bà vào. Khi ấy,
phu nhân nổi giận, liền
quở mắng bọn họ.
“Bấy giờ, những người
canh giữ liền đến báo với
thái tử Thiện Kiến: ‘Đại vương! Nay
phu nhân Vi-đề muốn vào thăm vua, chẳng biết có nên cho vào hay không?’
Thiện Kiến vừa nghe liền sanh lòng giận tức,
đi thẳng đến chỗ mẹ, nắm tóc bà kéo lên, vung đao muốn chém.
“Lúc ấy, [đại thần ngự y là] Kỳ-bà[23] tâu rằng: ‘Đại vương! Từ khi lập quốc
đến nay, dù tội rất nặng cũng không hại đến
phụ nữ, huống chi là mẹ ruột của mình!’
“Nghe lời ấy rồi,
thái tử Thiện Kiến liền vì Kỳ-bà mà buông tha mẹ, nhưng ra lệnh cấm
tuyệt không cho bà đem áo quần, mùng mền, đồ
ăn uống, thuốc thang cho vua cha. Sau bảy ngày, vua liền
mạng chung.
Thái tử Thiện Kiến khi ấy mới sanh lòng
hối hận.
“Đại thần
Vũ Hành lại dùng đủ mọi pháp tà ác mà tâu lên: ‘Đại vương! Tất cả các
hành vi tạo nghiệp đều không có tội, nay vì sao ngài lại sanh lòng hối hận?’
“Ngự y Kỳ-bà [nghe như thế] liền tâu: ‘Đại vương! Ngài nên biết rằng việc [ngài đã làm] như vậy phạm vào hai tội: một là giết hại vua cha, hai là giết vị Tu-đà-hoàn.[24] Những tội nặng như vậy, trừ
đức Phật ra thì không ai có thể
trừ diệt được.’
“Vua
Thiện Kiến liền hỏi: ‘Như Lai là bậc
thanh tịnh, không chút bợn nhơ; ta là người có tội, làm sao có thể gặp ngài?’
“Thiện nam tử! Ta biết rõ việc ấy nên bảo A-nan: ‘Còn ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
Thiện Kiến nghe được lời ấy rồi liền
tức thời tìm đến chỗ ta. Ta vì vua ấy
thuyết pháp, khiến tội nặng được thành nhẹ,
đạt được đức tin vô căn.[25]
“Thiện nam tử! Các
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta nên cho rằng: ‘Như Lai đã nói chắc sẽ
buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn.’
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI BA
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BA MƯƠI BỐN
PHẨM BỒ TÁT CA-DIẾP
Phẩm thứ mười hai – Phần hai
Thiện nam tử! Có hai hạng
Bồ Tát: một là hạng
Bồ Tát đúng
nghĩa chân thật, hai là hạng
Bồ Tát giả danh.
“Hạng
Bồ Tát giả danh nghe nói rằng còn ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn, thảy đều sanh lòng
thối chuyển, nói rằng: ‘Đức
Như Lai còn là
vô thường, chẳng trụ, thì
chúng ta đây làm được gì? Vì sự
vô thường ấy mà trong
vô số kiếp
chúng ta phải chịu
khổ não lớn; nay
Như Lai Thế Tôn thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức còn không trừ được ma chết, huống chi bọn ta lại trừ nổi hay sao?’
“Thiện nam tử! Cho nên vì hạng
Bồ Tát ấy mà ta nói rằng: ‘Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi.’
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta liền bảo rằng: ‘Như Lai rốt cùng không hề
buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Có những
chúng sanh sinh khởi quan điểm đoạn diệt, nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh sau khi
thân mạng dứt rồi thì không có ai thọ nhận các nghiệp thiện, ác.’ Ta vì những người ấy ta nên nói rằng: ‘Quả báo
thiện ác thật có người thọ nhận.’
“Vì sao biết là có?
Thiện nam tử! Vào thuở
quá khứ, tại thành Câu-thi-na có một vị vua tên là
Thiện Kiến. Thời niên thiếu của vua ấy kéo dài đến tám mươi bốn ngàn năm. Đến
thời gian ngài làm
thái tử cũng kéo dài tám mươi bốn ngàn năm.
Cho đến khi ngài
lên ngôi vua,
thời gian trị nước cũng kéo dài tám mươi bốn ngàn năm.
“Đức vua ấy trong khi ngồi
một mình ở nơi vắng vẻ tự
suy xét rằng: ‘Chúng sanh phước mỏng, sống đời ngắn ngủi,
thường có bốn mối oán thù đeo đuổi mà không tự biết nên mãi buông thả, lười nhác. Vì thế ta nên
xuất gia tu hành, trừ dứt bốn mối oán thù là sanh, già, bệnh, chết.’
“Vua liền sai quan hữu tư[26] làm một tòa nhà bằng
thất bảo ở phía ngoài thành. Sau khi làm xong, vua liền tuyên cáo với tất cả quần thần, bá quan, hậu phi trong cung, cùng với con cái và
quyến thuộc rằng: ‘Mọi người nên biết rằng, nay ta muốn
xuất gia.
Mọi người có thuận ý hay không?’
“Bấy giờ, tất cả đại thần và
quyến thuộc của vua thảy đều tâu lên rằng: ‘Lành thay, Đại vương! Nay chính là lúc
thích hợp.’
“Vua
Thiện Kiến liền cùng với một người hầu đến ở tòa nhà ấy,
trải qua suốt tám mươi bốn ngàn năm
tu tập tâm từ. Nhờ
nhân duyên của đức từ ấy mà về sau ngài được
liên tiếp làm
Chuyển Luân Thánh vương trong tám mươi bốn ngàn đời; lại làm Thích-đề-hoàn-nhân trong ba mươi đời; và làm
tiểu vương trong
vô số kiếp.
“Thiện nam tử! Vua
Thiện Kiến thuở ấy nào phải ai xa lạ? Cũng không cần
quán tưởng [
tìm hiểu] việc ấy, [vì] chính là ta ngày nay đây.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo rằng: ‘Như Lai nói chắc rằng có
ngã và ngã sở.’[27]
“Lại có lần ta vì
chúng sanh mà nói rằng: ‘Ngã tức là tánh. Chẳng hạn như:
nhân duyên trong và ngoài,
Mười hai nhân duyên,
năm ấm của
chúng sanh,
cảnh giới tâm thức của
thế gian, mọi
công đức,
hạnh nguyện,
tác nghiệp,
đời sống ở
cõi trời Tự tại... đó gọi là ngã.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy không hiểu được ý ta, liền bảo rằng: ‘Như Lai nói chắc rằng có ngã.’
“Thiện nam tử! Lại
một lần khác, có vị tỳ-kheo đi đến chỗ ta hỏi rằng: ‘Thế Tôn! Sao gọi là ngã? Ngã đó là ai? Vì
duyên cớ gì mà có ngã?’ Ta liền vì tỳ-kheo ấy mà dạy rằng: ‘Tỳ-kheo!
Thật không có
ngã và ngã sở. Nói ngã đó tức là vốn trước không mà sau thành có; rồi từ có
trở lại thành không. Khi cái ngã ấy sanh ra, chẳng từ đâu đến; khi nó diệt đi, cũng chẳng về đâu. Tuy có
nghiệp quả nhưng không có người tạo tác. Không có người
lìa bỏ năm ấm [cũ] và thọ nhận
năm ấm [mới]. Như lời ông hỏi: Sao gọi là ngã? Ngã đó chính là các giai đoạn,
thời kỳ [
chuyển biến khác nhau].’ Lại hỏi: ‘Ngã đó là ai?’ ‘Chính là các nghiệp [
thiện ác đã tạo].’ Lại hỏi: ‘Vì
duyên cớ gì mà có ngã?’ ‘Chính là
do nơi tham ái.’
“Tỳ-kheo!
Ví như hai bàn tay vỗ lại,
âm thanh do nơi đó mà sanh ra; cái ngã cũng vậy, do ba
nhân duyên là
chúng sanh, nghiệp [lực] và
tham ái nên gọi đó là ngã.
“Tỳ-kheo!
Hình sắc của tất cả
chúng sanh chẳng phải ngã; trong
ngã không có sắc, trong
sắc không có ngã;
cho đến đối với thức cũng vậy.[28]
“Tỳ-kheo! Những người
ngoại đạo tuy nói rằng có ngã, nhưng rốt cùng không lìa khỏi
năm ấm. Nếu nói rằng lìa khỏi
năm ấm mà riêng có ngã thì thật là vô lý!
Hành vi [tạo tác] của tất cả
chúng sanh đều
như huyễn hóa, như những gợn sóng lung linh
hiện ra khi trời
nắng gắt.
“Tỳ-kheo!
Năm ấm đều là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh.’
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ có
vô số tỳ-kheo quán xét lẽ
năm ấm là không có
ngã và ngã sở, nhờ đó
chứng đắc quả vị A-la-hán.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy không hiểu được ý ta, liền bảo rằng: ‘Như Lai nói chắc rằng không có ngã.’
“Thiện nam tử! Trong các kinh ta lại có dạy rằng: ‘Có ba việc
hòa hợp nên thọ thân này: một là cha, hai là mẹ, ba là
thân trung ấm.’ Có đủ ba việc ấy
hòa hợp mới được thân này. Có khi ta lại dạy rằng bậc A-na-hàm nhập Niết-bàn ngay
trong đời hiện tại; hoặc nói là nhập Niết-bàn với
thân trung ấm; hoặc lại nói rằng: ‘Thân căn
trung ấm được
sáng tỏ trọn vẹn, đều
do nơi nghiệp đời trước
trong sạch tinh khiết như chất đề-hồ.’
“Thiện nam tử! Có lúc ta dạy rằng: ‘Thân
trung ấm mà những
chúng sanh xấu ác nhận lấy giống như cái áo vải thô cũ rách;
thân trung ấm mà
chúng sanh thuần thiện nhận lấy giống như lụa trắng tốt được làm ra ở Ba-la-nại.’ Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng có [thân]
trung ấm.’
“Thiện nam tử! Ta lại vì những
chúng sanh phạm [năm] tội nghịch mà dạy rằng: ‘Những kẻ tạo
năm tội nghịch, khi bỏ thân này liền vào thẳng
địa ngục A-tỳ.’ Ta lại dạy rằng: ‘Tỳ-kheo Đàm-ma-lưu-chi vừa
xả thân liền vào thẳng trong
địa ngục A-tỳ, khoảng giữa không có một chút
thời gian ngừng nghỉ.’ Ta lại vì ông Phạm-chí
Độc Tử[29] mà dạy rằng: ‘Phạm-chí! Nếu có
thân trung ấm, ắt có sáu
cảnh giới hiện hữu.’[30] Ta lại có dạy rằng: ‘Chúng sanh cõi
Vô sắc không có
thân trung ấm.’
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng không có
trung ấm.’
“Thiện nam tử! Trong các kinh ta lại dạy rằng có sự
thối chuyển. Vì sao vậy?
Do nơi vô số những tỳ-kheo
biếng nhác, trì trệ, không
tu tập Chánh đạo, nên ta thuyết dạy rằng có năm loại [
nhân duyên]
thối chuyển: một là
ưa thích nhiều việc, hai là ưa bàn nói
việc đời, ba là
ưa thích ngủ nghỉ, bốn là
ưa thích gần gũi người
thế tục, năm là
ưa thích việc đi chơi đây đó. Do những
nhân duyên này mà vị tỳ-kheo sanh ra
thối chuyển.
“Ta cũng dạy rằng
nhân duyên thối chuyển có hai loại, một là
nhân duyên bên trong, hai là
nhân duyên bên ngoài. Bậc A-la-hán tuy lìa khỏi
nhân duyên bên trong nhưng chưa lìa dứt
nhân duyên bên ngoài. Do
nhân duyên bên ngoài nên sanh
phiền não. Vì sanh
phiền não, nên phải
thối chuyển.
“Lại có vị tỳ-kheo tên là Cồ-đàn, sáu lần
thối chuyển. Sau mỗi lần
thối chuyển đều lấy làm
hổ thẹn,
trở lại tinh tấn tu tập. Đến lần thứ bảy thì
chứng đắc.
Chứng đắc rồi lại sợ
thối chuyển nên dùng dao mà tự hại [mạng sống]. Có khi ta [
phân biệt] nói [các
quả vị]
giải thoát tùy thời,[31] hoặc nói về
sáu hạng A-la-hán.[32] Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng có sự
thối chuyển.’
“Thiện nam tử! Trong kinh lại có dạy rằng: ‘Ví như đốt cây thành than, than ấy không thể
trở lại thành cây; như cái bình đã vỡ không thể dùng được nữa.
Phiền não cũng vậy, khi vị A-la-hán đã dứt trừ rồi thì
phiền não không bao giờ
sanh khởi trở lại.’
“Trong kinh cũng có dạy: ‘Các nhân sanh ra
phiền não của
chúng sanh có ba loại, một là chưa dứt
trừ phiền não, hai là không dứt
nhân duyên, ba là không khéo
suy xét. Nhưng vị A-la-hán không có hai [trong số ba]
nhân duyên vừa nói, vì [vị ấy] đã dứt
trừ phiền não và biết khéo
suy xét.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng không có sự
thối chuyển.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta dạy rằng: ‘Thân
Như Lai có hai loại, một là thân được sanh ra, hai là
Pháp thân.
“Nói thân được sanh ra tức là thân
phương tiện ứng hóa. Thân này có thể nói là có sanh, già, bệnh, chết, cao, thấp, đen, trắng; có cái này, cái kia; có
học hỏi, có
vô học.
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng thân Phật là
pháp hữu vi.’
“Còn
Pháp thân là thường, lạc, ngã, tịnh,
vĩnh viễn lìa khỏi mọi điều sanh, già, bệnh, chết; chẳng phải trắng, chẳng phải đen; chẳng phải cao, chẳng phải thấp; chẳng phải cái này, chẳng phải cái kia; chẳng phải
học hỏi, chẳng phải
vô học. Dù Phật có ra đời hay không, thân ấy vẫn là
thường trụ không lay động, không có sự
biến đổi.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng thân Phật là
pháp vô vi.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Thế nào gọi là Mười hai nhân duyên? Do
vô minh sanh ra hành; do hành sanh ra thức; do thức sanh ra
danh sắc; do
danh sắc sanh ra
sáu nhập; do
sáu nhập sanh ra xúc chạm; do xúc chạm sanh ra
cảm thọ; do
cảm thọ sanh ra
tham ái; do
tham ái sanh ra
chấp thủ; do
chấp thủ sanh ra
hiện hữu; do
hiện hữu mà có sanh; do sanh mà có già, có chết, các mối lo khổ.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
Mười hai nhân duyên nhất định là
pháp hữu vi.’
“Lại có lần ta
dạy bảo các tỳ-kheo rằng: ‘Dù có Phật hay không có Phật, tánh và tướng của
Mười hai nhân duyên vẫn là
thường trụ.’
“Thiện nam tử! Có [pháp thuộc về] Mười hai duyên, không do
duyên sanh ra; lại có [pháp] do
duyên sanh ra, không thuộc về Mười hai duyên; lại có [pháp] do
duyên sanh ra, cũng thuộc về Mười hai duyên; lại có [pháp] không do
duyên sanh ra, cũng không thuộc về Mười hai duyên.
“[Các pháp thuộc về] Mười hai duyên, không do
duyên sanh ra, đó là nói Mười hai chi của đời
vị lai. [Các pháp] do
duyên sanh ra, không thuộc về Mười hai duyên, đó là nói
năm ấm của vị A-la-hán. [Các pháp] do
duyên sanh ra, cũng thuộc về Mười hai duyên, đó là nói
năm ấm,
Mười hai nhân duyên của
phàm phu. [Các pháp] không do
duyên sanh ra, cũng không thuộc về Mười hai duyên, đó là nói
hư không, Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng Mười hai duyên
nhất định là
pháp vô vi.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Tất cả
chúng sanh tạo ra những
nghiệp lành, dữ; khi vừa bỏ thân thì
bốn đại liền tan rã. Những người tạo toàn
nghiệp lành thì tâm
đi lên [
cảnh giới] cao; những kẻ tạo toàn nghiệp dữ thì tâm
đi xuống [
cảnh giới] thấp.[33]
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
tâm thức nhất định là thường tồn.’
“Thiện nam tử! Có lần ta bảo vua Tần-bà-sa-la rằng: ‘Đại vương nên biết, sắc là
vô thường. Vì sao vậy? Vì sắc ấy do nhân
vô thường sanh ra. Nếu sắc ấy do nhân
vô thường sanh ra, người có trí làm sao có thể nói rằng đó là thường? Nếu sắc là thường, hẳn nó không thể
hoại diệt, sanh các
khổ não. Nay thấy rằng sắc ấy là
tiêu tan, hư hoại, nên biết rằng sắc là
vô thường...
Cho đến thức cũng giống như vậy.’[34]
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
tâm thức nhất định là
đoạn diệt.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Đệ tử Phật tuy thọ nhận các món
hương hoa,
vàng bạc,
châu báu,
vợ con, tôi tớ, tám thứ vật
bất tịnh... nhưng vẫn
đạt được Chánh đạo;
đạt được Chánh đạo rồi cũng chẳng
lìa bỏ những thứ ấy.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng sự hưởng thụ năm món dục không trở ngại
Thánh đạo.’
“Lại có lần ta dạy rằng: ‘Người
tại gia không có lý nào lại
đạt được Chánh đạo.’
Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng sự hưởng thụ năm món dục
nhất định là ngăn trở che chướng
Chánh đạo.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Lìa xa
phiền não nhưng chưa
đạt được giải thoát cũng giống như
tu tập Thế đệ nhất pháp.’
Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng Đệ
nhất pháp chỉ ở tại
Dục giới.’
“Ta lại có dạy rằng: ‘Noãn pháp,
Đỉnh pháp,
Nhẫn pháp,
Thế đệ nhất pháp đều ở từ
Sơ thiền cho đến Đệ tứ thiền. Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Những
pháp Như Lai nói đó đều ở tại
Sắc giới.’
“Ta lại có dạy rằng: ‘Những người
ngoại đạo trước đã dứt
trừ phiền não trong
cảnh giới Tứ thiền,
tu tập Noãn pháp,
Đỉnh pháp,
Nhẫn pháp,
Thế đệ nhất pháp, quán xét
Bốn chân đế,
chứng đắc quả A-na-hàm.
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng Đệ
nhất pháp ở tại
Vô sắc giới.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Trong bốn
trường hợp bố thí, có ba
trường hợp được
thanh tịnh. Bốn
trường hợp bố thí gồm có: Một là người
bố thí tin vào
nhân quả và sự
bố thí, nhưng người nhận
bố thí không tin vào
nhân quả và sự
bố thí; hai là người nhận
bố thí tin vào
nhân quả và sự
bố thí nhưng người
bố thí không tin vào
nhân quả và sự
bố thí; ba là cả người
bố thí và người nhận
bố thí đều có
lòng tin [vào
nhân quả và sự
bố thí]; và bốn là cả người
bố thí và người nhận
bố thí đều không có
lòng tin [vào
nhân quả và sự
bố thí].
“Trong bốn
trường hợp bố thí ấy, ba
trường hợp trước là
thanh tịnh. Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng việc
bố thí chỉ
do nơi tâm ý.’
“Thiện nam tử! Có lần ta dạy rằng: ‘Người
thực hành bố thí dùng đến năm món để
bố thí. Những gì là năm? Một là
bố thí vật chất; hai là
bố thí công sức; ba là
bố thí sự
an ổn; bốn là
bố thí mạng sống; năm là dùng
biện tài để
bố thí. Do [năm]
nhân duyên này, người
bố thí có được năm loại
quả báo.
“Những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
bố thí tức là
năm ấm.’
“Thiện nam tử! Có lần ta dạy rằng: ‘Niết-bàn là
xa lìa [tất cả],
vĩnh viễn dứt
trừ phiền não, không còn chút vết tích nào. Như
ngọn đèn đã tắt, không còn pháp nào sanh ra nữa; Niết-bàn cũng vậy. Nói
hư không tức là không có gì cả.
Ví như người
thế gian, vì không có gì cả nên gọi là
hư không. Không phải do dứt mất
đối tượng nhận biết mà gọi là không có. Nếu đã là có, ắt phải có
nhân duyên. Vì có
nhân duyên nên phải có sự diệt mất. Vì không có
nhân duyên nên không có sự diệt mất.
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng không có Ba
vô vi.’[35]
“Thiện nam tử! Có lần ta vì Mục-kiền-liên thuyết dạy rằng: ‘Mục-kiền-liên! Niết-bàn đó chính là theo kinh văn
giảng giải, là
dấu tích [của bậc
giải thoát], là nơi đến
rốt ráo [của người
tu tập], là không còn sợ sệt, là bậc thầy lớn [để nương theo], là kết quả lớn lao, là
trí tuệ rốt ráo trọn vẹn, là sức
kham nhẫn lớn, là pháp
tam-muội không ngăn ngại, là cõi pháp
mênh mông, là vị
cam lộ [
bất tử],[36] là rất khó thấy biết.
“Mục-kiền-liên! Nếu nói rằng không có Niết-bàn, vì sao những kẻ
phỉ báng Niết-bàn lại đọa vào địa ngục?’
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng thật có Niết-bàn.’
“Lại có lần ta vì Mục-kiền-liên thuyết dạy rằng: ‘Mục-kiền-liên! Con mắt không bền chắc...,
cho đến thân[37] cũng đều không bền chắc. Vì không bền chắc nên gọi là
hư không, chỉ là chỗ để
thức ăn đi vào xoay chuyển
tiêu hóa. Tất cả
âm thanh đều gọi là
hư không.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng có
hư không vô vi.’
“Lại có lần ta vì Mục-kiền-liên thuyết dạy rằng: ‘Mục-kiền-liên! Có người khi chưa
đắc quả Tu-đà-hoàn, đang trụ ở
Nhẫn pháp, dứt trừ được
vô lượng quả báo trong
ba đường ác, nên biết rằng [người ấy] không do
nhân duyên trí tuệ mà diệt [được
vô lượng quả báo xấu ác].’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng có
Phi trí duyên diệt.’[38]
“Thiện nam tử! Lại có lần ta vì tỳ-kheo Bạt-ba thuyết dạy rằng: ‘Bạt-ba! Vị tỳ-kheo [khi] quán xét
hình sắc, như
hình sắc trong
quá khứ,
vị lai hoặc
hiện tại; như
hình sắc ở gần hoặc ở xa; như
hình sắc thô ráp hoặc
tinh tế; [thì thấy rằng] mọi thứ
hình sắc như thế đều không phải là ngã,
ngã sở. Nếu tỳ-kheo quán xét như vậy rồi thì có thể dứt trừ sự
tham ái đối với
hình sắc.’
“Bạt-ba lại thưa hỏi rằng: ‘Thế nào gọi là danh và sắc?’ Ta đáp: ‘Bốn đại gọi là sắc;
bốn ấm [còn lại] gọi là danh.[39] Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói chắc rằng sắc là
bốn đại.
“Thiện nam tử! Ta lại có dạy rằng: ‘Ví như nhân có gương soi ắt phải có hình bóng
hiện ra [trong đó].
Hình sắc cũng như vậy, nhân nơi
bốn đại tạo nên; chẳng hạn như: thô, mịn, nhám, trơn; xanh, vàng, đỏ, trắng; dài, ngắn, vuông, tròn; tà, nhọn, nhẹ, nặng; lạnh, nóng, đói, khát; khói mây, bụi bặm, mù sương... Đó gọi là
hình sắc được tạo ra, cũng giống như tiếng dội [của
âm thanh], hình bóng [hiện trong gương].’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng có
bốn đại ắt có tạo ra
hình sắc,
thật không có
bốn đại thì không tạo ra
hình sắc.’
“Thiện nam tử! Trước đây có lần Vương tử Bồ-đề nói rằng: ‘Như có vị tỳ-kheo
hộ trì cấm giới mà
phát khởi tâm xấu ác, nên biết rằng ngay khi ấy liền mất giới tỳ-kheo.’ Ta liền dạy: ‘Vương tử Bồ-đề! Giới có bảy loại,
do nơi thân và miệng, có
hình sắc không
biểu lộ.[40] Do
nhân duyên là
hình sắc không
biểu lộ, nên dù tâm xấu ác, trong chỗ
vô ký cũng không gọi là mất giới, vẫn là
trì giới. Do
nhân duyên gì gọi là
hình sắc không biểu lộ? Vì không có
nhân từ những
hình sắc khác, không tạo
thành quả là những
hình sắc khác.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng có
hình sắc không
biểu lộ.’
“Thiện nam tử! Trong các kinh khác ta có dạy rằng: ‘Giới tức là ngăn cấm,
chế ngự các pháp xấu ác.
Nếu không làm việc ác thì gọi là
trì giới.’ Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai
giảng thuyết nhất định rằng không có
hình sắc không
biểu lộ.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Sắc ấm
cho đến thức ấm của bậc
thánh nhân cũng đều do
nhân duyên là
vô minh sanh ra. Tất cả
phàm phu cũng vậy; từ nơi
vô minh sanh ra
tham ái, nên biết rằng
tham ái tức là
vô minh. Từ nơi
tham ái sanh ra
chấp thủ, nên biết rằng
chấp thủ tức là
vô minh,
tham ái. Từ nơi
chấp thủ sanh ra hữu; hữu ấy tức là
vô minh,
tham ái,
chấp thủ. Từ nơi hữu sanh ra thọ, nên biết rằng thọ ấy tức là hành, hữu. Do
nhân duyên là thọ mà sanh ra
danh sắc,
vô minh, ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức,
sáu nhập... các thứ, cho nên thọ đó chính là
Mười hai nhân duyên.[41]
Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng không có các
tâm sở.’[42]
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Từ nơi bốn
yếu tố là con mắt,
hình sắc, ánh sáng và sự
tham muốn xấu, ắt phải sanh ra
nhãn thức. Nói
ham muốn xấu đó tức là
vô minh.
Đang khi ham muốn mong cầu gọi là
tham ái.
Tham ái làm
nhân duyên cho
chấp thủ.
Chấp thủ gọi là nghiệp. Nghiệp làm
nhân duyên cho thức. Thức làm duyên cho
danh sắc.
Danh sắc làm duyên cho
sáu nhập.
Sáu nhập làm duyên cho xúc. Xúc làm duyên cho tưởng, thọ, ái. Các
pháp như tín,
tinh tấn, định, tuệ đều nhân nơi xúc mà sanh ra, nhưng không phải là xúc.’
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo rằng: ‘Như Lai nói rằng thật có các
tâm sở.’
“Thiện nam tử! Có khi ta dạy rằng: ‘Chỉ có
duy nhất một
cảnh giới hiện hữu.’ Lại có khi ta dạy là có hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín...
cho đến hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo rằng: ‘Như Lai nói rằng có
năm cảnh giới hiện hữu, hoặc nói rằng có sáu
cảnh giới hiện hữu...’
“Thiện nam tử! Có
một lần ta đang ở trong rừng Ni-câu-đà tại Ca-tỳ-la-vệ.
Lúc ấy, Thích-ma-nam[43] đến chỗ ta thưa hỏi rằng: ‘Thế nào gọi là ưu-bà-tắc?’[44] Ta liền vì ông ấy
thuyết giảng: ‘Nếu có
thiện nam tử[45] đầy đủ các căn, thọ
Tam quy y thì gọi là ưu-bà-tắc.’ Thích-ma-nam lại thưa hỏi: ‘Thế Tôn! Thế nào gọi là ưu-bà-tắc không trọn vẹn?’ Ta đáp: ‘Ma-nam! Nếu ai thọ
Tam quy và chỉ
thọ trì một giới thì gọi là ưu-bà-tắc không
trọn vẹn.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng giới ưu-bà-tắc có
thể không cần thọ đủ.’
“Thiện nam tử! Có lần ta đang ở bên
bờ sông Hằng, Ca-chiên-diên[46] tìm đến chỗ ta thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Con
giáo hóa chúng sanh, khiến họ thọ
Tám giới trai[47] trong một ngày, hoặc trong một đêm, hoặc trong một lúc, hoặc chỉ
trong một niệm. Những người như vậy có
thành tựu Tám giới trai hay không?’ Ta đáp: ‘Tỳ-kheo! Những người như vậy làm được điều lành chứ không
thành tựu Tám giới trai.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
Tám giới trai buộc phải thọ đủ mới được.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Tỳ-kheo nào đã phạm Bốn
trọng cấm[48] rồi thì không nên gọi là tỳ-kheo nữa, nên gọi đó là tỳ-kheo
phá giới, tỳ-kheo hư hỏng, không thể
trở lại sanh khởi hạt giống lành.
Ví như hạt giống đã bị cháy thì không sanh quả hạt, như cây đa-la[49] bị chặt ngọn không thể sanh trái. Tỳ-kheo phạm vào các
trọng cấm cũng giống như vậy.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng các tỳ-kheo đã phạm các
trọng cấm thì mất giới tỳ-kheo.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có vì Thuần-đà nói về bốn hạng tỳ-kheo. Một là các tỳ-kheo rốt cùng sẽ
đạt được Chánh đạo; hai là các tỳ-kheo chỉ bày
Chánh đạo [cho
chúng sanh]; ba là các tỳ-kheo thọ nhận
Chánh đạo; bốn là các tỳ-kheo làm ô uế
Chánh đạo. Tỳ-kheo phạm vào Bốn
trọng cấm chính là hạng làm ô uế
Chánh đạo.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng các tỳ-kheo đã phạm vào Bốn
trọng cấm không mất
giới cấm.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy các tỳ-kheo về một thừa
duy nhất, một đạo, một hạnh, một duyên. Từ một thừa cho tới một duyên ấy, có thể vì
chúng sanh mà tạo ra sự
vắng lặng an tĩnh, dứt trừ
vĩnh viễn mọi
sầu khổ trói buộc, khổ và
nguyên nhân của khổ, khiến cho tất cả
chúng sanh đều
đạt đến một thừa
duy nhất. Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
từ hàng Tu-đà-hoàn
cho đến A-la-hán, thảy đều
đạt được đạo của Phật.’
“Thiện nam tử! Trong kinh ta có dạy rằng: ‘Hàng Tu-đà-hoàn sau bảy lần
tái sanh trong
cõi người và
cõi trời sẽ nhập Niết-bàn. Hàng Tư-đà-hàm chỉ còn thọ thân
một lần trong
cõi người hoặc
cõi trời, rồi sẽ nhập Niết-bàn. Hàng A-na-hàm có năm hạng:[50] hoặc ở
trong khoảng trung gian mà nhập Niết-bàn,
cho đến sanh lên những cõi cao nhất của
Sắc giới[51] mà nhập Niết-bàn.[52] Hàng A-la-hán có hai hạng, một là
hiện tại, hai là
vị lai. A-la-hán
hiện tại dứt
phiền não năm ấm, A-la-hán
vị lai cũng dứt
phiền não năm ấm.’
“Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng
từ hàng Tu-đà-hoàn
cho đến A-la-hán đều không
đạt được đạo của Phật.’
“Thiện nam tử! Trong kinh này ta có dạy rằng: ‘Tánh Phật có đủ sáu đức: thường còn, đúng thật, chân chánh, hiền thiện,
thanh tịnh và có thể thấy.’ Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng tánh Phật của
chúng sanh lìa khỏi
chúng sanh vẫn có.’
“Thiện nam tử! Ta lại có dạy rằng: ‘Tánh Phật của
chúng sanh như
hư không.
Hư không chẳng phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại; chẳng phải trong, chẳng phải ngoài; không chịu sự
chi phối bởi
hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm. Tánh Phật cũng như thế.’ Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng tánh Phật của
chúng sanh lìa khỏi
chúng sanh vẫn có.’
“Thiện nam tử! Ta lại có dạy rằng: ‘Tánh Phật của
chúng sanh như
của báu chôn giấu trong nhà người đàn bà nghèo; như hạt châu
kim cang quý ẩn giữa trán người
lực sĩ; như suối nước
cam lộ của vị
Chuyển Luân Thánh vương.’ Những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng tánh Phật của
chúng sanh lìa khỏi
chúng sanh vẫn có.’
“Thiện nam tử! Ta lại có nói: ‘Những kẻ phạm bốn
trọng cấm, nhất-xiển-đề,
phỉ báng kinh Phương đẳng, làm
năm tội nghịch đều có tánh Phật. Những
chúng sanh như vậy đều không có pháp lành. Tánh Phật là lành.’ Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng tánh Phật của
chúng sanh lìa khỏi
chúng sanh vẫn có.’
“Thiện nam tử! Ta lại có dạy: ‘Chúng sanh tức là tánh Phật. Vì sao vậy? Lìa khỏi
chúng sanh thì không có sự
chứng đắc quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cho nên ta đưa ra ví dụ người mù sờ voi với vua Ba-tư-nặc. Như những người mù
mô tả con voi, tuy [người nghe] không
nhận ra được con voi, nhưng cũng không ra ngoài [hình thể] con voi.
Chúng sanh nói rằng sắc là tánh Phật,
cho đến thức là tánh Phật, cũng giống như vậy; tuy không phải tánh Phật nhưng cũng không ra ngoài tánh Phật. Như ta vì nhà vua nói ví dụ về cây đàn
không hầu.[53] Tánh Phật cũng như thế.’
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền đưa ra đủ mọi thuyết. Cũng như người mù hỏi về sữa;[54] tánh Phật
cũng thế. Vì
nhân duyên ấy, có người nói rằng: ‘Những kẻ phạm bốn
trọng cấm,
phỉ báng kinh Phương đẳng, làm
năm tội nghịch, hạng nhất-xiển-đề, thảy đều có tánh Phật.’ Hoặc có người nói rằng: ‘Những người như vậy không có tánh Phật.’
“Thiện nam tử! Ở nhiều nơi trong các
kinh điển ta có nói rằng: ‘Một người ra đời mà nhiều người được
lợi ích, một
quốc độ mà có hai
Chuyển luân vương,
một thế giới mà có hai vị Phật ra đời; những việc như vậy đều không thể có. Trong một cõi
Tứ thiên hạ mà có tám vị
Tứ thiên vương,
cho đến có hai
cõi trời Tha hóa tự tại; cũng là không thể có.’ Nhưng ta có đề cập đến từ
địa ngục A-tỳ [bên dưới] cõi Diêm-phù-đề lên đến
cõi trời A-ca-ni-trá.[55] Những
đệ tử của ta nghe nói như vậy, không hiểu được ý ta, liền bảo: ‘Như Lai nói rằng không có
mười phương chư Phật.’ [Nhưng] trong các
kinh Đại thừa ta thật có nói đến
mười phương chư Phật.[56]
“Thiện nam tử! Những chỗ sai khác
phân biệt biện giải như vậy là
cảnh giới của Phật, không phải chỗ biết của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Như ai đối với những điều [
sai lầm] nói trên sanh tâm
nghi ngờ, may ra còn có thể
phá hoại được
phiền não như núi Tu-di. Nếu ai sanh tâm
quyết định tin chắc những điều ấy thì gọi là
chấp trước.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là chấp trước?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những người [sanh tâm
quyết định tin chắc] như vậy, dù được nghe biết [những điều ấy] từ người khác, hoặc tự tìm học trong
kinh điển, hoặc được người khác ra công
dạy bảo, nhưng đối với những điều [đã
tin chắc thì]
vướng mắc không thể
buông xả, đó gọi là
chấp trước.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn!
Chấp trước như vậy là thiện hay bất thiện?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Chấp trước như vậy không thể gọi là thiện. Vì sao vậy? Vì không thể phá tan được các mối
nghi ngờ.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Những người [sanh tâm
quyết định tin chắc] như vậy, vốn không có lòng nghi, sao nói rằng không thể phá tan các mối nghi ngờ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Phàm người không có lòng nghi, chính là đang nghi [mà không biết] đó thôi.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! [Như vậy] nếu có người bảo rằng vị Tu-đà-hoàn không đọa vào
ba đường ác, hẳn phải gọi đó là người
vướng mắc, có lòng nghi?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đó gọi là có lòng [tin]
quyết định, không phải là có lòng nghi. Vì sao vậy?
Thiện nam tử!
Ví như có người trước đã nhìn thấy người ta và cây cối; về sau khi đi đêm trông thấy ở xa có một cái cây đã bị đốn ngang, bèn sanh lòng
nghi hoặc: ‘Không biết đó là hình người hay thân cây?’
“Thiện nam tử! Như người trước đã được thấy các vị tỳ-kheo,
Phạm chí.[57] Về sau, khi đi đường trông thấy một vị tỳ-kheo từ xa liền sanh lòng
nghi hoặc: ‘Không biết đó là tỳ-kheo hay Phạm chí?’
“Thiện nam tử! Như người trước đã nhìn thấy bò và trâu. Về sau, khi thấy một con bò từ đằng xa liền sanh lòng
nghi hoặc: ‘Không biết đó là bò hay trâu?’
“Thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh, trước có được nhìn thấy hai vật [khác nhau] thì sau đó mới sanh lòng nghi. Vì sao vậy? Vì trong lòng không biết rõ. Ta không hề nói [
phân biệt hai điều khác nhau] rằng vị Tu-đà-hoàn có đọa vào
ba đường ác và không đọa vào
ba đường ác.[58] Như vậy, người mà ông nói đó làm sao lại sanh lòng nghi?”
Bồ Tát Ca-diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Như
lời Phật dạy, trước phải được nhìn thấy [hai vật khác nhau] rồi sau mới sanh lòng nghi. Nhưng có những người khi chưa được thấy hai vật [khác nhau] cũng sanh lòng nghi. Đó là nói điều gì? Chẳng hạn như Niết-bàn.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như có người đi đường gặp dòng nước đục, dù trước đó chưa từng thấy nhưng cũng sanh lòng nghi: ‘Không biết dòng nước này sâu hay cạn?’ Người ấy chưa từng thấy, vì sao lại sanh lòng nghi?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Niết-bàn là dứt khổ. Không phải Niết-bàn tức là khổ. Chỗ thấy của tất cả
chúng sanh đều có hai loại: thấy khổ và thấy không khổ. Khổ và không khổ đó là: đói, khát, lạnh, nóng,
hờn giận,
vui mừng, ốm bệnh,
an ổn,
già nua, trai tráng, sanh ra, chết đi,
trói buộc,
giải thoát, lìa xa người
yêu thương luyến mến, gần gũi kẻ oán ghét
thù nghịch.
Chúng sanh thấy vậy rồi liền sanh lòng nghi: ‘Liệu có sự
xa lìa rốt ráo những
khổ não ấy chăng?’ Vì thế mà
chúng sanh đối với Niết-bàn có sanh lòng nghi.
“Như ông hỏi rằng: ‘Người ấy từ trước chưa từng thấy dòng nước đục, sao lại sanh lòng nghi?’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Người ấy đã từng thấy [sự việc
tương tự] ở
nơi khác rồi, nên ở nơi chưa từng đến mới sanh lòng nghi.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Trước đây khi thấy chỗ sâu, chỗ cạn, người ấy đã không sanh lòng nghi; vì sao nay nhìn thấy lại sanh lòng nghi?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì là nơi chưa từng đi qua nên mới
sanh nghi.
Vì vậy ta có nói: ‘Không biết rõ nên nghi.’”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Theo như lời Phật dạy, nghi tức là
vướng mắc,
vướng mắc tức là nghi. Đó là nói hạng người nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đó là những kẻ dứt mất căn lành.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Những hạng người nào có thể dứt mất căn lành?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có những người
thông minh lanh lợi,
trí tuệ sáng suốt, khéo biết
phân biệt, nhưng lìa xa bạn tốt, không nghe
Chánh pháp, không khéo
suy xét, không
thực hành đúng pháp; những người như vậy có thể dứt mất căn lành.
“Ngoài bốn điều vừa nói,[59] [những người này] trong lòng còn tự
suy xét rằng: ‘Không có vật
bố thí. Vì sao vậy?
Bố thí tức là
lìa bỏ tài vật. Nếu việc
bố thí có
quả báo, nên biết rằng người
bố thí thường phải nghèo khốn. Vì sao vậy? Vì
hạt giống và quả [của nó] là
tương tự như nhau. Cho nên nói rằng không có nhân, không có quả.’ Nếu người nói không có
nhân quả theo cách như vậy, đó gọi là dứt mất căn lành.
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Người
bố thí, người nhận
bố thí và
tài vật bố thí, ba điều ấy là
vô thường, không lúc nào trụ yên.
Nếu không trụ yên, sao có thể nói được đâu là người
bố thí, là người nhận
bố thí, là tài vật bố thí?
Nếu không có người nhận
bố thí, làm sao có được quả báo? Vì nghĩa ấy nên không có nhân, không có quả.’ Nếu người nói không có
nhân quả theo cách như vậy, nên biết rằng người ấy có thể dứt mất căn lành.
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Trong khi người
thực hành việc
bố thí, dùng đến
năm sự bố thí.[60] Người nhận
bố thí rồi, có khi làm điều thiện, có khi làm điều
bất thiện, nhưng người đã
bố thí lại không nhận được quả thiện hoặc quả
bất thiện. Như
lẽ thường ở
thế gian, do
hạt giống sanh ra quả, quả ấy lại tạo thành
hạt giống. Nhân tức là người
bố thí; quả tức là người nhận
bố thí. Nhưng người nhận
bố thí không thể dùng những
pháp thiện hoặc
bất thiện để làm cho
thí chủ đạt được [
quả báo]. Vì nghĩa ấy nên không có nhân, không có quả.’ Nếu người nói không có
nhân quả theo cách như vậy, nên biết rằng người ấy có thể dứt mất căn lành.
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Không có vật
bố thí. Vì sao vậy? Vì vật
bố thí là
vô ký.[61] Nếu là
vô ký, làm sao có thể được
quả báo thiện? Không có
quả báo thiện, tức là
vô ký. Nếu tài vật là
vô ký, nên biết rằng không có
quả báo thiện, ác. Cho nên không có việc
bố thí, không có nhân, không có quả.’ Nếu người nói không có
nhân quả theo cách như vậy, nên biết rằng người ấy có thể dứt mất căn lành.
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Bố thí là
ý niệm. Nếu là
ý niệm thì không nhìn thấy, không có đối tượng, không thuộc pháp
hình sắc.
Nếu không phải là
hình sắc, làm sao có thể bố thí? Cho nên không có việc
bố thí, không có nhân, không có quả.’ Nếu người nói không có
nhân quả theo cách như vậy, nên biết rằng người ấy có thể dứt mất căn lành.
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Nếu người
bố thí vì
hình tượng Phật,
thiên thần, hoặc vì
cha mẹ đã qua đời mà làm việc
bố thí, ắt không có người thọ nhận.
Nếu không có người thọ nhận, lẽ ra không có
quả báo.
Nếu không có
quả báo, tức là không có nhân.
Nếu không có nhân, tức là không có quả.’ Nếu người nói không có
nhân quả theo cách như vậy, nên biết rằng người ấy có thể dứt mất căn lành.
“Hoặc lại
suy xét rằng: ‘Không có
cha mẹ. Nếu nói
cha mẹ là nhân của
chúng sanh, là bậc sanh ra
chúng sanh, thì theo lý phải thường sanh mãi, không có sự dứt mất. Vì sao vậy? Vì nhân là
thường có. Nhưng vì không thường sanh mãi, nên biết rằng không có
cha mẹ.’
“Hoặc lại
suy xét rằng: ‘Không có
cha mẹ. Vì sao vậy? Nếu thân của
chúng sanh là nhân nơi
cha mẹ mà có, lẽ ra mỗi người đều phải có đủ hai căn[62] nam, nữ. Nhưng vì không có đủ [hai căn] nên biết rằng
chúng sanh chẳng phải nhân nơi
cha mẹ mà có.’
“Hoặc lại
suy xét rằng: ‘Chẳng phải nhân nơi
cha mẹ sanh ra
chúng sanh. Vì sao vậy?
Trước mắt nhìn thấy
chúng sanh không
giống hệt cha mẹ, như về
thân thể,
hình sắc,
tâm tánh,
cách đi đứng... Cho nên
cha mẹ chẳng phải là nhân sanh ra
chúng sanh.’
“Hoặc lại
suy xét rằng: ‘Tất cả những thứ
thế gian gọi là không được phân làm bốn loại. Một là vì chưa sanh ra nên gọi là không, như khi đất sét mới nhồi thành khối, chưa có
công dụng của cái bình. Hai là diệt mất rồi nên gọi là không, như khi cái bình đã bể nát thì gọi là không [có cái bình]. Ba là khác biệt nhau nên có cái này thì không cái kia, như trong con bò không có con ngựa, trong con ngựa không có con bò. Bốn là
hoàn toàn không có nên gọi là không, như
sừng thỏ, như lông rùa...
Cha mẹ của
chúng sanh cũng vậy, đồng với bốn loại không có ấy. Nếu nói rằng
cha mẹ là nhân của
chúng sanh, khi
cha mẹ chết sao con không
nhất định chết theo? Cho nên
cha mẹ chẳng phải là nhân sanh ra
chúng sanh.’
“Hoặc lại
suy xét rằng: ‘Nếu nói
cha mẹ là nhân của
chúng sanh, lẽ ra phải thường nhân nơi
cha mẹ sanh ra
chúng sanh. Nhưng lại có những loài do
biến hóa sanh ra, do ẩm ướt sanh ra, vì thế nên biết rằng chẳng phải nhân nơi
cha mẹ sanh ra
chúng sanh.’
“Hoặc lại
suy xét rằng: ‘Chúng sanh là tự có, chẳng phải nhân nơi
cha mẹ mà sanh ra, lớn lên.
Ví như loài chim
khổng tước[63] nghe
tiếng sấm mà sanh chim con; như loài chim thanh tước, chim mái uống nước mắt chim trống mà sanh chim con; như loài chim
mạng mạng,[64] chim mái nhìn thấy chim trống múa mà sanh chim con.’
“Đang khi
suy nghĩ [những điều] như thế,
nếu không gặp được bậc
thiện tri thức, nên biết rằng người như thế có thể dứt mất căn lành.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Thế gian
hoàn toàn không có
quả báo thiện, ác. Vì sao vậy? Vì [
trước mắt thấy] có những
chúng sanh thực hành đầy đủ
mười điều lành,
vui thích làm việc
bố thí, siêng
tu công đức, nhưng lại mang nhiều tật bệnh nơi thân, tuổi trung niên
chết yểu, hoặc
hao tổn tài vật, vướng phải nhiều sự
lo âu buồn khổ. Lại [thấy] có những
chúng sanh làm đủ
mười điều ác,
tham lam bủn xỉn,
ganh ghét đố kỵ, lười nhác trì trệ, chẳng tu mọi pháp lành, nhưng lại được
thân thể an ổn không bệnh, mạng sống dài lâu, được nhiều
tiền của, không gặp phải những
lo âu sầu khổ. Vì thế nên biết rằng không hề có
quả báo thiện, ác.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Ta từng nghe các bậc
thánh nhân dạy: Có người
tu thiện, khi
mạng chung thì phần nhiều đọa vào
ba đường ác. Có những kẻ làm ác, khi
mạng chung lại sanh vào
cõi người,
cõi trời. Vì thế nên biết rằng không hề có
quả báo thiện, ác.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Lời dạy của tất cả
thánh nhân phân làm hai loại: Một là nói rằng kẻ
sát sanh được
quả báo thiện; hai là nói rằng kẻ
sát sanh chịu
quả báo ác. Vì thế nên biết rằng lời dạy của bậc thánh là không
nhất định. Nếu [lời dạy của] bậc thánh đã không
nhất định, ta làm sao [
tin tưởng] nhất định? Vì thế nên biết rằng không hề có
quả báo thiện, ác.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Trong khắp
thế gian không có bậc
thánh nhân. Vì sao vậy? Nếu là
thánh nhân ắt phải
đạt được Chánh đạo. Tất cả
chúng sanh đang khi có đủ
phiền não,
tu tập Chánh đạo, nên biết rằng những người ấy
cùng lúc có cả
Chánh đạo và
phiền não. Nếu
cùng lúc có cả hai, nên biết rằng
Chánh đạo không thể phá
trừ phiền não.
Nếu không có
phiền não mà tu
Chánh đạo, thì
Chánh đạo ấy có
tác dụng gì? Như vậy, với người có đầy đủ
phiền não thì
Chánh đạo không thể phá trừ; với người không có
phiền não thì
Chánh đạo ắt là
vô dụng. Vì thế nên biết rằng trong khắp
thế gian không có bậc thánh nhân!’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Vô minh làm duyên cho hành,
cho đến sanh làm duyên cho già, chết.
Mười hai nhân duyên ấy, tất cả
chúng sanh đều có đủ. Tánh của
Tám Thánh đạo là
bình đẳng, nên lẽ ra [tất cả
chúng sanh cũng đều có đủ] như vậy; khi một người
đạt được, lẽ ra tất cả
mọi người cũng được; khi một người
tu tập, lẽ ra tất cả
mọi người đều diệt được khổ. Vì sao vậy? Vì
phiền não là như nhau. Nhưng nay không được [như vậy], nên biết rằng không có
Chánh đạo.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Thánh nhân đều có những pháp đồng với
phàm phu, như là:
ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, ngủ nghỉ, vui cười,
đói khát, lạnh nóng, lo sầu, sợ sệt... Nếu đồng với
phàm phu những việc như
vậy thì nên biết rằng
thánh nhân không
đạt được Thánh đạo. Nếu
đạt được Thánh đạo, lẽ ra phải
vĩnh viễn dứt hẳn những việc như vậy. Những việc như vậy
nếu không dứt trừ thì nên biết rằng không có
Thánh đạo.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Thánh nhân có thân, hưởng thụ năm món
dục lạc, lại cũng nhục mạ, đánh đập người khác, cũng
ganh ghét đố kỵ,
kiêu mạn, thọ nhận mọi sự khổ, vui, tạo tác các nghiệp thiện, ác. Vì
nhân duyên ấy nên biết rằng không có
thánh nhân. Nếu là người có đạo, lẽ ra phải
mãi mãi dứt hẳn những việc ấy. Những việc ấy không dứt trừ nên biết rằng không có
Thánh đạo.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Người giàu lòng
thương xót thì gọi là
thánh nhân. Do
nhân duyên gì gọi là thánh nhân? Do
nhân duyên là
Thánh đạo nên gọi là
thánh nhân. Nếu tánh của
Thánh đạo là
thương xót, lẽ ra phải
thương xót, nhớ nghĩ đến tất cả
chúng sanh, chẳng đợi
tu tập rồi mới có được sự
thương xót ấy. Nếu là không có lòng
thương xót, vì sao
thánh nhân do nơi việc
đạt được Thánh đạo rồi mới có lòng thương xót? Vì thế nên biết rằng
thế gian không có
thánh nhân.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Tất cả
bốn đại không do nhân mà sanh ra,
chúng sanh đều có đủ như nhau. Tánh của
bốn đại ấy không
phân biệt chúng sanh, bên này nên tới, bên kia chẳng nên tới... Nếu có
Thánh đạo, lẽ ra cũng phải có tánh [không
phân biệt] như vậy; nhưng nay không phải thế, [vì có kẻ được người không,] vì thế nên biết rằng trong
thế gian không có
thánh nhân.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Nếu như các bậc
thánh nhân chỉ có [chung] một Niết-bàn, nên biết như vậy ắt là không có
thánh nhân. Vì sao vậy? Vì [Niết-bàn ấy] không
thể đạt được! Theo lý thì
pháp thường trụ là không
thể đạt được, không thể nắm bắt, không thể
buông bỏ. Nếu các bậc
thánh nhân có nhiều Niết-bàn thì đó là
vô thường. Vì sao vậy? Vì là pháp có
thể tính đếm. Nếu Niết-bàn là một thì khi một người
đạt được, lẽ ra hết thảy
mọi người đều
đạt được. Nếu Niết-bàn là nhiều, ắt có
ranh giới phân biệt. Nếu có
ranh giới, làm sao gọi là thường? Nếu như nói rằng thể của Niết-bàn là một nhưng
giải thoát là nhiều, cũng như đầu người là một nhưng răng, lưỡi là nhiều. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Chỗ
đạt được của mỗi người không phải chỗ
đạt được của tất cả
mọi người. Vì có
ranh giới phân biệt nên lẽ ra là
vô thường. Nếu là
vô thường, sao có thể gọi là Niết-bàn?
Nếu không có Niết-bàn thì ai là thánh nhân? Vì thế nên biết rằng không có
thánh nhân.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Đạo của
thánh nhân không phải do
nhân duyên mà
đạt được. Nếu đạo của
thánh nhân không phải do
nhân duyên đạt được, vì sao tất cả
mọi người không làm thánh nhân? Nếu tất cả
mọi người không phải
thánh nhân, thì nên biết rằng không có
thánh nhân cũng như
Thánh đạo.’
“Hoặc [người ấy] lại
suy xét rằng: ‘Thánh nhân dạy rằng sự thấy biết chân chánh có hai
nhân duyên. Một là được nghe
Chánh pháp từ người khác, hai là tự trong lòng mình
suy xét [biết được]. Hai
nhân duyên này nếu là do duyên [khác] sanh ra, thì duyên [khác] ấy cũng lại là do duyên khác nữa sanh ra. Cứ xoay vần
tiếp nối mãi như thế, không bao giờ dứt. Nhưng nếu hai [
nhân duyên thấy biết chân chánh] ấy không phải do
duyên sanh, thì tại sao tất cả
chúng sanh lại không [
tự nhiên]
đạt được sự thấy biết chân chánh?’
“[Người ấy] trong khi quán xét những điều như trên thì có thể dứt mất căn lành.
“Thiện nam tử! Nếu
chúng sanh nào thấy biết
sâu xa những
lý không nhân quả [theo cách] như vậy, thì người ấy có thể dứt mất
năm căn lành như tín căn, [
tinh tấn căn]...[65]
“Thiện nam tử! Những kẻ dứt mất căn lành không phải là hạng người hèn hạ
thấp kém,
ngu độn; cũng không phải hàng
chư thiên cõi trời hay những
chúng sanh trong
ba đường ác. Những kẻ
phá hoại Tăng đoàn cũng vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Những người như vậy, đến khi nào sẽ có thể sanh
trở lại căn lành?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những người ấy có hai thời điểm [có thể] sanh
trở lại căn lành, một là khi vừa mới vào
địa ngục, hai là khi ra khỏi
địa ngục.
“Thiện nam tử! Pháp lành có ba loại:
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Nếu là
quá khứ thì tánh tự diệt mất; [nguyên] nhân tuy diệt mất nhưng
quả báo chưa
chín muồi, vì thế nên không gọi là dứt mất quả của
quá khứ. [Chỉ người] dứt hết cả nhân [lành] trong
quá khứ,
hiện tại và
vị lai mới gọi là dứt mất [căn lành].”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu dứt hết cả nhân [lành] trong
ba đời gọi là dứt mất căn lành, thì người dứt căn lành tức nhiên có tánh Phật. Tánh Phật như vậy là
quá khứ, là
hiện tại, là
vị lai, hay là khắp trong ba đời?
“Nếu [tánh Phật] là
quá khứ, làm sao gọi là thường? Tánh Phật là thường, nên biết là không phải
quá khứ.
“Nếu [tánh Phật] là
vị lai, làm sao gọi là thường? Vì sao Phật nói rằng tất cả
chúng sanh nhất định sẽ
đạt được [tánh Phật]? Nếu
nhất định sẽ
đạt được, sao lại nói là [có thể] dứt mất?
“Nếu [tánh Phật] là
hiện tại, làm sao lại gọi là thường? Vì sao Phật nói rằng
nhất định có thể thấy được?
“Như Lai cũng dạy rằng tánh Phật có sáu đức: thường tồn, chân chánh, đúng thật, hiền thiện,
thanh tịnh và có thể thấy. Nếu những kẻ dứt mất căn lành mà có tánh Phật, ắt không thể gọi là dứt mất căn lành. Còn nếu họ không có tánh Phật, vì sao nói rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật? Nếu nói rằng tánh Phật lại khi có khi mất thì tại sao
Như Lai nói rằng [tánh Phật là] thường?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Như Lai Thế Tôn vì
chúng sanh nên dùng đến bốn phương thức
trả lời. Một là
trả lời bằng cách xác định
chắc chắn, [gọi là định đáp]; hai là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích, [gọi là
phân biệt đáp]; ba là
trả lời [
thích hợp]
tùy theo câu hỏi, [gọi là tùy
vấn đáp]; bốn là
trả lời bằng cách phớt lờ,
xem như không nghe, [gọi là
trí đáp].[66]
“Thiện nam tử! Thế nào là
trả lời bằng cách xác định chắc chắn? Như hỏi rằng: ‘Tạo
nghiệp ác sẽ được quả thiện hay quả bất thiện?’ Như vậy nên đáp một cách
chắc chắn rằng: ‘Sẽ phải chịu quả
bất thiện.’ Đối với việc tạo
nghiệp lành cũng [nên
trả lời chắc chắn] như vậy: ‘Sẽ được
quả báo tốt lành.’
“Như hỏi rằng: ‘Như Lai có phải là bậc
Nhất thiết trí [rõ biết tất cả] hay chăng? Như vậy nên đáp một cách
chắc chắn rằng: ‘Đúng là bậc
Nhất thiết trí.’ Như hỏi rằng: ‘Phật pháp có
thanh tịnh chăng?’ Như vậy nên đáp một cách
chắc chắn rằng: “Nhất định là
thanh tịnh.’ Như hỏi rằng: ‘Đệ tử của
Như Lai có làm theo đúng pháp chăng?’ Như vậy nên đáp một cách
chắc chắn rằng: ‘Có làm theo đúng pháp.’
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách xác định
chắc chắn.
“Thế nào là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích? Như ta có giảng về
giáo pháp Bốn chân đế. Thế nào là bốn? Đó là khổ, tập, diệt, đạo. Thế nào là Khổ đế? Vì có
tám nỗi khổ[67] nên gọi là
Khổ đế. Thế nào là Tập đế? Vì
năm ấm là nhân [
hợp lại] nên gọi là
Tập đế. Thế nào là Diệt đế? Vì tham, sân, si đều dứt hết nên gọi là
Diệt đế. Thế nào là Đạo đế? Vì có
Ba mươi bảy pháp trợ đạo nên gọi là
Đạo đế...
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Thế nào là
trả lời [
thích hợp]
tùy theo câu hỏi? Như ta có dạy rằng: ‘Tất cả các pháp đều
vô thường.’ Lại có người hỏi: ‘Như
Lai Thế Tôn vì những pháp gì mà nói lý vô thường?’ Liền đáp rằng: ‘Vì
pháp hữu vi nên
Như Lai nói
lý vô thường.’ Đối với lý
vô ngã cũng thế.
“Như Phật có dạy: ‘Tất cả các pháp [
thế gian] đều như lửa dữ thiêu đốt.’ Kẻ khác lại hỏi: ‘Như
Lai Thế Tôn vì những pháp gì mà nói rằng tất cả các pháp [
thế gian] như lửa dữ thiêu đốt?’ Liền đáp rằng: ‘Vì tham, sân, si nên
Như Lai nói rằng tất cả pháp [
thế gian] đều như lửa dữ thiêu đốt.’
“Như thế gọi là
trả lời [
thích hợp]
tùy theo câu hỏi.
“Thiện nam tử!
Như Lai có đủ các
pháp như Mười lực, Bốn
vô sở úy,
Đại từ,
Đại bi, Ba
niệm xứ, tám vạn ức các môn tam-muội như [tam-muội] Thủ-lăng-nghiêm,
Ba mươi hai tướng tốt, Tám mươi vẻ đẹp, ba mươi lăm ngàn các môn tam-muội như tam-muội
Ngũ trí ấn, bốn ngàn hai trăm các môn tam-muội như tam-muội
Kim cang, tam-muội
Phương tiện...
Vô lượng vô biên các
pháp như vậy đều là tánh Phật của Phật. Tánh Phật ấy có bảy đức: thường, ngã, lạc, tịnh, chân, thật và thiện. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Thiện nam tử! Tánh Phật của vị
Bồ Tát thọ thân sau cùng[68] có sáu đức: thường, tịnh, chân, thật, thiện, thấy được phần nhỏ. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Theo như câu hỏi của ông trước đây: ‘Những kẻ dứt mất căn lành có tánh Phật hay không? Những kẻ ấy cũng có tánh Phật của
Như Lai, cũng có tánh Phật của [
Bồ Tát] thọ
thân sau cùng. Vì hai tánh Phật ấy bị
che lấp ở đời
vị lai nên gọi là không; vì rốt cùng rồi sẽ
đạt được tánh Phật nên gọi là có. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Tánh Phật của
Như Lai không thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai. Tánh Phật của vị
Bồ Tát thọ thân sau cùng là thuộc về
hiện tại và
vị lai. Vì thấy được
một phần nhỏ tánh Phật nên gọi là
hiện tại; vì chưa thấy được
trọn vẹn nên gọi là
vị lai.
Nhân tánh Phật của
Như Lai khi chưa
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề cũng là
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; nhưng quả thì không như vậy, có thuộc về
ba đời, cũng có không thuộc về
ba đời.
Nhân tánh Phật của vị
Bồ Tát thọ thân sau cùng cũng là
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; và quả cũng giống như vậy. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Với hàng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ chín, tánh Phật có sáu đức: thường, thiện, chân, thật,
thanh tịnh, có thể thấy.
Nhân tánh Phật của vị này cũng thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; và quả cũng giống như vậy. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Từ hàng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ tám xuống đến hàng trụ ở
địa vị thứ sáu, tánh Phật có năm đức: chân, thật, tịnh, thiện, có thể thấy.
Nhân tánh Phật của các vị này cũng là
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; và quả cũng giống như vậy. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Từ hàng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ năm xuống đến hàng
sơ trụ, tánh Phật có năm đức: một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là có thể thấy, năm là thiện và
bất thiện.
“Thiện nam tử! Tánh Phật có năm đức, sáu đức, hoặc bảy đức ấy, những kẻ dứt mất căn lành
cuối cùng rồi cũng sẽ
đạt được,
vì vậy nên có thể nói rằng họ có tánh Phật. Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Như có người nói rằng: ‘Kẻ dứt mất căn lành
nhất định là có tánh Phật’, hoặc nói rằng: ‘Nhất định là không có tánh Phật.’ Đó là [
trường hợp cần phải]
trả lời bằng cách phớt lờ,
xem như không nghe.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Con nghe nói rằng: Không đưa ra câu
trả lời mới gọi là
trả lời bằng cách phớt lờ. Nay vì
nhân duyên gì
Như Lai thật có
trả lời mà gọi là phớt lờ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta cũng không nói rằng gạt sang một bên không
trả lời mới gọi là
trả lời bằng cách phớt lờ.
Thiện nam tử!
Trả lời bằng cách phớt lờ có hai
ý nghĩa: Một là ngăn chặn [
vấn đề, không cho phát triển thêm]; hai là không
vướng mắc [vào
vấn đề ấy]. Do những nghĩa đó nên mới gọi là
trả lời bằng cách phớt lờ.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI BỐN
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BA MƯƠI LĂM
PHẨM BỒ TÁT CA-DIẾP
Phẩm thứ mười hai – Phần ba
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo
lời Phật dạy thì thế nào là nhân cũng thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; quả cũng thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; lại cũng không thuộc về
quá khứ,
hiện tại, vị lai?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Năm ấm có hai loại, một là nhân, hai là quả. Nhân của
năm ấm này là thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; quả của
năm ấm này cũng thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai; mà cũng không thuộc về
quá khứ,
hiện tại,
vị lai.
“Thiện nam tử! Hết thảy
vô minh,
phiền não trói buộc... đều là tánh Phật. Vì sao vậy? Vì là nhân của tánh Phật.
Do nơi vô minh, hành... và các
phiền não mà được
năm ấm hiền thiện, gọi là tánh Phật.
Do nơi năm ấm hiền thiện [mà tu tiến]
cho đến đạt được quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cho nên trước đây, trong kinh ta có dạy rằng: ‘Tánh Phật của
chúng sanh như máu lẫn với sữa.’ Máu, đó là
vô minh, hành... tất cả
phiền não. Sữa, đó là
năm ấm hiền thiện. Cho nên ta dạy rằng: ‘Do nơi
phiền não và
năm ấm hiền thiện mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Như thân của
chúng sanh đều
do nơi tinh huyết mà thành. Tánh Phật cũng vậy. Hàng Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm dứt trừ được một ít
phiền não, tánh Phật [nơi họ]
ví như sữa tươi. Tánh Phật ở hàng A-na-hàm
ví như kem sữa. Tánh Phật ở các vị A-la-hán
ví như bơ sống. Từ các vị
Phật Bích-chi lên đến
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ mười, tánh Phật
ví như bơ chín. Tánh Phật ở
Như Lai ví như đề-hồ.
“Thiện nam tử! Vì
phiền não hiện tại làm
chướng ngại nên
chúng sanh không thấy được tánh Phật.
Ví như ở
Hương sơn có loài cỏ
nhẫn nhục nhưng không phải tất cả bò đều được ăn cỏ ấy. Tánh Phật cũng vậy.
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Tánh Phật có năm đức, sáu đức, bảy đức, nếu đến đời
vị lai mới có, vì sao nói rằng những kẻ dứt mất căn lành có tánh Phật?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như các
chúng sanh đều có nghiệp
quá khứ. Do nghiệp ấy làm nhân nên trong
hiện tại phải chịu
quả báo; lại có nghiệp
vị lai, nhưng vì nghiệp ấy chưa sanh nên chưa có
quả báo; lại có
phiền não trong
hiện tại,
nếu không có
phiền não ấy thì lẽ ra tất cả
chúng sanh đều thấy rõ được tánh Phật ngay
trước mắt. Vì thế, những kẻ dứt mất căn lành là do
nhân duyên phiền não trong đời hiện tại khiến cho dứt mất căn lành. Nhờ sức của tánh Phật
trong đời vị lai làm
nhân duyên nên căn lành [có thể] được sanh
trở lại.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà [những kẻ đã dứt mất căn lành]
trong đời vị lai có thể sanh lại căn lành?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Ví như ngọn đèn và
mặt trời tuy chưa
xuất hiện nhưng
tính chất của chúng vẫn là có thể phá trừ sự
tối tăm.
Tự tánh trong tương lai có thể sanh ra tánh Phật của
chúng sanh cũng giống như vậy.
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu nói rằng
năm ấm là tánh Phật, vì sao lại dạy rằng tánh Phật của
chúng sanh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Do
nhân duyên gì mà ông lại có sự
sơ ý đến thế? Trước đây ta chẳng đã nói rằng tánh Phật của
chúng sanh là
trung đạo đó sao?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Con
thật không phải
sơ ý, chỉ vì những
chúng sanh đối với
nghĩa trung đạo không hiểu nổi nên con mới phải thưa hỏi lại.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chỗ mà
chúng sanh không hiểu đó tức là
trung đạo. Hoặc có lúc có người hiểu được, có người không hiểu được.
“Thiện nam tử! Ta vì những
chúng sanh có thể hiểu được nên nói rằng tánh Phật chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì sao vậy? Những
chúng sanh phàm phu, hoặc nói rằng tánh Phật ở trong
năm ấm, như trong cái bát có đựng trái cây; hoặc nói rằng [tánh Phật] lìa khỏi
năm ấm, như
hư không. Do đó
Như Lai thuyết dạy lý
trung đạo: Tánh Phật của
chúng sanh không ở trong
sáu nhập, không ở ngoài
sáu nhập; trong ngoài hợp nhau nên gọi là
trung đạo. Vì thế
Như Lai dạy rằng: ‘Tánh Phật tức là
trung đạo.’ Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài nên gọi là
trung đạo.
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào gọi là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài?
“Thiện nam tử! Có người nói: ‘Tánh Phật tức là
ngoại đạo. Vì sao vậy? Vì
Bồ Tát ma-ha-tát
trải qua vô lượng kiếp ở trong
ngoại đạo, dứt trừ các
phiền não,
điều phục tự tâm,
giáo hóa chúng sanh, sau đó mới
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Vì vậy, tánh Phật tức là
ngoại đạo.’
“Hoặc có người nói: ‘Tánh Phật tức là ở trong
Chánh đạo. Vì sao vậy? Vì
Bồ Tát tuy
trải qua vô lượng kiếp tu tập ngoại đạo, nhưng nếu lìa ngoài
Chánh đạo ắt không
thể đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Vì vậy, tánh Phật tức là ở trong
Chánh đạo.’
“Do đó,
Như Lai vì ngăn chặn cả hai
ý kiến sai lệch như thế mà nói rằng: ‘Tánh Phật chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng là trong, ngoài; đó gọi là
trung đạo.’
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có người nói: ‘Tánh Phật tức là
thân kim cang của
Như Lai, có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vì sao vậy? Vì [thân Phật] không
hư dối.’
“Hoặc có người nói: ‘Tánh Phật tức là Mười sức, Bốn
vô sở úy,
Đại từ,
Đại bi, Ba
niệm xứ, Thủ-lăng-nghiêm và tất cả tam-muội... Vì sao vậy? Vì nhân nơi các tam-muội ấy sanh ra thân [Phật]
kim cang, có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.’
“Do đó,
Như Lai vì ngăn chặn cả hai
ý kiến sai lệch như thế mà nói rằng: ‘Tánh Phật chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng là trong, ngoài; đó gọi là
trung đạo.’
“Như thế gọi là
trả lời bằng cách
phân biệt giải thích.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có người nói: ‘Tánh Phật là sự
suy xét khéo léo trong lòng. Vì sao vậy? Vì nếu lìa khỏi sự
suy xét khéo léo thì
Bồ Tát không
thể đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế, tánh Phật là sự
suy xét khéo léo trong lòng.’
“Hoặc có người nói: ‘Tánh Phật là được
nghe pháp từ người khác. Vì sao vậy? Vì được
nghe pháp từ người khác ắt có thể
suy xét khéo léo trong lòng.
Nếu không được
nghe pháp ắt không thể
suy xét. Vì thế, tánh Phật là được
nghe pháp từ người khác.’
“Do đó,
Như Lai vì ngăn chặn cả hai
ý kiến sai lệch như thế mà nói rằng: ‘Tánh Phật chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng là trong, ngoài; đó gọi là
trung đạo.’
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có người nói: ‘Tánh Phật là bên ngoài, ấy là
Bố thí Ba-la-mật. Nhờ
pháp Bố thí Ba-la-mật mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cho nên nói rằng:
Bố thí Ba-la-mật tức là tánh Phật.’
“Hoặc có người nói: ‘Tánh Phật là bên trong, ấy là năm pháp Ba-la-mật còn lại.[69] Vì sao vậy? Vì lìa khỏi năm pháp này không có nhân và quả của tánh Phật. Vì thế nên nói rằng: Năm pháp Ba-la-mật này tức là tánh Phật.’
“Do đó,
Như Lai vì ngăn chặn cả hai
ý kiến sai lệch như thế mà nói rằng: ‘Tánh Phật chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng là trong, ngoài; đó gọi là
trung đạo.’
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có người nói: ‘Tánh Phật ở bên trong, như hạt
bảo châu ẩn nơi trán của người
lực sĩ. Vì sao vậy? Vì thường, lạc, ngã, tịnh [của tánh Phật] giống
như bảo châu. Vì thế nên nói rằng: Tánh Phật ở bên trong.’
“Hoặc có người nói: ‘Tánh Phật ở bên ngoài, như kho báu của người đàn bà nghèo. Vì sao vậy? Vì nhờ có
phương tiện mới thấy được [kho báu ấy]. Tánh Phật cũng như thế, ở bên ngoài
chúng sanh, nhờ dùng
phương tiện mới có thể thấy được.’
“Do đó,
Như Lai vì ngăn chặn cả hai
ý kiến sai lệch như thế mà nói rằng: ‘Tánh Phật chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng là trong, ngoài; đó gọi là
trung đạo.’
“Thiện nam tử! Tánh Phật của
chúng sanh chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao vậy? Tánh Phật tuy là có, nhưng chẳng phải như
hư không. Vì sao vậy? Vì
hư không ở
thế gian, dù có dùng đến
vô lượng phương tiện khéo léo cũng không nhìn thấy được; còn tánh Phật là có thể thấy.
“Vì thế, tuy tánh Phật là có nhưng chẳng phải như
hư không. Tánh Phật tuy là không, nhưng chẳng giống như
sừng thỏ. Vì những thứ như lông rùa,
sừng thỏ, dù có
vô lượng phương tiện khéo léo cũng chẳng sanh ra được. Tánh Phật thì có thể sanh ra, nên tuy là không nhưng chẳng giống với [lông rùa,]
sừng thỏ.
“Cho nên, tánh Phật là chẳng phải có, chẳng phải không, lại cũng có, cũng không.
“Sao gọi là có? Vì tất cả
chúng sanh đều có. [Tánh Phật nơi] các
chúng sanh đều không dứt đoạn, không diệt mất; như
ngọn đèn cháy mãi cho tới khi
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế nên gọi là có.
“Sao gọi là không? Vì tất cả
chúng sanh hiện tại chưa có tất cả những đức thường, lạc, ngã, tịnh của pháp Phật. Vì thế nên gọi là không.
“Có và không hợp
với nhau tức là
trung đạo. Cho nên Phật dạy rằng: ‘Tánh Phật của
chúng sanh chẳng phải có, chẳng phải không.’
“Thiện nam tử! Như có người hỏi: ‘Trong
hạt giống có quả hay không có quả?’ Nên đáp một cách
chắc chắn rằng: Cũng có, cũng không. Vì sao vậy? Vì nếu lìa ngoài
hạt giống thì không thể có quả nên gọi là có; vì
hạt giống thật chưa nảy mầm nên gọi là không. Vì nghĩa ấy nên nói rằng: Cũng có, cũng không.’
“Vì sao nói như vậy? Vì cho dù
hoàn cảnh có khác nhưng
thể chất của
hạt giống vẫn là một. Tánh Phật của
chúng sanh cũng giống như vậy. Nếu nói: ‘Trong
chúng sanh riêng có những người có tánh Phật.’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Vì
chúng sanh tức là tánh Phật; tánh Phật tức là
chúng sanh. Chỉ là
hoàn cảnh, thời điểm khác nhau nên có tịnh và
bất tịnh.
“Thiện nam tử! Như có người hỏi: ‘Hạt giống có thể sanh quả chăng? Quả có thể sanh
hạt giống chăng?’ Nên đáp một cách
chắc chắn rằng: ‘Cũng sanh, cũng không sanh.’”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng: ‘Trong sữa có kem sữa.’ Nghĩa ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu nói rằng trong sữa có kem sữa, đó gọi là vướng chấp; nếu nói rằng không có kem sữa thì đó là
hư dối. Lìa khỏi hai việc ấy, nên nói
chắc chắn rằng: ‘Cũng có, cũng không.’
“Vì sao gọi là có? Vì từ nơi sữa sanh ra kem sữa; sữa là nhân, kem sữa là quả, cho nên gọi là có.
“Vì sao gọi là không? Vì
hình sắc và
mùi vị của hai thứ khác nhau,
công dụng cũng không giống nhau. Bệnh nhiệt dùng sữa, bệnh hàn dùng kem sữa; sữa gây bệnh hàn, kem sữa gây bệnh nhiệt.
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng: ‘Trong sữa sẵn có tánh kem sữa. Sữa tức là kem, kem tức là sữa.’ Vậy tánh ấy vẫn là một, do
nhân duyên gì mà sữa
xuất hiện trước, còn kem chẳng sanh ra trước? Nếu có
nhân duyên, vì sao tất cả người đời lại không nói được?
Nếu không có
nhân duyên, vì sao kem sữa không
xuất hiện trước? Nếu kem sữa không
xuất hiện trước, vậy ai đã tạo ra thứ tự [
xuất hiện]: sữa, kem sữa, bơ sống, bơ chín, đề-hồ? Vậy nên biết rằng kem sữa vốn trước là không, sau mới có. Nếu là trước không sau có thì là pháp
vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu có kẻ nói: ‘Sữa có tánh kem sữa nên có thể sanh ra kem sữa; như nước không có tánh kem sữa nên không thể sanh ra kem sữa.’ Nghĩa ấy cũng chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì nước và cỏ đều có tánh của sữa, kem sữa. Vì sao? Vì nước và cỏ là nhân sanh ra sữa và kem sữa. Nếu nói rằng: ‘Trong sữa
nhất định có tánh của kem sữa; trong nước và cỏ không có tánh của kem sữa.’ Đó là
lời nói hư dối. Vì sao vậy? Vì tâm [phán xét] không
bình đẳng nên gọi là
hư dối.
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng: ‘Trong sữa
nhất định có tánh của kem, trong kem
nhất định có tánh của sữa.’ Vậy do
nhân duyên gì mà sữa tạo thành kem nhưng kem không tạo thành sữa?
Nếu không có
nhân duyên thì nên biết rằng kem sữa ấy vốn trước là không mà sau mới có. Vì thế, người có trí nên nói rằng: ‘Trong sữa chẳng phải có tánh kem, cũng chẳng phải không có tánh kem.
“Thiện nam tử! Cho nên trong kinh này
Như Lai có dạy rằng: ‘Nếu nói rằng tất cả
chúng sanh nhất định đều có tánh Phật, đó là vướng chấp; nếu nói rằng không có tánh Phật, đó là
hư dối.’ Người có trí nên nói rằng: ‘Tánh Phật của
chúng sanh cũng là có, cũng là không.’
“Thiện nam tử! Có bốn điều
hợp lại sanh ra
nhãn thức. Những gì là bốn? Một là con mắt, hai
hình sắc, ba là ánh sáng, bốn là
ý muốn [thấy]. Nhưng tánh của
nhãn thức ấy không phải mắt, không phải
hình sắc, không phải ánh sáng, cũng không phải
ý muốn [thấy]. Do có sự
hợp lại nên mới có
nhãn thức.
Nhãn thức ấy vốn trước là không, sau mới có; có rồi lại
trở thành không. Vậy nên biết rằng không sẵn có tánh. Tánh kem trong sữa cũng là giống như vậy.
“Nếu nói rằng: ‘Vì trong nước không có tánh kem nên không sanh ra kem; vì thế nên trong sữa
nhất định là có tánh kem.’ Nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Tất cả các pháp, nhân khác thì quả khác; cũng không phải một nhân sanh tất cả quả, không phải tất cả quả đều do một nhân sanh ra.
“Thiện nam tử! Cũng như
do nơi bốn
điều kiện [
hợp lại] sanh ra
nhãn thức, nhưng lại không thể nói rằng
do nơi bốn
điều kiện ấy sanh ra
nhĩ thức.
“Thiện nam tử!
Nếu không có các
phương tiện [
thích hợp] thì sữa không thể thành kem sữa, kem sữa không thể thành bơ...
Cần phải có các
phương tiện.
Thiện nam tử! Người có trí không thể
nhận thức rằng không có các
phương tiện mà sữa có thể thành kem sữa. Về việc sanh ra bơ sống cũng vậy, không thể
lìa bỏ phương tiện mà có.
“Thiện nam tử! Cho nên trong kinh này ta nói rằng: ‘Do nhân sanh nên pháp có; do nhân diệt nên
pháp không.’
“Thiện nam tử! Như muối có tánh mặn, có thể làm cho những vật không mặn trở nên mặn. Nếu những vật không mặn trước đã sẵn có tánh mặn, sao người đời chẳng gọi những vật ấy là muối?
Nếu không có tánh mặn, thì nên biết rằng trước vốn không, sau mới có; vì có duyên bên ngoài nên mới thành mặn.
“Nếu nói rằng: ‘Tất cả những vật không mặn đều có tánh mặn, nhưng vì quá
vi tế nên không biết được. Do tánh [mặn]
vi tế ấy nên muối mới có thể làm cho vật trở nên mặn. Nếu vật không có tánh mặn, dù cho có muối cũng không thể làm cho thành mặn.
Ví như hạt giống tự có
bốn đại, lại nhờ
bốn đại là duyên bên ngoài nên có thể
tăng trưởng từ mầm mộng
thành thân, cành, lá cây... Tánh của muối cũng như thế.’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Nếu vật không mặn vốn sẵn có tánh mặn, thì muối lẽ ra cũng sẵn có tánh
vi tế không mặn. Nếu muối có hai tánh như vậy, vì
nhân duyên gì mà ngoài những vật không mặn ra, không dùng riêng [chất muối]? Vì thế nên biết rằng muối vốn không có hai tánh. Cũng giống như muối, tất cả những vật không mặn đều không có hai tánh [mặn và không mặn].
“Nếu nói rằng: ‘Sức của
bốn đại bên ngoài có thể làm
tăng trưởng bốn đại bên trong.’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Vì [nói như vậy chỉ] là theo thứ tự, không
do nơi phương tiện.
Do nơi sữa mà được kem sữa, bơ sống...
cho đến tất cả các pháp cũng đều như vậy, không phải
do nơi phương tiện mà được, [nghĩa ấy
thật không đúng].
Bốn đại cũng giống như vậy.
“Nếu nói: ‘Do nơi
bốn đại bên ngoài làm
tăng trưởng bốn đại bên trong, không thấy việc
do nơi bốn đại bên trong làm
tăng trưởng bốn đại bên ngoài.’ Vậy [vì sao] trái thi-lỵ-sa[70] trước không có hình
thể tính chất gì, nhưng khi sao Mão hiện thì trái ấy sanh ra, dài đến năm tấc. Như loại trái này
thật không nhân nơi
bốn đại bên ngoài mà
tăng trưởng.
“Thiện nam tử! Như ta có nói: ‘Mười hai
bộ kinh, [có khi] ta tự ý
thuyết giảng, hoặc [có khi]
tùy theo ý
chúng sanh mà
thuyết giảng, hoặc [cũng có khi] vừa là tự ý ta và cũng
tùy theo ý
chúng sanh mà
thuyết giảng.’
“Sao gọi là ta tự ý thuyết? Như có năm trăm vị tỳ-kheo hỏi Xá-lợi-phất rằng: ‘Đại đức! Phật nói nhân sanh ra thân này là gì?’ Xá-lợi-phất đáp: ‘Các vị đại đức! Các vị mỗi người đều
đạt được sự giải thoát chân chánh, lẽ ra phải tự biết việc ấy. Vì
duyên cớ gì mà hỏi như vậy?’ Có một tỳ-kheo nói: ‘Đại đức! Khi tôi chưa
đạt được giải thoát chân chánh, ý tôi cho rằng
vô minh là nhân sanh ra thân này. Trong khi quán xét như
vậy thì tôi
chứng đắc quả A-la-hán.’ Lại có người nói: ‘Đại đức! Khi tôi chưa
đạt được giải thoát chân chánh, ý tôi cho rằng thọ và
vô minh là nhân sanh ra thân này. Trong khi quán xét như
vậy thì tôi
chứng đắc quả A-la-hán.’ Cũng có người nói rằng: ‘Hành, thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
ẩm thực,
ngọa cụ... là nhân sanh ra thân này.’
“Bấy giờ, trong năm trăm tỳ-kheo, mỗi người tự nói chỗ hiểu của mình rồi, cùng nhau đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ dưới
chân Phật, rồi đi quanh ba vòng về bên phải.
Lễ bái xong liền ngồi xuống một bên theo thứ tự.
Ai nấy đều đem chỗ hiểu của mình như trên mà trình lên Phật.
“Xá-lợi-phất
bạch Phật: ‘Thế Tôn! Trong những vị này, ai
nói đúng, ai nói không đúng?’
“Phật bảo Xá-lợi-phất: ‘Lành thay,
lành thay! Trong các tỳ-kheo này, không ai nói sai cả.’
“Xá-lợi-phất thưa hỏi: ‘Thế Tôn! Ý Phật là thế nào?’
“Phật dạy: ‘Xá-lợi-phất! Ta vì
chúng sanh Dục giới nên mới nói rằng:
Cha mẹ là nhân sanh ra thân này.’
“Những [
trường hợp nói] kinh như vậy gọi là do ta tự ý
thuyết giảng.
“Sao gọi là
tùy theo ý
chúng sanh mà thuyết giảng? Như có lần
trưởng giả Bả-trá-la đến chỗ ta nói rằng: ‘Cồ-đàm! Ông có biết sự
huyễn hóa chăng? Nếu ông biết huyễn thì ông là kẻ đại huyễn; nếu ông không biết huyễn thì không phải bậc
Nhất thiết trí.’
“Ta liền hỏi: ‘Trưởng giả! Người biết được sự
huyễn hóa có phải là kẻ
huyễn hóa chăng?
“Trưởng giả nói: ‘Đúng vậy, đúng vậy! Người biết sự
huyễn hóa tức là kẻ
huyễn hóa.’
“Ta liền hỏi: ‘Trưởng giả! Trong thành Xá-vệ của vua Ba-tư-nặc có một người chiên-đà-la tên là Khí Hư, ông có biết [người ấy] chăng?’
“Trưởng giả đáp: ‘Cồ-đàm! Tôi đã biết người ấy từ lâu.’
“Ta liền nói: ‘Ông biết [người chiên-đà-la ấy]
đã lâu, vậy ông có phải là chiên-đà-la chăng?’
“Trưởng giả đáp: ‘Cồ-đàm! Tuy tôi có biết người chiên-đà-la, nhưng chính thân tôi đây không phải chiên-đà-la.’
“Phật dạy: ‘Vậy ông đã hiểu được rằng: [Người] biết chiên-đà-la không phải là chiên-đà-la. Nay vì sao ta lại không thể biết được sự
huyễn hóa nhưng không phải kẻ huyễn hóa?
“Trưởng giả! Ta
quả thật rõ biết sự
huyễn hóa, rõ biết kẻ
huyễn hóa, biết
quả báo của
huyễn hóa, biết phương thức kỹ xảo của huyễn thuật. Ta biết sự giết hại, biết kẻ giết hại, biết
quả báo của việc giết hại, biết [cách]
giải thoát khỏi sự giết hại;
cho đến biết cả những
quan điểm sai lầm tà vạy, biết những người có
quan điểm sai lầm tà vạy, biết
quả báo của những
quan điểm sai lầm tà vạy, biết [cách]
giải thoát khỏi những
quan điểm sai lầm tà vạy. Trưởng giả! Nếu người không phải huyễn mà gọi là huyễn, người không có
tà kiến mà gọi là
tà kiến, ắt phải mang tội rất lớn.’
“Trưởng giả bạch rằng: ‘Cồ-đàm!
Theo như ngài nói thì tôi đã mắc tội rất lớn,
tài sản sở hữu của tôi ắt phải nộp cả lên quan trên. Mong sao ngài [giấu đi] đừng cho vua Ba-tư-nặc biết việc [thưa hỏi] này.’
“Phật dạy: ‘Trưởng giả!
Nhân duyên tội này không phải mất hết
tài sản, nhưng do tội này sẽ phải đọa vào
ba đường ác.’
“Bấy giờ,
trưởng giả vừa nghe nói đến
ba đường ác thì kinh khiếp hoảng sợ, liền
bạch Phật rằng: ‘Thánh nhân! Nay con
vô ý mắc vào tội lớn, ngài là bậc
Nhất thiết trí, ắt phải biết rõ cách để
giải thoát. [Xin dạy
cho biết] con phải làm sao mới
thoát khỏi được những
cảnh địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh?’
“Lúc ấy, ta vì
trưởng giả ấy mà thuyết dạy
Bốn chân đế. Nghe rồi,
trưởng giả chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, sanh lòng
hổ thẹn, hướng Phật
sám hối: ‘Con vốn thật
ngu si, Phật chẳng phải kẻ
huyễn hóa mà con gọi là huyễn. Từ nay con xin
quy y Tam bảo.’ Phật dạy: ‘Lành thay!
Lành thay đó, trưởng giả!’
“Như thế gọi là
tùy theo ý
chúng sanh mà thuyết.
“Sao gọi là vừa tự ý ta và cũng
tùy theo ý
chúng sanh mà thuyết?
“Như Phật có dạy: ‘Tất cả những người có trí ở
thế gian nói có, ta cũng nói có; người trí nói không, ta cũng nói không. Người trí ở
thế gian nói: Trong năm món
dục lạc có
vô thường, khổ,
vô ngã, nên dứt trừ đi; ta cũng nói là có, giống như họ. Người trí ở
thế gian nói: Trong năm món
dục lạc không thể có thường, lạc, ngã, tịnh; ta cũng nói là không, giống như họ.’
“Đó gọi là vừa tự ý ta và cũng
tùy theo ý
chúng sanh mà thuyết.
“Thiện nam tử! Như Phật có dạy: ‘Hàng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ mười thấy được đôi chút tánh Phật.’ Đó gọi là
tùy theo ý
chúng sanh mà thuyết. Thế nào gọi là thấy được đôi chút?
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ mười đạt được các pháp tam-muội như Thủ-lăng-nghiêm..., ba ngàn
pháp môn, cho nên tự mình rõ biết là
chắc chắn sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhưng lại không thấy được rằng tất cả
chúng sanh chắc chắn sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế nên ta nói rằng: ‘Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ mười thấy được đôi chút tánh Phật.’
“Thiện nam tử! Ta thường giảng nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật.’ Đó gọi là do ta tự ý thuyết.
“[Hoặc ta có nói: ‘Phật tánh của] tất cả
chúng sanh không dứt đoạn, không diệt mất,
cho đến khi
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Đó gọi là do ta tự ý thuyết.
“[Hoặc ta có nói:] ‘Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, vì
phiền não che lấp nên không thể thấy.’ Ta nói như vậy, ông cũng nói như vậy. Đó gọi là vừa tự ý ta và cũng
tùy theo ý
chúng sanh mà thuyết.
“Thiện nam tử! Có khi vì một pháp,
Như Lai thuyết
vô lượng pháp. Như trong kinh có nói: ‘[Sự gần gũi] bậc
thiện tri thức là nhân của tất cả
Phạm hạnh.’ Tất cả
Phạm hạnh tuy có
vô số nhân, nhưng [chỉ] nói đến [sự gần gũi] bậc
thiện tri thức là
bao gồm tất cả.
“Hoặc như ta có dạy: ‘Tà kiến là nhân của tất cả các hạnh xấu ác.’ Tuy tất cả các hạnh xấu ác có
vô số nguyên nhân, nhưng [chỉ] nói đến
tà kiến là
bao gồm được tất cả.
“Hoặc ta có dạy: ‘Lòng tin là nhân của
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Nhân của Bồ-đề tuy là
vô số, nhưng [chỉ] nói đến
lòng tin là
bao gồm được tất cả.
“Thiện nam tử! Tuy
Như Lai giảng nói
vô lượng các pháp, gọi đó là tánh Phật, nhưng không hề lìa khỏi ấm, nhập, giới.
“Thiện nam tử!
Đức Như Lai thuyết pháp, vì
chúng sanh nên dùng đến bảy cách nói: một là nói
dựa vào nguyên nhân, hai là nói
dựa vào kết quả, ba là nói
dựa vào cả
nguyên nhân và kết quả, bốn là nói dẫn dụ, năm là nói những điều
không thật [có nhưng] ứng hợp, sáu là nói những điều dùng
rộng rãi trong
thế tục, bảy là theo đúng ý mà nói.
“Thế nào gọi là nói
dựa vào nguyên nhân? Đối với nhân
hiện tại, nói quả trong tương lai. Như ta có dạy: ‘Thiện nam tử! Khi thấy
chúng sanh ưa giết hại... cho tới ưa làm việc
tà kiến,[71] nên thấy rằng đó là những
chúng sanh địa ngục.
Thiện nam tử! Nếu có
chúng sanh không ưa giết hại... cho tới không ưa
tà kiến, nên thấy rằng đó là
chư thiên cõi trời.’ Đó gọi là nói
dựa vào nguyên nhân.
“Thế nào gọi là nói
dựa vào kết quả? Đối với quả
hiện tại, nói nhân trong
quá khứ. Như trong kinh có nói: ‘Thiện nam tử! Nếu thấy những
chúng sanh nghèo khốn,
dung mạo thô xấu, không được
tự do thanh thản, nên biết rằng những người ấy
nhất định [đời trước đã từng]
phá giới, có lòng
ganh ghét đố kỵ,
sân hận, không biết
hổ thẹn [đối với việc xấu]. Nếu thấy những
chúng sanh giàu có, nhiều
tài sản, các căn đầy đủ,
oai đức tự tại, nên biết rằng những người ấy
nhất định [đời trước đã từng]
trì giới,
bố thí,
tinh cần, có lòng
hổ thẹn [đối với việc xấu], không
ganh ghét đố kỵ,
sân hận.’
“Đó gọi là nói
dựa vào kết quả.
“Thế nào gọi là nói
dựa vào cả
nguyên nhân và kết quả? Như trong kinh có nói: ‘Thiện nam tử!
Sáu nhập, xúc là nhân của
chúng sanh trong
hiện tại, đó là
nghiệp quả của
quá khứ.
Như Lai cũng nói đó là nghiệp. Do
nhân duyên là nghiệp đó mà có quả
trong đời vị lai. Đó gọi là nói
dựa vào cả
nguyên nhân và kết quả.
“Thế nào gọi là nói dẫn dụ? Như nói
sư tử chúa là ví dụ để chỉ thân Phật. Trong kinh lại có các ví dụ như Đại
tượng vương, Đại
long vương, cây ba-lỵ-chất-đa-la, núi
bảy báu, biển cả, núi Tu-di, cõi đất, cơn mưa lớn,
Thuyền sư,
Đạo sư,
Điều ngự trượng phu,
lực sĩ,
ngưu vương, bà-la-môn, sa-môn, thành lớn, cây đa-la... Những ví dụ như vậy gọi là nói dẫn dụ.
“Thế nào gọi là nói những điều
không thật [có nhưng] ứng hợp? Như ta có nói trong kinh rằng trời và đất có thể
hợp lại; sông không chảy vào biển... Hoặc như ta có vì vua Ba-tư-nặc mà nói việc núi lớn từ bốn phương đi đến. Hoặc như ta vì bà ưu-bà-di
Lộc mẫu mà nói rằng: ‘Nếu cây sa-la có thể thọ Tám giới ắt cũng sẽ được hưởng khoái lạc ở hai
cõi trời, người.’ Hoặc nói: ‘Thà cho rằng hàng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ mười có tâm
thối chuyển, không nên bảo rằng
Như Lai có nói hai lời.’ Hoặc nói: ‘Thà cho rằng hàng Tu-đà-hoàn đọa vào
ba nẻo ác, không nên bảo rằng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ mười có tâm
thối chuyển.’ Đó gọi là nói những điều
không thật [có nhưng] ứng hợp.
“Thế nào gọi là nói những điều được dùng
rộng rãi trong thế tục? Như Phật có nói đến những điều như
nam nữ, lớn nhỏ, đi đứng nằm ngồi, xe cộ, phòng xá,
bình bát,
y phục,
chúng sanh, thường, lạc, ngã, tịnh, quân binh, rừng rú, thành ấp,
tăng phường, tan hợp... Đó gọi là nói những điều được dùng
rộng rãi trong
thế tục.
“Thế nào gọi là theo đúng ý mà nói? Như Phật có
quở trách người hủy phạm
cấm giới, khiến người ấy tự trách mà [
trở lại]
hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi hàng Tu-đà-hoàn, khiến các
phàm phu sanh khởi lòng lành; ta khen ngợi
Bồ Tát vì những
chúng sanh phát tâm Bồ-đề; ta nói các
khổ não trong
ba đường ác, vì khiến [
chúng sanh]
tu tập các pháp lành. Ta nói tất cả [pháp
thế gian đều] như lửa dữ thiêu đốt, đó chỉ là nói tất cả các
pháp hữu vi. [Ta nói lý]
vô ngã cũng vậy, [đều là nói các
pháp hữu vi]. Ta nói
chúng sanh đều có tánh Phật, là vì khiến cho tất cả đều không buông thả,
biếng nhác. Đó gọi là theo đúng ý mà nói.
“Thiện nam tử!
Như Lai lại có những lời tự ý nói ra. Như nói: ‘Tánh Phật của
Như Lai có hai loại: một là có, hai là không.’
“Nói có, đó là như:
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
Mười lực, Bốn
vô sở úy, Ba
niệm xứ,
Đại từ,
Đại bi,
vô lượng tam-muội như tam-muội Thủ-lăng-nghiêm...,
vô lượng tam-muội như tam-muội
Kim cang...,
vô lượng tam-muội như tam-muội
Phương tiện...,
vô lượng tam-muội như tam-muội
Ngũ trí ấn... Như vậy gọi là có.
“Nói không, đó là như những
nghiệp nhân thiện,
bất thiện và
vô ký, cùng những
quả báo,
phiền não,
năm ấm,
Mười hai nhân duyên của
Như Lai trong
quá khứ. Như vậy gọi là không.
“Thiện nam tử! Như [những pháp] có, không; thiện,
bất thiện;
hữu lậu,
vô lậu;
thế gian, chẳng phải
thế gian; thánh, chẳng phải thánh;
hữu vi,
vô vi; thật, chẳng thật;
vắng lặng, không
vắng lặng;
tranh chấp, không
tranh chấp;
thế giới, chẳng phải
thế giới;
phiền não, chẳng phải
phiền não; chấp giữ,
không chấp giữ;
thọ ký, không
thọ ký;
hiện hữu, không
hiện hữu;
ba đời, chẳng phải
ba đời; hợp thời, không hợp thời; thường,
vô thường; ngã,
vô ngã; lạc, vô lạc; tịnh, vô tịnh; sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức; các nhập bên trong, chẳng phải các nhập bên trong;[72] các nhập bên ngoài, chẳng phải các nhập bên ngoài;[73]
Mười hai nhân duyên, chẳng phải
Mười hai nhân duyên...
“[Những pháp] đó gọi là hai loại có, không trong tánh Phật của
Như Lai. Thậm chí hai loại có, không trong tánh Phật của hạng nhất-xiển-đề cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Tuy Phật dạy rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng
chúng sanh không hiểu được những điều
Phật tự ý nói ra như vậy.
“Thiện nam tử!
Lời nói như vậy, vị
Bồ Tát thọ thân sau cùng còn chưa hiểu nổi, huống chi hàng
Nhị thừa và các
Bồ Tát khác?
“Thiện nam tử! Có lần, tại núi Kỳ-xà-quật, ta cùng với
Bồ Tát Di-lặc luận bàn chân lý tương đối của
thế gian. Xá-lợi-phất và năm trăm vị
Thanh văn nghe những điều ấy mà không hiểu gì cả, huống chi là
chân lý tuyệt đối xuất thế?
“Thiện nam tử! Có tánh Phật mà kẻ nhất-xiển-đề có, nhưng người có căn lành lại không có; hoặc có tánh Phật mà người có căn lành có, nhưng kẻ nhất-xiển-đề lại không có; hoặc có tánh Phật
mà cả hai hạng này đều có; hoặc có tánh Phật
mà cả hai hạng này đều không có.
“Thiện nam tử! Các
đệ tử của ta nếu hiểu được nghĩa của bốn
trường hợp ấy thì không nên
cật vấn rằng: ‘Hạng nhất-xiển-đề
nhất định có tánh Phật hay
nhất định không có tánh Phật?’ Nếu nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật’, đó là lời của
Như Lai tự ý nói ra. Lời của
Như Lai tự ý nói ra, làm sao
chúng sanh lại cứ một mực muốn hiểu thấu?
“Thiện nam tử! Như
dưới sông Hằng có bảy loài
chúng sanh: một là loài thường chìm sâu, hai là loài tạm nổi lên rồi lại chìm, ba là loài nổi lên rồi ở yên [trên mặt nước], bốn là loài nổi lên rồi nhìn quanh bốn phía, năm là loài [nổi lên,] nhìn quanh rồi đi, sáu là loài đi rồi đứng lại, bảy là loài đi cả
dưới nước và trên cạn.
“Loài thường chìm sâu là những cá lớn,
thọ nghiệp ác lớn,
thân thể nặng nề nên ở dưới sâu; vì
thế thường chìm.
“Tạm nổi lên rồi lại chìm là những loài cá lớn ấy, vì
thọ nghiệp ác nên thân nặng nề phải ở chỗ cạn, tạm thấy ánh sáng; nhân ánh sáng mà tạm nổi lên, nhưng vì
thân thể nặng nề nên chìm
trở lại.
“Nổi lên rồi ở yên [trên mặt nước] là loài cá trì-di, ở chỗ nước cạn, ưa thấy ánh sáng, cho nên nổi lên rồi ở yên.
“Nhìn quanh bốn phía là loài cá tích, vì tìm
thức ăn mắt nhìn
bốn hướng, cho nên nhìn quanh bốn phía.
“Nhìn khắp rồi đi là loài cá tích ấy, khi nhìn thấy những vật đằng xa cho rằng đó là vật có thể ăn, liền nhanh chóng đi đến, cho nên nhìn khắp rồi đi.
“Đi rồi lại đứng là loài cá ấy khi đi
tới nơi và đã tìm được món ăn liền dừng lại, cho nên đi rồi lại đứng.
“Đi cả
dưới nước và trên cạn là loài rùa.
“Thiện nam tử! Trong dòng sông Đại Niết-bàn
vi diệu này cũng có bảy loài
chúng sanh, từ loài thứ nhất thường chìm sâu
cho đến loài thứ bảy khi chìm khi nổi.
“Thường chìm sâu là chỉ những người
nghe được trong kinh Đại Niết-bàn này [có những điều như]:
Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi, thường, lạc, ngã, tịnh, không dứt bỏ tất cả mà vào Niết-bàn; tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật; những kẻ nhất-xiển-đề,
phỉ báng kinh Phương đẳng, làm tội năm nghịch, phạm bốn
trọng cấm, thảy đều sẽ
thành đạo Bồ-đề; hàng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và
Phật Bích-chi, thảy đều sẽ được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Nghe được những điều ấy rồi, [những người ấy] sanh lòng chẳng tin, liền khởi lên
suy nghĩ rồi nói ra rằng: ‘Kinh điển Niết-bàn này là sách
ngoại đạo, không phải kinh Phật.’
“Bấy giờ, những người ấy lìa xa bạn lành, không được nghe
Chánh pháp; hoặc có khi được nghe nhưng không thể
suy xét; hoặc có
suy xét nhưng không
suy xét pháp lành. Vì không
suy xét pháp lành nên sống theo pháp ác. Người sống theo pháp ác ắt có sáu điều: một là xấu ác, hai là không có điều thiện, ba là pháp
ô nhiễm, bốn là tăng thêm [nghiệp]
hiện hữu, năm là
phiền não nóng nảy, sáu là nhận chịu quả ác. Như thế gọi là chìm sâu.
“Vì sao gọi là chìm sâu? Vì không có tâm lành, thường làm việc ác, không
tu tập các pháp
đối trị [tâm ác] nên gọi là chìm sâu.
“Gọi là xấu ác vì [làm những việc] bị
thánh nhân quở trách; vì lòng sanh
lo lắng sợ sệt; vì bị người
hiền lành tránh xa; vì không làm
lợi ích gì cho
chúng sanh. Vì thế nên gọi là xấu ác.
“Gọi là không có điều thiện vì [làm những việc] có thể sanh ra
vô số quả báo xấu ác; vì thường bị
vô minh vây phủ
che lấp trói buộc; vì
ưa thích làm bạn với kẻ xấu ác; vì không hề
tu tập các
phương tiện lành; vì tâm
điên đảo thường
sai lầm lẫn lộn. Vì thế gọi là không có điều thiện.
“Gọi là
ô nhiễm pháp vì thường làm
ô nhiễm thân và miệng; vì làm
ô nhiễm những
chúng sanh trong sạch; vì làm tăng thêm những
nghiệp bất thiện; vì lìa xa các pháp lành. Vì thế nên gọi là
ô nhiễm pháp.
“Gọi là tăng thêm [nghiệp]
hiện hữu [vì] những
việc làm thuộc ba điều trên có thể làm tăng thêm [các nghiệp
hiện hữu trong các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ; không thể
tu tập giáo pháp giải thoát;
ba nghiệp thân, miệng, ý không biết chán lìa mọi cảnh
hiện hữu. Vì thế nên gọi là tăng thêm [nghiệp]
hiện hữu.
“Gọi là
phiền não nóng nảy vì làm tất cả những việc thuộc bốn điều như trên có thể khiến cho
thân tâm đều sanh ra
phiền não nóng nảy; lìa xa cảnh
vắng lặng an tĩnh nên gọi là
nóng nảy; lãnh chịu
quả báo địa ngục nên gọi là
nóng nảy; thiêu cháy
chúng sanh nên gọi là
nóng nảy; thiêu cháy các pháp lành nên gọi là
nóng nảy.
“Thiện nam tử! Những người như thế không có đủ
lòng tin trong sạch mát mẻ nên gọi là
nóng nảy.
“Gọi là nhận chịu quả ác vì những người này đã làm đủ những việc thuộc năm điều vừa nói trên,
sau khi chết phải đọa vào các
cảnh giới địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh.
“Thiện nam tử! Có ba việc ác cũng gọi là quả ác:[74] một là việc ác do
phiền não, hai là
việc ác do nghiệp lực,[75] ba là
việc ác do quả báo.[76]
“Như thế gọi là nhận chịu
quả báo xấu ác.
“Thiện nam tử! Những người này đã làm đủ những việc thuộc sáu điều như trên, có thể dứt mất căn lành, làm
năm tội nghịch, phạm bốn
trọng cấm,
phỉ báng Tam bảo,
lạm dụng tài vật
cúng dường trực tiếp cho
Tam bảo, làm
mọi việc trái với Chánh pháp. Vì
nhân duyên ấy, phải
chìm đắm trong
địa ngục A-tỳ, thọ
thân hình [to lớn] ngang dọc đến tám mươi bốn ngàn do-diên! Vì nghiệp thân, khẩu, tâm của những người này rất nặng nên không thể ra khỏi [
địa ngục]. Vì sao vậy? Vì tâm họ không
sanh pháp lành, dù có
vô lượng chư Phật ra đời, họ cũng không nghe, không thấy. Như thế gọi là thường chìm sâu, cũng như những con cá lớn
dưới sông Hằng.
“Thiện nam tử! Tuy ta có nói rằng những kẻ nhất-xiển-đề thường chìm sâu, nhưng cũng có những người thường chìm sâu mà không phải nhất-xiển-đề. Đó là những người nào? Đó là những người vì [tham đắm] các
cảnh giới hiện hữu mà
tu tập bố thí,
trì giới, làm lành. Như thế [cũng] gọi là thường chìm sâu.
“Thiện nam tử! Có bốn
việc lành mang lại quả ác. Những gì là bốn? Một là vì muốn hơn người khác nên
đọc tụng kinh điển, hai là vì
lợi dưỡng nên
thọ trì cấm giới, ba là vì muốn kẻ khác
lệ thuộc mình nên làm việc
bố thí, bốn là vì [cầu được]
cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng nên
chú tâm suy xét.
“Đó là bốn
việc lành mang lại
quả báo ác. Nếu ai
tu tập theo bốn việc ấy thì gọi là chìm rồi lại nổi, nổi rồi lại chìm.
“Vì sao gọi là chìm? Vì
ưa thích ba
cảnh giới hiện hữu.[77] Vì sao gọi là nổi? Vì thấy được ánh sáng. Ánh sáng đây là được nghe biết các
pháp trì giới,
bố thí,
thiền định. Vì sao chìm trở lại? Vì
tăng trưởng tà kiến, sanh lòng
kiêu mạn.
“Cho nên trong kinh ta có thuyết kệ rằng:
Nếu
chúng sanh tham đắm
hiện hữu,
Vì tham đắm gây mọi
ác nghiệp;
Kẻ ấy lạc mất đường Niết-bàn,
Gọi là tạm thoát lại
chìm đắm.
Lang thang trong biển tối
sanh tử,
Tuy
được giải thoát, nhiều
phiền não;
Kẻ ấy lại chịu
quả báo ác,
Gọi là tạm thoát lại
chìm đắm.
“Thiện nam tử! Như cá lớn kia, nhờ thấy ánh sáng nên tạm ra khỏi nước; nhưng vì
thân thể nặng nề phải
chìm đắm trở lại. Hai hạng người vừa nói trên[78] cũng giống như vậy.
“Thiện nam tử! Lại như có người tham đắm
vướng mắc trong
Ba cõi, đó gọi là chìm sâu. Nhưng nhờ được nghe kinh Đại Niết-bàn này liền sanh
lòng tin, đó gọi là ra khỏi. Do
nhân duyên gì mà gọi rằng được ra khỏi? Vì nghe kinh này rồi liền lìa xa các pháp xấu ác,
tu tập pháp lành, nên gọi là ra khỏi.
“Những người này tuy có
lòng tin nhưng không đầy đủ. Vì
nhân duyên gì mà
lòng tin không đầy đủ? Vì những người này tuy tin rằng Đại Bát Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng lại nói rằng thân
Như Lai là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh; rằng
Như Lai có hai loại Niết-bàn, một là
hữu vi, hai là
vô vi; Niết-bàn
hữu vi là
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh; Niết-bàn
vô vi là thường, lạc, ngã, tịnh. Những người này tuy tin rằng
chúng sanh có tánh Phật, nhưng lại cho rằng không phải tất cả
chúng sanh đều có. Vì thế nên gọi là
lòng tin không đầy đủ.
“Thiện nam tử!
Lòng tin có hai phần, một là
tin tưởng, hai là tìm cầu. Những người này tuy có tin mà không
nỗ lực tìm cầu. Vì thế nên gọi là
lòng tin không đầy đủ.
“Lòng tin lại có hai loại, một là do nghe rồi tin, hai là do
suy xét rồi tin.
Lòng tin của những người này do nghe mà sanh ra chứ không do
suy xét mà sanh ra. Vì thế nên gọi là
lòng tin không đầy đủ.
“Lòng tin lại có hai phần, một là tin có
Chánh đạo, hai là tin có người
đạt được Chánh đạo. Những người này chỉ tin có
Chánh đạo mà không tin có người
đạt được Chánh đạo. Vì thế nên gọi là
lòng tin không đầy đủ.
“Lòng tin lại có hai loại, một là chân chánh, hai là
tà vạy. Nói rằng có
nhân quả, có Phật, Pháp, Tăng; đó gọi là tin chân chánh. Nói rằng không có
nhân quả, rằng tánh của
Tam bảo là khác nhau;
tin theo những lời
tà vạy, những kẻ như [
ngoại đạo] Phú-lan-na...; đó gọi là tin
tà vạy. Tuy những người này tin vào
Phật bảo,
Pháp bảo,
Tăng bảo, nhưng không tin rằng
Tam bảo đồng một
tánh tướng; tuy tin vào
nhân quả, nhưng không tin có người nhận lãnh [
quả báo]. Vì thế nên gọi là
lòng tin không đầy đủ.
“Những người này đã không có
lòng tin đầy đủ, lại
thọ trì giới cấm cũng không đầy đủ. Vì
nhân duyên gì gọi là
giới cấm không đầy đủ? Do
nhân không đầy đủ nên chỗ nhận được
giới cấm cũng không đầy đủ.
“Lại do
nhân duyên gì gọi là
giới cấm không đầy đủ? Giới có hai loại, một là giới
oai nghi [
hình thức], hai là giới [
chân thật] vâng làm.[79] Những người này tuy có giới đầy đủ các
oai nghi, nhưng không có giới là sự vâng làm theo
giới luật. Vì thế nên gọi là
giới không đầy đủ.
“Lại nữa, giới có hai loại, một là giới tạo tác, hai là
giới không tạo tác. Những người này tuy có đủ giới tạo tác nhưng không có đủ
giới không tạo tác. Vì thế nên gọi là
giới không đầy đủ.
“Giới lại có hai loại, một là
do nơi thân, miệng mà
đạt được Chánh mạng;[80] hai là
do nơi thân, miệng mà không
đạt được Chánh mạng. Những người này
do nơi thân, miệng không
đạt được Chánh mạng, vì thế nên gọi là
giới không đầy đủ.
“Lại nữa, giới có hai loại, một là
giới tìm cầu, hai là
giới buông xả.[81] Những người này tuy có đủ những
giới tìm cầu, nhưng không
đạt được giới buông xả, vì thế nên gọi là
giới không đầy đủ.
“Lại nữa, giới có hai loại, một là hướng theo các
cảnh giới hiện hữu, hai là hướng theo
Chánh đạo. Những người này tuy có đủ giới hướng theo các
cảnh giới hiện hữu, nhưng không đầy đủ việc hướng theo
Chánh đạo. Vì thế nên gọi là
giới không đầy đủ.
“Giới lại có hai loại, một là
giới hiền thiện, hai là giới xấu ác. Thân, miệng và ý đều hiền thiện, đó gọi là
giới hiền thiện. Các giới [
tà vạy] như giới trâu, giới chó... đó gọi là giới xấu ác. Những người này
tin chắc rằng hai loại giới ấy đều có quả lành. Vì thế nên gọi là
giới không đầy đủ.
“Những người này đã không có đủ hai điều là
lòng tin và
giới luật, chỗ
tu tập nghe nhiều của họ cũng không đầy đủ.
“Thế nào gọi là nghe không đầy đủ?
“Trong
Mười hai bộ kinh mà
Như Lai đã thuyết, chỉ tin vào sáu bộ, còn không tin sáu bộ, vì thế nên gọi là nghe không đầy đủ.
“Tuy
thọ trì được sáu
bộ kinh nhưng không thể tụng đọc, vì người khác giảng nói, nên không được
lợi ích gì cả. Vì thế nên gọi là nghe không đầy đủ.
“Lại nữa, tuy đã có thọ nhận sáu
bộ kinh, nhưng chỉ vì sự
tranh luận, vì muốn vượt hơn người khác, vì muốn được
lợi dưỡng, vì [tham đắm] các
cảnh giới hiện hữu nên mới
giữ gìn, tụng đọc, giảng nói. Vì thế nên gọi là nghe không đầy đủ.
“Thiện nam tử! Trong kinh, ta có nói về việc
tu tập đa văn đầy đủ. Sao là đầy đủ? Như có vị tỳ-kheo thân, miệng, ý hiền thiện, trước hết thường
cúng dường các vị
hòa thượng, các bậc thầy, những vị có
đức độ. Các bậc thầy ấy liền sanh lòng thương tưởng đến tỳ-kheo ấy. Do
nhân duyên này, các ngài liền truyền dạy
kinh điển,
giáo pháp. Vị tỳ-kheo ấy
hết lòng thọ trì, tụng đọc, làm theo. Sau khi
thọ trì, tụng đọc, làm theo liền
đạt được trí tuệ.
Đạt được trí tuệ rồi, thường khéo
suy xét, sống theo
Chánh pháp. Nhờ khéo
suy xét nên
đạt được nghĩa lý chân chánh.
Đạt được nghĩa lý chân chánh rồi,
thân tâm trở nên
vắng lặng,
an tĩnh.
Thân tâm vắng lặng,
an tĩnh rồi, liền sanh lòng
hoan hỷ. Do
nhân duyên hoan hỷ, tâm
đạt được sự định tĩnh. Nhân nơi tâm
an định liền
đạt được sự thấy biết chân chánh. Được sự thấy biết chân chánh rồi, liền sanh lòng
nhàm chán đối với các
cảnh giới hiện hữu. Nhờ
nhàm chán các
cảnh giới hiện hữu nên
đạt được giải thoát.
“Nhưng những người này không hề có được những việc như vậy. Vì thế nên gọi là nghe không đầy đủ.
“Những người này không có đủ
lòng tin,
trì giới,
đa văn, lại cũng không đầy đủ hạnh
bố thí.
“Bố thí có hai loại, một là
bố thí tài vật, hai là
bố thí Chánh pháp. Tuy những người này
bố thí tài vật, nhưng là vì mong cầu [những điều trong] các
cảnh giới hiện hữu. Tuy
bố thí Chánh pháp nhưng cũng không đầy đủ. Vì sao vậy? Vì che giấu không nói ra hết, sợ kẻ khác hơn mình. Vì thế nên gọi là
bố thí không đầy đủ.
“Trong hai cách
bố thí tài vật và
Chánh pháp, mỗi cách lại có hai loại, một là theo cách như bậc thánh, hai là không phải [như bậc] thánh. Bậc thánh
bố thí tài vật rồi thì không cầu
quả báo. Không phải bậc thánh thì
bố thí rồi ắt mong cầu được
quả báo. Bậc thánh
bố thí Chánh pháp vì muốn
tăng trưởng pháp. Không phải bậc thánh thì
bố thí Chánh pháp vì muốn tăng thêm [nghiệp trong] các
cảnh giới hiện hữu.
“Những người này vì muốn được thêm tài vật nên làm việc
bố thí tài vật; vì muốn tăng thêm [nghiệp trong] các
cảnh giới hiện hữu nên làm việc
bố thí Chánh pháp. Vì thế nên gọi là
bố thí không đầy đủ.
“Lại nữa, những người này đã thọ nhận sáu
bộ kinh, khi gặp người
thọ pháp thì
cung cấp cho, gặp người không
thọ pháp thì không
cung cấp. Vì thế nên gọi là
bố thí không đầy đủ.
“Những người này không có đủ
lòng tin,
trì giới,
đa văn,
bố thí, mà chỗ
tu tập trí tuệ cũng không đầy đủ.
“Tánh của
trí tuệ là có khả năng
phân biệt. Những người này không có khả năng
phân biệt Như Lai là
thường hay vô thường.
“Trong kinh Niết-bàn này,
Như Lai dạy rằng: ‘Như Lai tức
giải thoát;
giải thoát tức
Như Lai.
Như Lai tức Niết-bàn; Niết-bàn tức
giải thoát.’ Đối với các nghĩa ấy, những người này không thể
phân biệt.
“[Hoặc nói:] ‘Phạm hạnh tức
Như Lai;
Như Lai tức từ, bi, hỷ, xả; từ, bi, hỷ, xả tức
giải thoát;
giải thoát tức Niết-bàn; Niết-bàn
tức từ, bi, hỷ, xả.’ Đối với các nghĩa ấy, những người này cũng không thể
phân biệt. Vì thế nên gọi là
trí tuệ không đầy đủ.
“Lại nữa, những người này không thể
phân biệt tánh Phật. Tánh Phật tức
Như Lai;
Như Lai tức
pháp không chung đồng với hết thảy các pháp;
pháp không chung đồng với hết thảy các pháp tức là
giải thoát;
giải thoát tức là Niết-bàn; Niết-bàn tức là
pháp không chung đồng với hết thảy các pháp. Đối với các nghĩa ấy, những người này không thể
phân biệt. Vì thế nên gọi là
trí tuệ không đầy đủ.
“Lại nữa, những người này không thể
phân biệt Bốn chân đế: khổ, tập, diệt, đạo. Vì không
phân biệt được
Bốn chân đế nên không
hiểu rõ Thánh hạnh. Vì không
hiểu rõ Thánh hạnh nên không rõ biết
Như Lai. Vì không rõ biết
Như Lai nên không rõ biết
giải thoát. Vì không rõ biết
giải thoát nên không rõ biết Niết-bàn. Vì thế nên gọi là
trí tuệ không đầy đủ.
“Trong số những người không đầy đủ
lòng tin,
trì giới,
đa văn,
bố thí và
trí tuệ, lại chia làm hai hạng: một là những người
tăng trưởng pháp xấu ác, hai là những người
tăng trưởng pháp lành.
“Thế nào là [những người]
tăng trưởng pháp xấu ác? Những người này không tự biết là mình không đầy đủ, luôn tự cho mình là đầy đủ, bèn sanh lòng
vướng mắc, đối với bạn lữ đồng tu thường tự cho mình là hơn hết.
Vì vậy nên chỉ gần gũi những bạn xấu ác giống như mình. Vì gần gũi bạn xấu nên chỉ
nghe được những
pháp không đầy đủ. Nghe rồi lại sanh lòng
vui vẻ, tâm bị
ô nhiễm,
vướng mắc, khởi sanh
kiêu mạn, thường buông thả,
phóng túng và lười nhác. Vì buông thả
phóng túng nên thường gần gũi với người
tại gia thế tục, lại
ưa thích nghe những chuyện của người
thế tục, lìa xa pháp
xuất gia thanh tịnh.
“Do những
nhân duyên ấy nên pháp xấu ác
tăng trưởng. Vì pháp xấu ác
tăng trưởng nên thân, miệng, ý cùng
sanh khởi những nghiệp
bất tịnh. Vì
ba nghiệp thân, miệng, ý
bất tịnh nên làm
tăng trưởng [nghiệp dẫn đến các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
“Như thế gọi là tạm nổi lên rồi lại chìm xuống.
“Những ai trong
giáo pháp của ta thuộc hạng tạm nổi lên rồi lại chìm xuống? Đó là như: Đề-bà-đạt-đa, các tỳ-kheo Cù-già-ly,[82] Uyển-thủ,
Thiện Tinh, Trì-xá,
Mãn Túc, các tỳ-kheo ni Từ Địa, Khoáng Dã, Phương, Mạn, cùng với
trưởng giả Tịnh Khiết, ưu-bà-tắc Cầu Hữu, ông Xá-lặc trong
dòng họ Thích,
trưởng giả Tượng, các ưu-bà-di Danh Xưng,
Quang Minh, Nan-đà, Quân, Linh... Những người như thế gọi là tạm nổi lên rồi chìm xuống.
“Họ
ví như con cá lớn kia, thấy ánh sáng liền nổi lên khỏi nước, nhưng vì
thân thể nặng nề nên chìm sâu
trở lại.
“Hạng người thứ hai là
tăng trưởng pháp lành, luôn tự rõ biết
kiến giải,
công hạnh của mình chưa đầy đủ. Vì chưa đầy đủ nên luôn tìm cầu gần gũi bạn lành. Nhờ gần gũi bạn lành nên
ưa thích được nghe những điều chưa nghe. Nghe rồi
vui thích thọ nhận. Thọ nhận rồi
vui thích suy xét kỹ.
Suy xét kỹ rồi liền sống theo đúng
Chánh pháp. Nhờ sống theo đúng
Chánh pháp nên
tăng trưởng pháp lành. Nhờ
tăng trưởng pháp lành nên không bị chìm
trở lại. Như thế gọi là [nổi lên] rồi ở yên [trên mặt nước].
“Những ai trong
giáo pháp của ta thuộc về hạng này? Đó là như: Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, nhóm ông
A-nhã Kiều-trần-như có năm tỳ-kheo, nhóm ông Da-xá có năm mươi tỳ-kheo,
Đồng tử A-nậu-lâu-đà, Ca-diếp, Ma-ha Ca-diếp,
Thập Lực Ca-diếp, các tỳ-kheo ni Sấu Cù-đàm-di, Ba-trá-la-hoa, Thắng, Thật Nghĩa, Hải Ý, Bạt-đà, Tịnh,
Bất Thối Chuyển... vua Tần-bà-sa-la, các
trưởng giả Úc-già, Tu-đạt-đa, Thích Ma-ha-nam, Bần Tu-đạt-đa Thử Lang, Danh Xưng,
Cụ Túc, Ưu-ba-ly, Đao, cùng với tướng quân
Sư Tử, các ưu-bà-di
Vô Úy,
Thiện Trụ,
Ái Pháp,
Dũng Kiện, Thiên Đắc,
Thiện Sanh, Cụ Thân, Ngưu Đắc, Khoáng Dã, Ma-ha-tư-na. Những tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di như thế gọi là [nổi lên rồi] ở yên.
“Thế nào là ở yên? Vì thường
ưa thích nhìn ánh sáng lành. Do
nhân duyên ấy, cho dù có gặp Phật ra đời hay không thì những người này cũng không bao giờ làm các
nghiệp ác. Đó gọi là ở yên. Cũng như loài cá trì-di ưa nhìn ánh sáng nên không
chìm đắm. Những người này cũng vậy. Cho nên trong kinh ta có thuyết kệ rằng:
“Nếu ai khéo biết
phân biệt nghĩa,
Chí tâm cầu được quả sa-môn;
Chê chán mọi
cảnh giới hiện hữu,
Vị ấy gọi là sống đúng pháp.
Nếu ai
cúng dường vô số Phật,
Sẽ được nhiều kiếp tu
Thánh đạo;
Hưởng vui
thế tục, không buông thả,
Vị ấy gọi là sống đúng pháp.
Gần gũi bạn lành nghe
Chánh pháp,
Suy xét nội tâm, sống đúng pháp.
Thích nhìn chỗ sáng,
tu tập đạo,
Đạt được giải thoát, sống
an ổn.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI LĂM
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BA MƯƠI SÁU
PHẨM BỒ TÁT CA-DIẾP
Phẩm thứ mười hai – Phần bốn[83]
Thiện nam tử!
Trí tuệ không đầy đủ
thường có năm điều. Người này đã biết vậy, liền tìm cầu gần gũi những bạn tốt hiền thiện. Người bạn tốt hiền thiện ấy sẽ
quán sát những sự
tham dục,
sân khuể,
ngu si, nhiều
lo nghĩ hay vướng chấp
bản ngã của người này.
“Trong năm điều ấy, [phải xét xem] người này có khuynh hướng nghiêng về điều gì nhiều nhất? Nếu biết người này có nhiều
tham dục, người bạn hiền ấy liền giảng cho nghe về pháp
quán bất tịnh. Nếu có nhiều
sân khuể, người bạn hiền ấy sẽ thuyết dạy pháp
từ bi. Nếu có nhiều
lo nghĩ lăng xăng, người bạn hiền ấy sẽ dạy pháp quán đếm
hơi thở. Nếu vướng chấp [nhiều nơi]
bản ngã, bạn hiền ấy sẽ phân tích cho nghe những
pháp như Mười tám giới...[84]
“Người này được nghe [những điều từ bạn hiền] rồi liền
hết lòng thọ trì.
Hết lòng thọ trì rồi liền theo đúng pháp mà
tu hành.
Tu hành đúng pháp rồi,
lần lượt đạt được các phép
quán Tứ niệm xứ: thân, thọ, tâm, pháp.
Đạt được các phép quán ấy rồi, lại
lần lượt quán xét
Mười hai nhân duyên. Quán như vậy rồi, tiếp đó
đạt được Noãn pháp.”[85]
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Tất cả
chúng sanh đều có
Noãn pháp. Vì sao vậy? [Vì noãn là hơi ấm,] theo
lời Phật dạy thì có ba pháp
hòa hợp gọi là
chúng sanh, một là tuổi thọ, hai là hơi ấm, ba là
thần thức. Nếu theo nghĩa ấy thì tất cả
chúng sanh lẽ ra trước đã sẵn có hơi ấm, [tức là
noãn pháp]. Vì sao
Như Lai nói rằng nhờ [
nhân duyên] bạn tốt hiền thiện mới sanh ra Noãn pháp?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Theo như câu hỏi của ông thì tất cả
chúng sanh, thậm chí hạng nhất-xiển-đề, đều có
Noãn pháp. Nhưng
Noãn pháp mà ta giảng nói hôm nay trước phải nhân nơi
phương tiện, sau mới có được, cho nên trước vốn không, sau mới có. Vì nghĩa ấy nên không phải tất cả
chúng sanh đều sẵn có từ trước. Do đó, ông không nên
cật vấn rằng: ‘Tất cả
chúng sanh đều có
Noãn pháp.’
“Thiện nam tử!
Noãn pháp [ta dạy đó] là pháp ở
Sắc giới, không có ở
Dục giới. Nếu nói rằng tất cả
chúng sanh đều có, thì
chúng sanh Dục giới lẽ ra cũng có. Nhưng vì
chúng sanh Dục giới không có
Noãn pháp, nên biết rằng không phải tất cả
chúng sanh đều có.
“Thiện nam tử!
Sắc giới tuy có
Noãn pháp nhưng cũng không phải tất cả [
chúng sanh cõi ấy] đều có. Vì sao vậy? Chỉ
đệ tử Phật mới có
Noãn pháp,
ngoại đạo không có. Vì nghĩa ấy, không phải tất cả
chúng sanh đều có
Noãn pháp.
“Thiện nam tử! Tất cả
ngoại đạo chỉ theo
pháp quán sáu hạnh,[86]
đệ tử Phật quán đủ
mười sáu hạnh.[87]
Mười sáu hạnh ấy không phải tất cả
chúng sanh đều có.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Gọi là
Noãn pháp đó, [noãn là nóng ấm,] vì sao gọi là nóng ấm? Vì
tự tánh nóng ấm hay do [
tác động] bên ngoài mà nóng ấm?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Noãn pháp này
tự tánh là nóng ấm, không phải do [
tác động] bên ngoài mà nóng ấm.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch: “Thế Tôn! Trước đây
Như Lai có nói rằng
Mã Sư và
Mãn Túc[88] không có
Noãn pháp. Tại sao vậy? Vì đối với
Tam bảo không có
lòng tin nên không
đạt được Noãn pháp. Như vậy có thể biết rằng
lòng tin chính là
Noãn pháp.”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Lòng tin không phải là
Noãn pháp. Vì sao vậy? Vì [điều đó chỉ có nghĩa là] nhân nơi
lòng tin mà
đạt được Noãn pháp.
“Thiện nam tử!
Noãn pháp tức là
trí tuệ. Vì sao vậy? Vì quán xét
Bốn chân đế, cho nên gọi là
Mười sáu hạnh. Hạnh đó chính là
trí tuệ.
“Thiện nam tử! Như lời ông vừa hỏi: Do
nhân duyên gì mà gọi là nóng ấm?
Thiện nam tử!
Noãn pháp đó tức là tướng lửa của
Tám Thánh đạo, cho nên gọi là nóng ấm.
“Thiện nam tử!
Ví như khi cọ xát để lấy lửa, trước hết phải có hơi nóng, kế đó mới sanh ra lửa, sau hết thì bốc khói.
Thánh đạo vô lậu cũng giống như vậy. Hơi nóng đó tức là
Mười sáu hạnh, lửa tức là
thánh quả Tu-đà-hoàn, khói tức là việc tu
Chánh đạo dứt
trừ phiền não trói buộc.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn!
Noãn pháp như vậy cũng là pháp
hiện hữu, cũng là [pháp]
hữu vi. [Vì] pháp này được
quả báo là
năm ấm ở
Sắc giới, nên gọi là
hiện hữu. [Do]
nhân duyên [mà được] nên gọi là
hữu vi. Nếu là [pháp]
hữu vi, sao có thể là tướng của đạo vô lậu?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đúng vậy, đúng vậy! Quả đúng như lời ông nói. Nhưng
Noãn pháp ấy tuy là
pháp hữu vi, là pháp
hiện hữu, nhưng có thể ngược lại phá trừ các
pháp hữu vi, các pháp
hiện hữu, vì thế
vẫn có thể là tướng của đạo
vô lậu.
“Thiện nam tử! Như người cưỡi ngựa, tuy yêu mến ngựa nhưng cũng quất đánh ngựa. Tâm noãn
cũng thế, vì có yêu mến
tham ái nên phải thọ sanh, nhưng có sự chán lìa nên [
tu tập]
quán hạnh. Vì thế, tuy là pháp
hiện hữu,
pháp hữu vi nhưng cũng có thể là tướng của
Chánh đạo.
“Những
chúng sanh đạt được Noãn pháp có bảy mươi ba hạng.
Dục giới có mười hạng, là những người có đủ tất cả
phiền não, từ dứt trừ một phần
cho đến chín phần [trong mười phần]
phiền não. Cũng như
Dục giới, từ
cõi Sơ thiền cho tới cõi
Vô sở hữu xứ đều là như vậy. Đó gọi là bảy mươi ba hạng [
chúng sanh đạt được Noãn pháp].
“Những người
đạt được Noãn pháp rồi thì không còn dứt mất căn lành, không làm
năm tội nghịch, không phạm
bốn giới cấm nặng. Những người như vậy lại có hai hạng: một là gặp được bạn tốt hiền thiện, hai là gặp phải bạn xấu ác. Những người gặp bạn xấu ác thì tạm nổi lên rồi lại chìm xuống; những người gặp được bạn tốt hiền thiện thì [nổi lên rồi] nhìn quanh bốn phía.
“Nhìn quanh bốn phía tức là [
đạt được]
Đỉnh pháp. Pháp này tuy tánh [của nó] là
năm ấm nhưng cũng duyên với
Bốn chân đế. Cho nên gọi là nhìn quanh bốn phía.
“Đạt được
Đỉnh pháp rồi, tiếp đó
đạt được Nhẫn pháp.
Pháp nhẫn này cũng vậy, tánh [của nó] cũng là
năm ấm, cũng duyên với
Bốn chân đế.
“Tiếp đó
đạt được Thế đệ nhất pháp. Tánh của pháp này cũng là
năm ấm, cũng duyên với
Bốn chân đế.
“Tiếp đó nữa là
đạt được Khổ
pháp nhẫn. Tánh của
pháp nhẫn này là
trí tuệ, duyên với một
chân đế.
Pháp nhẫn này duyên với một
chân đế rồi, cho tới thấy biết dứt
trừ phiền não,
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Đó gọi là hạng
chúng sanh thứ tư,[89] nhìn quanh bốn phía. Bốn phía đó tức là
Bốn chân đế.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Trước đây Phật có dạy: ‘Chỗ
phiền não đã dứt trừ của hàng Tu-đà-hoàn
ví như vùng nước ngang dọc đến bốn mươi dặm, mà
phiền não còn sót lại chỉ như giọt nước trên đầu sợi lông. Trong [đoạn này] sao lại nói rằng dứt trừ ba thứ
phiền não trói buộc gọi là Tu-đà-hoàn? Ba thứ
phiền não trói buộc ấy là:
kiến chấp về
bản ngã,
nhận biết sai lầm về
nguyên nhân và
tồn tại nhiều
nghi vấn.[90]
“Bạch Thế Tôn! Do
nhân duyên gì mà gọi là Tu-đà-hoàn nhìn quanh bốn phía? Lại do
nhân duyên gì gọi là Tu-đà-hoàn? Lại do
nhân duyên gì mà ví hàng Tu-đà-hoàn với loài cá tích?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hàng Tu-đà-hoàn tuy có thể dứt trừ
vô lượng phiền não, nhưng [nói như vậy là] vì ba thứ
phiền não nói trên nặng nề nhất,
bao gồm được tất cả những
phiền não mà vị Tu-đà-hoàn đã dứt trừ.
“Thiện nam tử!
Ví như một vị vua ra đi tuần du, tuy có nhiều quân binh
rầm rộ nhưng người đời chỉ nói: ‘Vua đến, vua đi.’ Vì người đời xem vua là quan trọng nhất. Ba
phiền não kia cũng vậy, [là nặng nề quan trọng nhất trong tất cả các
phiền não]. Do
nhân duyên gì mà gọi là nặng nề quan trọng? Vì tất cả
chúng sanh thường khởi sanh [những
phiền não này] và vì [chúng] rất khó
nhận biết nên gọi là nặng nề quan trọng.
“[Lại cũng] vì ba thứ
phiền não này rất khó dứt trừ; vì chúng có thể làm nhân cho tất cả
phiền não; vì chúng là oán thù đối địch của ba pháp
đối trị: giới, định, tuệ, [cho nên gọi là nặng nề quan trọng].
“Thiện nam tử! Có những
chúng sanh khi nghe vị Tu-đà-hoàn có thể dứt trừ
vô lượng phiền não như vậy liền sanh lòng
thối chuyển, nói rằng: ‘Làm sao
chúng ta có thể dứt trừ nổi
vô lượng phiền não như vậy?’ Vì thế,
Như Lai dùng
phương tiện chỉ nói đến ba [thứ
phiền não].
“Như lời ông vừa hỏi: ‘Do
nhân duyên gì mà ví hàng Tu-đà-hoàn với
chúng sanh nhìn quanh bốn hướng?’ Hàng Tu-đà-hoàn quán
Bốn chân đế đạt được bốn điều: một là trụ vững
kiên cố trong
Chánh đạo, hai là có thể
quan sát khắp cả, ba là có thể thấy biết đúng thật, bốn là có thể làm
tiêu tan mối oán lớn.
“Trụ vững
kiên cố trong
Chánh đạo, đó là năm căn của hàng Tu-đà-hoàn không
động chuyển. Cho nên gọi là trụ vững
kiên cố trong
Chánh đạo.
“Có thể
quan sát khắp cả, đó là có thể chê chán
quở trách phiền não cả bên trong và bên ngoài.
“Thấy biết đúng thật, đó là [
đạt được]
Nhẫn trí.[91]
“Làm
tiêu tan mối oán lớn, là nói [dứt trừ được]
bốn sự điên đảo.[92]
“Như lời ông vừa hỏi: ‘Do
nhân duyên gì mà gọi là Tu-đà-hoàn?’[93]
“Thiện nam tử! Chữ tu [trong Tu-đà-hoàn] có nghĩa là
vô lậu; đà-hoàn nghĩa là
tu tập. Vì
tu tập pháp
vô lậu nên gọi là Tu-đà-hoàn.
“Thiện nam tử! Lại nữa, tu nghĩa là dòng chảy. Có hai thứ dòng chảy, một là thuận dòng, hai là nghịch dòng. Vì ngược dòng chảy nên gọi là Tu-đà-hoàn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu là theo nghĩa ngược dòng thì do
nhân duyên gì mà hàng Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán không gọi là Tu-đà-hoàn?”[94]
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Từ hàng Tu-đà-hoàn
cho đến chư Phật cũng đều có thể gọi là Tu-đà-hoàn. Nếu Tư-đà-hàm
cho đến chư Phật không có [
quả vị] Tu-đà-hoàn, sao có thể gọi là Tư-đà-hàm...
cho đến chư Phật?
“Tên gọi của tất cả
chúng sanh có hai loại, một là tên cũ, hai là tên mới. Khi còn là
phàm phu có tên gọi của
thế tục, sau khi
chứng đạo rồi mới [theo
quả vị]
lập thành danh xưng, gọi là Tu-đà-hoàn.
“Do sự
chứng đạo trước tiên nên gọi là Tu-đà-hoàn; do sự
chứng đạo sau đó nên gọi là Tư-đà-hàm. Vị này gọi là Tu-đà-hoàn và cũng gọi là Tư-đà-hàm.
Cho đến chư Phật cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Gọi là dòng đó, có hai loại: một là
giải thoát, hai là Niết-bàn. Tất cả
thánh nhân đều có đủ hai dòng ấy, nên có thể gọi là Tu-đà-hoàn, cũng gọi là Tư-đà-hàm.
Cho đến chư Phật cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Tu-đà-hoàn cũng gọi là
Bồ Tát. Vì sao vậy?
Bồ Tát tức là
Tận trí[95] và
Vô sanh trí.[96] Vị Tu-đà-hoàn cũng mong cầu hướng đến hai
loại trí này, nên phải biết rằng vị Tu-đà-hoàn cũng được xưng là
Bồ Tát.
“Vị Tu-đà-hoàn cũng được xưng là
tỉnh giác. Vì sao vậy? Vì
tỉnh giác chân chánh, thấy đạo và dứt
trừ phiền não; vì
tỉnh giác chân chánh là
nhân quả; vì
tỉnh giác chân chánh là đạo chung cùng và không chung cùng [với hàng
Nhị thừa]. Từ vị Tư-đà-hàm
cho đến A-la-hán lại cũng như vậy.
“Thiện nam tử! Hàng Tu-đà-hoàn có hai hạng, một là căn trí
lanh lợi, hai là căn trí chậm lụt. Hạng căn trí chậm lụt phải
trải qua bảy lần
tái sanh trong hai
cõi trời, người [mới
được giải thoát]. Trong hạng căn trí chậm lụt lại phân ra làm năm loại; hoặc phân làm sáu, năm, bốn, ba, hai loại. Hạng căn trí
lanh lợi thì ngay trong
hiện tại chứng đắc quả Tu-đà-hoàn
cho đến quả A-la-hán.
“Thiện nam tử! Như lời ông vừa hỏi: ‘Do
nhân duyên gì mà ví hàng Tu-đà-hoàn với loài cá tích?’
“Thiện nam tử! Cá tích có bốn
tính chất: một là xương nhỏ nên nhẹ, hai là có cánh nên nhẹ, ba là
ưa thích nhìn ánh sáng, bốn là cắn ngậm đồ vật một cách
chắc chắn.
“Hàng Tu-đà-hoàn cũng có bốn
tính chất [
tương tự]. Nói xương nhỏ là ví với
phiền não vi tế; nói có cánh là ví với hai pháp tu
chỉ và quán;[97]
ưa thích nhìn ánh sáng là ví với việc thấy đạo; cắn ngậm đồ vật một cách
chắc chắn là ví với việc được nghe
Như Lai giảng giải về
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh liền giữ mãi không bỏ mất.
“Ví như có lần
Ma vương hóa làm hình Phật,
trưởng giả Thủ-la nhìn thấy trong lòng kinh sợ. Ma thấy
trưởng giả đã động tâm, liền bảo: ‘Bốn
chân đế mà ta đã thuyết dạy là
giả dối, không
chân thật. Nay ta sẽ vì ông mà thuyết dạy Năm đế, Sáu ấm, Mười ba nhập, Mười chín giới.’
Trưởng giả nghe rồi liền
tức thời quán tướng pháp, thấy
hoàn toàn không có những lý như vậy nên giữ lòng
kiên trì,
tâm không lay động.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! [Như
lời Phật dạy rằng] vị Tu-đà-hoàn đó, do sự
chứng đạo trước tiên nên gọi là Tu-đà-hoàn; vì là
quả vị ban đầu nên gọi là Tu-đà-hoàn. Nếu do sự
chứng đạo trước tiên nên gọi là Tu-đà-hoàn, vì sao khi
chứng đắc Khổ
pháp nhẫn chẳng được gọi là Tu-đà-hoàn, chỉ gọi là Hướng [Tu-đà-hoàn] mà thôi? Nếu vì
quả vị ban đầu nên gọi là Tu-đà-hoàn, vì sao những
ngoại đạo trước đã đoạn
phiền não,
cho đến đạt được cảnh giới Vô sở hữu,
tu tập đạo
vô lậu,
chứng đắc quả A-na-hàm mà không gọi là Tu-đà-hoàn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì là
quả vị ban đầu nên gọi là Tu-đà-hoàn. Như lời ông vừa hỏi: ‘Vì sao những
ngoại đạo trước đã đoạn
phiền não,
cho đến đạt được cảnh giới Vô sở hữu,
tu tập đạo
vô lậu,
chứng đắc quả A-na-hàm mà không gọi là Tu-đà-hoàn?’
“Thiện nam tử! Vì là
quả vị ban đầu nên gọi là Tu-đà-hoàn. Vị này vào
lúc ấy có đủ
Tám trí[98] và
Mười sáu hạnh.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Người
chứng đắc quả A-na-hàm cũng vậy, cũng
chứng đắc Tám trí, đủ
Mười sáu hạnh, sao không được gọi là Tu-đà-hoàn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Mười sáu hạnh hữu lậu có hai loại, một là chung cùng [với hàng
Nhị thừa], hai là không chung cùng.
Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai loại, một là hướng quả, hai là
đắc quả.
Tám trí cũng có hai loại, một là hướng quả, hai là
đắc quả.
“Vị Tu-đà-hoàn
buông bỏ Mười sáu hạnh chung cùng,
đạt được Mười sáu hạnh không chung cùng [với hàng
Nhị thừa];
buông bỏ Tám trí hướng quả,
chứng đắc Tám trí đắc quả. Vị A-na-hàm không giống như vậy. Cho nên
quả vị ban đầu gọi là Tu-đà-hoàn.
“Thiện nam tử! Vị Tu-đà-hoàn duyên với
Bốn chân đế, vị A-na-hàm chỉ duyên với Một
chân đế. Cho nên
quả vị ban đầu gọi là Tu-đà-hoàn.
“Vì
nhân duyên ấy nên ta nói ví dụ cá tích nhìn quanh rồi đi. Đi, tức là nói vị Tư-đà-hàm
chú tâm vào việc
tu đạo, vì đoạn trừ
tham dục, sân, si,
kiêu mạn. Như con cá tích kia, nhìn quanh bốn phía rồi vì tìm
thức ăn mà đi. Đi rồi lại dừng là
ví như vị A-na-hàm được món ăn [
pháp thực] rồi liền dừng lại.
“Hàng A-na-hàm có hai hạng. Thứ nhất là hạng
chứng quả A-na-hàm trong
hiện tại rồi
tinh tấn tu tập, liền
chứng đắc quả A-la-hán. Thứ hai là hạng tham đắm
vướng mắc nơi cảnh
vắng lặng an tĩnh của pháp tam-muội trong hai cõi
Sắc giới và
Vô sắc giới. Những vị này không còn thọ thân trong
Dục giới nên gọi là A-na-hàm.[99]
“Hàng A-na-hàm lại có năm hạng, một là
Trung bát Niết-bàn, hai là Thọ thân Niết-bàn, ba là
Hành bát Niết-bàn, bốn là
Vô hành bát Niết-bàn, năm là
Thượng lưu bát Niết-bàn.
“Lại có sáu hạng, gồm năm hạng kể trên, thêm vào
hạng thứ sáu là
Hiện tại bát Niết-bàn.
“Lại có bảy hạng, gồm sáu hạng kể trên, thêm vào
hạng thứ bảy là
Vô sắc giới bát Niết-bàn.
“Hàng A-na-hàm
Hành bát Niết-bàn lại có hai hạng, hoặc thọ thân hai lần, hoặc thọ thân bốn lần. Nếu thọ thân hai lần gọi là căn trí
lanh lợi. Nếu thọ thân bốn lần gọi là căn trí chậm lụt.
“Lại cũng có hai hạng, một là
tinh tấn nhưng không có mức định
tự tại; hai là biếng trễ nhưng có mức định
tự tại. Lại cũng có hai hạng, một là đầy đủ cả
tinh tấn và mức định
tự tại, hai là không có cả hai.
“Thiện nam tử!
Chúng sanh Dục giới có hai loại nghiệp, một là nghiệp tạo tác, hai là
nghiệp thọ sanh.
“Hàng A-na-hàm
Trung bát Niết-bàn chỉ có nghiệp tạo tác mà không có
nghiệp thọ sanh, cho nên ở khoảng
trung gian mà nhập Niết-bàn. Khi xả bỏ
sắc thân ở
Dục giới mà còn chưa lên đến cõi
Sắc giới, nhờ có căn trí
lanh lợi nên giữa khoảng
trung gian đó họ nhập Niết-bàn.
“Hàng A-na-hàm
Trung bát Niết-bàn này có bốn tâm: một là tâm chẳng phải học, chẳng phải
vô học; hai là
tâm học; ba là tâm
vô học; bốn là tâm chẳng phải học, chẳng phải
vô học.[100] [Vị A-na-hàm
trải qua bốn tâm ấy rồi] nhập Niết-bàn.
“Vì sao gọi là
Trung bát Niết-bàn?
“Thiện nam tử! Trong bốn tâm của bậc A-na-hàm ấy có hai tâm là Niết-bàn, hai
tâm không phải Niết-bàn, cho nên gọi là
Trung bát Niết-bàn.
“Hàng A-na-hàm Thọ thân bát Niết-bàn lại có hai nghiệp, một là nghiệp tạo tác, hai là
nghiệp thọ sanh. Vị A-na-hàm này bỏ thân ở
Dục giới liền thọ thân ở
Sắc giới,
tinh cần tu tập, khi
thọ mạng hết thì nhập Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng khi
thọ mạng hết thì nhập Niết-bàn, vậy sao nói là Thọ thân Niết-bàn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những người ấy có thọ thân rồi sau mới dứt
trừ phiền não trong
Ba cõi, cho nên gọi là Thọ thân Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Hành bát Niết-bàn là [vị A-na-hàm] thường
tu hành Chánh đạo, nhờ sức tam-muội
hữu vi nên dứt trừ được
phiền não, liền nhập Niết-bàn. Đó gọi là
Hành bát Niết-bàn.
“Vô
hành Bát Niết-bàn, là [vị A-na-hàm] biết chắc rằng sẽ được nhập Niết-bàn nên sanh ra biếng trễ, nhưng cũng nhờ có sức tam-muội
hữu vi nên khi
thọ mạng hết thì nhập Niết-bàn. Đó gọi là
Vô hành bát Niết-bàn.
“Về hàng A-na-hàm
Thượng lưu bát Niết-bàn, như có người đã
chứng đắc Đệ tứ thiền lại sanh tâm
ái luyến Sơ thiền. Vì
nhân duyên ấy nên thọ sanh
trở lại nơi
cảnh giới Sơ thiền. Nơi đây phân làm hai hạng, một là theo dòng
phiền não, hai là theo dòng
Chánh đạo. Người theo dòng
Chánh đạo, khi
thọ mạng hết lại sanh tâm
ái luyến Đệ nhị thiền. Vì
nhân duyên ấy nên thọ sanh
cảnh giới Đệ nhị thiền.
Cho đến cảnh giới Đệ tứ thiền lại cũng như vậy.
“Người ở
cảnh giới Đệ tứ thiền lại có hai hạng, một là sanh vào
Vô sắc giới, hai là sanh vào Năm
cõi trời tịnh cư.[101] Hai hạng người này, một là
ưa thích tam-muội; hai là
ưa thích trí tuệ. Người
ưa thích trí tuệ thì sanh vào Năm
cõi trời tịnh cư; người
ưa thích tam-muội thì sanh vào
Vô sắc giới.
“Lại nữa, hai hạng người [ở
cảnh giới Đệ tứ thiền] này, một là
tu tập Đệ tứ thiền với năm mức độ khác nhau, hai là không
tu tập [
Đệ tứ thiền]. Thế nào là năm [mức độ khác nhau]? Đó là bậc thấp, bậc vừa, bậc cao, bậc cao hơn và bậc cao nhất. Người tu bậc cao nhất sẽ sanh vào
cõi trời Sắc cứu cánh. Người tu bậc cao hơn sẽ sanh vào
cõi trời Thiện hiện. Người tu bậc cao sẽ sanh vào
cõi trời Thiện kiến. Người tu bậc vừa sẽ sanh vào
cõi trời Vô nhiệt. Người tu bậc thấp sẽ sanh vào
cõi trời Vô phiền.
“Lại nữa, hai hạng người [ở
cảnh giới Đệ tứ thiền] này, một là
ưa thích luận thuyết giảng giải; hai là
ưa thích vắng lặng an tĩnh. Người
ưa thích vắng lặng an tĩnh sẽ sanh vào
Vô sắc giới. Người
ưa thích luận thuyết giảng giải sẽ sanh vào Năm
cõi trời tịnh cư.
“Lại nữa, hai hạng người [ở
cảnh giới Đệ tứ thiền] này, một là
tu tập Huân thiền,[102] hai là không
tu tập Huân thiền. Người
tu tập Huân thiền sanh vào Năm
cõi trời tịnh cư; người không
tu tập Huân thiền sanh vào
Vô sắc giới. Đến khi
thọ mạng hết sẽ nhập Niết-bàn. Đó gọi là
Thượng lưu bát Niết-bàn.
“Nếu người muốn sanh vào
Vô sắc giới thì không thể
tu tập Đệ tứ thiền với năm mức độ khác nhau [như trên]. Người tu năm mức thiền này thường
chê trách phép
định Vô sắc giới.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Hàng A-na-hàm
Trung bát Niết-bàn đó ắt là căn trí
lanh lợi. Nếu là căn trí
lanh lợi, sao
hiện tại không nhập Niết-bàn? Vì sao ở
Dục giới có
Trung Bát Niết-bàn còn ở
Sắc giới thì không?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những người này do trong
hiện tại bốn đại yếu ớt, không thể
tu tập Chánh đạo. Tuy có những tỳ-kheo
thân thể được khỏe mạnh, nhưng vì không có chỗ ngủ nghỉ,
thức ăn uống,
y phục, giường nằm, thuốc men... các duyên chẳng đủ nên họ không
thể nhập Niết-bàn ngay trong
hiện tại.
“Thiện nam tử! Có
một lần, khi ta đang ở
tinh xá Kỳ viên[103] tại thành Xá-vệ, có một tỳ-kheo đi đến chỗ ta thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Con thường
tu tập Chánh đạo nhưng không thể
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn
cho đến quả A-la-hán.’
“Khi ấy ta liền bảo A-nan: ‘Nay ông nên vì tỳ-kheo này lo
cung cấp đủ các thứ
cần dùng.’
“Bấy giờ, A-nan đưa vị tỳ-kheo ấy đến
rừng Kỳ-đà,[104] sắp xếp cho một gian phòng tốt để ở. Tỳ-kheo ấy liền bảo A-nan: ‘Đại đức! Xin ngài vì tôi
trang nghiêm phòng ốc, sửa
dọn sạch sẽ và
trang hoàng bằng
bảy món báu thật
nghiêm trang, treo đủ các thứ phướn, lọng bằng lụa.’
“A-nan đáp: ‘Vì là người nghèo của
thế gian mới được gọi là sa-môn,[105] làm sao tôi có thể lo được những thứ như vậy cho ông?’
“Tỳ-kheo ấy nói: ‘Nếu
đại đức có thể vì tôi làm được như
vậy thì tốt lắm, tốt lắm! Bằng không thể được thì tôi sẽ quay lại chỗ
Thế Tôn vậy.’
“Bấy giờ, A-nan liền đến chỗ Phật thưa: ‘Bạch Thế Tôn! Thầy tỳ-kheo khi nãy có
yêu cầu con lo đủ mọi thứ
trang nghiêm bằng
bảy báu, phướn, lọng. Con không biết việc này phải làm thế nào?’
“Ta lại dạy A-nan: ‘Nay ông hãy
trở lại đó,
tùy ý tỳ-kheo ấy
cần dùng những gì thì
cung cấp cho đầy đủ.’
“Bấy giờ, A-nan liền
trở lại phòng tỳ-kheo ấy,
cung cấp đầy đủ mọi thứ [như
yêu cầu]. Tỳ-kheo ấy có đủ mọi thứ rồi liền
chú tâm tu tập, không bao lâu liền
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn,
lần lượt cho đến quả A-la-hán.
“Thiện nam tử! Có
vô lượng chúng sanh lẽ ra có
thể nhập Niết-bàn, nhưng vì sự
thiếu thốn gây
chướng ngại,
rối loạn trong tâm nên không
thể đạt được.
“Thiện nam tử! Lại có những
chúng sanh thường
vui thích trong việc
giáo hóa,
hối hả [bận rộn
chạy theo] nhiều việc, không
thể đạt được [tâm] định, nên không
thể nhập Niết-bàn ngay trong
hiện tại.
“Thiện nam tử! Như lời ông vừa hỏi: ‘Do
nhân duyên gì khi bỏ thân ở
Dục giới có Trung [bát] Niết-bàn, còn ở
Sắc giới không có?’
“Vị A-na-hàm quán xét những
phiền não ở
Dục giới có hai loại
nhân duyên, một là bên trong, hai là bên ngoài; nhưng ở
Sắc giới không có
nhân duyên bên ngoài.
“Dục giới lại có hai loại tâm
tham ái, một là
tham muốn ái dục, hai là
tham muốn hình sắc.[106] Quán xét hai tâm
tham ái ấy rồi
hết lòng chê trách.
Chê trách như vậy rồi liền có
thể nhập Niết-bàn.
“Tại
Dục giới, người tu có thể
chê trách các
phiền não thô thiển như
tham tiếc,
sân hận,
đố kỵ, không biết
hổ thẹn... Do
nhân duyên này nên có
thể nhập Niết-bàn.
“Lại nữa,
chúng sanh Dục giới vốn tánh mạnh mẽ. Vì sao vậy? Vì có
thể đạt được cả Bốn
thánh quả.
“Vì thế nên ở
Dục giới có
Trung bát Niết-bàn, còn ở
Sắc giới thì không.
“Thiện nam tử!
Trung bát Niết-bàn có ba bậc: bậc cao, bậc vừa, bậc thấp. Bậc cao là nhập Niết-bàn ngay khi bỏ thân, chưa lìa khỏi
Dục giới. Bậc vừa là nhập Niết-bàn khi lìa khỏi
Dục giới nhưng chưa lên tới
Sắc giới. Bậc thấp là nhập Niết-bàn khi đã lìa khỏi
Dục giới rồi lên đến bên cạnh
Sắc giới.
Ví như loài cá tích được món ăn rồi thì dừng lại, những người này cũng vậy.
“Sao gọi là dừng lại? Vì ở hai cõi
Sắc giới và
Vô sắc giới mà thọ thân nên gọi là dừng lại. Vì không thọ thân trong các
cõi trời, người,
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh thuộc
Dục giới nên gọi là dừng lại. Vì đã dứt trừ
vô lượng phiền não trói buộc chỉ còn lại rất ít nên gọi là dừng lại.
“Lại do
nhân duyên gì gọi là dừng lại? Vì không bao giờ tạo tác những việc chung cùng với hạng
phàm phu nên gọi là dừng lại. Tự mình không còn
sợ hãi và không làm cho kẻ khác
sợ hãi nên gọi là dừng lại. Lìa khỏi hai tâm
tham ái[107] [và các
phiền não như]
tham tiếc,
sân khuể... nên gọi là dừng lại.
“Thiện nam tử! Nói
đến bờ bên kia là dụ cho các bậc A-la-hán,
Phật Bích-chi,
Bồ Tát, Phật; cũng như rùa thần đi được cả
dưới nước và trên
đất liền.
“Do
nhân duyên gì mà ví với loài rùa? Vì loài rùa khéo che giấu cả
tứ chi và đầu. Các bậc
chứng quả từ A-la-hán
cho đến chư Phật cũng giống như vậy, khéo che trùm cả năm căn. Cho nên dùng rùa làm ví dụ.
“Nói
dưới nước và trên
đất liền; nước là ví với
thế gian,
đất liền ví với
xuất thế. Các bậc thánh ấy lại cũng như vậy; vì có thể quán xét tất cả
phiền não xấu ác nên đến được
bờ bên kia. Vì thế
ví như đi được cả ở
dưới nước và trên
đất liền.
“Thiện nam tử! Như bảy loài
chúng sanh dưới sông Hằng. Tuy có những tên gọi như rùa, cá... nhưng thảy đều không lìa khỏi nước. Trong kinh
vi diệu Đại Niết-bàn này, từ hạng nhất-xiển-đề lên đến chư Phật, tuy tên gọi khác nhau, nhưng thảy đều cũng không lìa khỏi chất nước là tánh Phật.
“Thiện nam tử! Bảy loài
chúng sanh ấy, như có
pháp thiện hoặc pháp
bất thiện, hoặc đạo
phương tiện, hoặc đạo
giải thoát, hoặc đạo
tuần tự,
hoặc nhân, hoặc quả... thảy đều là tánh Phật.
“[
Giảng giải những điều như thế] gọi là
Như Lai tự ý nói ra.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu có nhân ắt có quả;
nếu không nhân ắt
không quả. Niết-bàn gọi là quả, nhưng vì Niết-bàn là thường còn nên không có nhân.
Nếu không có nhân, sao gọi là quả? Nhưng Niết-bàn cũng gọi là sa-môn, cũng gọi là quả của sa-môn. Vậy thế nào là sa-môn? Thế nào là quả của sa-môn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong
thế gian cả thảy có bảy loại kết quả. Một là quả của
phương tiện, hai là quả của sự
báo ân, ba là quả của sự thân cận, bốn là quả của tàn dư, năm là quả
bình đẳng, sáu là quả của
quả báo, bảy là quả của sự
xa lìa.
“Thế nào là quả của phương tiện? Như người
thế gian đến
mùa gặt được nhiều lúa thóc, cùng bảo nhau rằng: ‘Được quả của
phương tiện.’[108] Quả của
phương tiện đó gọi là quả [trực tiếp] của
hành vi tạo nghiệp.[109] Quả này có hai loại nhân, một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp, chẳng hạn như
hạt giống; nhân
gián tiếp, chẳng hạn như nước tưới, phân bón, nhân công... Như thế gọi là quả của
phương tiện.
“Thế nào là quả của sự báo ân? Như người
thế gian cung kính nuôi dưỡng cha mẹ,
cha mẹ đều nói rằng: ‘Nay
chúng tôi đã được hưởng quả của
công ơn nuôi dưỡng.’ Con cái biết
báo ân cha mẹ thì gọi [sự
báo ân] đó là quả. Quả này cũng có hai loại nhân: một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp là nghiệp thuần thiện trong
quá khứ của
cha mẹ; nhân
gián tiếp là đứa con có hiếu mà
cha mẹ đã sanh ra. Như thế gọi là quả của sự
báo ân.
“Thế nào là quả của sự thân cận? Như có người thân cận bạn tốt hiền thiện, [nhờ đó]
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn
cho đến quả A-la-hán. Người ấy nói rằng: ‘Nay tôi đã được quả của sự thân cận.’ Quả này cũng có hai loại nhân: một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp là
lòng tin [của
bản thân]; nhân
gián tiếp là bạn tốt hiền thiện. Như thế gọi là quả của sự thân cận.
“Thế nào là quả của tàn dư?[110] Như [có người] do
nhân không giết hại mà [về sau] được thân thứ ba sống lâu. Đó gọi là quả của tàn dư. Quả này cũng có hai loại nhân: một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp là thân, miệng,
ý thanh tịnh; nhân
gián tiếp là [những
nghiệp lành dẫn đến][111] sự sống lâu. Như thế gọi là quả của tàn dư.
“Thế nào là quả bình đẳng? Đó là môi trường
thế giới [mà tất cả
chúng sanh cùng sống trong đó]. Quả này cũng có hai loại nhân: một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp là nói
chúng sanh tu
Mười nghiệp lành; nhân
gián tiếp là
Ba tai kiếp lớn.[112] Như thế gọi là quả
bình đẳng.[113]
“Thế nào gọi là quả của quả báo? Như người được [
quả báo có]
thân thanh tịnh rồi, lại
tu tập ba nghiệp thanh tịnh về thân, miệng, ý. Người ấy có thể nói: ‘Tôi được quả [của quả] báo. Quả này cũng có hai loại nhân: một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp là thân, miệng, ý
hiện tại thanh tịnh; nhân
gián tiếp là thân, miệng, ý trong
quá khứ [đã
tu tập]
thanh tịnh. Đó gọi là quả của
quả báo.[114]
“Thế nào là quả của sự xa lìa? Đó chính là Niết-bàn. [Vì sự]
xa lìa các
phiền não, làm tất cả
nghiệp lành là nhân của Niết-bàn. Lại cũng có hai loại nhân: một là
nhân trực tiếp, hai là nhân
gián tiếp.
Nhân trực tiếp là nói
Ba môn giải thoát;[115] nhân
gián tiếp là tất cả pháp lành đã
tu tập trong
vô lượng kiếp.
“Thiện nam tử! Trong pháp
thế gian, hoặc nói nhân sanh ra, hoặc nói nhân
thành tựu. Đối với pháp
xuất thế cũng vậy, cũng nói có nhân sanh ra, có nhân
thành tựu.
“Thiện nam tử! [Như]
Ba môn giải thoát, Ba mươi bảy phẩm [
trợ đạo] có thể làm nhân sanh ra sự
chấm dứt của tất cả
phiền não, cũng làm nhân
thành tựu của Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Lìa xa
phiền não thì thấy rõ được Niết-bàn một cách
sáng suốt,
minh bạch, cho nên Niết-bàn chỉ có nhân
thành tựu mà không hề có nhân sanh ra.
“Thiện nam tử!
Theo như lời ông hỏi: ‘Thế nào là sa-môn? Thế nào là quả của sa-môn?’
“Thiện nam tử! Sa-môn[116] là Tám
chánh đạo, quả của sa-môn là [
tu tập] theo
Chánh đạo nên
rốt ráo được
xa lìa vĩnh viễn tất cả [
phiền não như] tham, sân, si... Như thế gọi là sa-môn và quả của sa-môn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Do
nhân duyên gì mà Tám
chánh đạo gọi là sa-môn?”[117]
Phật dạy: “Thiện nam tử! Người đời dịch nghĩa sa-môn là
phạp đạo, [nghĩa là đạo dứt trừ mọi sự
thiếu thốn]. Như [Tám chánh] đạo là dứt trừ tất cả sự
thiếu thốn, dứt trừ tất cả đạo. Vì nghĩa ấy nên gọi Tám
chánh đạo là sa-môn. [
Tu tập] theo Tám
chánh đạo sẽ
đạt được Thánh quả, nên gọi là quả của sa-môn.
“Thiện nam tử! Lại nữa, [sa-môn dịch nghĩa là
tĩnh chí, là tâm ý
an tĩnh, nên] người
thế gian ưa thích sự
vắng lặng an tĩnh cũng gọi là sa-môn. Như [Tám chánh] đạo cũng vậy, có thể giúp người
tu tập lìa khỏi những điều xấu ác của thân, miệng, ý..., được cái vui
vắng lặng an tĩnh, cho nên gọi [người
tu tập Tám
chánh đạo] là sa-môn.
“Thiện nam tử! [Sa-môn cũng dịch nghĩa là
tức ác, là
chấm dứt mọi sự xấu ác, nên] người đời từ chỗ
thấp hèn [vươn lên] thành người cao thượng gọi là sa-môn. Như [Tám chánh] đạo cũng vậy, có thể khiến người
thấp hèn thành người cao quý, cho nên gọi [người
tu tập Tám
chánh đạo] là sa-môn.
“Thiện nam tử! Vị A-la-hán
tu tập [Tám chánh] đạo này,
đạt được quả sa-môn, cho nên gọi là
giải thoát. Quả A-la-hán tức là năm phần
Pháp thân của bậc
Vô học, gồm giới, định, tuệ,
giải thoát và
giải thoát tri kiến. Nhân nơi năm phần [
Pháp thân] này mà
được giải thoát, nên gọi là bậc
Giải thoát. Vì đã
được giải thoát nên [vị ấy] tự nói ra rằng:
Tử sanh nay đã dứt rồi,
Hạnh
thanh tịnh đã vun bồi
thành công,
Việc cần làm đã làm xong,
Từ nay
vĩnh viễn không còn thân sau!
“Thiện nam tử! Vị A-la-hán này đã dứt trừ
vĩnh viễn nhân duyên của sự sanh ra trong
quá khứ,
hiện tại và
vị lai, nên tự nói rằng: ‘Tử sanh nay đã dứt.’ Lại cũng vì đã dứt trừ thân
năm ấm trong
Ba cõi nên nói rằng: “Tử sanh nay đã dứt.’
“Chỗ
tu tập hạnh
thanh tịnh của vị này đã
rốt ráo, nên nói rằng: ‘Hạnh
thanh tịnh đã
trọn vẹn.’ Lại cũng vì đã
buông xả sự
học đạo nên nói rằng: ‘Hạnh
thanh tịnh đã
trọn vẹn.’
“Theo như chỗ mong cầu từ xưa, nay đã
đạt được nên nói rằng: ‘Việc cần làm đã làm xong.’ Việc
tu tập Chánh đạo đã đạt kết quả nên cũng nói rằng: ‘Đã xong.’
“Vì
đạt được Tận trí[118] và
Vô sanh trí [119]nên nói rằng: ‘Tử sanh nay đã dứt, mọi
phiền não trói buộc trong
Ba cõi đều đã dứt sạch.’ Vì nghĩa ấy nên gọi là bậc A-la-hán, đã
được giải thoát.
“Cũng giống như A-la-hán, vị
Phật Bích-chi cũng vậy.
“Bồ Tát và Phật
thành tựu đầy đủ Sáu ba-la-mật, gọi là ‘đến bờ bên kia’. Vì các vị đã
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên gọi là đầy đủ Sáu Ba-la-mật. Vì sao vậy? Vì
đạt được kết quả của Sáu Ba-la-mật; vì
đạt được quả nên gọi là đầy đủ.
“Thiện nam tử! Trong bảy loài
chúng sanh [vừa nói trên, có những người] không
tu thân, giới, tâm, tuệ.[120] Vì không thường
tu tập bốn pháp ấy nên thường tạo tác
năm tội nghịch, có thể dứt mất căn lành, phạm vào
bốn giới cấm nặng,
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng; nên gọi [những người ấy] là thường chìm sâu.
“Thiện nam tử! Trong bảy hạng người [đã nói], nếu ai biết gần gũi bậc
thiện tri thức,
hết lòng lắng nghe và thọ nhận
Chánh pháp của
Như Lai, khéo
suy xét nội tâm, sống theo đúng
Chánh pháp,
tinh cần tu tập thân, giới, tâm, tuệ, vì thế được gọi là
vượt sông sanh tử đến bờ
giải thoát bên kia.
“Nếu nói rằng hạng nhất-xiển-đề
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đó là đắm nhiễm vướng chấp; nếu nói rằng không
đạt được thì là
hư dối.
“Thiện nam tử! Trong bảy hạng người [kể trên], có khi chỉ một người gồm đủ [
tính chất của] bảy hạng ấy, hoặc có khi bảy hạng người đều có chung một
tính chất [trong số đó].
“Thiện nam tử! Nếu có người trong lòng nghĩ điều
quái lạ, miệng nói điều
quái lạ, rằng: ‘Hạng nhất-xiển-đề
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,’ nên biết là người ấy
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người trong lòng nghĩ điều
quái lạ, miệng nói điều
quái lạ, rằng: ‘Hạng nhất-xiển-đề không
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,’ người ấy cũng gọi là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Thiện nam tử! Nếu người nói rằng: ‘Tám phần
Thánh đạo là chỗ
đạt được của
phàm phu,’ thì người ấy gọi là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói rằng: ‘Tám phần
Thánh đạo không phải chỗ
đạt được của
phàm phu,’ thì người ấy cũng gọi là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Thiện nam tử! Như có người nói rằng tất cả
chúng sanh nhất định có tánh Phật; hoặc
nhất định không có tánh Phật, thì những người ấy cũng gọi là
báng Phật, Pháp, Tăng.
“Thiện nam tử! Cho nên trong
Khế kinh[121] ta dạy rằng: ‘Có hai hạng người
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Một là những người không có
lòng tin, vì tâm
sân hận [mà
phỉ báng]; hai là những người tuy có
lòng tin nhưng không
hiểu rõ ý nghĩa [
Phật pháp, nên vì
ngu si mà
phỉ báng.]’
“Thiện nam tử! Người có
lòng tin mà không có
trí tuệ thì thường làm
tăng trưởng vô minh. Người có
trí tuệ mà không có
lòng tin thì thường làm
tăng trưởng tà kiến.
“Thiện nam tử! Người không có
lòng tin, vì tâm
sân hận nên nói rằng: ‘Không có
Phật bảo,
Pháp bảo,
Tăng bảo.’ Người có
lòng tin nhưng [
si mê] không có
trí tuệ thì
giải nghĩa một cách
điên đảo, khiến người
nghe pháp phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Thiện nam tử! Cho nên ta nói: ‘Người không có
lòng tin thì vì tâm
sân hận, người có
lòng tin vì [
si mê] không có
trí tuệ, những người ấy có thể
phỉ báng Phật bảo,
Pháp bảo,
Tăng bảo.’
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng: ‘Hạng nhất-xiển-đề khi chưa
sanh khởi pháp lành mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,’ người ấy cũng gọi là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Nếu nói rằng: ‘Hạng nhất-xiển-đề
buông bỏ tâm nhất-xiển-đề rồi, khi mang thân khác sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,’ người [nói như vậy] cũng gọi là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Nếu nói rằng: ‘Hạng nhất-xiển-đề [cũng] có thể sanh ra căn lành. Sanh căn lành rồi thì căn lành ấy
tiếp nối mãi chẳng dứt
cho đến khi
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế nên nói rằng hạng nhất-xiển-đề [có thể]
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Nên biết rằng người [nói như vậy] không hề
phỉ báng Tam bảo.
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh nhất định đều có [những đức] thường, lạc, ngã, tịnh của tánh Phật; [những đức ấy] không [phải do] tạo tác, không sanh ra, [chỉ] vì
nhân duyên phiền não nên không thể thấy.’ Nên biết rằng người [nói như vậy] là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Nếu nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh đều không có tánh Phật, cũng như
sừng thỏ,
do nơi phương tiện mà sanh ra, trước vốn không rồi sau mới có, từ có rồi
trở lại thành không.’ Nên biết rằng người này là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng.
“Nếu nói rằng: ‘Tánh Phật của
chúng sanh là chẳng phải có, cũng như
hư không; là chẳng phải không, cũng như
sừng thỏ. Vì sao vậy? Vì
hư không là thường, vì
sừng thỏ là
không thật có. Cho nên có thể nói là cũng có, cũng không. Vì là có nên trừ bỏ [
quan niệm cho rằng tánh Phật như]
sừng thỏ; vì là không nên trừ bỏ [
quan niệm cho rằng tánh Phật như]
hư không.’ Người nói như vậy không hề
phỉ báng Tam bảo.
“Thiện nam tử! Tánh Phật đó không gọi là một pháp, không gọi là mười pháp, trăm pháp, ngàn pháp, hay
vạn pháp... Khi chưa
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì tất cả [những pháp] thiện,
bất thiện,
vô ký thảy đều gọi là tánh Phật.
“Đức
Như Lai có khi trong nhân nói quả, có khi trong quả nói nhân. Đó gọi là
Như Lai tự ý thuyết dạy. Vì tự ý thuyết dạy nên gọi là A-ra-ha. Vì tự ý thuyết dạy nên gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch: “Thế Tôn!
Theo như Phật dạy thì tánh Phật của
chúng sanh như
hư không. Thế nào gọi là như hư không?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tánh của
hư không chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai, chẳng phải
hiện tại. Tánh Phật
cũng thế.
“Thiện nam tử!
Hư không chẳng phải
quá khứ. Vì sao vậy? Vì không có
hiện tại. Nếu có pháp
hiện tại [để
so sánh] mới có thể nói đến
quá khứ, vì không có
hiện tại nên không có
quá khứ. [
Hư không] cũng không có
hiện tại. Vì sao vậy? Vì không có
vị lai. Nếu có
pháp vị lai [để
so sánh] mới có thể nói đến
hiện tại, vì không có
vị lai nên không có
hiện tại. [
Hư không] cũng không có
vị lai. Vì sao vậy? Vì không có
hiện tại và
quá khứ. Nếu có
hiện tại và
quá khứ ắt phải có
vị lai. Vì không có
quá khứ và
hiện tại nên không có
vị lai. Vì nghĩa ấy nên tánh của
hư không chẳng thuộc về
ba đời.
“Thiện nam tử! Vì
hư không là không nên không có
ba đời, chẳng phải vì có mà không có
ba đời. Như
hoa đốm[122] [được nhìn thấy] giữa
hư không, vì không phải có nên không có
ba đời.
Hư không cũng thế, vì không phải có nên không có
ba đời.
“Thiện nam tử! Không có một vật gì cả, tức là
hư không. Tánh Phật
cũng thế.
“Thiện nam tử! Vì
hư không là không nên không thuộc về
ba đời. Vì tánh Phật là thường nên không thuộc về
ba đời.
“Thiện nam tử!
Như Lai đã
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tánh Phật của
Như Lai và hết thảy pháp Phật đều là
thường trụ, không
biến đổi. Vì nghĩa ấy nên [tánh Phật] không có
ba đời, cũng như
hư không.
“Thiện nam tử! Vì
hư không là không nên chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì tánh Phật là thường nên chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì thế nên nói rằng tánh Phật cũng giống như
hư không.
“Thiện nam tử! Như ở
thế gian, nơi nào trống rỗng không ngăn ngại thì gọi là
hư không.
Như Lai đã
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đối với tất cả pháp Phật không có gì ngăn ngại, nên nói rằng tánh Phật cũng giống như
hư không.
“Vì những
nhân duyên như thế nên ta dạy rằng tánh Phật giống như
hư không.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai, tánh Phật và Niết-bàn đều không thuộc về
ba đời nhưng được gọi là có.
Hư không cũng không thuộc về
ba đời, vì sao không thể gọi là có?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì không phải Niết-bàn nên gọi là Niết-bàn; vì không phải
Như Lai nên gọi là
Như Lai; vì không phải tánh Phật nên gọi là tánh Phật.
“Thế nào gọi là không phải Niết-bàn? Đó là nói tất cả các
pháp hữu vi phiền não. Vì phá trừ hết thảy những
phiền não hữu vi như thế nên gọi là Niết-bàn.
“Không phải
Như Lai là nói từ hạng nhất-xiển-đề lên đến các vị
Phật Bích-chi. Vì phá bỏ hết từ nhất-xiển-đề
cho đến Phật Bích-chi nên gọi là
Như Lai.
“Không phải tánh Phật là nói tất cả các vật vô tình như tường vách, ngói gạch, sỏi đá... Lìa khỏi [tất cả] những vật vô tình như thế gọi là tánh Phật.
“Thiện nam tử! Hết thảy
thế gian không có gì là chẳng phải
hư không, đối lại với
hư không.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Trong
thế gian cũng không có gì đối lại với
bốn đại, mà
vẫn có thể gọi
bốn đại là có.
Hư không không có gì đối lại, vì sao không thể gọi là có?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu nói rằng: ‘Niết-bàn không thuộc về
ba đời,
hư không cũng vậy.’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Niết-bàn là có, có thể thấy, có thể
chứng đắc. Đó là dấu vết của
hình sắc,
ngôn ngữ văn tự; là
hình tướng, là duyên, là chỗ nương về,
vắng lặng an tĩnh, soi chiếu
sáng tỏ, là
bờ bên kia an ổn. Vì thế nên gọi là không thuộc về
ba đời. Tánh của
hư không chẳng có những
pháp như vậy, nên gọi là không. Nếu lìa khỏi những
pháp như vậy mà còn có pháp nào khác, ắt phải thuộc về
ba đời.
Hư không nếu đồng với những pháp có này thì không
thể không thuộc về
ba đời.
“Thiện nam tử! Như người đời nói rằng: ‘Hư không gọi là không có
hình sắc, không có gì đối lại, không thể nhìn thấy.’ Nếu là không có
hình sắc, không gì đối lại, không thể nhìn thấy, tức là [thuộc về] các pháp đối tượng của tâm. Nếu
hư không đồng với các pháp đối tượng của tâm thì không
thể không thuộc về
ba đời. Nếu là thuộc về
ba đời tức là
bốn ấm.[123] Vì thế, lìa khỏi
bốn ấm rồi thì không có
hư không.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ngoại đạo nói rằng: ‘Hư không là ánh sáng.’ Nếu là ánh sáng tức là pháp [thuộc về]
hình sắc. Nếu
hư không là pháp
hình sắc như thế tức là
vô thường. Vì là
vô thường nên phải thuộc về
ba đời. Làm sao
ngoại đạo nói rằng [
hư không] chẳng thuộc về ba đời? Nếu thuộc về
ba đời ắt chẳng phải là
hư không. Vì sao nói rằng
hư không là thường?
“Thiện nam tử! Lại có người nói: ‘Hư không là chỗ trụ [của các pháp].’ Nếu có chỗ trụ tức là pháp [thuộc về]
hình sắc. Nhưng hết thảy nơi chốn đều là
vô thường, thuộc về
ba đời.
Hư không cũng là thường, không thuộc về
ba đời. Nếu nói đến nơi chốn thì biết là chẳng có
hư không.
“Lại có người nói rằng: ‘Hư không tức là
trật tự sắp xếp.’ Nếu là
trật tự sắp xếp, tức là pháp có số lượng. Nếu là pháp [có số lượng] đếm được, tức là thuộc về
ba đời. Nếu thuộc về
ba đời, vì sao gọi là thường?
“Thiện nam tử! Nếu lại nói rằng: ‘Hư không là không lìa ba pháp: một là không, hai là thật, ba là cả không và thật.’ Nếu nói là không là [
hư không], nên biết rằng
hư không đó là pháp
vô thường. Vì sao vậy? Vì không có chỗ thật. Nếu nói là thật là [
hư không], nên biết rằng
hư không đó cũng là
vô thường. Vì sao vậy? Vì không có chỗ không. Nếu nói cả không và thật là [
hư không], nên biết rằng
hư không đó cũng là
vô thường. Vì sao vậy? Vì không có cả hai chỗ ấy. [Vì
hư không lìa cả ba pháp ấy] nên
hư không mới gọi là không.
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng: ‘Hư không là pháp có thể tạo thành.’ Như nói: ‘Dẹp bỏ [hết] cây cối, nhà cửa tạo thành
hư không;
san bằng thành
hư không;
che khuất [được]
hư không, [bay] lên
hư không, [nhìn] khắp
hư không màu sắc giống như nước biển cả. Vì thế nên
hư không là pháp có thể tạo thành.’ Tất cả các pháp được tạo thành đều là
vô thường, [chẳng hạn] như bình sành... Nếu
hư không là như thế, lẽ ra phải là
vô thường.
“Thiện nam tử! Người
thế gian nói rằng: ‘Đối với tất cả các
pháp không có chỗ ngăn ngại thì gọi là
hư không.’ Chỗ không ngăn ngại đó, đối với tất cả các pháp là
trọn vẹn hay chỉ một phần? Nếu là
trọn vẹn, thì nên biết rằng
ngoài ra chỗ khác không có hư không! Nếu là một phần, ắt có sự
phân biệt chỗ này với chỗ kia, có
thể tính đếm. Nếu là pháp có
thể tính đếm thì nên biết là
vô thường.
“Thiện nam tử! Như có người nói: ‘Hư không là không ngăn ngại, cùng hợp với các pháp
hiện hữu.’ Lại có người nói: ‘Hư không ở nơi sự vật, cũng như trái cây đặt ở trong bát.’ Hai lẽ ấy đều không đúng.
“Vì sao vậy? Nếu nói cùng
hợp lại ắt có ba
trường hợp. Một là nghiệp khác nhau
hợp lại, như [nhiều thứ] chim bay đến
tụ tập trên cây. Hai là
cùng chung một nghiệp
hợp lại, như hai con dê chạm nhau. Ba là đã hợp rồi cùng hợp, như hai đôi ngón tay sóng đôi hợp tại một nơi.
“Nếu nói [
hư không và vật là có] nghiệp khác nhau
hợp lại, thì chỗ khác nhau ắt phải chia hai, một là nghiệp của vật, hai là nghiệp của
hư không. Nếu nghiệp của
hư không hợp với vật, thì
hư không là
vô thường. Nếu nghiệp của vật hợp với
hư không, thì vật không [
hiện hữu] cùng khắp.
Nếu không cùng khắp thì cũng là
vô thường.
“Nếu nói
hư không là thường, tánh vốn không động, hợp với vật [có tánh] động thì nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Nếu
hư không là thường, lẽ ra vật cũng là thường. Nếu vật là
vô thường,
hư không cũng là
vô thường. Nếu nói
hư không vừa thường vừa
vô thường thì không
hợp lý.
“Nếu nói [
hư không và vật là có]
cùng chung một nghiệp
hợp lại, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy?
Hư không gọi là cùng khắp [
mọi nơi]. Nếu
hư không hợp với nghiệp, lẽ ra nghiệp cũng là cùng khắp. Nếu là cùng khắp thì
mọi nơi đều cùng khắp. Nếu
mọi nơi đều cùng khắp thì lẽ ra phải hợp với tất cả, không thể nói là có hợp cùng không hợp.
“Nếu nói đã hợp rồi cùng hợp, như hai đôi ngón tay sóng đôi hợp tại một nơi. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Vì trước không hợp, sau đó mới
hợp lại. Nếu trước không sau có thì là pháp
vô thường, nên không thể nói là
hư không đã hợp rồi cùng hợp. Như những pháp
thế gian, trước không sau có đều là vật
vô thường.
Hư không nếu là như thế thì lẽ ra cũng là vô thường!
“Nếu nói: ‘Hư không ở nơi sự vật, như trái cây đặt trong bát.’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Khi chưa có vật chứa thì
hư không đó ở đâu? Nếu có chỗ ở, ắt phải có nhiều
hư không. Nếu là nhiều, sao có thể nói rằng
hư không là thường, là
duy nhất, là khắp cả? Nếu cho rằng
hư không lìa ngoài cái không mà có chỗ trụ, thì sự vật lẽ ra cũng có thể lìa ngoài
hư không mà có chỗ trụ! Vì thế nên biết rằng [theo
lập luận này thì] không có
hư không.
“Thiện nam tử! Như có người nói: ‘Chỗ ngón tay [chỉ đến] gọi là
hư không.’ Nên biết rằng
hư không [như thế thì] là pháp
vô thường. Vì sao vậy? Chỉ là [chỉ về] bốn phương. Nếu có bốn phương, nên biết rằng
hư không [như vậy] cũng có bốn phương. Tất cả các
pháp thường đều không có
phương hướng. Vì có
phương hướng nên
hư không [như vậy phải] là
vô thường. Nếu là
vô thường thì không lìa khỏi
năm ấm. Phải lìa khỏi
năm ấm mới là không chỗ có.
“Thiện nam tử! Nếu có pháp do
nhân duyên mà
tồn tại, nên biết rằng những pháp ấy là
vô thường.
“Thiện nam tử!
Ví như tất cả
chúng sanh, cây cối đều nhân nơi đất mà
tồn tại. Vì đất là
vô thường, cho nên mọi thứ nhân nơi đất cũng
lần lượt đều là
vô thường.
“Thiện nam tử! Như đất nhân nơi nước, vì nước là
vô thường nên đất cũng
vô thường. Như nước nhân nơi gió, vì gió là
vô thường nên nước cũng
vô thường. Như gió nương vào
hư không, cái không là
vô thường nên gió cũng là
vô thường.[124] Nếu là
vô thường, vì sao nói rằng
hư không là thường, là cùng khắp mọi nơi?
“Vì
hư không là không nên chẳng phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại; cũng như
sừng thỏ, vì không phải vật [thật] có nên không phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
“Vì thế ta nói [sự khác biệt] rằng: ‘Tánh Phật là thường nên không thuộc về
ba đời;
hư không là không nên không thuộc về
ba đời.’
“Thiện nam tử! Ta chẳng bao giờ
tranh biện với
thế gian. Vì sao vậy? Người trí nói có, ta cũng nói có; người trí nói không, ta cũng nói không.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch: “Thế Tôn!
Bồ Tát ma-ha-tát [
tu tập] có đủ bao nhiêu pháp thì không tranh với
thế gian, không bị
thế gian làm ô nhiễm?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát [
tu tập] có đủ mười pháp thì không tranh với
thế gian, chẳng bị
thế gian làm
ô nhiễm. Những gì là mười? Một là
đức tin, hai là
trì giới, ba là gần gũi bạn tốt hiền thiện, bốn là khéo
suy xét nội tâm, năm là đầy đủ
tinh tấn, sáu là đầy đủ
chánh niệm, bảy là đầy đủ
trí tuệ, tám là đầy đủ
chánh ngữ, chín là
ưa thích chánh pháp, mười là
thương xót chúng sanh.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát có đủ mười pháp ấy thì không tranh với
thế gian, không bị
thế gian làm
ô nhiễm, như hoa ưu-bát-la.”[125]
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như
lời Phật dạy: ‘Người trí nói có, ta cũng nói có; người trí nói không, ta cũng nói không.’ [Vậy] những gì gọi là có, không của người trí ở thế gian?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu người trí ở
thế gian nói: ‘Sắc là
vô thường, khổ, không,
vô ngã...
cho đến thức lại cũng như vậy.’[126]
Thiện nam tử! Đó gọi là người trí ở
thế gian nói có, ta cũng nói có.
“Thiện nam tử! Nếu người trí ở
thế gian nói: ‘Sắc không có thường, lạc, ngã, tịnh; thọ, tưởng, hành, thức lại cũng [không có] như vậy.’
Thiện nam tử! Đó gọi là người trí ở
thế gian nói không, ta cũng nói không.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Người trí ở
thế gian tức chư Phật,
Bồ Tát, tất cả
thánh nhân. Nếu sắc của tất cả
thánh nhân là
vô thường, khổ, không,
vô ngã, vì sao
Như Lai nói rằng
sắc thân của Phật là
thường hằng, không biến đổi? Người trí ở
thế gian nói pháp ấy là không, vì sao
Như Lai lại nói là có?
Như Lai Thế Tôn đã nói như vậy, sao lại nói rằng không
tranh biện với
thế gian, không bị pháp
thế gian làm ô nhiễm?
“Như Lai đã lìa
ba sự điên đảo là
tưởng đảo,
tâm đảo,
kiến đảo;[127] lẽ ra phải nói rằng sắc của Phật thật là
vô thường. Nhưng nay Phật lại nói là thường, làm sao có thể gọi là
xa lìa điên đảo, không
tranh biện với thế gian?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Sắc của
phàm phu do
phiền não mà sanh, cho nên người trí nói: ‘Sắc là
vô thường, khổ, không,
vô ngã.’ Sắc của
Như Lai lìa xa mọi
phiền não, nên ta nói sắc ấy là
thường hằng, không
biến đổi.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI SÁU
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BA MƯƠI BẢY
PHẨM BỒ TÁT CA-DIẾP
Phẩm thứ mười hai – Phần năm
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Thế nào là sắc [ấm] do
phiền não khởi sanh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có
ba loại phiền não là
dục lậu,
hữu lậu và
vô minh lậu. Người có trí nên quán xét sự
sai lầm tai hại của
ba loại phiền não ấy. Vì sao vậy? Vì khi biết được sự
sai lầm tai hại của chúng rồi, ắt có thể lìa xa.
Ví như vị
lương y, trước phải chẩn mạch biết bệnh ở đâu, rồi sau mới kê đơn thuốc để trị.
“Thiện nam tử!
Ví như có người đưa một người mù vào giữa rừng
gai góc, bỏ đó mà về. Người mù sau đó rất khó thoát ra khỏi nơi ấy.
Ví như có ra khỏi được,
thân thể cũng phải
thương tổn nặng nề. Kẻ
phàm phu thế gian cũng [như người mù kia] vậy, không thể thấy biết sự
tội lỗi nguy hại của
ba loại phiền não, nên mãi
chạy theo chúng. Nếu thấy rõ được, ắt có thể lìa xa. Khi rõ biết được sự
sai lầm tai hại [của
phiền não] rồi, tuy có chịu
quả báo cũng chỉ là [
quả báo] nhẹ.
“Thiện nam tử! Có bốn hạng người:
Hạng thứ nhất khi tạo nghiệp thì nặng, lúc chịu
quả báo thì nhẹ;
hạng thứ hai khi tạo nghiệp thì nhẹ, khi chịu
quả báo thì nặng;
hạng thứ ba khi tạo nghiệp thì nặng, khi chịu
quả báo cũng nặng;
hạng thứ tư khi tạo nghiệp thì nhẹ, khi chịu
quả báo cũng nhẹ.
“Thiện nam tử! Như ai biết quán xét sự
sai lầm tai hại của
phiền não thì
sự tạo nghiệp và chịu
quả báo đều nhẹ.
“Thiện nam tử! Người có trí
suy xét rằng: ‘Ta nên lìa xa những
phiền não như vậy. Ta cũng không nên tạo những nghiệp
xấu xa độc ác như vậy. Vì sao? Vì nay ta chưa
thoát khỏi những
quả báo trong các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, trời, người. Nếu
tu học đạo, ta sẽ nhờ sức
tu tập mà phá trừ được các nỗi khổ.’
“Người ấy quán xét như vậy rồi, [những
tâm niệm]
tham dục,
sân khuể,
ngu si liền trở nên
yếu ớt. Khi thấy [những
tâm niệm] tham, sân, si đã
yếu ớt rồi, lòng người ấy rất
hoan hỷ. Người ấy lại quán xét rằng: ‘Nay ta được như thế này là nhờ sức
nhân duyên tu tập Chánh đạo, giúp ta có thể lìa xa những pháp
bất thiện, gần gũi các pháp lành. Cho nên,
hiện tại ta đã gặp được
Chánh đạo, phải
chuyên cần gắng sức hơn nữa để
tu tập.’
“Người ấy nhờ sức
chuyên cần tu tập nên lìa xa
vô lượng phiền não và lìa xa những
quả báo nơi các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh,
cõi trời,
cõi người.
“Cho nên, trong kinh ta có dạy rằng: ‘Nên quán xét tất cả
phiền não [
hữu lậu] và
nguyên nhân của
phiền não [
hữu lậu]. Vì sao vậy? Người có trí nếu
chỉ quán xét các
phiền não mà
không quán xét
nguyên nhân của
phiền não thì không thể đoạn trừ. Vì sao vậy? Người có
trí quán xét rằng: ‘Phiền não do những
nguyên nhân này mà sanh, nay nếu ta trừ dứt
nguyên nhân thì
phiền não sẽ không
sanh khởi.’
“Thiện nam tử! Như vị
lương y, nếu trừ được
nguyên nhân gây bệnh từ trước thì bệnh không sanh ra. Người trí cũng vậy,
trước tiên phải trừ dứt
nguyên nhân của
phiền não.
“Người có trí trước nên quán xét nhân, sau đó quán xét quả; nhờ đó rõ biết được rằng: nhân lành sanh ra quả lành, nhân xấu ác sanh ra quả xấu ác. Quán xét
quả báo như vậy rồi, liền lìa xa các nhân xấu ác.
“Sau khi quán xét
quả báo, lại nên quán xét đến các
phiền não nhẹ và nặng. Quán xét rõ [các
phiền não] nhẹ và nặng rồi,
trước tiên phải lìa xa các
phiền não sâu nặng. Lìa xa được các
phiền não sâu nặng rồi, các
phiền não nhẹ sẽ
tự nhiên dứt mất.
“Thiện nam tử! Nếu người có trí rõ biết được về
phiền não như:
nguyên nhân sanh
phiền não,
quả báo của
phiền não, [
phân biệt được]
phiền não nhẹ và nặng, khi ấy sẽ
tinh tấn chuyên cần tu tập, không ngưng nghỉ, không
chán ngán, thường gần gũi bạn lành,
hết lòng nghe pháp. Đó là vì muốn
trừ diệt hết thảy những
phiền não như vậy.
“Thiện nam tử!
Ví như người bệnh, tự biết bệnh nhẹ ắt có thể khỏi. Tuy gặp thuốc đắng vẫn uống vào không ngán. Người trí cũng vậy, siêng năng
tu tập Thánh đạo,
hoan hỷ không buồn, không ngưng nghỉ, không
hối tiếc.
“Thiện nam tử! Nếu ai rõ biết được về
phiền não như:
nguyên nhân sanh ra
phiền não,
quả báo của
phiền não, [
phân biệt được]
phiền não nhẹ và nặng, người ấy vì muốn dứt
trừ phiền não liền siêng năng
tu tập Thánh đạo. Người ấy không nương theo
phiền não mà khởi
sanh sắc [ấm]. Đối với [các ấm] thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
“Nếu ai không rõ biết được về
phiền não như:
nguyên nhân sanh ra
phiền não,
quả báo của
phiền não, [không
phân biệt được]
phiền não nhẹ và nặng, người ấy sẽ không siêng năng
tu tập, liền nương theo
phiền não mà khởi
sanh sắc [ấm]. Đối với [các ấm] thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
“Thiện nam tử! [Người nào] rõ biết được [những điều] về
phiền não như:
nguyên nhân sanh ra
phiền não,
quả báo của
phiền não, [
phân biệt được]
phiền não nhẹ và nặng, vì dứt
trừ phiền não nên
tu hành đạo, [người] đó chính là
Như Lai. Vì
nhân duyên ấy, sắc [ấm] của
Như Lai là thường tồn,
cho đến thức [ấm] cũng là thường tồn.[128]
“Thiện nam tử! [Người nào] không rõ biết được [những điều] về
phiền não như:
nguyên nhân sanh ra
phiền não,
quả báo của
phiền não, [không
phân biệt được]
phiền não nhẹ và nặng, không thể
tu tập đạo, [người] đó chính là
phàm phu. Cho nên sắc [ấm] của
phàm phu là
vô thường,
cho đến [các ấm] thọ, tưởng, hành, thức cũng đều là
vô thường.
“Thiện nam tử! Người có trí ở
thế gian cùng tất cả
thánh nhân,
Bồ Tát, chư Phật đều nói
hai nghĩa ấy.[129] Ta cũng nói
hai nghĩa ấy. Cho nên ta nói là
Như Lai không tranh [biện] với hàng
trí giả thế gian,
Như Lai không bị pháp
thế tục làm
nhiễm ô.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa dạy về ba thứ [
phiền não] lậu [hoặc], thế nào là
dục lậu,
hữu lậu và
vô minh lậu?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Dục lậu, đó là những
tư tưởng xấu ác trong tâm, từ
thô thiển đến
tinh tế.[130]
Do nơi các duyên bên ngoài mà sanh ra
dục lậu.
“Cho nên lúc trước tại thành
Vương Xá ta có bảo A-nan rằng: ‘A-nan! Nay ông thọ nhận
bài kệ tụng do người
phụ nữ kia nói ra, mà
bài kệ ấy vốn thật là do chư Phật
quá khứ đã từng
tuyên thuyết.’[131]
“Cho nên, hết thảy những
tư tưởng xấu ác trong tâm [khởi lên do]
nhân duyên bên ngoài đều gọi là dục. Đó là
dục lậu.
“Hữu lậu là chỉ chung tất cả các pháp xấu ác trong tâm và các
nhân duyên bên ngoài ở
Sắc giới và
Vô sắc giới, trừ những những
tư tưởng xấu ác bên trong và
nhân duyên bên ngoài ở
Dục giới. Đó là
hữu lậu.
“Vô minh lậu là [sự
si mê] không rõ biết đúng thật về
ngã và ngã sở, không
phân biệt được [các pháp] bên trong và bên ngoài. Đó là
vô minh lậu.
“Thiện nam tử!
Vô minh chính là cội nguồn của tất cả các
phiền não. Vì sao vậy? Tất cả
chúng sanh do nhân là
vô minh, duyên với [năm] ấm, [mười hai] nhập, [mười tám] giới mà sanh ra [mọi sự] nhớ nghĩ
suy tưởng, nên gọi là
chúng sanh. Đó gọi là
điên đảo về
tư tưởng,
điên đảo về tâm ý,
điên đảo về thấy biết. Vì những
nhân duyên ấy mà sanh ra tất cả các
phiền não.
“Cho nên, trong
Mười hai bộ kinh Phật có dạy: ‘Vô
minh chính là
nguyên nhân của
tham lam,
nguyên nhân của
sân hận và
nguyên nhân của
si mê.’”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Lúc trước, trong
Mười hai bộ kinh Như Lai có dạy rằng: ‘Những
tư tưởng bất thiện là
nhân duyên sanh ra
tham dục,
sân hận và
si mê.’ Nay vì
duyên cớ gì lại nói rằng [
nhân duyên ấy] là vô minh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hai pháp ấy là nhân, quả cho nhau, làm
tăng trưởng lẫn nhau. Những
tư tưởng bất thiện sanh ra
vô minh;
vô minh lại là
nhân duyên sanh ra những
tư tưởng bất thiện.
“Thiện nam tử! Những gì có thể làm khởi sanh và phát triển các
phiền não đều gọi chung là
nhân duyên phiền não. Gần gũi với các
nhân duyên phiền não ấy gọi là
vô minh. Những
tư tưởng bất thiện ví như hạt giống sanh ra mầm cây.
Hạt giống là
nguyên nhân trực tiếp, các
yếu tố vật chất [như
bốn đại] là
nguyên nhân gián tiếp. [
Vô minh sanh ra]
phiền não cũng giống như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Như Phật đã dạy: ‘Vô
minh chính là
lậu hoặc.’ Tại sao nay lại dạy rằng: ‘Nhân nơi
vô minh mà sanh ra các lậu hoặc?’”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như ta nói
vô minh lậu, đó là
vô minh trong tâm, [
vô minh này chính là các
lậu hoặc]. [Còn] nhân nơi
vô minh sanh ra các [
phiền não]
lậu hoặc, đó là các nhân ở cả bên trong và bên ngoài.
“Nếu nói
vô minh là các
lậu hoặc, đó là [chỉ đến sự]
điên đảo trong lòng, không
nhận thức được những lẽ
vô thường, khổ, không,
vô ngã. Nếu nói [
vô minh là] tất cả
nhân duyên phiền não, đó là [chỉ đến
trường hợp] không rõ biết những gì bên ngoài
ngã và ngã sở.
“Nếu nói
vô minh là các lậu, đó là [nói sự
si mê đã có từ]
vô thủy đến vô chung. [Còn nói
vô minh sanh các
lậu hoặc là
ý nghĩa] từ nơi
vô minh mà sanh ra [các] ấm, nhập, giới... [hợp thành
chúng sanh]”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như
lời Phật dạy: ‘Người có trí rõ biết
nguyên nhân các
phiền não.’ Sao gọi là rõ biết
nguyên nhân của phiền não?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Người có trí nên quán xét: ‘Do
nhân duyên gì sanh ra
phiền não như vậy? Tạo tác những
hành vi nào sanh ra phiền não? Vào những thời điểm nào sanh ra phiền não? Sống chung với ai sanh ra phiền não? Bám chấp vào nơi nào sanh ra phiền não? Quán xét những việc gì sanh ra phiền não? Thọ nhận những chỗ ở, chỗ nằm ngồi,
y phục, thuốc men... của ai sanh ra phiền não? Do những
nhân duyên gì [có thể từ] bậc
thấp kém chuyển lên bậc trung bình, từ bậc trung bình chuyển lên bậc cao quý; [có thể từ] nghiệp
thấp kém trở thành nghiệp trung bình, từ nghiệp trung bình
trở thành nghiệp cao thượng?’
“Khi
Bồ Tát ma-ha-tát quán xét như vậy liền được lìa xa các
nhân duyên sanh ra
phiền não. Khi quán xét như vậy liền ngăn chặn những
phiền não chưa sanh, khiến
cho không thể
sanh khởi; đối với những
phiền não đã
sanh khởi liền có thể dứt trừ. Vì thế, trong
Khế kinh ta dạy rằng: ‘Người có trí nên quán xét các
nhân duyên sanh ra
phiền não.’”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Trong một thân của
chúng sanh làm sao có thể
sanh khởi đủ mọi thứ phiền não?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như trong một vật chứa có đủ mọi thứ
hạt giống, nếu được tưới nước hoặc có mưa, mỗi thứ [
hạt giống ấy] đều tự sanh.
Chúng sanh cũng thế, tuy chỉ một vật chứa [là cái thân], do
nhân duyên là
ái dục nên sanh trưởng mọi thứ
phiền não.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Người có
trí quán xét
quả báo như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Người có trí nên quán xét rằng: ‘Do
nhân duyên phiền não có thể sanh vào các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh. Do
nhân duyên phiền não sanh làm thân người, thân
chư thiên, chính là
vô thường, khổ, không,
vô ngã. Thân này là vật chứa, bên trong có
ba loại khổ,[132]
ba loại vô thường.[133] Các
phiền não là
nhân duyên khiến
chúng sanh tạo tác
năm tội nghịch, thọ các
quả báo xấu ác, có thể làm dứt mất căn lành, phạm vào bốn
trọng cấm,
phỉ báng Tam bảo.’
“Người có trí lại nên quán xét rằng: ‘Ta đã được thọ thân thế này,
thật không nên
sanh khởi các
phiền não như vậy [để rồi phải] nhận chịu những
quả báo xấu ác.’”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! [Ngoài
quả báo hữu lậu còn] có
quả báo vô lậu. Phật lại dạy rằng: ‘Người có trí dứt trừ các
quả báo.’ Vậy
quả báo vô lậu có nằm trong số bị dứt trừ đó chăng? Những người [
tu tập] đạt đạo đều có quả
vô lậu. Nếu những người có trí cầu được quả
vô lậu, vì sao Phật dạy rằng tất cả những người có trí nên dứt trừ hết quả báo? Nếu đã dứt trừ hết, thì nay các bậc
thánh nhân vì sao lại có [
quả báo]?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Đức Như Lai có khi ở trong nhân mà nói quả, có khi ở trong quả mà nói nhân.
“Như người
thế gian nói đất sét là bình, sợi chỉ là áo; đó gọi là trong nhân mà nói quả. Như chỉ con bò bảo đó là nước, là cỏ; chỉ
con người bảo đó là các món đã ăn vào; như vậy là trong quả mà nói nhân.
“Ta cũng như vậy, [có khi] trong nhân mà nói quả; như trước đây trong kinh ta có dạy: ‘Ta dùng [sức của] tâm mà chuyển thân đến bên
Phạm thiên.’ Đó gọi là trong nhân mà nói quả.[134] Còn như [ta có] nói
sáu nhập là nghiệp
quá khứ, đó là trong quả mà nói nhân.[135]
“Thiện nam tử! Tất cả
thánh nhân thật ra không hề có
quả báo vô lậu. Tất cả
thánh nhân tu tập Chánh đạo,
quả báo [của họ là] không còn
sanh khởi phiền não, cho nên gọi là
quả báo vô lậu.
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét như vậy rồi liền dứt trừ
mãi mãi quả báo phiền não.
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét rồi, vì muốn dứt trừ
quả báo phiền não như vậy nên
tu tập Thánh đạo.
Thánh đạo tức là [các
pháp môn] không,
vô tướng,
vô nguyện.
Tu tập Thánh đạo ấy rồi có thể dứt trừ tất cả
quả báo phiền não.”[136]
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Tất cả
chúng sanh đều
do nơi phiền não mà chịu
quả báo. Nói
phiền não ở đây là nói sự xấu ác.
Do nơi phiền não xấu ác mà
sanh khởi các
phiền não [khác] cũng gọi là xấu ác. Những
phiền não như vậy ắt có hai loại, một là nhân, hai là quả. Vì nhân xấu ác nên sanh quả cũng xấu ác, vì quả xấu ác nên
hạt giống cũng xấu ác.
“Ví như trái nhâm-bà, vì
hạt giống đắng nên hoa, trái, thân cây... tất cả đều đắng. Lại
ví như cây độc, vì
hạt giống độc nên sanh quả cũng độc.
“[Nếu] nhân là
chúng sanh [thì] quả cũng là
chúng sanh; [nếu] nhân là
phiền não [thì] quả cũng là
phiền não. Nhân và quả của
phiền não chính là
chúng sanh;
chúng sanh chính là nhân và quả của
phiền não. Nếu theo nghĩa này thì tại sao trước đây
Như Lai có đưa ra ví dụ là nơi
Tuyết sơn có cỏ độc nhưng cũng có vị thuốc hay nhất?
“Nếu nói
phiền não tức là
chúng sanh,
chúng sanh tức là
phiền não, làm sao có thể nói trong thân
chúng sanh [là
phiền não đó] có vị thuốc hay nhất?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử,
vô lượng chúng sanh đều có cùng mối nghi như vậy. Nay ông đã có thể vì họ mà thưa thỉnh, mong được
giảng giải, [vậy] ta cũng sẽ [
giải đáp để] dứt trừ mối nghi ấy. Hãy nghe cho kỹ, hãy lắng nghe cho kỹ và khéo
suy xét, nay ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng nói.
“Thiện nam tử! Đưa ra ví dụ
Tuyết sơn là nói
chúng sanh; cỏ độc tức là
phiền não; còn vị thuốc hay
nhất tức là
Phạm hạnh thanh tịnh.
“Thiện nam tử! Những
chúng sanh nào có thể
tu tập Phạm hạnh thanh tịnh thì gọi là trong thân có vị thuốc hay nhất.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Thế nào là
chúng sanh có [
tu tập được]
Phạm hạnh thanh tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như ở
thế gian, từ nơi
hạt giống mà sanh ra quả. Quả ấy lại có loại có hạt, có loại không hạt. Quả có hạt thì gọi là quả hạt; những quả không hạt thì chỉ gọi là quả, không gọi là quả hạt.
“Tất cả
chúng sanh cũng giống như vậy, cũng phân làm hai loại. Một là những người có quả
phiền não [tạo ra] nhân
phiền não, hai là những người có quả
phiền não nhưng không [tạo ra] nhân
phiền não. Những ai có quả
phiền não nhưng không [tạo ra] nhân
phiền não gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.
“Thiện nam tử!
Chúng sanh quán xét
cảm thọ,[137] biết rằng đây là
nguyên nhân trực tiếp của tất cả
phiền não. [Nói tất cả tức là] hết thảy mọi
phiền não cả bên trong và bên ngoài. Do
nhân duyên là
cảm thọ nên [
chúng sanh] không thể dứt trừ hết tất cả
phiền não, cũng không thể thoát ra khỏi chốn tù ngục là
Ba cõi.
Chúng sanh do
cảm thọ nên vướng chấp nơi
ngã và ngã sở, [từ đó] khởi sanh tâm ý
điên đảo,
tư tưởng điên đảo và sự thấy biết
điên đảo.
“Vì thế,
chúng sanh trước hết phải quán xét
cảm thọ.
Cảm thọ ấy là
nguyên nhân trực tiếp của tất cả
tham ái. [
Vì vậy,] người có trí muốn dứt trừ
tham ái thì trước hết phải quán xét
cảm thọ.
“Thiện nam tử!
Mười hai nhân duyên cùng với hết thảy những
hành vi thiện ác của
chúng sanh đều nhân nơi lúc [khởi sanh]
cảm thọ. Cho nên ta từng bảo A-nan rằng: ‘A-nan! Mọi
hành vi thiện ác của tất cả
chúng sanh đều [khởi sinh] vào lúc có
cảm thọ.’ Cho nên người có trí trước hết phải quán xét
cảm thọ.
“Sau khi quán xét
cảm thọ rồi, lại phải
tiếp tục quán xét
cảm thọ ấy do
nhân duyên gì sanh ra? Nếu đã là do
nhân duyên sanh, vậy
nhân duyên ấy lại do đâu mà sanh ra? Còn
nếu không do nhân mà sanh, tại sao sự không nhân ấy lại chẳng sanh ra [
trạng thái] không cảm thọ?
“Lại quán xét rằng: ‘Cảm thọ này không nhân nơi vị trời
Tự tại sanh ra, không nhân nơi
thần thức [hay
linh hồn] mà sanh ra, không nhân nơi bụi bặm sanh ra, không nhân nơi
thời tiết sanh ra, không nhân nơi
tư tưởng sanh ra, không nhân nơi
bản tánh sanh ra; không phải tự thân nó sanh ra, không do [các
điều kiện] bên ngoài sanh ra, cũng không phải do tự thân hợp với [các
điều kiện] bên ngoài sanh ra; lại không phải không có
nguyên nhân mà [
tự nhiên] sanh ra. Mọi
cảm thọ đều do [đầy đủ] các duyên
hợp lại mà sanh ra. Các duyên đó chính là
tham ái. Trong sự
hòa hợp đó chẳng phải có
cảm thọ, cũng chẳng phải không có
cảm thọ. Cho nên ta phải dứt trừ ngay từ sự
hòa hợp [các duyên] như vậy.’ Vì dứt trừ [ngay từ] sự
hòa hợp [của các duyên] nên không còn sanh ra
cảm thọ.
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét
nguyên nhân [của
cảm thọ] rồi, tiếp đó lại quán xét đến
quả báo.
Chúng sanh nhân nơi
cảm thọ mà phải nhận chịu các
cảnh giới địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh,
cho đến vô lượng khổ não trong
Ba cõi. Do
nhân duyên cảm thọ nên thọ nhận những khoái lạc [giả tạm,] không thường tồn. Do
nhân duyên cảm thọ nên dứt mất căn lành. [Nhưng cũng] do
nhân duyên cảm thọ mà
đạt được giải thoát. Trong khi quán xét như
vậy thì không còn tạo ra nhân của
cảm thọ.
“Thế nào gọi là không tạo ra nhân của cảm thọ? Đó là nói sự
phân biệt các
cảm thọ, những
cảm thọ nào có thể là
nguyên nhân của
tham ái, và những
tham ái nào có thể là
nguyên nhân của
cảm thọ.
“Thiện nam tử! Nếu
chúng sanh có thể quán xét
sâu xa nguyên nhân của
tham ái,
nguyên nhân của
cảm thọ, ắt có thể dứt trừ [những
kiến chấp về]
ngã và ngã sở.
“Thiện nam tử! Như người có thể
thực hành các phép quán xét như trên, ắt nên
phân biệt tham ái và
cảm thọ diệt mất nơi đâu. [Khi
phân biệt như vậy] liền thấy được
tham ái và
cảm thọ [thật] có chỗ diệt mất ít nhiều, do đó biết rằng cũng có thể [
dần dần] diệt sạch
rốt ráo. Bấy giờ liền
sanh khởi lòng tin đối với
sự giải thoát. Sanh
lòng tin rồi [liền
suy nghĩ]: ‘Sự
giải thoát này do đâu có
thể đạt được?’ Nhân đó liền biết rằng nhờ Tám
Chánh đạo [mà
được giải thoát], liền
tu tập [theo đúng] Tám
Chánh đạo.
“Thế nào gọi là Tám Chánh đạo? Theo đạo này mà quán xét
cảm thọ thì thấy có
ba tướng trạng, một là [
cảm thọ] khổ, hai là [
cảm thọ] vui, ba là [
cảm thọ] không
khổ không vui. Ba loại
cảm thọ này đều có thể làm
tăng trưởng thân và tâm.
“Do
nhân duyên gì mà [ba loại
cảm thọ ấy] có thể làm
tăng trưởng [thân và tâm]? Do
nhân duyên là xúc chạm. Xúc chạm có ba loại, một là xúc chạm
vô minh, hai là xúc chạm
sáng suốt, ba là xúc chạm không phải
vô minh, không phải
sáng suốt.
“Nói xúc chạm
sáng suốt tức là Tám
Chánh đạo. [Trừ loại xúc chạm này ra,] còn hai loại xúc chạm kia đều làm
tăng trưởng thân tâm và ba loại
cảm thọ. Vì thế nên phải dứt trừ hai loại xúc chạm ấy. Khi
nhân duyên xúc chạm đã dứt rồi thì không còn sanh ra ba loại
cảm thọ nữa.
“Thiện nam tử!
Cảm thọ như thế cũng gọi là nhân, cũng gọi là quả. Người có trí nên quán xét rằng [
cảm thọ] vừa là nhân, vừa là quả. Sao gọi là nhân? Nhân nơi
cảm thọ sanh ra
tham ái, nên gọi [
cảm thọ] là nhân. Sao gọi là quả? Nhân nơi sự xúc chạm sanh ra
cảm thọ, nên gọi [
cảm thọ] là quả. Vì thế,
cảm thọ vừa là nhân, cũng vừa là quả.
“Người có
trí quán xét
cảm thọ như vậy rồi, tiếp đó quán xét
tham ái.
Quả báo của
cảm thọ là
tham ái. Người có
trí quán xét
tham ái có hai loại, một là tạp thực, hai là vô thực.
Tham ái tạp thực là nhân của sanh, già, bệnh, chết cùng tất cả các
cảnh giới hiện hữu.
Tham ái vô thực dứt hết sanh, già, bệnh, chết cùng tất cả các
cảnh giới hiện hữu, [chỉ]
ham muốn tu đạo vô lậu.
“Người có trí lại nên
suy xét rằng: ‘Nếu ta
sanh khởi tham ái tạp thực, ắt không thể dứt trừ sanh, già, bệnh, chết. Tuy nay ta
ham muốn đạo
vô lậu, nhưng
nếu không trừ dứt
nguyên nhân của
cảm thọ thì không
thể đạt được
đạo quả vô lậu. Vì thế, trước hết phải dứt trừ mọi xúc chạm. Xúc chạm đã dứt trừ rồi thì
cảm thọ tự nhiên diệt mất.
Cảm thọ đã diệt mất rồi thì
tham ái cũng theo đó mà diệt.’
“[
Tu tập quán xét như trên] gọi là [
tu tập theo đúng] Tám
Chánh đạo.
“Thiện nam tử! Nếu
chúng sanh nào có thể quán xét như vậy, tuy mang
thân độc hại nhưng trong thân đó cũng có vị thuốc diệu kỳ; cũng như nơi
Tuyết sơn, tuy có cỏ độc nhưng cũng có vị thuốc hay.
“Thiện nam tử! Những
chúng sanh ấy tuy do
phiền não mà nhận chịu
quả báo, nhưng
quả báo này không
tiếp tục làm nhân sanh ra
phiền não. Đó gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Người có trí nên quán xét
cảm thọ và
tham ái do
nhân duyên gì sanh ra? [Quán xét như vậy rồi liền] biết rằng [
cảm thọ và
tham ái] đều do
vọng tưởng sanh ra. Vì sao vậy?
Chúng sanh trong khi thấy
hình sắc không sanh
tham muốn, trong khi quán xét
cảm thọ cũng không sanh
tham muốn, chỉ khi đối với những
hình sắc [ấy] khởi sanh
vọng tưởng điên đảo, cho rằng đó là thường, lạc, ngã, tịnh; rằng
cảm thọ [đối với
hình sắc đó] là thường còn, không
biến đổi; [thì] nhân nơi
tư tưởng điên đảo ấy mới khởi sanh [các tâm]
tham lam,
sân khuể và
si mê. Vì thế nên người có trí phải biết quán xét [vọng] tưởng.
“Thế nào là quán xét [vọng] tưởng? Nên
suy xét rằng: ‘Tất cả
chúng sanh khi chưa
đạt được Chánh đạo đều có những
tư tưởng điên đảo. Thế nào là
tư tưởng điên đảo? Đối với việc không thường còn mà khởi sanh
tư tưởng [cho đó là] thường còn; đối với việc không phải vui mà khởi sanh
tư tưởng [cho đó là] vui; đối với việc chẳng phải
thanh tịnh mà khởi sanh
tư tưởng [cho đó là]
thanh tịnh; đối với các pháp [vốn thật là] không mà khởi sanh
tư tưởng [cho đó là] có ngã; đối với [các đối tượng thật] không phải là nam, nữ, lớn, nhỏ, ngày, đêm, năm, tháng,
y phục, nhà cửa, chỗ ngồi nằm... mà khởi sanh
tư tưởng [cho đó là] nam, nữ...
cho đến chỗ ngồi nằm...
“Tưởng có ba loại, một là nhỏ, hai là lớn, ba là
vô lượng. Do
nhân duyên nhỏ nên sanh ra tưởng nhỏ; do
nhân duyên lớn nên sanh ra tưởng lớn; do
nhân duyên vô lượng nên sanh ra tưởng
vô lượng.
“Lại có [cách phân loại] tưởng nhỏ là khi chưa
nhập định; tưởng lớn là khi đã
nhập định; tưởng
vô lượng là khi
đạt đến Mười nhất thiết nhập.[138]
“Lại có [cách phân loại] tưởng nhỏ là tất cả [vọng] tưởng trong
Dục giới, tưởng lớn là tất cả [vọng] tưởng trong
Sắc giới, tưởng
vô lượng là tất cả [vọng] tưởng trong
Vô sắc giới.
“Nếu ba loại tưởng [
phân biệt như trên] đều diệt cả rồi, ắt
cảm thọ cũng
tự nhiên diệt mất. Vì tưởng và
cảm thọ đều diệt hết nên gọi là
giải thoát.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Diệt tất cả pháp gọi là
giải thoát, vì sao
Như Lai dạy rằng tưởng và
cảm thọ diệt hết gọi là giải thoát?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Như Lai có lúc nhân nơi
chúng sanh mà
thuyết pháp, [khiến] người nghe hiểu được pháp; cũng có lúc lại nhân nơi pháp mà thuyết về
chúng sanh, cũng khiến người nghe hiểu được
chúng sanh.
“Thế nào gọi là nhân nơi
chúng sanh mà
thuyết pháp, khiến người nghe hiểu được pháp? Như trước đây ta vì
Đại Ca-diếp[139] mà dạy rằng: ‘Ca-diếp! Khi
chúng sanh diệt ắt pháp lành cũng diệt.’ Đó gọi là nhân nơi
chúng sanh mà
thuyết pháp, khiến người nghe hiểu được pháp.
“Thế nào gọi là nhân nơi pháp mà thuyết về
chúng sanh, cũng khiến người nghe hiểu được chúng sanh? Như trước đây ta vì A-nan mà dạy rằng: ‘Ta không nói việc gần gũi với tất cả pháp, cũng không nói việc không gần gũi với tất cả pháp. Nếu có những pháp mà khi gần gũi thì pháp lành phải
suy yếu, pháp xấu ác trở nên mạnh mẽ, thì không nên gần gũi với những
pháp như vậy. Nếu có những pháp mà khi gần gũi rồi thì pháp xấu ác
suy yếu diệt mất, pháp lành
tăng trưởng, thì nên gần gũi với những
pháp như vậy.’ Đó gọi là nhân nơi pháp mà thuyết về
chúng sanh, cũng khiến người nghe hiểu được
chúng sanh.[140]
“Thiện nam tử! Tuy
Như Lai chỉ nói đến [hai pháp là] tưởng và
cảm thọ diệt mất, nhưng theo đó có thể hiểu là nói chung tất cả [các pháp] đều diệt mất.
“Người có trí đã quán xét về tưởng như trên rồi, tiếp đó lại quán xét về
nguyên nhân của tưởng. Như tưởng
vô lượng do nhân gì mà sanh ra? [Quán xét rồi] liền biết được rằng do nhân là xúc chạm mà sanh ra.
“Xúc chạm có hai loại, một là có
nguyên nhân nơi
phiền não, hai là có
nguyên nhân nơi
giải thoát. Nhân nơi
vô minh sanh ra xúc chạm gọi là
phiền não xúc; nhân sự
sáng suốt sanh ra xúc chạm gọi là
giải thoát xúc.
“Nhân nơi
phiền não xúc mà sanh ra
tư tưởng điên đảo, nhân
giải thoát xúc mà sanh ra
tư tưởng không
điên đảo. Sau khi quán xét
nguyên nhân của tưởng [như vậy] rồi, tiếp đó sẽ quán xét
quả báo [của tưởng].”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu do tưởng có nhân là
phiền não [xúc] mà sanh ra
tư tưởng điên đảo, thì tất cả
thánh nhân thật ra đều có
tư tưởng điên đảo, nhưng không có
phiền não, nghĩa ấy là thế nào?”
Phật hỏi
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Vì sao [nói rằng]
thánh nhân lại có
tư tưởng điên đảo?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Tất cả
thánh nhân, khi nhìn thấy con bò, con ngựa, [tuy
thật không phải là bò, là ngựa, nhưng lại khởi sanh tư] tưởng [cho đó] là con bò, con ngựa; cũng nói rằng đó là con bò, con ngựa. Đối với [tất cả các đối tượng khái niệm như] nam, nữ, lớn, nhỏ, nhà cửa, xe cộ, đi lại... cũng đều như vậy. Đó gọi là
tư tưởng điên đảo.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả
phàm phu có hai loại
tư tưởng, một là
tư tưởng thuận theo quy ước chung của
thế gian, hai là
tư tưởng tự mình vướng chấp. Tất cả
thánh nhân chỉ có
tư tưởng thuận theo quy ước chung của
thế gian mà thôi, không hề có
tư tưởng tự mình vướng chấp.
“Tất cả
phàm phu do [trong lòng mang]
tư tưởng xấu ác nên đối với những
tư tưởng thuận theo quy ước chung của
thế gian lại sanh ra
tư tưởng vướng chấp. Tất cả
thánh nhân do [trong lòng có]
tư tưởng hiền thiện nên đối với những
tư tưởng thuận theo quy ước chung của
thế gian không sanh ra
tư tưởng vướng chấp. Vì thế nên [
tư tưởng của]
phàm phu gọi là
tư tưởng điên đảo,
thánh nhân tuy rõ biết [tất cả các pháp] nhưng không thể gọi đó là
tư tưởng điên đảo.
“Người có
trí quán xét
nguyên nhân của tưởng [như vậy] rồi, tiếp đó lại quán xét
quả báo [của tưởng]. [Quán xét rồi liền
nhận biết rằng:]
Quả báo của
tư tưởng xấu ác này là phải nhận chịu [
khổ não trong] các
cảnh giới địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh,
cõi trời,
cõi người. Nếu nhân nơi sự dứt trừ những
tư tưởng xấu ác thì có thể dứt trừ sự xúc chạm [sanh ra bởi]
vô minh, [tức
phiền não xúc], do đó mà dứt trừ được tưởng. Do tưởng đã dứt mất nên
quả báo cũng dứt mất.
“Người có trí muốn dứt trừ
nguyên nhân của tưởng như thế, phải
tu tập [theo đúng] Tám
Chánh đạo.
“Thiện nam tử! Nếu ai có thể
tu tập các phép quán như trên thì gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.
Thiện nam tử! Đó gọi là trong
thân độc hại của
chúng sanh có vị thuốc hay nhất, cũng như nơi
Tuyết sơn tuy có cỏ độc nhưng cũng có vị thuốc hay.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Người có
trí quán xét về
tham dục, [thấy rằng]
tham dục tức là
hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm.
Thiện nam tử! Đó chính là
Như Lai trong nhân nói quả, vì
do nơi năm pháp ấy mà sanh ra
tham dục, chứ [tự thân] chúng
thật không phải là
tham dục.
“Thiện nam tử! Những kẻ
ngu si vì
tham muốn cảm thọ nên đối với
hình sắc khởi sanh
tư tưởng điên đảo,
cho đến đối với
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, cũng đều sanh
tư tưởng điên đảo. Do
nhân duyên là
tư tưởng điên đảo mà sanh ra các
cảm thọ. Cho nên người
thế gian nói rằng: ‘Do
tư tưởng điên đảo mà sanh ra mười loại
tư tưởng.’
“Do
nhân duyên tham dục nên [
chúng sanh] phải
lưu chuyển trong
thế gian, nhận chịu các
quả báo xấu ác, lại làm cả những việc ác đối với
cha mẹ, sa-môn, bà-la-môn... Những việc không nên làm vẫn cố sức làm, chẳng tiếc
thân mạng. Vì thế, người có
trí quán xét rằng: ‘Do
nhân duyên là các
tư tưởng xấu ác nên sanh ra tâm
tham dục.” Người có
trí quán xét
nguyên nhân của
tham dục như vậy rồi, tiếp đó liền quán xét
quả báo [của
tham dục].
“Tham dục có nhiều
quả báo xấu ác như
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, hoặc trong
cõi người,
cõi trời. Đó gọi là quán xét
quả báo. [Người có
trí quán xét rằng:] ‘Nếu
tư tưởng xấu ác bị trừ dứt thì không sanh ra tâm
tham dục. Vì không có tâm
tham dục nên không nhận các
cảm thọ xấu ác. Vì không có
cảm thọ xấu ác nên không có
quả báo xấu ác. Vì thế, trước hết ta phải dứt trừ
tư tưởng xấu ác. Dứt trừ mọi
tư tưởng xấu ác rồi thì tất cả những pháp [
theo sau] như vậy cũng
tự nhiên dứt hết.’
“Do đó, người có trí muốn dứt trừ
tư tưởng xấu ác liền
tu tập Tám
Chánh đạo, như thế gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh. Đó gọi là trong
thân độc hại của
chúng sanh cũng có vị thuốc hay nhất, cũng như nơi
Tuyết sơn tuy có cỏ độc nhưng cũng có vị thuốc
kỳ diệu.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Người có
trí quán xét
tham dục như vậy rồi, sau đó sẽ quán xét về nghiệp. Vì sao vậy? Người có trí nên
suy xét rằng: ‘Cảm thọ,
tư tưởng, xúc chạm,
tham dục chính là
phiền não.
Phiền não này có thể tạo thành
sanh nghiệp[141] nhưng không tạo thành
thọ nghiệp.[142] [Nhưng khi]
phiền não đi cùng với nghiệp [đã tạo] ắt có hai loại, một là tạo thành
sanh nghiệp, hai là tạo thành
thọ nghiệp.[143] Vì thế, người có trí
cần phải quán xét về nghiệp. [Quán xét rồi liền thấy rằng] nghiệp như vậy có ba loại là: nghiệp của thân, nghiệp của miệng và nghiệp của ý.
“Thiện nam tử! Hai nghiệp của thân và của miệng vừa là nghiệp, vừa là quả của nghiệp. Riêng nghiệp của ý chỉ là nghiệp, không thể gọi là quả; vì có nhân là nghiệp nên mới gọi là nghiệp.
“Thiện nam tử! Hai nghiệp của thân và của miệng gọi là nghiệp bên ngoài; nghiệp của ý gọi là nghiệp bên trong.
“Ba nghiệp này [nếu] đi cùng với
phiền não [có thể] tạo thành
sanh nghiệp và
thọ nghiệp.
“Thiện nam tử! Nghiệp của ý là nghiệp [giữ
vai trò] chính. Nghiệp của thân và miệng là nghiệp có hạn kỳ [phát sanh]. Cho nên nghiệp của ý phát sanh trước nhất, rồi nương theo nghiệp của ý mới phát sanh các nghiệp của thân và của miệng. Vì thế mà nghiệp của ý được gọi là nghiệp [giữ
vai trò] chính.
“Người có
trí quán xét nghiệp [như vậy] rồi, tiếp đó quán xét
nguyên nhân của nghiệp. [Quán xét rồi liền rõ biết]
nguyên nhân của nghiệp chính là sự xúc chạm [sanh ra bởi]
vô minh, [tức là
phiền não xúc]. Nhân nơi sự xúc chạm sanh ra bởi
vô minh mà
chúng sanh tham cầu sự
hiện hữu, [nên]
nhân duyên tham cầu
hiện hữu chính là
tham ái. Do
nhân duyên là
tham ái [nên
chúng sanh] tạo tác các nghiệp của thân, của miệng và của ý.
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét
nguyên nhân của nghiệp như vậy rồi, tiếp đó liền quán xét
quả báo. [Quán xét rồi liền rõ biết] có bốn loại
quả báo: một là
quả báo thuần xấu ác, hai là
quả báo thuần thiện, ba là
quả báo hỗn tạp và bốn là
quả báo không thiện không ác.
“Quả báo thuần xấu ác là khi tạo nghiệp thì
ô nhiễm,
quả báo nhận lấy cũng
ô nhiễm.
Quả báo thuần thiện là khi tạo nghiệp thì
trong sạch,
quả báo nhận lấy cũng
trong sạch.
Quả báo hỗn tạp là khi tạo nghiệp thì
lẫn lộn [có thiện có ác],
quả báo nhận lấy cũng
lẫn lộn [có tốt có xấu].
Quả báo không thiện không ác gọi là nghiệp
vô lậu.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Trước đây Phật dạy rằng nghiệp
vô lậu không có
quả báo, sao nay lại dạy rằng
quả báo không thiện không ác là của nghiệp vô lậu?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! [Tuy nói
quả báo nhưng] thật có
hai nghĩa. Một là có quả, có báo; hai là chỉ có quả mà không có báo.
“Quả báo thuần xấu ác là có quả, có báo. Do
nhân duyên xấu ác sanh ra nên gọi là quả; [quả ấy] có thể làm nhân [sanh ra quả khác] nên gọi là báo.
Quả báo thuần thiện và
quả báo hỗn tạp cũng giống như vậy. Riêng quả
vô lậu do
nhân hữu lậu sanh ra nên gọi là quả, [nhưng] không làm nhân [cho quả] khác nên không gọi là báo. Vì thế nên [quả
vô lậu chỉ] gọi là quả, không gọi là báo.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nghiệp
vô lậu không phải là pháp xấu ác, do
nhân duyên gì lại không gọi đó là [thuần] thiện?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì không có báo nên không gọi là thiện. Vì đối lại với xấu ác nên mới gọi là thiện. Cho nên ta có dạy rằng: ‘Vì có thọ nhận
quả báo nên [
phân chia] gọi là thiện, ác.’ Nghiệp
vô lậu không
thọ báo nên không gọi là thiện, mà gọi là
vắng lặng,
an tĩnh.
“Những nghiệp nói trên được xác định có nơi
thọ báo, như [nghiệp của] Mười điều
bất thiện nhất định [phải thọ
quả báo] nơi các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh; nghiệp của
Mười điều thiện nhất định [thọ
quả báo] nơi
cõi trời,
cõi người.
“Mười điều
bất thiện lại chia thành ba hạng: hạng nặng, hạng vừa và hạng nhẹ. Do
nhân duyên [thuộc hạng] nặng nên thọ thân nơi
địa ngục. Do
nhân duyên hạng vừa nên thọ thân làm
súc sanh. Do
nhân duyên hạng nhẹ nên thọ thân
ngạ quỷ.
“Nghiệp
Mười điều thiện lại có bốn hạng: hạng thấp, hạng vừa, hạng cao và hạng cao nhất. Do
nhân duyên thuộc hạng thấp nên sanh ở châu Uất-đan-việt. Do
nhân duyên hạng vừa nên sanh ở châu Phất-bà-đề. Do
nhân duyên hạng cao nên sanh ở châu Cù-đà-ni. Do
nhân duyên hạng cao nhất nên sanh ở châu Diêm-phù-đề.
“Người có trí sau khi quán xét như vậy rồi liền
suy nghĩ rằng: ‘Nay ta phải làm sao để dứt trừ
quả báo này?’ Rồi lại nghĩ rằng: ‘Nhân
duyên sanh ra nghiệp này là sự xúc chạm [sanh ra bởi]
vô minh, [tức
phiền não xúc]. Nếu ta dứt trừ sự xúc chạm [sanh ra bởi]
vô minh thì quả của nghiệp này phải dứt hẳn không còn sanh ra.’ Vì thế, người có trí vì muốn dứt trừ
nhân duyên là sự xúc chạm [sanh ra bởi]
vô minh nên
tu tập Tám
Chánh đạo. Đó gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.
“Thiện nam tử! Đó gọi là trong
thân độc hại của
chúng sanh có vị thuốc hay nhất, cũng như nơi
Tuyết sơn tuy có cỏ độc nhưng cũng có thuốc quý.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Người có
trí quán xét nghiệp, quán xét
phiền não [như trên] rồi, tiếp đó quán xét
quả báo của nghiệp và
phiền não.
Quả báo của hai thứ ấy chính là
khổ não. Đã biết rõ là khổ ắt có thể
buông bỏ lìa xa tất cả mọi sự thọ sanh.
“Người có trí lại quán xét rằng: ‘Phiền não là
nhân duyên sanh ra
phiền não, nghiệp cũng là
nhân duyên sanh ra
phiền não.
“Phiền não lại là
nhân duyên sanh ra nghiệp, nghiệp là
nhân duyên sanh ra khổ.
“Khổ là
nhân duyên sanh ra
phiền não,
phiền não là
nhân duyên sanh ra sự
hiện hữu.
“Sự
hiện hữu là
nhân duyên sanh ra khổ, sự
hiện hữu [cũng] là
nhân duyên sanh ra sự
hiện hữu [
tiếp nối].[144]
“Sự
hiện hữu là
nhân duyên sanh ra nghiệp, nghiệp là
nhân duyên sanh ra
phiền não.
“Phiền não là
nhân duyên sanh ra khổ, khổ là
nhân duyên sanh ra sự khổ [
tiếp nối].’
“Thiện nam tử! Nếu người trí có thể quán xét như vậy, nên biết rằng người ấy có thể quán xét sự khổ của [việc thọ] nghiệp. Vì sao vậy? Quán xét như trên tức là
mười hai nhân duyên của
sanh tử. Nếu ai có thể quán xét
mười hai nhân duyên ấy của
sanh tử, nên biết rằng người ấy sẽ không tạo
tác nghiệp mới và có thể phá trừ nghiệp cũ.
“Thiện nam tử! Người có trí khi quán xét sự khổ nơi
địa ngục, quán xét từ một
địa ngục cho đến đủ một trăm ba mươi sáu nơi [
địa ngục]. Mỗi một
địa ngục có đủ mọi thứ khổ, đều do
nhân duyên là
phiền não và nghiệp sanh ra.
“Quán xét [sự khổ nơi]
địa ngục rồi, tiếp đó lại quán xét mọi nỗi khổ của [các
cảnh giới]
ngạ quỷ,
súc sanh. Quán xét như vậy rồi, lại quán xét đến những nỗi khổ của
cõi người,
cõi trời. [Liền rõ biết được rằng] hết thảy những nỗi khổ như vậy đều
do nơi nhân duyên là
phiền não và nghiệp sanh ra.
“Thiện nam tử! Các
cõi trời tuy không có sự
khổ não lớn lao [như các cõi khác], nhưng
thân thể mềm mại, trơn láng của
chư thiên khi có
năm tướng suy[145]
hiện ra thì cũng chịu sự
khổ não ghê gớm, không khác gì so với nỗi khổ ở
địa ngục.
“Thiện nam tử! Người
trí quán xét
sâu xa các nỗi khổ trong
Ba cõi, [thấy rằng tất cả] đều do
nhân duyên là
phiền não và nghiệp sanh ra.
“Thiện nam tử!
Ví như món đồ [gốm] khi chưa nung rất dễ vỡ, cái thân mà
chúng sanh thọ nhận cũng vậy; khi đã thọ thân rồi thì thân ấy
trở thành vật chứa đựng mọi thứ
khổ não.
Ví như cây lớn,
hoa quả sai oằn thì các loài chim có thể đến
phá hoại. Như cỏ khô chất lại nhiều, chỉ một chút lửa cũng đủ để thiêu rụi. Thân của
chúng sanh bị các nỗi khổ làm cho hư hoại cũng giống như vậy.
“Thiện nam tử! Nếu người
trí quán xét được tám loại
khổ não [như trong phẩm]
Thánh hạnh [đã giảng],[146] thì nên biết rằng người ấy có thể đoạn trừ mọi nỗi khổ.
“Thiện nam tử! Người có trí sau khi đã quán xét
sâu xa tám loại khổ ấy rồi, tiếp đó quán xét
nguyên nhân của khổ. [Quán xét như vậy rồi liền biết được]
nguyên nhân của khổ chính là
tham ái [sanh ra từ]
vô minh.
Tham ái [sanh ra từ]
vô minh có hai loại, một là tham cầu
thân mạng, hai là tham
cầu tài vật. Tham cầu
thân mạng và tham
cầu tài vật, cả hai đều là khổ. Vì thế nên biết rằng
tham ái [sanh ra từ]
vô minh chính là
nguyên nhân của khổ.
“Thiện nam tử!
Tham ái [sanh ra từ]
vô minh lại có hai loại, một là [hướng vào] bên trong, hai là [hướng về] bên ngoài.
Tham ái bên trong có thể tạo thành nghiệp,
tham ái bên ngoài có thể làm cho
tăng trưởng [nghiệp ấy].
“Lại nữa,
tham ái bên trong có thể tạo thành nghiệp,
tham ái bên ngoài có thể tạo
thành quả của nghiệp. Khi dứt trừ
tham ái bên trong thì dứt được nghiệp; khi dứt trừ
tham ái bên ngoài thì dứt được quả [của nghiệp].
“Tham ái bên trong có thể sanh ra
khổ não đời
vị lai;
tham ái bên ngoài có thể sanh ra
khổ não trong đời hiện tại. Người có
trí quán xét
tham ái chính là
nguyên nhân của khổ.
“Sau khi quán xét
nguyên nhân rồi, tiếp đó lại quán xét
quả báo [của khổ]. [Quán xét rồi liền biết được]
quả báo của khổ chính là sự
chấp thủ.[147] [Vì] quả của
tham ái là
chấp thủ; do
nhân duyên chấp thủ này [liền khởi sanh]
tham ái bên trong và bên ngoài, ắt phải có sự
khổ não vì
tham ái.
“Thiện nam tử! Người có trí nên quán xét rằng: ‘Tham ái là
nhân duyên của
chấp thủ;
chấp thủ là
nhân duyên của
tham ái. Nếu ta có thể dứt trừ cả
tham ái và
chấp thủ ắt sẽ không tạo ra nghiệp phải nhận chịu các nỗi khổ.’ Cho nên, người có trí vì muốn dứt trừ sự khổ do
tham ái mà
tu tập Tám
Chánh đạo.
“Thiện nam tử! Nếu ai có thể quán xét như trên tức là
Phạm hạnh thanh tịnh. Đó gọi là trong
thân độc hại của
chúng sanh có vị thuốc hay nhất, cũng như nơi
Tuyết sơn tuy có cỏ độc nhưng cũng có vị thuốc
kỳ diệu.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả các pháp [đều là
Phạm hạnh thanh tịnh].”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! [Nói] tất cả các pháp [như
vậy thì]
ý nghĩa không xác định. Vì sao vậy?
Như Lai có lúc dạy rằng [tất cả các pháp] là thiện và
bất thiện; hoặc có khi dạy là quán
Bốn niệm xứ; hoặc dạy là
Mười hai nhập; hoặc dạy là
thiện tri thức; hoặc dạy là
Mười hai nhân duyên; hoặc dạy là
chúng sanh; hoặc dạy là
chánh kiến và
tà kiến; hoặc dạy là
Mười hai bộ kinh; hoặc dạy là
Nhị đế. Nay
Như Lai nói rằng tất cả các pháp là
Phạm hạnh thanh tịnh, không biết là nói đến
ý nghĩa nào?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn
vi diệu này mới chính là kho báu trong tất cả các pháp.
Ví như biển cả là kho chứa [tất cả]
các loại châu báu, kinh Niết-bàn này cũng vậy, là kho tàng sâu kín chứa đựng tất cả
ý nghĩa của
văn tự.
“Thiện nam tử! Như núi Tu-di là nguồn gốc của mọi thứ cây thuốc; kinh này cũng vậy, chính là
căn bản của
giới hạnh Bồ Tát.
“Thiện nam tử!
Ví như hư không là nơi dung chứa hết thảy
mọi vật thể; kinh này cũng vậy, là nơi quy tụ của hết thảy mọi pháp lành.
“Thiện nam tử!
Ví như cơn gió mạnh, không gì có thể
trói buộc được; tất cả
Bồ Tát tu hành kinh này cũng vậy, không bị tất cả các pháp xấu ác
phiền não trói buộc.
“Thiện nam tử!
Ví như chất
kim cang, [rắn chắc] không gì
phá hoại được; kinh này
cũng thế, dù có những kẻ
ngoại đạo xấu
ác tà kiến cũng không thể
phá hoại.
“Thiện nam tử!
Ví như cát
sông Hằng, không ai có thể đếm được;
ý nghĩa kinh này cũng vậy, không ai có
thể tính đếm.
“Thiện nam tử!
Kinh điển này vì các vị
Bồ Tát mà làm ngọn cờ
Chánh pháp, như ngọn cờ của vị vua trời Đế-thích.
“Thiện nam tử! Kinh này là vị
thương chủ dẫn dắt đoàn khách buôn hướng đến thành thị Niết-bàn; cũng như vị thầy
dẫn đường giỏi nhất đưa những người đi buôn hướng về biển cả.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể vì các vị
Bồ Tát mà chiếu tỏa ánh sáng
Chánh pháp, như
mặt trời,
mặt trăng [có thể] phá tan mọi sự
tối tăm u ám ở
thế gian.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể vì những
chúng sanh bệnh khổ mà làm vị thuốc quý, cũng như nơi
Tuyết sơn có vị thuốc
kỳ diệu trị được tất cả các bệnh.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm cây gậy chống cho những kẻ nhất-xiển-đề; cũng như những kẻ
suy nhược yếu ớt nhờ có cây gậy để chống mà đứng lên được.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm cây cầu [
vượt qua sự khổ] cho tất cả những kẻ xấu ác, cũng như cây cầu ở
thế gian giúp cho
mọi người đều có thể đi qua sông.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm bóng râm che mát cho những kẻ lang thang trong
Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu khi gặp phải cơn nóng nực
phiền não; cũng như dù lọng ở
thế gian che được nắng nóng.
“Thiện nam tử! Kinh này như vị vua
dũng mãnh không sợ sệt, có thể phá trừ tất cả quỷ ác
phiền não; cũng như chúa
sư tử hàng phục tất cả các loài thú.
“Thiện nam tử! Kinh này như vị thầy
tinh thông thần chú, có thể phá trừ tất cả
ác quỷ phiền não; cũng như vị
chú sư ở
thế gian có thể
trừ khử loài yêu quái sống trong gỗ đá.
“Thiện nam tử! Kinh này như trận mưa đá mạnh mẽ nhất, có thể
phá hoại quả báo sanh tử; cũng như mưa đá ở
thế gian phá hoại các loại cây trái.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm vị thuốc hay cho người bị hư hoại con mắt
giới thể; cũng như vị thuốc an-xà-na[148] ở
thế gian có thể trị lành bệnh đau mắt.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm chỗ dựa
vững chắc cho hết thảy các pháp lành; cũng như mặt đất ở
thế gian có thể làm chỗ đứng vững cho
mọi vật.
“Thiện nam tử! Kinh này là tấm
gương sáng cho những
chúng sanh hủy
phạm giới luật [soi vào]; cũng như
gương sáng ở
thế gian [nhìn vào có thể] thấy được các
hình sắc,
ảnh tượng.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể vì những kẻ không biết
hổ thẹn mà làm
y phục; cũng như quần áo ở
thế gian che kín
thân thể [cho những người biết
hổ thẹn].
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm tài vật
quý báu cho những kẻ nghèo thiếu pháp lành; cũng như vị
Công Đức Thiên[149] làm
lợi ích cho những người
nghèo khó.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm nước
cam lộ cho
chúng sanh khao khát
Chánh pháp; cũng như nước có đủ tám vị [ở
thế gian] giúp cho người
giải trừ cơn khát.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm giường
Chánh pháp cho kẻ
phiền não [nghỉ ngơi]; cũng như người ở
thế gian gặp được giường nằm
yên ổn.
“Thiện nam tử! Kinh này có thể làm cỗ xe
thanh tịnh trang nghiêm đầy đủ các thứ
chuỗi ngọc,
hương hoa, hương phết, hương bột, hương đốt... dành cho hàng
Bồ Tát từ
Sơ địa cho đến Thập địa, hơn cả chỗ thọ nhận niềm vui
vi diệu của tất cả sáu pháp Ba-la-mật, giống như [được ở] dưới cây ba-lợi-chất-đa-la trên
cõi trời Đao-lợi.[150]
“Thiện nam tử! Kinh này là lưỡi rìu
trí tuệ sắc bén rắn chắc, có thể đốn ngã hết thảy những cây lớn
phiền não; là lưỡi dao bén có thể cắt đứt mọi
tập khí;[151] là
dũng sĩ mạnh mẽ có thể dẹp tan bọn
oán tặc ma; là lửa
trí tuệ đốt cháy củi
phiền não; là kho chứa
nhân duyên xuất sanh chư
Phật Bích-chi; là kho chứa
Thanh văn sanh ra các vị
Thanh văn; là mắt nhìn của tất cả
chư thiên; là
con đường chân chánh của tất cả
loài người; là chỗ nương dựa của tất cả
súc sanh; là chỗ
giải thoát của loài
ngạ quỷ; là nơi đáng
tôn kính nhất trong
cõi địa ngục; là món khí cụ cao quý nhất của tất cả
chúng sanh trong
mười phương; là
cha mẹ của
chư Phật mười phương trong cả
quá khứ,
hiện tại và
vị lai.
“Thiện nam tử! Cho nên kinh này thâu nhiếp tất cả các pháp.
“Như trước ta đã nói, tuy kinh này thâu nhiếp tất cả các pháp, nhưng ta cũng dạy rằng
Phạm hạnh chính là
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
“Thiện nam tử! Nếu lìa khỏi
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo này thì không bao giờ có
thể đạt được
Chánh quả Thanh văn cho đến quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, không thể thấy được tánh Phật cùng quả của tánh Phật. Vì
nhân duyên ấy nên
Phạm hạnh chính là
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
“Vì sao vậy? Tánh của
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo ấy là không
điên đảo, có thể
phá hoại sự
điên đảo; là không thấy biết xấu ác, có thể
phá hoại sự thấy biết xấu ác; là không sợ sệt, có thể
phá hoại sự sợ sệt; là hạnh
thanh tịnh, có thể khiến cho
chúng sanh cuối cùng rồi sẽ
thực hành đạt được Phạm hạnh thanh tịnh.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Pháp hữu lậu cũng có thể làm nhân cho pháp
vô lậu, vì sao
Như Lai không dạy rằng [các pháp]
hữu lậu là
Phạm hạnh thanh tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả [các pháp]
hữu lậu đều là
điên đảo, nên không gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn!
Pháp đệ nhất trong
thế gian[152] là
hữu lậu hay vô lậu?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đó [cũng] là
hữu lậu.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Tuy
pháp đệ nhất trong
thế gian là
hữu lậu, nhưng tánh của nó không
điên đảo, vì sao không gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Pháp đệ nhất trong
thế gian là nhân của [pháp]
vô lậu nên tương tợ với
vô lậu; vì hướng về
vô lậu nên không gọi là
điên đảo.
“Thiện nam tử! Nhưng sự
phát tâm của
Phạm hạnh thanh tịnh là
tiếp nối mãi
cho đến lúc
rốt ráo, còn
pháp đệ nhất trong
thế gian chỉ là
trong một niệm, nên không gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Năm thức[153] của
chúng sanh cũng là
hữu lậu, không phải
điên đảo, lại không phải
trong một niệm, vì sao không gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Năm thức của
chúng sanh tuy không phải một niệm, nhưng là
hữu lậu, lại là
điên đảo. Vì năm thức ấy làm
tăng trưởng các lậu, nên gọi là
hữu lậu. Vì thể của chúng không
chân thật,
vướng mắc vọng tưởng nên là
điên đảo.
“Sao gọi là [thể của năm thức] không
chân thật,
vướng mắc vọng tưởng nên là điên đảo? Đối với những vật
thật không phải nam, nữ... mà khởi sanh
tư tưởng cho đó là nam, là nữ;
cho đến các thứ nhà cửa, xe cộ,
bình bát,
y phục... cũng đều như vậy. Đó gọi là
điên đảo.
“Thiện nam tử! Tánh của
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là không
điên đảo, nên gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.
“Thiện nam tử! Nếu
Bồ Tát đối với
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo rõ biết chỗ
căn bản, rõ biết
nguyên nhân, rõ biết chỗ thâu nhiếp, rõ biết chỗ
tăng trưởng, rõ biết [pháp] làm chủ, rõ biết [pháp] dẫn dắt, rõ biết [pháp] trổi thắng, rõ biết [pháp]
chân thật, rõ biết chỗ
rốt ráo, thì
Bồ Tát ấy gọi là
Phạm hạnh thanh tịnh.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Sao gọi là rõ biết chỗ
căn bản...
cho đến rõ biết chỗ rốt ráo?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Lành thay,
lành thay! Bồ Tát khởi lên sự thưa hỏi là vì hai việc. Một là tự mình muốn biết, hai là vì muốn cho người khác biết. Nay ông đã rõ biết, chỉ vì
vô lượng chúng sanh chưa hiểu nên thưa hỏi việc này. Vì thế nay ta
ngợi khen ông lần nữa:
Lành thay,
lành thay!“Thiện nam tử!
Căn bản của
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là sự
ham muốn [chân chánh
tốt lành];
nguyên nhân [của chúng] là sự xúc chạm
sáng suốt, [tức là
giải thoát xúc]; chỗ thâu nhiếp [của chúng] là
cảm thọ; chỗ
tăng trưởng [của chúng] là sự khéo
suy xét; [pháp] làm chủ là niệm; [pháp] dẫn dắt là định; [pháp] trổi thắng là
trí tuệ; [pháp]
chân thật là
giải thoát; chỗ
rốt ráo là Đại Bát Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Sự
ham muốn chân chánh
tốt lành là
căn bản [của người
tu tập] từ khi mới bắt đầu
phát khởi tâm đạo cho đến lúc
đạt được quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cho nên ta nói rằng sự
ham muốn [chân chánh
tốt lành] là
căn bản.
“Thiện nam tử! Như người
thế gian nói rằng
tham ái là nguồn gốc của tất cả
khổ não; việc ăn ban đêm là nguồn gốc của tất cả bệnh tật; sự
tranh giành là nguồn gốc của tất cả những việc kiện tụng; sự
hư dối là nguồn gốc của tất cả những việc xấu ác.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Trước đây trong kinh này
Như Lai có dạy: ‘Không buông thả lười nhác là
căn bản của tất cả pháp lành’; nay lại dạy rằng sự
ham muốn [chân chánh
tốt lành] là
căn bản. Nghĩa [khác biệt] ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu nói về nhân sanh ra thì sự
ham muốn chân chánh
tốt lành là
căn bản; nếu nói về nhân
thành tựu thì không buông thả lười nhác là
căn bản. Cũng như người
thế gian nói
hạt giống là nhân của
các loại trái cây; lại nói rằng hạt là nhân sanh ra, đất... là nhân
thành tựu. Nghĩa ấy cũng giống như thế.”
Bồ Tát Ca-diếp bạch: “Thế Tôn! Trước đây trong các kinh khác,
Như Lai có dạy rằng Phật là
căn bản của Ba mươi bảy phẩm. Nghĩa ấy thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trước đây
Như Lai có nói:
Chúng sanh khi vừa mới
nhận biết thì Phật là
căn bản của Ba mươi bảy phẩm, nhưng nếu
tự chứng đắc thì sự
ham muốn [chân chánh
tốt lành] là
căn bản.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Vì sao sự xúc chạm
sáng suốt, [tức
giải thoát xúc,] được xem là
nguyên nhân [của
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo]?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Như Lai có khi dạy rằng sự
sáng suốt là
trí tuệ, có khi dạy rằng đó là
đức tin, [nên
giải thoát xúc cũng được hiểu là sự
tiếp xúc phát khởi từ
lòng tin].
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên là
đức tin nên gần gũi những người bạn lành, đó gọi là [
giải thoát] xúc. Do
nhân duyên gần gũi [bạn lành] mà được nghe
Chánh pháp, đó gọi là [
giải thoát] xúc. Do
nhân duyên được nghe
Chánh pháp nên thân, miệng, ý
trở nên thanh tịnh, đó gọi là [
giải thoát] xúc. Do
nhân duyên ba nghiệp [thân, miệng, ý]
thanh tịnh mà
đạt được sự mưu sanh chân chánh, đó gọi là [
giải thoát] xúc. Do
nhân duyên mưu sanh chân chánh nên được giới làm
thanh tịnh các căn. Do
nhân giới làm
thanh tịnh các căn nên
vui thích ở nơi vắng vẻ yên tĩnh. Do
nhân duyên vui thích ở nơi vắng vẻ yên tĩnh nên có thể khéo
suy xét. Do
nhân duyên khéo
suy xét nên sống đúng theo
Chánh pháp. Do
nhân duyên sống theo
Chánh pháp nên
đạt được Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, có thể phá trừ
vô lượng phiền não xấu ác. Vì thế nên [
giải thoát] xúc [được xem là
nguyên nhân của
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo].
“Thiện nam tử!
Cảm thọ được xem là chỗ thâu nhiếp. Khi
chúng sanh cảm thọ có thể làm ra các
việc thiện, ác; cho nên
cảm thọ gọi là chỗ thâu nhiếp [mọi
hành vi].
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên là
cảm thọ mà sanh ra các
phiền não, Ba mươi bảy phẩm [
trợ đạo] có thể phá trừ các
phiền não ấy. Cho nên gọi
cảm thọ là chỗ thâu nhiếp.
“Do
nhân duyên là khéo
suy xét nên có thể phá
trừ phiền não. Vì thế, khéo
suy xét được gọi thọ là chỗ
tăng trưởng [của
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo]. Vì sao vậy? Nhờ siêng năng
tu tập mà
đạt được Ba mươi bảy phẩm ấy.
“Nếu quán xét thì có thể phá trừ các
phiền não xấu ác, nhưng
cần phải nhờ ở sự
chuyên tâm niệm tưởng. Cho nên lấy niệm [là pháp] làm chủ. Cũng như ở
thế gian, tất cả
bốn loại quân binh đều
tuân theo ý chủ tướng. Ba mươi bảy phẩm cũng vậy, đều
tuân theo vị chủ tướng là niệm.
“Thiện nam tử! Khi đã
nhập định thì Ba mươi bảy phẩm có thể
phân biệt rõ ràng tướng trạng của tất cả các pháp. Cho nên lấy định làm pháp dẫn dắt.
“Ba mươi bảy phẩm này
phân biệt tướng trạng các pháp,
trí tuệ là hơn hết. Cho nên lấy tuệ làm pháp trổi thắng. Nhờ
trí tuệ này mà rõ biết các
phiền não, nhờ sức của
trí tuệ mà phá
trừ phiền não. Cũng như ở
thế gian,
bốn loại quân binh phá
trừ quân thù địch; hoặc có một, hai dũng tướng có thể làm được việc ấy; Ba mươi bảy phẩm cũng giống như vậy. Nhờ sức của
trí tuệ mà phá trừ được
phiền não, cho nên lấy
trí tuệ làm pháp trổi thắng.
“Thiện nam tử! Tuy nhân nơi sự
tu tập Ba mươi bảy phẩm mà
đạt được Bốn thiền, các
thần thông, sự an vui, nhưng cũng không phải là
chân thật. Chỉ khi phá trừ được
phiền não,
chứng đắc giải thoát rồi mới gọi là
chân thật.
“Phát tâm
tu tập theo Ba mươi bảy phẩm [
trợ đạo] này, tuy có
đạt được niềm vui ở
thế gian và
xuất thế gian,
đạt được bốn quả sa-môn và
sự giải thoát, nhưng cũng không phải là
rốt ráo.
Nếu có thể dứt trừ cả việc
tu tập Ba mươi bảy phẩm [
trợ đạo] mới gọi là Niết-bàn. Cho nên ta nói chỗ
rốt ráo chính là Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Tâm
ưa thích nhớ tưởng đến điều lành tức là sự
ham muốn [chân chánh]. Nhân nơi tâm
ưa thích nhớ tưởng đến điều lành mà gần gũi bạn lành, cho nên gọi là [
giải thoát] xúc, đó là
nguyên nhân. Nhân sự gần gũi bạn lành mà có
cảm thọ [
tốt lành], nên gọi là chỗ thâu nhiếp. Nhân sự gần gũi bạn
tốt lành mà khéo
suy xét, nên gọi là chỗ
tăng trưởng. Nhân nơi bốn pháp có thể sanh trưởng
đạo pháp, đó là
ham muốn [chân chánh], niệm, định và
trí tuệ. Đây gọi pháp làm chủ, pháp dẫn dắt và pháp trổi thắng. Nhân nơi ba pháp này mà
đạt được hai
sự giải thoát. Nhờ dứt trừ
tham ái nên tâm
được giải thoát, và nhờ phá trừ
vô minh nên tuệ
được giải thoát. Đó gọi là
chân thật.
“Tám pháp kể trên, [gồm
ham muốn chân chánh là
căn bản,
giải thoát xúc là
nguyên nhân,
cảm thọ là chỗ thâu nhiếp, khéo
suy xét là chỗ
tăng trưởng, cho tới niệm là pháp làm chủ, định là pháp dẫn dắt,
trí tuệ là pháp trổi thắng,
giải thoát là
pháp chân thật,]
rốt cuộc đạt đến kết quả, gọi là Niết-bàn. Cho nên gọi [Niết-bàn] là chỗ
rốt ráo.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ham muốn [chân chánh] là
phát tâm xuất gia. [
Giải thoát] xúc là [theo đúng pháp]
bạch tứ yết-ma;[154] đó gọi là
nguyên nhân. Thâu nhiếp là
thọ trì hai loại
giới luật: giới Ba-la-đề-mộc-xoa[155] và giới làm
thanh tịnh các căn. Như thế là thọ, tức là chỗ thâu nhiếp.
Tăng trưởng là
tu tập Bốn thiền. Pháp làm chủ là các
thánh quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm. Pháp dẫn dắt là
thánh quả A-na-hàm. Pháp trổi thắng là
thánh quả A-la-hán.
Pháp chân thật là quả
Phật Bích-chi. Chỗ
rốt ráo là quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử! [Đối với người
thế tục thì]
tham dục là [các] thức, xúc chạm là
sáu nhập, chỗ thâu nhiếp là
cảm thọ,
tăng trưởng là
vô minh, pháp làm chủ là
danh sắc, pháp dẫn dắt là
tham ái, pháp trổi thắng là
chấp thủ, chỗ
chân thật là
hiện hữu, chỗ
rốt ráo là sanh, già, bệnh, chết.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI BẢY
[1] Pháp Hoa huyền tán, quyển 1, dẫn kinh văn nói rằng (vào thuở ấy) Phật có 3 người con trai, một là Thiện Tinh, hai là Ưu-bà-ma-da và người thứ ba là La-hầu.
[2] Rừng tha ma: khu rừng ở ngoài thành Vương Xá được dùng làm bãi tha ma vất xác người chết. Bản Hán văn dùng hàn lâm, nghĩa là khu rừng lạnh lẽo, thường phiên âm là Thi-đà hay Thi-đa-bà-na.
[3] Ở đây đức Phật chỉ rõ Thiện Tinh vì nói dối nên đã tự mâu thuẫn với chính mình. Trước đó ông ta tin rằng Khổ Đắc là bậc A-la-hán, nay lại nói dối rằng Khổ Đắc đã sanh lên cõi trời Ba mươi ba (Tam thập tam thiên, tức Đao-lợi thiên), nhưng thật là bậc A-la-hán đã đoạn dứt phiền não thì không còn phải tái sanh, làm sao có chỗ sanh ra?
[4] Giải lực thứ năm (Đệ ngũ giải lực), tức Tri chủng chủng giải trí lực, là trí lực thứ năm trong mười trí lực của Phật, có thể rõ biết căn trí của tất cả chúng sanh và biết cách giáo hóa thích hợp.
[5] Năm căn được nói ở đây bao gồm: tín căn (tức lòng tin, đức tin), tinh tấn căn (lòng tinh tấn, chuyên cần), niệm căn (năng lực nhớ nghĩ, tưởng niệm), định căn (năng lực tập trung tư tưởng, định tâm không tán loạn) và tuệ căn (năng lực trí tuệ sáng suốt).
[6] Bản Hán văn dùng Điều-bà-đạt-đa, chúng tôi chuyển dịch dùng cách đọc Đề-bà-đạt-đa quen thuộc và phổ biến hơn.
[7] Ba pháp vô vi (Tam vô vi): 1. Trạch diệt vô vi: hay Sổ diệt vô vi, do năng lực trí tuệ phân biệt giản trạch tất cả các pháp hữu vi mà đạt đến Diệt đế, thể của tịch diệt tức là Niết-bàn, nên gọi là Trạch diệt vô vi; 2. Phi trạch diệt vô vi: hay Phi sổ diệt vô vi, quán chiếu tất cả các pháp hữu vi do nhân duyên mà có, không dùng đến trí tuệ phân biệt giản trạch, chỉ y theo lý nhân duyên, nhân duyên diệt thì tất cả các pháp hữu vi đều diệt, đạt đến chỗ thực thể hiển bày, các tướng hữu vi đều tịch diệt, nên gọi là Phi trạch diệt vô vi; 3. Hư không vô vi, là vượt ngoài cả hai pháp vô vi nói trên, lấy vô ngại làm thể tánh, vốn không bị ngăn ngại cũng không ngăn ngại pháp khác; thể tánh vô vi này đầy khắp như hư không của thế gian nên gọi là Hư không vô vi.
[8] Câu này nói tóm cả sáu thức, gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
[9] Thế đế: chỉ chân lý tương đối nằm trong phạm trù suy luận, khái niệm của thế gian.
[10] A-nhã Kiều-trần-như: Kiều-trần-như là họ của vị này, nên theo đây mà xét thì tên A-nhã là do đức Phật đặt cho sau khi vị này hiểu đạo. Chữ A-nhã được dịch sang chữ Hán là giải, dĩ tri hay liễu bổn tế, đều có nghĩa là “người đã thấu rõ, đã hiểu biết”.
[11] Câu này nói tóm cả năm ấm, gồm từ sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm cho đến thức ấm.
[12] Lực-sĩ: danh xưng này là tên riêng của một tộc họ thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ, đã được giải thích rõ ở phần mở đầu kinh này (Tập 1, quyển 1). Một số nơi khác cũng phiên âm là Ly-xa. Vì thế, nó không thực sự mang ý nghĩa “lực sĩ” (người có sức mạnh).
[13] Tức cõi trời Sắc Cứu Cánh, tên gọi A-ca-ni-trá.
[14] Trong một số đoạn văn, nguyên bản dùng Câu-thi-na-kiệt, cũng là cách phiên âm khác của Câu-thi-na. Để độc giả tiện theo dõi, chúng tôi dùng một tên thống nhất là Câu-thi-na.
[15] Tiên nhân ngũ thông: người tu theo tiên đạo đã đạt được năm phép thần thông.
[16] Vị này về sau là vua A-xà-thế đã nói trong phần trước đây. Xem lại chuyện vua A-xà-thế bắt đầu từ trang 609 của Tập 3 và kéo dài đến trang 207 của Tập 4, vừa hết phẩm Hạnh thanh tịnh.
[17] Nguyên bản dùng chữ “thực thóa”, nghĩa đen là “ăn đờm dãi, nước miếng”, được dùng để chỉ kẻ chỉ biết lặp lại lời người xưa mà hoàn toàn không hiểu được ý nghĩa trong đó.
[18] Vị sanh oán: kẻ oán thù từ lúc chưa sanh, phiên âm là A-xà-thế, sau là vương hiệu khi vị thái tử này lên ngôi.
[19] Bà-la-lưu-chi, dịch nghĩa là ‘chiết chỉ’ (gãy ngón tay).
[20] Đại thần Vũ Hành, dịch âm là Bà-lợi-ca, cũng đọc là Bà-lợi-sa-ca-la.
[21] Bốn loại quân ở đây là quân dùng ngựa (kỵ binh), quân dùng voi (tượng binh), quân dùng xe (xa binh) và quân đánh bộ (bộ binh).
[22] Phu nhân Vi-đề, tức phu nhân Vi-đề-hy, dịch nghĩa là Tư Thắng hay Thắng Thân, Thắng Diệu Thân. Vị phu nhân này là mẹ vua A-xà-thế (tức thái tử Thiện Kiến), hoàng hậu của vua Tần-bà-sa-la. Bà có tín tâm mãnh liệt, cảm được đức Phật thuyết kinh Quán Vô lượng thọ, dạy 16 phép quán về cõi Tịnh độ phương Tây của đức Phật A-di-đà. Bà nhờ đó được vãng sanh Tịnh độ.
[23] Kỳ-bà, cũng đọc là Kỳ-vực, là một vị ngự y rất tài ba lúc đó. Ông vốn là con không chính thức của vua Tần-bà-sa-la với một kỹ nữ.
[24] Vua Tần-bà-sa-la nghe Phật thuyết pháp đã được chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn.
[25] Đức tin vô căn (vô căn tín): đức tin phát khởi ban đầu nhờ sức gia trì của Phật, không có bất cứ nền tảng, cội rễ nào trước đó nên gọi là “vô căn”. Vua A-xà-thế sau khi nghe Phật thuyết pháp sinh khởi đức tin, liền bạch Phật rằng: “Nói không có cội rễ là vì [trước đây] con không biết cung kính Như Lai, không tin Chánh pháp, Chư tăng. Như vậy gọi là không có cội rễ [của lòng tin].”
[26] Hữu tư: cũng đọc là hữu ty, chỉ chức quan được giao phó chuyên trách một việc gì.
[27] Ngã và ngã sở: kiến chấp mê lầm cho rằng có một bản ngã tồn tại độc lập (ngã) và các đối tượng thuộc về bản ngã ấy (ngã sở).
[28] Câu này nói tóm gọn từ sắc ấm cho đến thức ấm, tức là chỉ chung cả năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều như vậy.
[29] Phạm chí Độc Tử: một tu sĩ ngoại đạo, dịch âm là Bà-tư. Vị này về sau quy y Phật, nên cũng gọi là tỳ-kheo Độc Tử.
[30] Sáu cảnh giới hiện hữu: chỉ sáu cảnh giới thọ sanh là cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[31] Chỉ các quả vị giải thoát nhưng chưa đủ tự lực, tùy theo những lúc có thuận duyên thì được giải thoát, nếu gặp nghịch duyên thì phải thối chuyển, đánh mất đạo tâm. Phật dạy trong sáu hạng A-la-hán thì có đến năm hạng thuộc về loại này.
[32] Sáu hạng A-la-hán: 1. Thối pháp A-la-hán: khi gặp nghịch duyên có thể sanh phiền não, thối chuyển đạo tâm, đánh mất chỗ sở đắc; 2. Tư pháp A-la-hán: tuy được giải thoát nhưng thường lo sợ sự thối chuyển, thường nghĩ cách tự đoạn dứt mạng sống; 3. Hộ pháp A-la-hán: được giải thoát rồi thì hoan hỷ phòng hộ chỗ chứng đắc của mình; 4. An trụ pháp A-la-hán: đạt được giải thoát và trụ yên vững vàng, không cần phòng hộ cũng không có thối chuyển, nhưng không được tăng tiến; 5. Kham đạt pháp A-la-hán: đạt được giải thoát và đủ sức nhận lãnh giáo pháp cao siêu, tu tập tinh tấn để đạt đến quả vị rốt ráo; 6. Bất động pháp A-la-hán: đạt được giải thoát rốt ráo và vững vàng không thể xao động, không thể lay chuyển, thối thất.
[33] Nội dung này được giảng rất rõ trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
[34] Cho đến thức cũng giống như vậy: Câu này nói tóm ý từ sắc đến thức, nghĩa là gồm cả sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
[35] Ba vô vi (Tam vô vi), là ba nhận thức chân thật về thực tại, bao gồm: 1. Hư không vô vi: hư không không có sự ngăn ngại, không có sự nhiễm ô, là tánh thật của tất cả các pháp, có thể dung nhiếp được vạn vật mà vẫn biến hiện khắp mọi nơi; 2. Trạch diệt vô vi: hàng Thanh văn tu tập dùng trí tuệ giản trạch, phân biệt, xa lìa được tất cả phiền não trói buộc, chứng đắc lý tịch diệt chân không; 3. Phi trạch diệt vô vi, cũng gọi là Phi sổ diệt vô vi hay Phi trí duyên diệt vô vi: vị Thanh văn sau khi chứng quả, các phiền não đã dứt sạch không còn khởi lên trở lại, tự nhiên khế ngộ được lý chân không tịch diệt, không cần đến sự tư duy giản trạch. Ba vô vi này thuộc về pháp Tiểu thừa, được đề cập đến trong Câu-xá luận (quyển 1), Thành Duy thức luận (quyển 2), Đại Tỳ-bà-sa luận (quyển 32), Nhập A-tỳ-đạt-ma luận (quyển hạ), vốn không đồng nhất với những điều Phật vừa giảng về Niết-bàn ở đoạn này, chỉ vì người nghe không hiểu được ý Phật nên nhầm lẫn.
[36] Cam lộ, phiên âm là a-mật-lý-đa, chỉ loại nước mà chư thiên dùng để uống, nên cũng gọi là thiên tửu. Cam lộ có vị ngọt, được tin là uống vào sẽ được sống lâu, thân thể an ổn khỏe mạnh, nên cũng gọi là bất tử dược.
[37] Câu này nói tóm ý từ mắt cho đến thân, bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, tức năm căn, giúp tâm ý giao tiếp với ngoại cảnh.
[38] Phi trí duyên diệt: pháp thứ ba trong Ba vô vi (Tam vô vi) vừa đề cập ở một đoạn trước. Cần chú ý khái niệm này của Tiểu thừa không đồng nhất với ý nghĩa đức Phật đang giảng giải ở đây.
[39] Sắc chỉ tất cả hình thể vật chất nhận biết được bằng các giác quan; danh chỉ các tên gọi được hình thành để chuyển tải khái niệm nhận biết phân biệt về từng đối tượng trong thực tại. Do đó, trong năm ấm thì sắc thuộc về hình thể vật chất, bốn ấm còn lại là thọ, tưởng, hành, thức đều không có hình thể vật chất, nên thuộc về danh.
[40] Hình sắc không biểu lộ: nguyên bản Hán văn dùng vô tác sắc cũng dịch là vô biểu sắc, vô biểu nghiệp; vì là không có biểu hiện bằng hình thể vật chất, người ngoài không thể nhận biết được nên gọi là vô biểu. Dựa theo ý nghĩa được giảng giải từ Phạn ngữ nên chúng tôi dịch là hình sắc không biểu lộ.
[41] Nguyên bản Hán văn ở đây dùng Thập nhị chi, cũng là tên khác của Mười hai nhân duyên.
[42] Nguyên bản Hán văn dùng tâm sổ, cách dịch mới (tân dịch) về sau dịch là tâm sở, đều chỉ các trạng thái khác nhau của tâm. Vì tâm có rất nhiều trạng thái nên gọi là tâm sổ. Các thuật ngữ tâm vương, tâm sở... hiện quen thuộc với nhiều người hơn nên chúng tôi chọn dùng thay cho tâm sổ.
[43] Thích-ma-nam: một vị tỳ-kheo trước vốn là vương tử dòng họ Thích, là con người chú ruột của thái tử Tất-đạt-đa. Vị này cũng là một trong số năm tỳ-kheo thuộc nhóm ông Kiều-trần-như, được nghe Phật thuyết pháp trước tiên tại Lộc Uyển.
[44] Ưu-bà-tắc: cư sĩ nam, cũng gọi là cận sự nam, chỉ người nam giới quy y Phật và tu tập tại gia, trong điều kiện sống với gia đình.
[45] Nguyên bản Hán văn dùng thiện nam tử, thiện nữ nhân. Chúng tôi e là người khắc bản theo quán tính đã khắc thừa, vì ở đây đang giảng về cư sĩ nam, không thể có ‘thiện nữ nhân’. Danh xưng dùng cho vị cư sĩ nữ là ưu-bà-di.
[46] Ca-chiên-diên: một trong Thập đại đệ tử của Phật, là vị có danh xưng Luận nghị đệ nhất.
[47] Tám giới trai (Bát trai giới hoặc Bát quan trai giới): pháp tu do Phật chế định dành cho người Phật tử tại gia, người tu có thể được truyền giới và trì giới trong suốt một ngày một đêm. Tám giới trai bao gồm Năm giới (không giết hại, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối) và ba giới khác nữa là: không dùng các loại hương thơm, đồ trang sức để tô điểm thân thể; không ca múa và xem người khác ca múa; không ngồi nằm trên giường ghế cao đẹp. Cần lưu ý, giới thứ ba trong Năm giới của người cư sĩ là không tà dâm (không hành dâm với người không phải vợ hoặc chồng mình) nhưng khi thọ trì Tám giới trai sẽ chuyển thành không dâm dục, nghĩa là dứt hẳn sự hành dâm.
[48] Bốn trọng cấm: bốn giới cấm nặng: 1. Giết người; 2. Trộm cắp; 3. Dâm dục; 4. Nói dối rằng mình đã chứng thánh quả.
[49] Cây đa-la là loại cây khi bị chặt đứt ngọn thì không thể mọc lên được nữa, cũng như cây dừa, cây cau... Trong giới luật, đức Phật dùng cây này để ví dụ những trường hợp phạm tội không thể cải hối.
[50] A-na-hàm dịch nghĩa là Bất hoàn hoặc Bất lai, vì người chứng đắc quả vị này không còn tái sanh trong Dục giới, sau khi xả thân này liền thọ thân ở Sắc giới hoặc Vô sắc giới rồi nhập Niết-bàn. Người chứng đắc quả vị A-na-hàm tùy theo trạng thái sẽ nhập Niết-bàn mà phân ra năm hạng, gọi chung là Ngũ chủng Bất hoàn, gồm có: Trung bát, Sanh bát, Hữu hành bát, Vô hành bát và Thượng lưu bát.
[51] Đây chỉ các cõi trời Sắc cứu cánh hoặc Hữu đỉnh, là những cõi cao nhất của Sắc giới. Vị A-na-hàm sanh lên các cõi này rồi mới nhập Niết-bàn được gọi là Thượng lưu bát.
[52] Câu này nói tóm ý về cả năm hạng A-na-hàm, từ hạng Trung bát cho đến Thượng lưu bát như vừa chú giải ở trên.
[53] Không hầu: một loại nhạc khí thời cổ đại có 23 dây, nay không còn nữa. Ví dụ đàn không hầu được nêu ra trong quyển 26, phẩm 10, phần 6. Xem lại từ trang 179 của Tập 5.
[54] Ví dụ về mô tả sữa được đưa ra để so sánh với sự mô tả tánh Phật ở quyển 29, phẩm 11, phần 3. Trong ví dụ này, hình thể và tính chất của sữa được mô tả với một người “chưa từng thấy sữa” (sơ bất kiến nhũ) chứ không dùng “người mù hỏi về sữa” (manh vấn nhũ) như trong nguyên bản Hán văn ở đoạn này. Tuy nhiên, ý nghĩa sai lệch này cũng không quan trọng. Xin xem lại ở phần đã dẫn bắt đầu từ trang 493 của Tập 5.
[55] Cõi trời A-ca-ni-trá, dịch nghĩa là Sắc cứu cánh thiên, là cõi trời cao nhất trong Sắc giới.
[56] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 31, bắt đầu quyển 32, phẩm Bồ Tát Ca-diếp phần thứ hai (Ca-diếp Bồ Tát phẩm chi nhị).
[57] Tu sĩ Phật giáo vào thời đức Phật được gọi là tỳ-kheo hoặc sa-môn, còn các tu sĩ đạo Bà-la-môn được gọi là Phạm chí.
[58] Về điểm này, trong tất cả các kinh điển Phật chỉ nói chắc chắn một điều: ‘Vị Tu-đà-hoàn không đọa vào ba đường ác.’ Vì thế, người tin vào điều này không thể gọi là có lòng nghi như lời Bồ Tát Ca-diếp vừa nói trước đó.
[59] Bốn điều vừa nói là: 1. Lìa xa bạn tốt; 2. Không nghe Chánh pháp; 3. Không khéo suy xét; 4. Không thực hành đúng pháp.
[60] Năm sự bố thí (ngũ sự thí): đã có nói ở đoạn trước, gồm: 1. Dùng vật chất bố thí (thí sắc); 2. Dùng công sức bố thí (thí lực); 3. Dùng sự an ổn bố thí, tức là bảo vệ người khác (thí an); 4. Dùng mạng sống để bố thí (thí mạng); 5. Dùng tài biện luận bố thí, nghĩa là dùng khả năng biện luận để giúp người được lợi lạc (thí biện).
[61] Vô ký: không thuộc về thiện, cũng không thuộc về bất thiện.
[62] Hai căn: ở đây chỉ bộ phận sanh dục nam và nữ.
[63] Khổng tước: tên một loài chim, dịch âm là ma-do-la.
[64] Mạng mạng: tên một loài chim, dịch âm là kì-bà-kì-bà-ca.
[65] Năm căn lành: tín căn, có lòng tin vào Tam bảo, vào giáo pháp Tứ đế...; tinh tấn căn cũng gọi là cần căn, là chuyên cần tu học và thực hành các pháp lành; niệm căn, thường nhớ nghĩ Chánh pháp; định căn, thường giữ tâm an định, không mất chánh niệm; và tuệ căn thường dùng trí tuệ suy xét chân lý. Vì các pháp này là cội nguồn sanh ra tất cả các pháp lành nên gọi chúng là căn, nghĩa là cội gốc.
[66] Nguyên bản Hán văn dùng trí đáp, các bản trước đây đều dịch là đáp bằng cách yên lặng, không đúng với ý nghĩa ở đây. Có rất nhiều trường hợp đức Phật dùng cách yên lặng mà đáp (mặc nhiên nhi đáp), nhưng sự yên lặng ấy có thể biểu lộ sự đồng ý, tán thành, khác với nghĩa dùng ở đây. Chữ trí hoàn toàn không mang nghĩa “yên lặng”, mà có nghĩa là phớt lờ, gạt sang một bên, không quan tâm đến, xem như không có... Và đây mới chính là ý nghĩa của cách đáp này, vì vấn đề nêu lên có thể là không cần thiết phải giải đáp, chỉ nằm trong phạm trù hí luận mà không giúp ích gì cho sự giải thoát. Như vậy, tuy cũng là yên lặng không nói, nhưng ý nghĩa không nằm ở sự yên lặng, mà ở chỗ là không lưu tâm đến sự việc nêu ra, vì biết đó là việc vô bổ.
[67] Tám nỗi khổ (Bát khổ): gồm có 1. Sanh là khổ; 2. Già là khổ; 3. Bệnh là khổ; 4. Chết là khổ; 5. Mong cầu không được là khổ; 6. Năm ấm phát triển bất thường là khổ; 7. Xa lìa người thương yêu là khổ; 8. Gặp gỡ, gần gũi kẻ oán ghét là khổ.
[68] Bồ Tát thọ thân sau cùng: tức vị Bồ Tát đản sanh để thành Phật, không còn thọ thân sau nữa. Nguyên bản dùng ‘hậu thân Bồ Tát’, nói đủ là ‘tối hậu thân Bồ Tát’, cũng gọi là ‘Bồ Tát Nhất sanh bổ xứ’.
[69] Tức là các pháp Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật và Trí tuệ Ba-la-mật. Vì năm pháp Ba-la-mật này thuộc về sự hành trì nội tâm nên ở đây gọi là bên trong.
[70] Thi-lỵ-sa: dịch nghĩa là hợp hôn thọ, cũng dịch là hợp hoan thọ.
[71] Câu này nói tóm ý cả Mười điều ác: 1. Giết hại, 2. Trộm cắp, 3. Tà dâm, 4. Nói dối, 5. Nói lời vô nghĩa, 6. Nói hai lưỡi, đâm thọc, 7. Nói lời ác độc, 8. Tham lam, 9. Sân hận, 10. Tà kiến.
[72] Các nhập bên trong: tức nhãn nhập, nhĩ nhập... cho đến ý nhập.
[73] Các nhập bên ngoài: tức sắc nhập, thanh nhập... cho đến pháp nhập.
[74] Việc ác cũng gọi là quả báo ác: gọi là việc ác vì sẽ dẫn đến quả báo ác, nhưng bản thân việc ác đó vốn là quả báo của việc làm xấu ác trong quá khứ. Như người tạo nghiệp ác phải chịu quả báo phiền não; phiền não đó lại tiếp tục tạo thành nghiệp ác, dẫn đến phải nhận chịu quả báo ác trong tương lai. Vì thế nên nói đây là những “việc ác cũng gọi là quả báo ác”.
[75] Việc ác do nghiệp lực: như người sanh trong gia đình đồ tể, đánh cá, thợ săn... do nghiệp ấy mà tiếp tục làm việc giết hại để mưu sanh, rồi sự giết hại đó lại tiếp tục dẫn đến quả xấu ác trong tương lai.
[76] Việc ác do quả báo: như người tạo nghiệp phải sanh làm thân súc sanh, như hổ, báo... lại do quả báo đó mà chỉ có một cách sống duy nhất là phải giết hại các loài chúng sanh khác; rồi do việc ác giết hại này lại tiếp tục phải chịu quả báo xấu ác trong tương lai.
[77] Ba cảnh giới hiện hữu, tức Tam giới, gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chúng sanh do nghiệp lực nên xoay vần thọ thân trong ba cõi này. Vì thế, người không khởi tâm chán lìa ba cảnh giới này thì không thể tu tập đạt đến giải thoát.
[78] Tức hai hạng người thường chìm sâu: hạng nhất-xiển-đề và không phải nhất-xiển-đề nhưng tham đắm các cảnh giới hiện hữu.
[79] Nguyên bản dùng “oai nghi giới” và “tùng giới giới”. Từ điển Phật Quang giải thích về hai danh xưng này như sau: Oai nghi giới, tuy thọ giới, tuy ngoại hiện oai nghi, đãn vị danh lợi, dục thọ nhân tôn kính. Tùng giới giới, thuận tùng Phật chế, thanh tịnh tam nghiệp, nội ngoại tương xứng, như thật thọ trì giới hạnh. – Giới oai nghi, tuy thọ giới, bên ngoài hiện tướng oai nghi, chỉ là vì danh lợi, muốn được người khác tôn kính. Giới vâng làm, thuận theo lời Phật dạy, làm thanh tịnh ba nghiệp, trong ngoài đều tương xứng, thọ trì giới hạnh đúng thật.
[80] Chánh mạng: một trong Tám chánh đạo. Chánh mạng là sanh sống bằng nghề nghiệp chân chánh, không làm tổn hại đến người khác.
[81] Giới tìm cầu: đây chỉ sự mong cầu quả báo tốt đẹp trong Ba cõi, do động lực này mà trì giới; giới buông xả, tức buông xả sự hiện hữu trong Ba cõi, dựa trên sự buông xả này mà trì giới.
[82] Tên vị tỳ-kheo này cũng đọc là Câu-già-lợi, là đệ tử đi theo Đề-bà-đạt-đa.
[83] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu quyển 33, phẩm Bồ Tát Ca-diếp thứ 24, phần thứ ba (Ca-diếp Bồ Tát phẩm đệ nhị thập tứ chi tam).
[84] Mười tám giới (Thập bát giới): gồm sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) trong cơ thể, gọi là nội giới; sáu trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, các pháp) bên ngoài, gọi là ngoại giới; sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) ở giữa giúp sáu căn nhận biết sáu trần, gọi là trung giới.
[85] Noãn pháp: Địa vị đầu tiên trong bốn thiện căn, tương đương với ngôi vị thứ nhất trong Tứ gia hành (Noãn gia hành). Hành giả khi đạt được pháp này bắt đầu có khả năng trừ diệt các kiến giải mê lầm, như Thánh trí thiêu đốt mọi tà kiến. Như lửa trước khi bốc cháy bắt đầu có hơi nóng, địa vị tu tập này bắt đầu có được hơi nóng của Thánh trí nên gọi là Noãn pháp.
[86] Pháp quán sáu hạnh (Lục hạnh quán): pháp quán của trí hữu lậu dùng để đoạn trừ mê lầm. Theo phép quán này, Ba cõi có chín phần (cửu địa), được phân thành Hạ địa và Thượng địa. Hành giả quán những phần thuộc về Hạ địa là thô xấu, khổ não, chướng ngại nên sanh lòng chán lìa (yếm); quán những phần thuộc về Thượng địa là an tĩnh, mầu nhiệm, xa lìa, từ đó sanh lòng vui thích, ham muốn (hân). Do năng lực của sự chán lìa và vui thích được khởi lên trong phép quán này mà lần lượt dứt trừ được các mối mê lầm thuộc về Hạ địa. Vì thế cũng gọi phép quán này là yếm hân quán.
[87] Mười sáu hạnh (Thập lục hạnh): còn có các tên gọi khác như Thập lục hạnh quán, Thập lục hạnh tướng quán, Thập lục thánh hạnh, Thập lục đế, Tứ đế thập lục hạnh tướng. Hành giả khi tu tập quán xét Tứ đế thấy được mỗi chân đế đều có bốn hình tướng khác nhau, tổng cộng là 16 tướng. Nhờ quán xét rốt ráo 16 tướng này mà dứt trừ được mọi mối mê lầm, đạt được giải thoát. Cụ thể, theo Câu-xá luận quyển 26 thì Khổ đế có 4 tướng: một là vô thường, hai là khổ, ba là không, bốn là vô ngã; Tập đế có 4 tướng: một là nhân, hai là tập, ba là sanh, bốn là duyên; Diệt đế có 4 tướng: một là diệt, hai là tĩnh, ba là diệu, bốn là ly; Đạo đế có 4 tướng: một là đạo, hai là như, ba là hạnh, bốn là xuất.
[88] Mã Sư (tức Mã Túc) và Mãn Túc: là hai vị tỳ-kheo đứng đầu trong Lục quần tỳ-kheo. Nhóm sáu tỳ-kheo này thường làm nhiều việc sai trái, quấy nhiễu Phật pháp, phạm vào cấm giới.
[89] Hạng chúng sanh thứ tư: xem lại ví dụ về bảy loài chúng sanh dưới sông Hằng ở quyển trước. Xem lại từ trang 509 của Tập này.
[90] Ba thứ phiền não này tức là: ngã kiến, phi nhân kiến nhân và nghi võng.
[91] Nhẫn trí: mức độ tu chứng đạt được cả nhẫn và trí. Theo Đại thừa thì nhẫn và trí chỉ là một đức, khởi tu quán pháp gọi là nhẫn, quán xét thành tựu gọi là trí.
[92] Bốn sự điên đảo: bốn nhận thức sai lầm, trái ngược của người thế tục, vô thường cho là thường, khổ cho là vui, bất tịnh cho là tịnh và vô ngã cho là hữu ngã.
[93] Tu-đà-hoàn: quả vị đầu tiên trong Bốn thánh quả của hàng Thanh văn, dịch nghĩa là Nhập lưu, Chí lưu hay Nghịch lưu; các nhà Tân dịch về sau dịch là Dự lưu.
[94] Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi như vậy vì thấy tất cả các quả vị này đều xứng danh “Nghịch lưu” (ngược dòng), không riêng gì quả vị Tu-đà-hoàn.
[95] Tận trí: trí tuệ khởi đầu của bậc vô học, do dứt trừ hết mọi phiền não mà khởi sanh trí tuệ nên gọi là tận trí.
[96] Vô sanh trí: trí tuệ rõ biết tất cả các pháp đều là vô sanh, nên gọi là Vô sanh trí.
[97] Chỉ và quán: nguyên bản dùng xa-ma-tha một trong 7 tên gọi khác nhau của thiền định, dịch nghĩa là chỉ, là tịch tĩnh và tỳ-bà-xá-na dịch nghĩa là quán.
[98] Tám trí (Bát trí): hành giả do sự quán sát Bốn chân đế chứng đắc Bốn chân đế trong phạm vi Dục giới nên đạt được Tứ pháp trí, sau đó tiếp tục chứng đắc Bốn chân đế ở hai cõi trên là Sắc giới và Vô sắc giới, đạt Tứ loại trí. Tứ pháp trí và Tứ loại trí hợp thành Bát trí, là những phần ban sơ của Vô lậu trí.
[99] Vì danh xưng của quả vị A-na-hàm có nghĩa là Bất hoàn hoặc Bất lai.
[100] Về bốn tâm này của vị A-na-hàm, Đại thừa nghĩa chương, quyển 17, có giải thích như sau: Tâm thứ nhất chẳng phải học, chẳng phải vô học là tâm thọ sanh; tâm thứ hai học là tâm tu học đối trị phiền não; tâm thứ ba vô học là tâm chứng quả A-la-hán; tâm thứ tư chẳng phải học, chẳng phải vô học là tâm mạng chung, tức tâm vào lúc nhập Niết-bàn.
[101] Năm cõi trời tịnh cư (Ngũ tịnh cư thiên): tức năm cõi trời thanh tịnh, là nơi thọ sanh của hàng A-na-hàm, nên cũng gọi là Ngũ Na-hàm thiên hay Ngũ Bất hoàn thiên. Năm cõi trời này gồm có: 1. Vô phiền thiên, 2. Vô nhiệt thiên, 3. Thiện hiện thiên, 4. Thiện kiến thiên, 5. Sắc cứu cánh thiên.
[102] Huân thiền: một trong bốn pháp thiền thuộc Xuất thế gian thiền. Bốn pháp thiền này gồm có: 1. Quán thiền, 2. Luyện thiền, 3. Huân thiền, 4. Tu thiền. Bốn pháp này thường được gọi chung là Quán luyện huân tu.
[103] Nguyên bản Hán văn dùng A-na-bân-để, tức tinh xá Kỳ Viên, cũng gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên, một trong các trú xứ lớn của chư tăng vào thời đức Phật.
[104] Rừng Kỳ-đà: nguyên khu vườn rừng này trước là sở hữu của trưởng giả Kỳ-đà, sau bán phần đất ấy cho ông Cấp Cô Độc để cúng dường đức Phật và chư tăng làm chỗ tu tập, còn vườn cây thì tự ông Kỳ-đà cũng cúng dường lên Phật, nên gọi tên là rừng Kỳ-đà.
[105] Ý nói vị sa-môn đã buông bỏ hết tài sản của thế tục, làm người nghèo túng. Nếu không như thế không thể gọi là sa-môn.
[106] Theo Nam bản thì chỗ này dùng “thực ái” (tham muốn sự ăn uống), chúng tôi xét thấy ý nghĩa hẹp hơn, không hợp bằng chữ “sắc ái” như trong Bắc bản đã dùng. Có thể khi thực hiện Nam bản các vị thấy rằng hình sắc cũng nằm trong “dục ái” chăng? Nhưng như vậy thì sự tham muốn các món ăn cũng không ra ngoài năm món dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục). Theo chỗ chúng tôi hiểu thì “dục ái” ở đây hẳn chỉ cho sự tham muốn ái dục, là sự tham muốn căn bản nhất của chúng sanh trong Dục giới, và hiểu như thế thì “sắc ái” cũng có thể được tách riêng ra khỏi sự tham muốn này.
[107] Hai tâm tham ái: là tham muốn ái dục (dục ái) và tham muốn hình sắc (sắc ái)vừa nói ở đoạn trước.
[108] Quả phương tiện ở đây có thể hiểu là những kết quả có được nhờ sử dụng đến các phương tiện khác nhau trong quá trình tạo tác.
[109] Mọi thứ quả đều do hành vi tạo nghiệp (nghiệp hành), nhưng loại quả phương tiện này là kết quả ngay trong hiện thế (gieo trồng rồi gặt hái), không đợi đến đời sau nên chúng tôi tạm gọi là trực tiếp. Thuộc loại quả này là những hành vi mang lại kết quả ngay trước mắt của chúng ta, chẳng hạn như trồng cây hái quả, bắc cầu qua sông, học hỏi thành tài...
[110] Quả của tàn dư là chỉ những quả báo mà người tạo tác nhận chịu về sau, bởi hành vi đã trôi qua nhưng để lại kết quả nhận lãnh về sau nên gọi là tàn dư.
[111] Theo Niết-bàn kinh sớ giải thì ở đây chỉ đến việc bố thí thức ăn và y phục cho người khác, là những nghiệp dẫn đến được sống lâu.
[112] Ba tai kiếp lớn (Tam tai): gồm có thủy tai (nạn hồng thủy, lụt lớn), hỏa tai (nạn lửa thiêu) và phong tai (nạn gió bão). Ba tai kiếp này tất yếu phải xảy ra trong quá trình thành trụ hoại không của mỗi thế giới, nên là nhân gián tiếp làm thay đổi môi trường thế giới mà chúng sanh đang sống.
[113] Với loại quả này thì tất cả chúng sanh ra đời trong cùng một thế giới đều lãnh chịu như nhau, nên gọi là bình đẳng.
[114] Vì nhân trong quá khứ tạo thành quả hiện nay, nhưng chính quả báo hiện nay được dùng làm nhân để tạo thành quả trong tương lai, nên gọi đó là quả của quả báo.
[115] Ba môn giải thoát (Tam giải thoát môn): Ba pháp môn dẫn đến sự giải thoát, gồm có Không, Vô tướng và Vô tác.
[116] Sa-môn: chỉ người xuất gia tu hành nói chung, vì vào thời đức Phật, danh xưng này cũng được dùng cho các tu sĩ ngoại đạo. Tuy nhiên, về sau có khuynh hướng chỉ dùng để chỉ các tu sĩ Phật giáo mà thôi, đôi khi cũng đọc là sa-môn-na, đồng nghĩa. Các âm đọc khác là sa-văn-na, tang-môn, táng-môn. Về ý nghĩa cũng có rất nhiều cách dịch khác nhau như: cần lao, công lao, cù lao, cần khẩn, tĩnh chí, tịnh chí, tức chỉ, tức tâm, tức ác, cần tức, tu đạo, bần đạo, phạp đạo. Tựu trung các danh xưng này đều mô tả tính chất của sự tu tập và mục đích hướng đến của vị sa-môn.
[117] Bản Hán văn có lúc dùng sa-môn, có lúc dùng sa-môn-na. Chúng tôi cố gắng dựa theo ý kinh để chuyển dịch nhất quán nhằm giúp độc giả dễ theo dõi hơn.
[118] Tận trí: chỉ trí tuệ đạt được sau khi đã dứt trừ tất cả phiền não.
[119] Vô sanh trí: chỉ trí tuệ cao trổi nhất của vị A-la-hán, thấy biết thật tánh của tất cả các pháp không có sự sanh ra.
[120] Xem lại phần giảng giải về những người không tu tập bốn pháp thân, giới, tâm, tuệ này ở quyển 31, phần đầu tập này. Bắt đầu từ trang 110.
[121] Khế kinh: chỉ chung tất cả kinh điển do Phật thuyết, vì nghĩa khế hợp với căn cơ chúng sanh nên gọi là Khế kinh.
[122] Hoa đốm: chỉ ảo giác nhìn thấy rất nhiều đốm sáng giữa hư không mà thật ra không có gì cả. Kinh văn chữ Hán thường dùng không hoa hay hư không hoa.
[123] Đây chỉ bốn ấm: thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm; trừ ra sắc ấm vì ấm này thuộc về hình sắc.
[124] Các khái niệm đất, nước, gió... trong đoạn này được dùng theo ý nghĩa là các yếu tố thuộc về bốn đại: đất, nước, gió, lửa (địa thủy, hỏa, phong).
[125] Ưu-bát-la, cũng đọc là ưu-bát-lạt hay ô-bát-la, là một loại hoa sen quý, màu xanh. Vì mọc lên từ bùn vẫn thanh khiết nên nói không bị nhiễm ô.
[126] Câu này nói tóm ý cả năm ấm: sắc, thọ tưởng, hành, thức đều là như vậy.
[127] Ba sự điên đảo: Tưởng đảo là đối với sáu trần ngoại cảnh sanh khởi những tư tưởng không hợp lý; kiến đảo là đối với sự lý của các pháp nhận hiểu sai lầm, mong cầu điên đảo, cũng gọi là tà kiến; tâm đảo là chạy theo vọng tâm nhận thức sai lệch về sự vật. Ba điên đảo nay là căn bản của tất cả những sự điên đảo khác.
[128] Câu này nói tóm ý từ sắc cho đến thức, tức gồm cả năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
[129] Tức hai nghĩa thường và vô thường.
[130] Nguyên bản Hán văn dùng giác quán, là cách dịch cũ của tầm tứ, chỉ chung tất cả các tư tưởng thô (tầm) và vi tế (tứ). Vì thế chúng tôi dịch rõ nghĩa như trên thay vì để nguyên từ giác quán như các bản trước đây.
[131] Theo Đại Bát Niết-bàn kinh sớ thì bài kệ được nhắc đến ở đây là trong Xuất diệu kinh, thuộc Đại tạng kinh (bản Đại chánh tạng) quyển 4, kinh số 212, nhưng chúng tôi chưa tìm được bài kệ này trong nguyên bản. Nay tạm dẫn theo bản sớ giải này thì bài kệ có xuất xứ như sau: “Một hôm đức Phật cùng ngài A-nan đang đi trên đường thì gặp một phụ nữ bế con đi lấy nước. Người phụ nữ này nhìn thấy một người đàn ông liền khởi tâm ham muốn, nhìn ngắm mãi không thôi. Khi đi đến giếng lấy nước, cúi nhìn xuống mặt nước giếng thấy hình đứa con hiện ra, cô liền hồi tâm, đọc kệ tự trách và nhắc nhở mình rằng:
Dục, dục!
Này, này, các ham muốn,
Ngã tri nhữ căn bổn,
Ta đã rõ cội nguồn,
Ý dĩ tư tưởng sanh.
Đều từ tư tưởng sanh,
Ngã bất tư tưởng nhữ,
Nếu ta không nghĩ đến,
Tắc nhữ bất đắc sanh.
Ngươi đừng hòng sanh sự.
(Bản Việt dịch của chúng tôi)
[132] Ba loại khổ (tam chủng khổ hay tam chủng sở sanh khổ): một là hội hiệp sở sanh khổ, do sự hội hợp các pháp với nhau mà sanh ra khổ; hai là quai ly sở sanh khổ, do sự chống nghịch, chia lìa nhau của các pháp mà sanh ra khổ; ba là bình đẳng tương tục [sở sanh] khổ, do sự sanh diệt nối nhau không dứt của các pháp sanh ra khổ. Luận Du-già quyển 14, tờ 3 cho rằng nói đến ba loại khổ này là bao trùm được hết mọi nỗi khổ của chúng sanh.
[133] Ba loại vô thường (tam chủng vô thường): Một là niệm niệm hoại diệt vô thường, nghĩa là tất cả các pháp nối nhau sanh diệt trong từng niệm tưởng; hai là hòa hợp ly tán vô thường, nghĩa là tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp, duyên hết thì tan rã, không có bản chất thật; ba là tất cánh vô thường, nghĩa là khi cứu xét đến chỗ rốt ráo thì tất cả các pháp đều là sanh diệt theo nhân duyên, liên tục thay đổi, không có gì là thường tồn.
[134] Nguyên bản Hán văn là “tùng tâm thân” (do nơi tâm và thân), nhưng có 8 chữ nhỏ để giải thích chữ thân ở đây là “nhân tâm vận thân, cố danh tâm thân”. Vì thế chúng tôi theo sát ý mà dịch như trên. Niết-bàn kinh sớ giải giải thích đoạn này rằng: Nói thân do nơi tâm mà đến được bên cạnh Phạm thiên là trong nhân mà nói quả, vì thân này ở cõi Sắc giới do định lực đạt đến Sơ thiền mà có được, tâm định đó là nghiệp của ý. Chỉ do tâm mà có được, vì trong cõi Sắc giới thân ấy là do tâm sanh ra, đó là tâm định; tâm thật không phải thân, chỉ vì có thể do tâm mà đạt được thân nên gọi là thân. Đó chính là trong nhân mà nói quả.
[135] Sáu nhập là hiện có, qua đó mà chỉ ra nghiệp đã tạo trong quá khứ, chính là nhân dẫn đến quả hiện nay. Cho nên nói là trong quả mà nói nhân.
[136] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 33, bắt đầu quyển 34, phẩm Bồ Tát Ca-diếp phần thứ tư (Ca-diếp Bồ Tát phẩm chi tứ).
[137] Cảm thọ: cảm giác nhận biết phân biệt khởi sinh do sự tiếp xúc giữa tâm và cảnh. Tùy theo tính chất của sự tiếp xúc đó mà có cảm thọ vui sướng (lạc thọ), đau khổ (khổ thọ) hoặc không vui không khổ. Ở đây chỉ chung cả 3 loại cảm thọ này.
[138] Mười nhất thiết nhập (Thập nhất thiết nhập) chỉ cảnh giới của hành giả khi tư tưởng có thể biến hiện khắp mọi cảnh giới. Nếu kể chi tiết thì bao gồm Địa nhất thiết nhập xứ, Thủy nhất thiết nhập xứ, Hỏa nhất thiết nhập xứ, Phong nhất thiết nhập xứ, Thanh nhất thiết nhập xứ, Hoàng nhất thiết nhập xứ, Xích nhất thiết nhập xứ, Bạch nhất thiết nhập xứ, Không nhất thiết nhập xứ và Thức nhất thiết nhập xứ. Tuy nhiên, nói khái quát thì có thể hiểu là do một tư tưởng có thể biến hiện khắp nơi, không phân biệt phương hướng nên gọi là nhất thiết nhập xứ.
[139] Đại Ca-diếp (tức Ma-ha Ca-diếp): là vị đệ tử trong hàng Thanh văn, khác với Bồ Tát Ca-diếp đang thưa hỏi Phật.
[140] Nhân chúng sanh thuyết pháp, là lấy chúng sanh làm nhân, nên Phật dạy Đại Ca-diếp rằng: “Chúng sanh diệt, pháp lành diệt.” Vì pháp theo với chúng sanh, nếu chúng sanh không tu tập thì pháp cũng không thể được hoằng truyền. Theo nghĩa này, Phật vì chúng sanh mà thuyết các pháp thiện ác phân biệt, khiến người nghe nhân đó tu tập được giải thoát. Nhân pháp thuyết chúng sanh là lấy pháp làm nhân, chỉ rõ các pháp nên gần gũi để tăng trưởng pháp lành, các pháp nên lìa xa để hạn chế pháp xấu ác; người nghe theo đó tu tập để được giải thoát.
[141] Sanh nghiệp: nghiệp lực tương tục tạo thành đời sống của chúng sanh nên gọi là sanh nghiệp.
[142] Thọ nghiệp: nghiệp tạo thành do các cảm thọ khác biệt như khổ, vui, không khổ không vui. Nghiệp này không do phiền não tạo thành.
[143] Do nghiệp lực nên có thể khởi sanh sự phân biệt ưa ghét, khi ấy liền có khả năng tạo thành thọ nghiệp.
[144] Theo bản khắc đời Minh thì câu này là “hữu nhân duyên sanh khổ”, nhưng ngoài bản Đại chánh tạng đã sửa lại là “hữu nhân duyên sanh hữu” thì các bản sớ giải cũng đều viết tương tự là “hữu nhân duyên sanh hữu”.
[145] Năm tướng suy (Ngũ suy tướng): năm tướng hiện ra khi chư thiên ở các cõi trời đã hưởng hết phước đức, sắp phải xả thân để sanh về một cảnh giới khác. Năm tướng suy đó là: 1. Y phục thường dơ bẩn; 2. Đầu tóc rối bời, hoa trên đầu tàn tạ; 3. Thân thể hôi hám và nhơ nhớp; 4. Dưới nách thường ra mồ hôi; 5. Không thấy ưa thích ngai vị, chỗ ngồi của mình.
[146] Xem lại phẩm Thánh hạnh trong quyển 13, Tập 3.
[147] Chấp thủ: trạng thái tâm thức cho rằng đối tượng đang nhận thức là của mình, thuộc về mình và do đó luôn muốn ôm giữ, bám víu vào đó.
[148] An-xà-na, tên một loại thuốc trị bệnh về mắt, cũng đọc là an-xà-đà hay an-đà.
[149] Xem lại câu chuyện về Công Đức Thiên được kể trong quyển 12, Tập 2 (phẩm Thánh hạnh).
[150] Cây ba-lợi-chất-đa-la hay ba-lợi-chất-đa là cây lớn đặc biệt ở cõi trời Đao-lợi (hay cõi trời Ba mươi ba) là nơi chư thiên cõi trời ấy thọ hưởng mọi dục lạc. Cây này được đề cập đến trong quyển 29, Tập 5, phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống.
[151] Tập khí: những tập quán, thói quen xấu được tích lũy qua một thời gian dài, thậm chí là trong rất nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, nên thường rất khó nhận ra.
[152] Pháp đệ nhất trong thế gian (Thế đệ nhất pháp): chỉ trí tuệ hữu lậu cao nhất trong thế gian, là trí tuệ của hành giả khi tu tập Vô gián định phát khởi Thượng phẩm như thật trí, quán chiếu rằng sở thủ và năng thủ đều là không, trực nhập được địa vị Kiến đạo.
[153] Năm thức: chỉ nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức. Đây chỉ đến năng lực nhận biết đơn thuần của thức này đối với đối tượng. Dựa trên sự nhận biết này mà ý thức mới bắt đầu khởi sanh các vọng tưởng phân biệt. Vì thế, Bồ Tát Ca-diếp cho rằng sự điên đảo không nằm ở năm thức này mà ở nơi ý thức.
[154] Bạch tứ yết-ma: quy tắc hành xử quan trọng nhất trong Tăng đoàn, được áp dụng để đưa ra quyết định cuối cùng của tập thể về những sự việc quan trọng. Quy tắc này phân làm hai phần, trước hết đương sự có liên quan đến vấn đề đứng ra trình bày rõ sự việc với tăng chúng, gọi là bạch; sau đó vấn đề được lặp lại 3 lần để tăng chúng đưa ra ý kiến quyết định, gọi là tam yết-ma. Cả hai phần này (hỏi và đáp) được gộp chung gọi là Bạch tứ yết-ma. Vì thế, cũng có nơi gọi chuẩn xác hơn là “nhất bạch tam yết-ma”.
[155] Ba-la-đề-mộc-xoa, Hán dịch là Biệt giải thoát, cũng gọi là Tùy thuận giải thoát, tức là phần giới luật căn bản mà Phật đã chế định cho chúng tăng, tỳ-kheo và tỳ-kheo ni đều phải tuân theo. QUYỂN BA MƯƠI TÁM
PHẨM BỒ TÁT CA-DIẾP
Phẩm thứ mười hai – Phần sáu
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! [Theo
lời Phật dạy] ba pháp
căn bản,
nguyên nhân và
tăng trưởng đó có gì khác nhau?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nói
căn bản tức là vừa mới
phát tâm, [nói]
nguyên nhân là sự tương tợ chẳng dứt, [nói]
tăng trưởng là diệt sự tương tợ này rồi có thể sanh ra sự tương tợ khác.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Căn bản tức là tạo tác,
nguyên nhân là kết quả [của
sự tạo tác],
tăng trưởng là chỗ có thể vận dụng.
Thiện nam tử! Tuy [
sự tạo tác] có
quả báo về đời
vị lai, nhưng vì chưa thọ nhận nên gọi là nhân, đến khi thọ nhận thì gọi là
tăng trưởng.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Căn bản là sự mong cầu,
nguyên nhân là sự
đạt được,
tăng trưởng là sự vận dụng.
“Thiện nam tử! Trong kinh này thì
căn bản là sự
nhận biết Chánh đạo,
nguyên nhân là sự
tu tập Chánh đạo,
tăng trưởng là
thánh đạo Vô học.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Căn bản tức là nhân chánh,
nguyên nhân tức là nhân
phương tiện.
Do nơi nhân chánh này mà
đạt được quả báo, đó gọi là
tăng trưởng.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Như Phật dạy rằng chỗ
rốt ráo là Niết-bàn. Niết-bàn như thế làm sao có thể chứng đắc?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu vị
Bồ Tát ma-ha-tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào có thể
tu tập mười pháp
quán tưởng thì nên biết rằng những người ấy có thể
chứng đắc Niết-bàn. Những gì là mười? Một là
quán tưởng về
vô thường, hai là
quán tưởng về khổ, ba là
quán tưởng về
vô ngã, bốn là
quán tưởng chán lìa sự
ăn uống, năm là
quán tưởng về hết thảy
mọi việc trong
thế gian đều không thể
ưa thích, sáu là
quán tưởng về sự chết, bảy là
quán tưởng [các
cảnh giới hiện hữu] có nhiều
tội lỗi tai hại, tám là
quán tưởng sự
xa lìa [các
cảnh giới hiện hữu], chín là
quán tưởng sự diệt mất [của các
cảnh giới hiện hữu], mười là
quán tưởng sự không
tham ái vướng mắc [đối với các
cảnh giới hiện hữu].
“Thiện nam tử! Vị
Bồ Tát ma-ha-tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào
tu tập mười pháp
quán tưởng như
vậy thì rốt ráo nhất định chứng đắc Niết-bàn. [Người như vậy] không
chạy theo tâm ý người khác, tự mình có thể
phân biệt thiện ác. Đó là những vị tỳ-kheo
chân thật đúng nghĩa,
cho đến chân thật đúng nghĩa là những tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là
Bồ Tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di
tu tập pháp
quán tưởng về vô thường?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Bồ Tát có hai hạng, một là vừa mới
phát tâm, hai là đã
thực hành đạo pháp. Pháp
quán tưởng vô thường cũng có hai loại, một là [ở mức độ] thô, hai là [mức độ]
vi tế.
“Vị
Bồ Tát mới
phát tâm, trong khi
quán tưởng về sự
vô thường có
suy xét thế này: ‘Những sự vật
thế gian có hai loại, một là trong thân, hai là bên ngoài. Những sự vật trong thân là
vô thường,
biến đổi. Như lúc sanh ra,
thơ ấu, lớn lên,
trưởng thành, già yếu, chết đi. Những
điều kiện [trong các giai đoạn] ấy đều không giống nhau. Cho nên biết rằng sự vật trong thân là
vô thường.’
“Lại quán xét rằng: ‘Ta nhìn thấy
chúng sanh có những người mập mạnh, đầy đủ
hình sắc sức lực, đi đứng,
tới lui tùy ý không trở ngại. Lại thấy có những kẻ
bệnh khổ,
hình sắc sức lực hư hao
yếu ớt,
dung nhan hình mạo đều suy tổn, không thể [
vận động]
tùy ý. Lại thấy những người
giàu có, kho chứa tràn đầy; lại có những kẻ
nghèo khó, gặp việc luôn
thiếu thốn,
túng quẫn. Lại thấy [có những người]
thành tựu vô lượng công đức; lại thấy có những kẻ phạm vào
vô số việc xấu ác. Cho nên biết
chắc chắn rằng sự vật trong thân là
vô thường.’
“Vị
Bồ Tát ấy lại quán xét các pháp bên ngoài rằng: ‘Từ khi là
hạt giống, đến lúc nảy mầm, mọc lên thành cây, phát triển cành lá,
cho đến ra hoa, kết quả... Các
thời kỳ ấy đều không giống nhau. Những pháp bên ngoài như vậy, có khi đầy đủ, có khi chẳng đầy đủ. Cho nên biết
chắc chắn rằng tất cả sự vật bên ngoài đều là
vô thường.
“Sau khi quán xét những pháp nhìn thấy đều là
vô thường,
Bồ Tát lại quán xét về những pháp được nghe biết, nghĩ rằng: ‘Ta từng nghe
chư thiên thành tựu đầy đủ sự khoái lạc tột cùng,
thần thông tự tại, nhưng cũng có
năm tướng suy. Vậy nên biết rằng đó là
vô thường. Ta lại nghe rằng vào thuở
Kiếp sơ có những
chúng sanh đầy đủ
công đức nhiệm mầu
tốt đẹp,
hào quang nơi
thân thể tự nhiên chiếu sáng, không cần nhờ tới ánh sáng
mặt trời,
mặt trăng. Nhưng bởi sự
vô thường nên
hào quang kia rồi cũng dứt mất,
phước đức cũng suy tổn. Ta lại nghe rằng, thuở xưa có những vị
Chuyển luân Thánh vương thống trị Bốn cõi thiên hạ,
thành tựu Bảy món báu, được sức
đại tự tại, nhưng cũng không thể phá trừ được tướng
vô thường.’
“Rồi lại quán xét rằng: ‘Trên cõi đất rộng lớn này, từ thuở xa xưa từng có
vô số chúng sanh sống yên ổn khắp nơi, không còn khoảng trống, như cái bánh xe đang chạy. Khi ấy, tất cả những cây thuốc quý mọc lên đầy đủ; rừng xanh tươi tốt, cây trái sum suê. Nhưng vì
chúng sanh ít phước, khiến cho cõi đất này chẳng còn sức [
nuôi dưỡng], nên những vật từ đất sanh ra đều
trở thành hư hao. Vậy nên biết rằng, các pháp trong thân và bên ngoài thảy đều
vô thường.’ Đó gọi là [quán xét]
vô thường ở mức độ thô.
“Vị
Bồ Tát ấy sau khi đã quán xét [mức độ] thô rồi, tiếp đó lại quán xét [
vô thường ở mức độ]
vi tế. Sao gọi là vi tế?
Bồ Tát ma-ha-tát quán xét tất cả mọi sự vật trong thân và bên ngoài,
cho đến từng
hạt bụi nhỏ, trong tương lai đều sẽ là
vô thường. Vì sao vậy? Vì mọi sự vật ấy đều có đủ các tướng hư hoại. Nếu
hình sắc trong tương lai không phải
vô thường thì không thể nói rằng
hình sắc có mười
thời kỳ sai biệt.
“Thế nào là mười thời kỳ? Thứ nhất là
thời kỳ [hình thành] màng [tế bào], thứ hai là
thời kỳ [hình thành tế bào] dạng bọc, thứ ba là
thời kỳ [hình thành] dạng khối nhỏ, thứ tư là
thời kỳ [hình thành] khối thịt tròn, thứ năm là
thời kỳ [hình thành] tay chân, thứ sáu là
thời kỳ hài nhi, thứ bảy là
thời kỳ thơ ấu, thứ tám là
thời kỳ niên thiếu, thứ chín là
thời kỳ thanh niên
cường tráng, thứ mười là
thời kỳ già yếu.
“Vị
Bồ Tát ấy quán xét [
hình thức ban sơ là] màng [tế bào],
nếu không phải
vô thường thì lẽ ra không
trở thành [tế bào] dạng bọc... [rồi
tiếp tục tiến triển]
cho đến thành thanh niên
cường tráng,
nếu không phải
vô thường thì [lẽ ra] chẳng bao giờ già yếu. Nếu [tất cả] những
thời kỳ ấy không phải là [
liên tục] diệt mất trong từng sát-na thì không thể
dần dần tăng trưởng, mà lẽ ra phải
tức thời trưởng thành đầy đủ! Vì không có sự
trưởng thành tức thời, nên biết chắc rằng có sự
vô thường [
biến chuyển] rất nhỏ nhặt
tinh tế trong từng sát-na.
“[
Bồ Tát] lại thấy có người đầy đủ các căn,
nhan sắc tươi đẹp, rồi về sau lại thấy người ấy khô héo,
tiều tụy, liền
suy xét rằng: ‘Người này
chắc chắn có sự
vô thường [thay đổi
liên tục] trong từng sát-na.’
“Bồ Tát lại quán xét
bốn đại [là đất, nước, gió, lửa] và bốn
oai nghi [đi, đứng, nằm, ngồi]. Rồi [
Bồ Tát] lại quán xét các
nguyên nhân của các sự khổ trong thân và bên ngoài.
Bồ Tát lại quán xét bốn nỗi khổ là đói, khát, lạnh, nóng.
Nếu không có sự
vô thường tinh tế [
biến đổi] trong từng sát-na thì cũng không thể nói đến bốn nỗi khổ như thế.
“Nếu vị
Bồ Tát nào có thể
suy xét những điều như trên, đó gọi là
Bồ Tát quán xét
vô thường ở mức độ
vi tế.
“Như các pháp
hình sắc bên trong, các pháp
hình sắc bên ngoài và
tâm pháp cũng đều như thế. Vì sao vậy? Vì đều hướng theo
sáu chỗ.[156] Trong khi
chạy theo sáu trần, hoặc sanh tâm
vui mừng, hoặc sanh tâm
sân hận, hoặc sanh tâm
tham ái, hoặc sanh tâm nhớ nghĩ...
lần lượt khởi sanh những tâm khác nhau, không chỉ một loại. Vậy nên biết rằng tất cả các pháp thuộc về
hình sắc thể chất và không phải
hình sắc thể chất cũng đều là
vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu ngay
trong một niệm tưởng
Bồ Tát có thể thấy được sự
sanh diệt vô thường của tất cả các pháp, đó gọi là
Bồ Tát quán tưởng [
trọn vẹn] lẽ
vô thường.
“Thiện nam tử! Người có trí
tu tập pháp
quán tưởng vô thường rồi liền lìa xa những
tư tưởng điên đảo và
kiêu mạn do sự chấp thường.
“Tiếp đó,
Bồ Tát tu tập pháp
quán tưởng về sự khổ. [
Bồ Tát tự hỏi rằng:] ‘Do
nhân duyên gì mà có những nỗi khổ như thế này?’ [Quán xét rồi liền] rõ biết
sâu xa rằng những nỗi khổ này đều
do nơi vô thường.
“Nhân nơi
vô thường mà phải thọ nhận sanh, già, bệnh, chết; lại do
nhân duyên có sanh, già, bệnh, chết nên gọi là
vô thường. Vì
nhân duyên vô thường nên phải
thọ lãnh những nỗi khổ bên trong và bên ngoài, như đói, khát, lạnh, nóng, bị đánh đập, mạ nhục... Những nỗi khổ như vậy đều có
nguyên nhân nơi
vô thường.
“Lại nữa, người có
trí quán xét
sâu xa rằng: ‘Thân này chính là món đồ vật chứa đựng sự
vô thường. Món vật chứa này là khổ; vì là khổ nên những pháp mà nó chứa đựng cũng đều là khổ.
“Thiện nam tử! Người có trí lại quán xét rằng: Sanh ra tức là khổ, diệt mất tức là khổ. Vì khổ có
sanh diệt nên là
vô thường, không phải ngã, không phải
ngã sở, [do đó] nên
tu tập pháp
quán tưởng vô ngã.
“Người có trí lại quán xét rằng: ‘Khổ tức là
vô thường,
vô thường tức là khổ. Nếu là khổ và
vô thường, người trí sao có thể nói rằng có ngã?
Khổ không phải là ngã,
vô thường cũng vậy.
Tương tự,
năm ấm [hợp
thành thân] này là khổ, là
vô thường,
chúng sanh sao có thể nói rằng có ngã?’
“Tiếp đó, [người có trí] lại quán xét rằng: ‘Hết thảy các pháp đều có sự
hòa hợp khác nhau, không do một sự
hòa hợp mà sanh ra tất cả các pháp. Cũng không phải một pháp [có thể] là kết quả của tất cả những sự
hòa hợp. Tất cả mọi sự
hòa hợp đều không có
tự tánh, cũng không có một tánh [
duy nhất], cũng không có nhiều tánh khác nhau, cũng không có tánh [riêng] của sự vật, cũng không thể
tùy ý tồn tại. Nếu các pháp có những tướng trạng như vậy, người có trí sao có thể nói rằng có ngã?’
“Người có trí lại quán xét rằng: ‘Trong tất cả pháp, không một pháp nào có thể [là chủ thể] tạo tác. Nếu mỗi một
pháp không thể [là chủ thể] tạo tác, thì nhiều pháp
hòa hợp cũng không thể [là chủ thể] tạo tác. Tánh của hết thảy các pháp thảy đều không hề sanh ra
đơn độc, diệt mất
đơn độc, đều do sự
hòa hợp mà diệt mất, do sự
hòa hợp mà sanh ra. Khi một pháp sanh ra rồi,
chúng sanh vì
suy tưởng điên đảo nên cho đó là sự
hòa hợp.
Tư tưởng điên đảo của
chúng sanh [lại cũng] do sự
hòa hợp sanh ra, không hề
chân thật. Làm sao có thể có một cái ngã chân thật? Vì thế nên người có
trí quán xét là không có ngã.
“[Người có trí] lại quán xét kỹ rằng: ‘Do
nhân duyên gì mà
chúng sanh nói [là có] ngã?
Ví như có ngã thì phải là một [ngã] hay là nhiều [ngã]? Nếu ngã chỉ là một, vì sao lại có [sự phân ra thành] sát-lợi, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà, người, trời,
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, lớn, nhỏ, già, trẻ...? Vậy nên biết rằng ngã ấy không phải là một. Nếu ngã là nhiều, vì sao lại nói rằng cái ngã của
chúng sanh là một, là khắp cả, không có giới hạn? Dù là một hay là nhiều, cả hai
trường hợp ấy đều là không có ngã.
“Người có
trí quán xét lẽ
vô ngã như vậy rồi, tiếp đó lại
quán tưởng chán lìa sự
ăn uống. Vị ấy
suy nghĩ rằng: ‘Nếu tất cả các pháp là
vô thường, khổ, không,
vô ngã, thì sao lại vì sự
ăn uống mà khởi lên ba thứ nghiệp xấu ác của thân, miệng và ý? Nếu
chúng sanh vì tham ăn mà khởi lên ba thứ nghiệp xấu ác của thân, miệng và ý, thì khi có được tài vật,
mọi người [chung quanh] cũng đều chung hưởng, nhưng về sau khi lãnh chịu
quả báo khổ đau thì không ai có thể chia sớt với họ cả.’
“Thiện nam tử! Người có trí lại quán xét rằng: ‘Tất cả
chúng sanh vì sự
ăn uống nên thân và tâm phải chịu khổ. Nếu từ những sự
khổ não mà có được món ăn, thì sao ta có thể sanh lòng
tham lam vướng mắc đối với những món ăn ấy? Vì thế nên đối với món ăn không sanh lòng tham.
“Lại nữa, người có trí nên quán xét
nguyên nhân [tạo thành]
thân mạng: ‘Nhân nơi sự
ăn uống mà thân này được
tăng trưởng. Nay ta đã
xuất gia,
thọ giới tu hành là vì muốn xả bỏ thân [mạng
thế tục]. Nếu ta tham đắm các món
ăn uống, làm sao có thể xả bỏ thân này?’ Sau khi quán xét như vậy rồi thì tuy vẫn thọ
nhận thức ăn nhưng [trong lòng
đau đớn] dường như quỷ khoáng dã
ăn thịt con mình, sanh ra
chán ghét, không hề thấy có chút gì là ngon ngọt,
ưa thích.
“Người có
trí quán xét
sâu xa về sự
ăn uống [bằng cách] nhai nuốt,[157] thấy có những sự
sai trái lỗi lầm như vậy.
“Tiếp đó lại quán xét về sự
ăn uống [bằng]
cảm xúc, thấy chẳng khác nào con bò bị lột da,
vô số ruồi nhặng bâu vào rúc rỉa.
“Sau đó lại quán xét về sự
ăn uống [bằng cách]
nghĩ tưởng, thấy như một đám lửa lớn [thiêu đốt mình].
“Cuối cùng quán xét về sự
nuôi sống bằng thức,[158] thấy như ba trăm mũi khoan nhọn [khoan sâu vào thân mình].
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét bốn cách
ăn uống nuôi sống như vậy rồi, đối với
thức ăn không còn sanh ra
tư tưởng tham muốn,
ưa thích. Nếu còn sanh lòng
tham muốn thì nên
quán tưởng sự
bất tịnh. Vì sao vậy? Vì muốn lìa khỏi tâm
tham muốn thức ăn nên đối với tất cả các món ăn có thể khéo
phân biệt [khởi sanh] những
tư tưởng bất tịnh.
Tùy theo những sự
bất tịnh mà [
hình dung sự] tương tợ [với loại
thức ăn đang
tiếp xúc].
“Quán tưởng như vậy rồi, dù có được món
ăn ngon hay dở, khi ăn cũng xem đó chỉ như món thuốc dùng bôi chỗ ghẻ lỡ mà thôi, không hề sanh tâm
tham muốn,
ưa thích.
“Thiện nam tử! Nếu người có trí có thể
quán tưởng được như
vậy thì gọi là
thành tựu pháp
quán tưởng chán lìa
thức ăn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Người có trí [khi] quán xét
thức ăn thực hành pháp quán tưởng bất tịnh, vậy pháp quán đó là
chân thật hay
diễn giải một cách hư dối? Nếu là pháp quán
chân thật, thì những món ăn được quán đó
thật không phải
bất tịnh [sao lại thấy là bất tịnh?]. Nếu là
diễn giải một cách
hư dối thì sao có thể gọi là pháp
quán tưởng hiền thiện?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Pháp
quán tưởng như vậy là pháp quán
chân thật, lại cũng là
diễn giải một cách
hư dối. Vì có thể [dùng để] phá trừ sự tham ăn nên gọi là
chân thật; vì không phải trùng mà thấy [
thức ăn đó] là trùng,[159] nên gọi là
diễn giải một cách
hư dối.
“Thiện nam tử! Tất cả những
pháp hữu lậu đều là
hư dối, nhưng cũng được xem là
chân thật.
“Thiện nam tử! Nếu vị tỳ-kheo nào vừa
khởi tâm đi
khất thực liền có
suy nghĩ trước rằng: ‘Tôi sắp đi
khất thực, nguyện xin được đồ ăn thơm ngon, không gặp các món ăn dở. Nguyện cho xin được nhiều, đừng quá ít ỏi. Cũng nguyện cho mau xin được, đừng [phải chờ đợi] lâu.’ Thầy tỳ-kheo như thế không
thành tựu pháp quán chán lìa đối với
thức ăn. Chỗ
tu tập pháp lành của người này ngày đêm suy tổn, các pháp
bất thiện ngày càng
tăng trưởng.
“Thiện nam tử! Nếu thầy tỳ-kheo muốn đi
khất thực, trước nên nguyện rằng: ‘Cầu cho những ai
khất thực đều được no đủ! Cầu cho những người
thí thực đều được
vô lượng phước lành! Nếu ta nhận được món ăn, đó là để chữa bệnh của thân có độc, nhằm
tu tập pháp lành, làm
lợi ích cho người
thí thực.’ Trong khi
cầu nguyện như vậy, chỗ
tu tập pháp lành của vị này được ngày đêm
tăng trưởng, các pháp
bất tịnh dần dần diệt mất.
“Thiện nam tử! Nếu thầy tỳ-kheo nào có thể
tu tập [
quán niệm] như vậy, nên biết rằng vị ấy chẳng hề ăn luống của những người
tín thí khắp nơi.
“Thiện nam tử! Người có trí [sau khi]
thành tựu trọn vẹn cả bốn pháp
quán tưởng như trên, có thể [bắt đầu]
tu tập pháp
quán tưởng hết thảy
mọi việc trong
thế gian đều không thể
ưa thích. Người ấy
suy xét rằng: ‘Trong khắp
thế gian không nơi nào không có sanh, già, bệnh, chết; nhưng thân này của ta thì không một nơi nào không [thể] sanh vào. Nếu trong khắp
thế gian không một nơi nào có thể lìa khỏi sanh, già, bệnh, chết, vậy sao ta có thể
ưa thích thế gian này?
“Trong khắp
thế gian không hề có sự tiến lên,
đạt được hay thối lui, bỏ mất; vì thế nên
thế gian chắc chắn là
vô thường. Nếu là
vô thường, sao người có trí lại có thể
ưa thích thế gian?
“Mỗi một
chúng sanh đều
luân chuyển trải qua khắp cả
thế gian, thọ nhận đủ mọi sự
khổ não và khoái lạc; cho dù có được làm thân
Phạm thiên,
cho đến thân ở
cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, nhưng khi
mạng chung cũng
trở lại đọa vào
ba đường ác; cho dù làm thân
Tứ thiên vương,
cho đến thân
cõi trời Tha hóa tự tại, nhưng đến lúc
mạng chung cũng [có thể phải] sanh vào trong loài
súc sanh, hoặc làm
sư tử, cọp, tê giác, lang sói, voi, ngựa, bò, lừa...
“Người có trí lại quán xét rằng: ‘Như vị
Chuyển luân Thánh vương cai trị cả
Bốn cõi thiên hạ,
giàu sang cao quý muốn gì được nấy, nhưng khi
phước đức đã hết cũng phải chịu cảnh nghèo túng, không đủ cơm ăn áo mặc.’
“Người có
trí quán xét
sâu xa những việc như vậy rồi, liền sanh
tư tưởng không thể
ưa thích [
mọi việc]
thế gian.
“Người có trí lại quán xét rằng: ‘Thế gian có những sự vật như là nhà cửa, áo quần, món ăn vật uống, giường chiếu, mùng mền, thuốc thang,
hương hoa,
chuỗi ngọc, mọi thứ
kỹ nhạc,
của cải, đồ
quý báu... Những sự vật như vậy đều [được người ta] dùng để
xa lìa sự khổ, nhưng
bản chất của chúng vốn đều là khổ. Làm sao có thể dùng khổ để
xa lìa được khổ?
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét như vậy rồi, đối với mọi sự vật trong
thế gian không còn sanh
lòng ham muốn mà có
tư tưởng ưa thích nữa.
“Thiện nam tử!
Ví như có người thân mang bệnh nặng, dù cho có đủ mọi thứ
âm nhạc ca múa, hương thơm, hoa đẹp,
chuỗi ngọc... cũng chẳng hề sanh
lòng ham muốn. Người có
trí quán xét [như trên] rồi, cũng [không còn sanh
lòng ham muốn thế gian] giống như người ấy.
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét
sâu xa rằng: ‘Khắp cả trong
thế gian đều không phải chỗ để
quay về nương dựa, không phải chỗ
giải thoát, không phải chỗ vắng vẻ yên tĩnh, không phải chỗ đáng
ưa thích, không phải chỗ
vượt qua sanh tử, không phải
pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu ta
ham thích thế gian như vậy, làm sao có thể lìa khỏi thế gian? Khác nào như người không thích
chỗ tối, muốn tìm cầu ánh sáng, nhưng rồi lại quay
trở về chỗ tối!
Chỗ tối tức là
thế gian, chỗ sáng là
xuất thế gian. Nếu ta
ưa thích thế gian ắt phải tăng thêm sự tăm tối, lìa xa ánh sáng. Tăm tối tức là
vô minh, ánh sáng là
trí tuệ sáng suốt.
Nguyên nhân tạo thành
trí tuệ sáng suốt này là pháp
quán tưởng hết thảy
mọi việc trong
thế gian đều không thể
ưa thích. Tuy rằng tất cả
tham muốn vướng mắc đều là
trói buộc, nhưng nay ta [tạm thời] chỉ tham được
trí tuệ sáng suốt mà không
tham muốn thế gian.’
“Người có
trí quán xét
sâu xa những
pháp như vậy rồi, liền
thành tựu trọn vẹn pháp
quán tưởng hết thảy
mọi việc trong
thế gian đều không thể
ưa thích.
“Thiện nam tử! Người có trí, sau khi
tu tập pháp
quán tưởng hết thảy
mọi việc trong
thế gian đều không thể
ưa thích, tiếp đó liền
tu tập pháp
quán tưởng về sự chết. Người ấy quán xét rằng: ‘Mạng sống này [của ta] thường bị
vô số sự
thù nghịch vây quanh, suy tổn diệt mất trong từng niệm tưởng, không hề có sự
tăng trưởng; như dòng nước mạnh trên núi cao [chảy xuống], không thể dừng lại; lại như giọt sương mai, chẳng
tồn tại được lâu; lại như [kẻ tử] tù bị đưa ra chợ [xử tử], mỗi bước đi càng
đến gần cái chết; như con bò, con dê bị lôi đi đến lò mổ.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là người có
trí quán xét về sự
hoại diệt [
liên tục không ngừng] trong từng niệm tưởng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như có bốn người rất giỏi bắn cung, cùng họp nhau một chỗ, bắn tên về một hướng. Họ cùng nghĩ rằng: ‘Bốn mũi tên của bọn ta cùng bắn ra sẽ cùng rơi xuống.’ Lại có một người khác [không thuộc nhóm ấy] nghĩ rằng: ‘Bốn mũi tên [đã bắn ra] ấy, trong khi còn chưa rơi xuống đất ta có thể
cùng lúc đưa tay bắt lấy tất cả.’
“Thiện nam tử! Người như vậy có thể gọi là nhanh lẹ hay chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn!
Quả thật rất nhanh lẹ.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Loài quỷ địa hành còn nhanh lẹ hơn cả người ấy nữa. Loài quỷ
phi hành lại mau lẹ hơn cả quỷ địa hành. Các vị
Tứ thiên vương lại mau lẹ hơn cả quỷ
phi hành.
Nhật nguyệt thần thiên còn mau lẹ hơn cả
Tứ thiên vương. Hành kiên tật thiên còn mau lẹ hơn cả
Nhật nguyệt [thần thiên]. Mạng sống của
chúng sanh lại còn mau lẹ hơn cả Kiên tật!
“Thiện nam tử! Trong mỗi một
hơi thở, một cái nháy mắt, mạng sống của
chúng sanh đã
trải qua bốn trăm lần
sanh diệt. Nếu người trí có thể quán xét về mạng sống như vậy, đó gọi là có thể quán xét sự
hoại diệt [
liên tục không ngừng] trong từng niệm tưởng.
“Thiện nam tử! Người có
trí quán xét rằng: ‘Mạng sống
trói buộc với vị vua là cái chết, nếu ta có thể lìa khỏi ông vua của sự chết này, ắt có thể
mãi mãi dứt trừ sự
vô thường của mạng sống.
“Lại nữa, người có
trí quán xét rằng: ‘Mạng sống này [
mong manh] như cây cao lớn đứng cheo leo ven bờ sông. [Mạng sống này
chắc chắn phải dứt mất,] như người đã
phạm tội đại nghịch, khi bị hành hình không một ai
thương xót [muốn giữ lại]. Ông vua sự chết của
chúng sanh lại [cực kỳ hung mãnh,] như chúa
sư tử trong cơn đói mồi
đã lâu, như
rắn độc đang khi [phùng mang] hớp gió, như con ngựa khát quyết giữ chút nước uống, như con quỷ lớn hung ác đang cơn tức giận.’
“Thiện nam tử! Nếu người trí
thực hành phép quán như
vậy thì có thể gọi là
tu tập pháp
quán tưởng về sự chết.
“Thiện nam tử! Người có trí lại quán xét rằng: ‘Nay ta đã
xuất gia, nếu mạng sống ta chỉ còn trong bảy ngày bảy đêm, ta sẽ dành trọn
thời gian ấy mà
tinh cần tu tập Chánh đạo,
hộ trì cấm giới,
thuyết pháp giáo hóa, làm
lợi ích chúng sanh.’ Đó gọi là người có trí
tu tập pháp
quán tưởng về sự chết.
“[Người ấy] lại quán xét rằng: ‘Bảy ngày bảy đêm như vậy cũng là nhiều, cho dù ta chỉ được sống sáu ngày hay năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ,
cho đến chỉ
trong khoảng một
hơi thở ra
thở vào, ta cũng sẽ dùng trọn
thời gian ấy mà
tinh cần tu tập Chánh đạo,
hộ trì cấm giới,
thuyết pháp giáo hóa, làm
lợi ích chúng sanh. Đó ngọi là người trí khéo
tu tập pháp
quán tưởng về sự chết.
“Người có trí sau khi
tu tập đầy đủ sáu pháp
quán tưởng như trên, [
từ quán tưởng sự
vô thường cho đến quán tưởng về sự chết,] tức là [đã tạo] nhân cho bảy pháp
quán tưởng.
“Những gì là bảy? Một là pháp
quán tưởng thường
tu tập, hai là pháp
quán tưởng ưa thích tu tập, ba là pháp
quán tưởng không
sân hận, bốn là pháp
quán tưởng không
đố kỵ, năm là pháp
quán tưởng các nguyện lành, sáu là pháp
quán tưởng không
kiêu mạn, bảy là pháp
quán tưởng Tam-muội không trói buộc.
Thiện nam tử! Nếu vị tỳ-kheo nào [
tu tập]
trọn vẹn bảy pháp
quán tưởng này thì gọi là sa-môn, là bà-la-môn, là Bậc
vắng lặng yên tĩnh, là Bậc
thanh tịnh cao khiết, là Bậc
giải thoát, là Bậc
trí tuệ, là Bậc
chánh kiến, là Bậc đã vượt
sanh tử, là Bậc
Đại y vương, là vị
Đại thương chủ, là người khéo
giảng giải được
bí mật của
Như Lai, cũng
hiểu rõ được bảy cách giảng nói của chư Phật, gọi là thấy biết chân chánh, đoạn trừ được mọi sự
nghi ngờ khởi sanh trong bảy cách giảng nói.
“Thiện nam tử! Nếu người nào
tu tập trọn vẹn sáu pháp
quán tưởng đã nói như trên, [
từ quán tưởng sự
vô thường cho đến quán tưởng về sự chết,] nên biết rằng người ấy có thể
chê trách Ba cõi [vì
quán tưởng trong
Ba cõi có nhiều
tội lỗi tai hại; có thể
quán tưởng sự]
xa lìa Ba cõi; [có thể
quán tưởng sự] diệt mất [của]
Ba cõi; có thể [
quán tưởng] không sanh lòng
tham ái vướng mắc đối với
Ba cõi.
“Đó gọi là người có trí
tu tập trọn vẹn mười pháp
quán tưởng. Nếu vị tỳ-kheo nào
tu tập trọn vẹn mười pháp
quán tưởng ấy, có thể nói là
hình tướng sa-môn
chân thật.”
Bấy giờ,
Bồ Tát Ca-diếp đối trước Phật đọc kệ
ngợi khen rằng:
“Đại
Y vương thương xót thế gian,
Thân và
trí tuệ đều
tịch tĩnh;
Trong
pháp vô ngã, có
chân ngã,
Nên con
kính lễ Đấng
Vô thượng.
Phát tâm,
rốt ráo, chẳng khác biệt,
Nhưng tâm vừa phát thật khó thay!
Dù chưa tự cứu, trước cứu người,
Nên con
kính lễ Sơ phát tâm.
Phát tâm đã dạy khắp trời, người,
Vượt hẳn
Thanh văn và
Duyên giác;
Phát tâm như vậy vượt
Ba cõi,
Nên được xưng Bậc Cao cả nhất.
Người đời mong cầu, sau mới được,
Như Lai không thỉnh, làm chỗ quy;
Tùy thế, như nghé con theo mẹ,
Nên tôn
xưng Phật: Bậc
Đại bi.
Công đức Như Lai khắp
mười phương,
Phàm phu vô trí không thể khen;
Nay con
tán thán tâm từ bi,
Vì
báo đáp hai nghiệp thân, miệng.
Người đời
tham muốn lợi về mình,
Như Lai chẳng hề giống như thế.
Dứt trừ
quả báo của
chúng sanh,
Nên lễ Bậc
Tự lợi,
lợi tha.
Người đời
cầu lợi người
thân yêu,
Như Lai làm lợi không oán, thân;
Phật không các tướng như
thế tục,
Nên
tâm bình đẳng, không
phân biệt.
Người đời nói khác,
việc làm khác,
Như Lai như thuyết, việc không sai;
Trong sự
tu hành, dứt các hạnh,
Nên được xưng là Đấng
Như Lai.
Đã biết
tội lỗi các
phiền não,
Nhưng vì
chúng sanh thị hiện vào;
Từ lâu đã
thoát khỏi thế gian,
Vì
từ bi vào chốn
sanh tử.
Tuy
hiện thân trong
cõi trời, người,
Luôn giữ
lòng từ bi không bỏ;
Nên
Như Lai ví như bò mẹ,
Lòng từ bi ấy là nghé con.
Chịu bao nỗi khổ, vì
chúng sanh,
Thương xót nhớ nghĩ, lòng chẳng hối;
Vì quá
thương xót không thấy khổ,
Nên con
kính lễ Đấng
Cứu khổ.
Như Lai tuy tạo
vô lượng phước,
Nghiệp thân, miệng, ý thường
thanh tịnh.
Thường vì
chúng sanh, chẳng vì mình,
Nên con lễ Bậc
Thanh tịnh nghiệp.
Phật chịu khổ, không cho là khổ,
Thấy người chịu khổ, như mình khổ;
Tuy vì
chúng sanh, vào
địa ngục,
Không nghĩ đến khổ, lòng không hối.
Chúng sanh chịu bao khổ sai khác,
Thảy đều như khổ Phật gánh chịu;
Biết rồi, tâm trở nên
kiên cố,
Chuyên cần tu chứng Vô thượng đạo.
Phật chỉ một
lòng từ trải khắp,
Lòng thương
chúng sanh như thương con;
Phật, Pháp, Tăng
cứu độ chúng sanh,
Vì họ không biết nên
phỉ báng.
Thế gian tuy đủ mọi
phiền não,
Cùng
vô số tội lỗi xấu ác,
Nhưng tất cả
phiền não,
tội lỗi,
Phật vừa
phát tâm đã trừ sạch.
Chỉ Phật
đủ sức ngợi khen Phật,
Ngoài Phật, không ai
đủ sức ấy!
Nay con chỉ
xưng tán một việc:
Lòng từ trải khắp cả thế gian!
Lòng từ Như Lai gồm mọi pháp,
Với
lòng từ này độ
chúng sanh,
Là
chân thật Giải thoát vô thượng,
Giải thoát chính là Đại Niết-bàn.”[160]
[156] Sáu chỗ (lục xứ): chỉ sáu căn duyên theo sáu trần: hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm và các pháp.
[157] Ăn uống bằng cách nhai nuốt (chuyên thực): chỉ chung cách ăn uống của chúng sanh Dục giới, dùng sự nhai nuốt để tiêu hóa thức ăn, để phân biệt với ba cách ăn khác, hợp thành bốn cách ăn (tứ thực) là: chuyên thực, xúc thực, tư thực và thức thực.
[158] Nuôi sống bằng thức (thức thực): chúng sanh ở Vô sắc giới và địa ngục không có 3 cách ăn uống vừa kể trên, chỉ dùng thức để duy trì thể trạng nên gọi là thức thực.
[159] Không phải trùng mà thấy là trùng: vì muốn tạo ra sự nhàm chán đối với thức ăn nên hành giả quán tưởng thức ăn như các loại côn trùng, sâu bọ ghê tởm.
[160] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 34, bắt đầu quyển 35, phẩm Kiều-trần-như thứ 25, phần thứ nhất (Kiều-trần-như phẩm đệ nhị thập ngũ chi nhất).