GIỚI THIỆU
BẢN DỊCH KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Kinh Đại Bát Niết-bàn là một
bộ kinh đồ sộ trong kho tàng
kinh điển Phật giáo, được một
cao tăng miền
Trung Ấn Độ là ngài Đàm-vô sấm
mang đến Trung Hoa
vào khoảng thế kỷ 5, và cũng được
chính vị này khởi công dịch sang chữ Hán. Trong
Đại tạng kinh (bản Đại Chánh tân tu), kinh này được xếp vào quyển 12, kinh số 374 (40 quyển) và kinh số 377 (2 quyển Hậu phần).
Việc chuyển
dịch kinh này sang tiếng Việt đã được rất nhiều bậc
tiền bối nghĩ đến từ lâu.
Công trình muộn màng này của
chúng tôi chỉ
hy vọng góp thêm được phần nào dù nhỏ nhoi trong việc giúp người đọc có sự
tiếp nhận dễ dàng hơn đối với
bộ kinh này.
Ngoài ra, việc khảo đính và
giới thiệu trọn vẹn nguyên bản Hán văn sẽ rất có
ý nghĩa trong việc
giữ gìn và
lưu truyền kinh điển Đại thừa một cách
chuẩn xác hơn, vì ngoài việc tạo
điều kiện lưu giữ bản Hán văn,
hình thức in ấn này sẽ giúp người đọc có thể
đối chiếu,
tham khảo khi có sự
nghi ngại hay không rõ trong bản dịch. Điều này cũng sẽ giúp các bậc
cao minh dễ dàng
nhận ra và chỉ dạy cho những chỗ sai sót, để bản dịch nhờ đó càng được
hoàn thiện hơn. Và
dĩ nhiên,
mục đích cuối cùng của tất cả những điều trên chính là để giúp cho sự
học hỏi và
tu tập theo
lời Phật dạy được đúng hướng hơn. Bởi vì hơn ai hết, người
Phật tử luôn hiểu rằng chính những lời dạy của
Đức Phật được lưu giữ trong
kinh điển là chỗ
y cứ quan trọng và
chắc chắn nhất cho
con đường tu tập của mỗi người.
Mặc dù
công trình đã được tiến hành với sự
cẩn trọng tối đa trong
phạm vi khả năng của những người
thực hiện, từ việc khảo đính văn bản Hán văn
cho đến việc
tham khảo, chuyển dịch,
chú giải... nhưng e rằng cũng không thể tránh được ít nhiều sai sót. Vì thế, dưới đây
chúng tôi sẽ
cố gắng trình bày đôi nét về quá trình
thực hiện công việc để quý
độc giả có thể có một cái nhìn tổng quát về những gì
chúng tôi đã
thực hiện cũng như
phương cách mà
chúng tôi đã vận dụng, qua đó sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra những lời chỉ dạy giúp
chúng tôi hoàn thiện hơn nữa công
việc đã làm.
Chúng tôi xin
chân thành đón nhận và
biết ơn mọi sự góp ý từ quý
độc giả gần xa cả về nội dung lẫn
hình thức của lần xuất bản này.
Về mặt văn bản,
chúng tôi chọn
sử dụng bản dịch Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm (40 quyển) vừa được đề cập ở trên. Riêng 2 quyển
cuối cùng (Hậu phần) là bản dịch của hai ngài Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh.
Tuy nhiên, kinh Đại Bát Niết-bàn còn có rất nhiều bản dịch khác.
Trong
kinh tạng Nguyên thủy được dịch từ tiếng Pāli (Nam Phạn) cũng có kinh này, nhưng ngắn hơn nhiều so với bản dịch trong Hán tạng được
chúng tôi sử dụng.
Tuy nhiên, về các
chi tiết,
sự kiện được đề cập đến trong kinh thì hai bản dịch này có rất nhiều điểm tương đồng. Vì thế,
chúng tôi đã
sử dụng bản Việt
dịch kinh này của
Hòa thượng Thích
Minh Châu (
Trường bộ kinh, kinh số 16, Mahāparinibbāna sutta) để
tham khảo đối chiếu ở những chỗ có
liên quan.
Trong Hán tạng còn có một số bản dịch khác. Bản dịch đời Đông Tấn (317-420) của ngài
Pháp Hiển cũng có tên là Đại Bát
Niết-bàn kinh, gồm 3 quyển, được xếp vào Đại Chánh tạng thuộc quyển 1, kinh số 7; bản dịch đời Tây Tấn của ngài
Bạch Pháp Tổ là
Phật Bát Nê-hoàn kinh (2 quyển), được xếp vào Đại Chánh tạng quyển 1, kinh số 5.
Ngoài ra còn có một bản dịch tên Bát Nê-hoàn kinh (2 quyển) đã mất tên người dịch, được xếp vào Đại Chánh tạng quyển 1, kinh số 6. Những bản này có lẽ đều dịch từ Phạn văn Nam truyền thuộc
kinh tạng Nguyên thủy nên nội dung
tương tự với bản trong
Trường bộ kinh do
Hòa thượng Thích
Minh Châu Việt dịch vừa nói ở trên. Nội dụng của các bản này chỉ được
tham khảo ở một số
chi tiết tương đồng khi kể lại
sự kiện đức Phật nhập Niết-bàn, còn nói chung không có sự ghi chép đầy đủ những lời dạy của Phật như trong bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm.
Một bản dịch khác
đặc biệt đáng chú ý là
Phật thuyết Đại Bát Nê-hoàn kinh, cũng do ngài
Pháp Hiển đời Đông Tấn dịch, 6 quyển, được xếp vào Đại Chánh tạng ở quyển 12, kinh số 376.
Dựa vào nội dung thì bản dịch này cũng chính là
bản kinh mà ngài Đàm-vô-sấm đã dịch.
Từ điển
Phật Quang cho biết ngài
Pháp Hiển sinh năm 340 và mất
trong khoảng năm 418 đến 423. Như vậy, cũng có thể
xem như đồng thời với ngài Đàm-vô-sấm (385-433). Ngài được
cha mẹ cho vào chùa từ năm 3 tuổi, làm sa-di đến năm 20 tuổi thì
thọ giới Cụ túc. Với sức học
uyên thâm, ngài thường
than tiếc với
mọi người rằng kinh luật
lưu hành thời ấy ở Trung Hoa có quá nhiều khiếm khuyết. Vì thế, ngài
quyết tâm sang tận
Ấn Độ để
học hỏi và thỉnh
kinh điển về. Năm 399, ngài
chính thức rời
Trường An để
thực hiện ý định này. Tuy ngài hướng về
Trung Ấn Độ, nhưng
trong suốt cuộc
hành trình kéo dài nhiều năm ngài đã ghé qua rất nhiều
nơi khác nhau trên đường đi như
Đôn Hoàng,
Vu Điền... thậm chí có đến ở đảo
Tích Lan (Sri Lanka) trong 2 năm. Đến năm 413 ngài mới về lại Trung Hoa, rồi cùng với ngài Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) (359-429) bắt đầu chuyển
dịch kinh luật sang Hán ngữ. Ngài đã dịch những kinh luật như Ma-ha Tăng-kỳ luật,
Phật thuyết Đại Bát Nê-hoàn kinh, Tạp A-tì-đàm
tâm luận,
Tạp tạng kinh...
Cứ theo những
chi tiết còn được biết thì rất có thể thời điểm ngài
dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn cũng gần với thời điểm ngài Đàm-vô-sấm
dịch kinh Đại Bát Niết-bàn.
Chúng tôi tin rằng hai vị này có thể đã không biết đến
công trình của nhau, và Phạn bản mà ngài
Pháp Hiển sử dụng có thể là do chính ngài đã mang về trong chuyến đi
Ấn Độ. Vì thế, việc
tham khảo thêm bản dịch này của ngài
Pháp Hiển được
chúng tôi cho là cực kỳ quan trọng trong việc giúp làm rõ những chỗ còn khó hiểu trong kinh văn. Trong khi ngài Đàm-vô-sấm là một
cao tăng Ấn Độ học tiếng Trung Hoa để
dịch kinh, thì ngược lại ngài
Pháp Hiển lại là một
cao tăng Trung Hoa sang
Ấn Độ học Phạn ngữ. Chỉ riêng điều này cũng đủ để
chúng ta có thể
tin chắc rằng hai bản dịch này sẽ có rất nhiều
yếu tố bổ sung cho nhau.
Và
sự thật đúng là như thế.
Chúng tôi xin nêu một vài ví dụ
cụ thể để quý vị có thể thấy rõ việc này. Khi dịch đến một câu nói của vị
Bồ Tát Ca-diếp là: “如來常身猶如畫石。-
Như Lai thường thân do như
họa thạch.” (Thân
Như Lai thường còn như hình khắc trên đá.)
Chúng tôi xét thấy dựa theo ý kinh trong toàn đoạn thì nghĩa câu này có phần khiên cưỡng, thậm chí là
mâu thuẫn. Khi
tham khảo bản dịch của ngài
Pháp Hiển thì thấy câu này được dịch là: “如來法身真實常住,非磨滅法,我意諦信猶如畫石。” (
Như Lai pháp thân chân thật thường trụ, phi
ma diệt pháp, ngã ý đế tín do như
hoạch thạch.) Nghĩa là: “Pháp thân
Như Lai chân thật thường trụ, không phải pháp
hoại diệt, lòng con đã
tin chắc điều đó như khắc sâu vào đá.” Theo đây mà
suy đoán thì có lẽ bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm vì một
lý do nào đó đã mất đi mấy chữ,
ít nhất cũng là phần tương đương với 8 chữ Hán được
chúng tôi gạch chân trong câu trên. Đây là sự bổ sung về mặt văn bản, vì như đã nói, rất có thể hai vị đã dùng 2 Phạn bản khác nhau.
Trong một
trường hợp khác, bản dịch ngài Đàm-vô-sấm chép là: “譬如陶師作已還破。- Thí như đào sư tác
dĩ hoàn phá.” (
Ví như người thợ làm đồ gốm, làm ra rồi phá bỏ.) Tất cả các bản Việt dịch đã có và cả các bản Anh ngữ đều dịch với ý
tương tự như vậy, cho dù một câu như thế thật
hết sức khó hiểu!
Bản dịch của ngài
Pháp Hiển đã giúp
chúng tôi giải tỏa khó khăn này. Trong
vị trí tương đương của câu này, ngài dịch là: 譬如陶家埏埴作器有作有壞 - Thí như đào gia duyên thực tác khí,
hữu tác hữu hoại.” Như vậy là quá rõ ràng! Không phải “làm ra rồi phá bỏ (!)”, mà phải hiểu là “có làm ra ắt có ngày hư hoại”. Đây được dùng để ví với các pháp
thế gian được tạo tác nên không thường tồn; khác với
sự giải thoát của
Như Lai là không do tạo tác mà thành nên không có sự hư hoại, thay đổi.
Tuy nhiên, điều
vô cùng đáng tiếc là bản dịch Đại Bát Nê-hoàn của ngài
Pháp Hiển (6 quyển) ngắn hơn nhiều so với bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm, chỉ tương đương đến hết phẩm thứ 5 của bản Đại Bát Niết-bàn, nghĩa là vừa hết quyển 10 và bước sang quyển 11 một phần ngắn, còn lại gần 30 quyển sau là không có trong bản Đại Bát Nê-hoàn.
Chúng ta có thể tạm
suy đoán là phần Phạn bản này tương đương với phần đầu mà ngài Đàm-vô-sấm đã mang sang Trung Hoa lần đầu tiên, và phần được thỉnh lần thứ hai có lẽ ngài
Pháp Hiển không có.
Vì nhiều
lý do nên sau khi
so sánh cân nhắc chúng tôi vẫn
quyết định chọn bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm làm văn bản chính, và những sự
tham khảo đối chiếu như trên chỉ được đưa vào phần
chú giải để người đọc
hiểu rõ vấn đề hơn,
hoàn toàn không dám tùy tiện
sửa đổi trong chính văn.
Như trên đã nói qua về các bản văn được
sử dụng để
tham khảo. Bây giờ xin lược nói đôi nét về văn bản chính. Bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm được gọi là Bắc bản,
thực hiện vào
triều đại Bắc Lương (397-439).
Ngoài ra còn có Nam bản là bản Đại Bát
Niết-bàn kinh (36 quyển) đời Tống, do nhóm của ngài
Huệ Nghiêm thực hiện vào triều Tống (960-1279), được xếp vào Đại Chánh tạng quyển 12, kinh số 375. Ở đầu
bản kinh văn này
cho biết nhóm của ngài
Huệ Nghiêm đã
căn cứ vào bản Nê-hoàn kinh để bổ sung vào. (Tống đại sa-môn
Huệ Nghiêm đẳng y Nê-hoàn
kinh gia chi - 宋代沙門慧嚴等依泥洹經加之). (Nê-hoàn kinh ở đây có lẽ chỉ bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài
Pháp Hiển.)
Nam bản thật ra cũng không khác biệt nhiều với Bắc bản, vì nhóm của ngài
Huệ Nghiêm đã
sử dụng chính bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm để khắc in lại, với một số thay đổi chính như đổi tựa đề một số phẩm và
phân chia các quyển khác hơn. Vì thế Nam bản chỉ có 36 quyển so với Bắc bản có đến 40 quyển.
Trong suốt quá trình chuyển dịch,
chúng tôi sẽ
cố gắng lưu ý độc giả những chỗ khác biệt này.
Ngoài ra, vì đây là một
bộ kinh quan trọng nên có rất nhiều bản sớ giải đã được
thực hiện qua các
triều đại. Chẳng hạn như Đại Bát
Niết-bàn Kinh tập giải (71 quyển, Đại Chánh tạng quyển 37, kinh số 1763) của ngài Bảo Lượng (444 – 509) vào đời Lương (502 – 557); Đại Bát
Niết-bàn Kinh nghĩa ký (10 quyển, Đại Chánh tạng quyển 37, kinh số 1764) của ngài
Huệ Viễn vào đời Tùy (581-618); Đại Bát
Niết-bàn kinh huyền nghĩa (2 quyển, Đại Chánh tạng quyển 38, kinh số 1765) cũng vào đời Tùy... Trong quá trình chuyển dịch,
chúng tôi có
tham khảo các bản sớ giải này để
tìm hiểu ý kinh rõ hơn.
Riêng về bản dịch Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm, có lẽ
chúng ta cần
tìm hiểu đôi nét về
cuộc đời vị
cao tăng này nói chung, và về
công trình Hán
dịch kinh này nói riêng.
Ngài là
cao tăng người miền
Trung Ấn Độ,
xuất thân từ một
gia đình Bà-la-môn, tên
Phạn ngữ là Dharmaraka, Hán dịch âm là Đàm-vô-sấm, cũng còn đọc là Đàm-ma-sấm hay Đàm-ma-la-sám, dịch nghĩa là
Pháp Phong. Trước ngài học
giáo lý Tiểu thừa,
tinh thông kinh luận,
biện tài ứng đáp không ai bằng. Sau gặp được
thiền sư Bạch Đầu, được nghe kinh Đại Bát Niết-bàn này liền tự sanh lòng
hổ thẹn, chuyển sang
tu học giáo pháp Đại thừa.
Năm 20 tuổi ngài đã có thể tụng đọc
thông suốt kinh điển cả
Đại thừa lẫn
Tiểu thừa. Ngài lại còn giỏi về
chú thuật, được vua
kính trọng và người đương thời tôn xưng là
Đại Chú Sư. Sau ngài đến xứ
Kế Tân,
mang theo 5 phẩm đầu của kinh Đại Bát Niết-bàn, cùng với kinh
Bồ Tát Giới và kinh
Bồ Tát Giới Bản. Tiếp đó, ngài sang xứ
Quy Tư. Nhưng cả hai xứ này người dân đa phần chuộng theo
Tiểu thừa, nên sau ngài lại sang đến
Đôn Hoàng là kinh đô nhà Tây Lương thời bấy giờ.
Niên hiệu Huyền Thủy thứ nhất đời Bắc Lương, tức năm 412, Hà Tây Vương là
Thư Cừ Mông Tốn thỉnh ngài đến thành Cô Tàng và lưu lại đó,
tiếp đãi rất
trọng hậu. Ngài
nhân dịp này liền dành trọn 3 năm để học chữ Hán. Sau đó, ngài khởi sự
phiên dịch phần đầu kinh Đại Bát Niết-bàn sang Hán ngữ. Như vậy, sớm nhất thì bản
dịch kinh này cũng phải khởi đầu từ khoảng năm 416.
Chúng ta nhớ lại, ngài
Pháp Hiển trở về Trung Hoa năm 413 và bắt đầu
dịch kinh, rồi
viên tịch trong khoảng năm 418-423, vậy bản
dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn
chắc chắn phải được
thực hiện trong khoảng cùng
thời gian này.
Vì
bản kinh Đại Bát Niết-bàn ngài
mang theo chưa đủ trọn bộ, ngài liền đến xứ
Vu Điền [1], tìm thỉnh được phần
tiếp theo, nhưng vẫn chưa trọn bộ. Ngài lại
trở về Cô Tàng
tiếp tục công việc
phiên dịch. Khi ấy, Thái
Vũ Đế của Bắc Ngụy nghe danh ngài là người tài giỏi liền sai sứ đến đón về. Mông Tốn trong lòng
lo lắng, sợ e ngài về với Bắc Ngụy tất Ngụy sẽ có nhiều chỗ dùng đến, đối nghịch với mình.
Vì vậy, nhân khi ngài
lên đường trở về Ấn Độ để thỉnh phần cuối kinh Đại Bát Niết-bàn sang dịch, Mông Tốn liền sai người chặn giữa đường mà hại chết. Phần cuối của kinh, được gọi là Hậu phần
Đại Bát-Niết-bàn kinh, gồm 2 quyển, vì thế phải đợi đến về sau mới được hai vị sa-môn là Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh dịch
vào khoảng đời Đường (618 – 907).
Ngài Đàm-vô-sấm sinh năm 385 và mất vào năm ấy là năm 433.
Kinh điển do ngài dịch, người sau ghi lại số lượng không giống nhau. Theo
Xuất Tam Tạng Ký Tập thì ngài dịch được 11
bộ kinh, gồm 117 quyển, nhưng theo
Đại Đường Nội Điển Lục thì số kinh ngài dịch là 24 bộ, gồm 151 quyển. Số lượng thật sự còn giữ lại được
đến nay trong Đại Chánh tạng là 23 bộ. Phần lớn những kinh do ngài chuyển dịch đều là
kinh điển Đại thừa như kinh Bi Hoa, kinh
Đại Phương Đẳng Đại Tập,
kinh Kim Quang Minh... và một số bản văn trong
Luật tạng. Trong số này, kinh Bi Hoa (10 quyển) đã được
chúng tôi Việt dịch và xuất bản [2].
Qua những
chi tiết còn được biết về
cuộc đời ngài Đàm-vô-sấm và
công trình Hán
dịch kinh này,
chúng ta có thể thấy rõ mối
quan tâm đặc biệt của ngài cũng như những
gian nan vất vả mà ngài đã
trải qua để có thể
hoàn tất bản
dịch kinh này. Thậm chí vì muốn
hoàn tất bộ kinh với 2 quyển cuối, ngài đã không ngại đường xa nguy hiểm,
quyết lòng lặn lội trở về Ấn Độ thỉnh kinh, để rồi
cuối cùng phải bỏ mạng giữa đường đi. Cứ nghĩ đến việc này thì sẽ thấy mỗi câu mỗi chữ trong bản Hán văn mà ngày nay
chúng ta còn có duyên may được đọc thật là quý giá biết bao nhiêu!
Mặc dù không
tránh khỏi một vài khiếm khuyết, rất có thể
xuất phát từ sự sai lệch ngay trong Phạn bản, hoặc do quá trình khắc bản qua nhiều lần đã làm thay đổi, nhưng
chúng tôi vẫn cho rằng bản dịch Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm là bản đầy đủ và
ưu việt nhất trong tất cả các bản đã được nhắc đến. Có rất nhiều đoạn kinh văn
hết sức súc tích và không kém phần diễn cảm, dù chưa đủ gọi là
văn chương trác tuyệt nhưng cũng đủ để
thể hiện được học vấn
uyên thâm của người viết. Thật khó có thể tin rằng người viết ra những đoạn văn hay như thế lại là một người
Ấn Độ chỉ mới học chữ Hán
trong khoảng 3 năm!
Trở lại với
vấn đề Việt
dịch kinh này, như đã nói từ đầu, có rất nhiều vị
tiền bối trước
chúng tôi đã
quan tâm đến việc chuyển
dịch kinh này. Vì thế,
trong suốt quá trình
thực hiện công việc,
chúng tôi đã
may mắn có cơ hội
tham khảo một số những
công trình đã
thực hiện trước, xin nêu
cụ thể dưới đây.
Trước hết là bản Việt dịch của Cố
học giả Đoàn Trung Còn. Bản dịch này được dịch giả tự xuất bản trước năm 1975 từ quyển 1 đến quyển 11, chia làm 2 tập. Phần còn lại, từ quyển 12 đến quyển 42 là bản thảo viết tay, trước đây lưu giữ tại Viện
Chuyên tu (Làng
Vạn Hạnh, BRVT), sau đó được chuyển cho
cư sĩ Chân Nguyên [3]. Khi biết
chúng tôi có sự
quan tâm đến các
công trình Phật học,
cư sĩ Chân Nguyên đã giao lại bản thảo viết tay này cho
chúng tôi để
xem xét việc xuất bản.
Mặc dù bản dịch này có
giá trị tham khảo rất cao, vì
Học giả Đoàn Trung Còn không chỉ
thực hiện bản Việt dịch mà còn
tra khảo nhiều tư liệu để thêm vào các
chú giải cho bản dịch của mình, nhưng
chúng tôi nhận thấy là không thể xuất bản vào thời điểm hiện nay vì cách dùng
từ ngữ cũng như văn phong
diễn đạt nói chung đều đã quá xưa cũ, không còn
phù hợp và rất khó hiểu đối với
độc giả ngày nay. Hơn nữa, những
chú giải của ông cũng
cần phải biên soạn lại, do
điều kiện thiếu tư
liệu trước đây, cũng như những
hạn chế nhất định trong sự
tham khảo đối chiếu.
Kèm theo bản Việt dịch này còn có phần viết tay
toàn bộ bản Hán văn, mà theo
suy đoán của
chúng tôi là
dựa vào bản khắc gỗ cũng được lưu giữ tại Viện
Chuyên tu. Bản khắc gỗ Hán văn này thuộc Càn
Long tạng, thường gọi là bản chữ Vạn; khi biết
chúng tôi đang
thực hiện công trình này,
Đại đức Thích Thiện Thuận ở Viện
Chuyên tu đã
hoan hỷ cho
chúng tôi mượn dùng.
Tiếp đến là bản Việt dịch của
Hòa thượng Thích
Trí Tịnh.
Chúng tôi hiện có bản dịch này do Thành hội
Phật giáo TP. HCM
ấn hành năm 1991.
Ngoài ra, nó cũng được
lưu hành trên mạng Internet tại Thư viện
Hoa sen (http://thuvienhoasen.org/kinh-dbnb-00.htm), được ghi là do
Tịnh xá Minh Đăng Quang xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 1990. Bản này không in kèm Hán văn và cũng không thấy ghi rõ là dịch từ bản Hán văn nào, nhưng
căn cứ vào những ghi chú
phân đoạn của
Hòa thượng thì biết là đã dịch từ Bắc bản chứ không phải Nam bản (40 quyển chứ không phải 36 quyển). Tuy vậy, tựa đề các phẩm có sửa lại theo Nam bản, chẳng hạn như phẩm đầu tiên là phẩm Tựa (Tự phẩm) thay vì là phẩm
Thọ mạng, phần thứ nhất (
Thọ mạng phẩm – đệ nhất) như trong Bắc bản.
Hòa thượng cũng dịch cả 2 quyển Hậu phần của các ngài Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh. Mặt khác, khi trình bày bản Việt dịch,
Hòa thượng đã
căn cứ vào các phẩm kinh để
phân chia, không dựa theo sự
phân chia các quyển như trong bản Hán văn. Trong quá trình chuyển dịch,
chúng tôi có
tham khảo bản dịch này của
Hòa thượng ở những nơi
cần thiết.
Ngoài ra còn có bản Việt dịch của
cư sĩ Tuệ Khai (Phan Rang), được
thực hiện với sự
chứng nghĩa của
Hòa thượng Thích Đỗng Minh.
Chúng tôi không biết bản dịch này đã xuất bản hay chưa, chỉ
sử dụng bản
lưu hành trên mạng Internet tại địa chỉ: http://www.quangduc.com/kinhdien/81daibatnietban.html. Bản dịch này ghi rõ là dịch từ Nam bản đời Tống và không dịch 2 quyển Hậu phần.
Ngoài các bản Việt dịch kể trên,
chúng tôi còn
sử dụng 2 bản dịch Anh ngữ của kinh này. Bản thứ nhất được
lưu hành trên mạng Internet tại địa chỉ: http://www.nirvanasutra.org.uk có tên là The Mahayana Mahaparinirvana Sutra, được Kosho Yamamoto dịch sang Anh ngữ từ bản Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm, với sự
hiệu đính của
Tiến sĩ Tony Page (Nirvana Publications, London, 1999-2000). Bản này không dịch 2 quyển Hậu phần. Theo sự
phân đoạn thì bản dịch này được dịch từ Nam bản.
Bản dịch Anh ngữ thứ hai mà
chúng tôi sử dụng có thể
tìm thấy trên mạng Internet tại địa chỉ http://www.zhaxizhuoma.net/DHARMA/Tripitaka/MahaparinirvanaMahayana.htm, do Charles Patton dịch sang Anh ngữ từ bản Hán văn của ngài Đàm-vô-sấm, nhưng chỉ gồm một số phẩm, không trọn bộ.
Cụ thể là
chúng tôi đã đọc được các phẩm thứ 1, 2, 3, 6, 10, 11 và 15. Các phẩm khác chưa thấy
công bố. Bản này được dịch giả ghi rõ là dịch từ Nam bản.
Việc
sử dụng các bản dịch Anh ngữ
đặc biệt hữu ích khi chuyển dịch những đoạn văn
mô tả mà cách dùng chữ của bản Hán văn trở nên khó hiểu vì
từ ngữ với
ý nghĩa được dùng hiện nay không còn
thông dụng nữa. Chẳng hạn, khi bản Hán văn dùng “chân kim vi hướng - 眞金爲向” thì
chúng tôi đã không khỏi có phần
lúng túng. Ông Đoàn Trung Còn dịch là “vàng ròng làm hướng”,
xem như không dịch chữ hướng, và
mô tả như
vậy thì không ai có thể hiểu được gì cả!
Hòa thượng Trí Tịnh bỏ hẳn
chi tiết này (và nhiều
chi tiết khác) không dịch! Khi
tham khảo cả 2 bản Anh ngữ đều thấy dịch chữ “hướng 向” là “windows”. Sau đó,
chúng tôi liền
tra khảo lại các tự điển Hán ngữ thì thấy
quả thật chữ này có một nghĩa là “cửa sổ”, nhưng ngày nay chẳng mấy ai dùng đến nghĩa này. Vì thế, câu trên phải được hiểu là “các cửa sổ đều bằng vàng ròng”...
Tất cả các bản dịch kể trên đều chỉ được
chúng tôi sử dụng với
mục đích tham khảo thuần túy,
hoàn toàn không có sự trích dẫn hay
sử dụng lại bất cứ phần nào trong đó.
Tuy nhiên,
chúng tôi vẫn đặt tên Cố
học giả Đoàn Trung Còn như người đồng
thực hiện công trình này vì lòng
tôn kính chân thành đối với những
nỗ lực tiên phong trong công việc mà ông đã
thực hiện trước đây một cách không
mệt mỏi cho đến tận cuối đời.
Mặc dù vậy, sự
tham khảo cùng lúc nhiều bản dịch đòi hỏi
chúng tôi phải luôn
tỉnh táo trong công việc, không để bị cuốn hút
hoàn toàn theo cách hiểu của những người
đi trước, vì trong một số
trường hợp thì điều đó có thể dẫn đến sự hiểu sai
văn kinh. Chẳng hạn, trong một đoạn kinh văn dùng cụm từ “ngũ thập thất phiền não” (五十七煩惱), các bản trước đây đều dịch là “57 loại phiền não”.
Hòa thượng Trí Tịnh bỏ không dịch cụm từ này,
cư sĩ Tuệ Khai và Cố
học giả Đoàn Trung Còn đều dịch là 57
phiền não.
Tham khảo cả 2 bản Anh ngữ cũng đều dịch là “57 illusions”... Như vậy, trong số năm vị
đi trước thì đã có bốn vị cùng một ý, một vị không dịch. Nhưng
chúng tôi không dám
chấp nhận ngay cách dịch này, vì phân vân với con số 57 chưa từng gặp trong các kinh văn khác. Vì thế đã
cố gắng thận trọng đọc qua các bản sớ giải và
cuối cùng tìm được một cách
giải thích hợp lý hơn. Theo đó, cụm từ này phải được hiểu là “ngũ, thập, thất phiền não”,
hay nói theo văn sớ giải là: “Ngũ thập thất giả,
tam chủng phiền não dã.” Như
vậy thì ý nghĩa đã trở nên
rõ ràng.
Ba loại phiền não được
tuần tự kể ra,
bao gồm ngũ cái,
thập triền và thất sử”. Để chỉ
ba loại phiền não này,
văn kinh đã nói quá ngắn gọn, và cách viết
xưa kia không có dấu chấm câu nên người đọc rất dễ nhầm lẫn.
Ngoài ra, những khác biệt giữa Bắc bản và Nam bản cũng được
chúng tôi đặc biệt chú ý, vì Nam bản được
thực hiện dựa trên Bắc bản với những chỉnh sửa của người đi sau, nên rất có thể sẽ có những chỉnh sửa
hợp lý, giúp kinh văn được
rõ ràng và
chuẩn xác hơn.
Tuy nhiên, cũng có một số
trường hợp mà sự chỉnh sửa
tỏ ra không
hợp lý, và như thế
cần phải tôn trọng Bắc bản, vốn là bản được ra đời trước. Chẳng hạn, trong một đoạn kinh văn Bắc bản dùng “chư vương chúng trung” được Nam bản sửa lại thành “chư
tứ chúng trung”.
Căn cứ vào ý kinh đang đề cập đến một đối tượng rộng hơn là “tứ chúng”,
chúng tôi tin rằng Bắc
bản không có
sai lầm ở đây. Nhưng các bản trước đây dịch là “ở giữa các vị vua” là không
chuẩn xác,
cần phải hiểu là “ở giữa các vị vua và dân chúng”, nghĩa là “chư vương, chúng trung” chứ không phải “chư vương chúng trung”.
Một số
độc giả vẫn có thể sẽ đặt câu hỏi: “Vì sao phải
thực hiện một bản dịch mới, trong khi đã có một số bản dịch hiện đang lưu hành?” Để
trả lời câu hỏi này, về phần mình
chúng tôi chỉ có thể nói là đã
thực hiện công việc vì một sự
thôi thúc không thể
cưỡng lại khi
may mắn được đọc hiểu
bản kinh này từ Hán tạng. Có rất nhiều
cảm xúc chân thành và mạnh mẽ mà
chúng tôi tự thấy không
thể không cố gắng chia sẻ cùng
mọi người, và chính từ đó mà bản dịch này ra đời.
Tâm nguyện chia sẻ đó của
chúng tôi có
đạt được hay không, điều đó xin tùy nơi sự
đánh giá khách quan của
độc giả. Về phần mình,
chúng tôi chỉ biết cố
hết sức mình trong việc này mà thôi.
Mỗi người có thể tiếp cận
bản kinh này theo một cách khác nhau. Về mặt
lịch sử, kinh này thuật lại suốt
thời gian đức Phật chuẩn bị nhập Niết-bàn
cho đến sau khi ngài nhập Niết-bàn và
đại chúng phân chia xá-lợi Phật để xây tháp thờ kính. Vì thế, không ít người có thể sẽ
cố gắng tìm kiếm trong kinh này những
chi tiết liên quan đến sự kiện đức Phật nhập Niết-bàn, vì đây là một
sự kiện cực kỳ quan trọng trong
cuộc đời ngài,
liên quan đến sự
truyền thừa tiếp nối của
Tăng đoàn Phật giáo thời bấy giờ tại
Ấn Độ, và do đó cũng
liên quan cả đến sự
truyền bá Phật giáo về sau ra khắp nơi trên
thế giới.
Về mặt
học thuật, chỉ riêng độ dài của một văn bản Hán văn đã ra đời và
tồn tại từ hơn 15 thế kỷ qua cũng đã đủ là một đề tài
hấp dẫn các nhà
nghiên cứu, vì tự nó đã là một
tài liệu bảo lưu rất nhiều
yếu tố cổ xưa mà ngày nay khó lòng tìm lại được.
Về mặt
tư tưởng, kinh này hàm chứa hầu hết những
tư tưởng quan trọng trong
Phật giáo, từ những
vấn đề đơn giản và gần gũi như
quan điểm và lời dạy của
đức Phật về việc
ăn chay,
cho đến những
vấn đề phức tạp và
trừu tượng như tánh Phật, thường và
vô thường, ngã và
vô ngã...
Về mặt
giáo lý, kinh này ghi lại những lời dạy của
đức Phật trước lúc nhập Niết-bàn, nên có
giá trị như một sự đúc kết
cuối cùng tất cả những gì ngài đã giảng dạy
trong suốt cuộc đời. Trước một
thính chúng có thể nói là đông đảo nhất, không chỉ
bao gồm hầu như tất cả các
đệ tử xuất gia và
tại gia của Phật mà còn có rất đông
đồ chúng của các
giáo phái ngoại đạo đương thời,
đức Phật đã
tuần tự giải tỏa tất cả những
nghi vấn được đặt ra vào thời điểm
then chốt cuối cùng này. Nhiều vị thầy
ngoại đạo đã
quy phục, và tất cả
bốn chúng đệ tử Phật đều không còn ai
nghi ngại điều gì.
Đức Phật cũng đã
ân cần dặn dò về tương lai
đạo pháp, về những nguyên tắc mà người
đệ tử Phật
cần phải tuân theo trên
con đường tu tập... Tất cả những điều đó đã làm cho kinh này
trở thành một trong những
bộ kinh hết sức thiết yếu đối với những người học Phật.
Tuy vậy,
thực tế là
cho đến nay vẫn còn khá ít người biết đến kinh này. Một số người tuy cũng đã từng có cơ hội đọc qua nhưng dường
như không mấy
lưu tâm tìm hiểu kỹ. Và số người thực sự
chuyên tâm nghiền ngẫm trọn
bộ kinh này dường như rất hiếm gặp. Điều này có thể
xuất phát từ
nguyên nhân trước tiên là kinh này có số trang khá nhiều đối với phần lớn những người đọc thông thường. So với những kinh
thông dụng như kinh A-di-đà,
kinh Kim cang,
kinh Địa tạng... thì kinh này dày hơn rất nhiều lần! Mặt khác, những
vấn đề đề cập đến trong kinh đòi hỏi người đọc phải có một nền tảng khá
vững vàng về
Phật học mới có thể
tiếp nhận được. Chính vì thế, rất nhiều người tuy đã thỉnh được kinh này nhưng chỉ là để đặt vào một nơi
tôn nghiêm, trang trọng nhất và cất giữ như một báu vật, thay vì là
thường xuyên mang ra
nghiền ngẫm để
tu tập theo những lời dạy trong kinh.
Rào chắn
ngôn ngữ cũng là một trở ngại quan trọng. Có thể nói số người
thông thạo Hán văn để đọc được kinh này trong Hán tạng ngày nay không còn bao nhiêu. Nhưng ngay cả đối với những vị này thì việc đọc trọn
bộ kinh cũng không phải dễ dàng, vì chỉ riêng việc văn bản Hán văn này đã được viết ra từ cách đây hơn 15 thế kỷ cũng đã đủ để
chúng ta hình dung được sự khó khăn để nhận hiểu nó một cách
trọn vẹn. Vì thế, phần lớn người đọc phải dựa
hoàn toàn vào bản Việt dịch, và nếu người dịch không luôn luôn
tâm niệm điều này thì việc đọc hiểu bản dịch cũng không thể là dễ dàng và
trọn vẹn đối với
đa số độc giả. Chẳng hạn, có rất nhiều
thuật ngữ là rất
quen thuộc đối với người dịch, nhưng chúng lại
vô cùng khó hiểu đối với những ai
hoàn toàn không biết Hán văn. Do đó, nếu trong bản Việt dịch không có sự
chú giải một cách
toàn diện và
hệ thống thì người đọc cũng khó lòng nhận hiểu.
Để giảm nhẹ khó khăn này, ngoài việc
cố gắng diễn đạt kinh văn theo cách
rõ ràng và
dễ hiểu nhất,
chúng tôi đồng thời cũng
chú giải cho rất nhiều
từ ngữ,
thuật ngữ khó hiểu. Sau đó, tất cả các
từ ngữ đã được
chú giải – thường là khi chúng
xuất hiện lần đầu tiên trong kinh văn – sẽ được tập
hợp lại và sắp xếp theo vần ABC trong một Bảng
tra cứu đặt ở phần sau cùng của
bộ kinh. Như vậy,
trong suốt quá trình
đọc kinh, nếu gặp phải một
từ ngữ khó mà không có
chú giải tại chỗ, người đọc có thể
sử dụng ngay bảng
tra cứu này và dễ dàng tìm được sự
giải thích cần thiết. Mặc dù vậy, vì số trang in quá lớn phải
phân chia thành nhiều tập nên đôi khi
chúng tôi cũng đặt các
chú giải lặp lại ở một số
nơi khác nhau. Điều này là để tạo sự
thuận lợi hơn cho người đọc.
Mặt khác, bất cứ ai đã từng học qua chữ Hán đều biết được
tính chất cô đọng,
súc tích nhiều khi đến mức rất khó
diễn đạt hết
ý nghĩa của những câu văn Hán cổ. Để giúp người đọc dễ nhận hiểu hơn, trong một số
trường hợp chúng ta đã thêm vào một số từ hoặc cụm
từ không trực tiếp
xuất hiện trong nguyên bản, nhưng có thể được hiểu do hàm ý của câu văn hoặc đoạn văn đó.
Chẳng hạn như trong câu sau đây:
“Vì là có nên trừ bỏ [
quan niệm cho rằng tánh Phật như]
sừng thỏ; vì là không nên trừ bỏ [
quan niệm cho rằng tánh Phật như]
hư không.”
Những chữ trong ngoặc vuông là không trực tiếp
xuất hiện trong nguyên bản. Nếu
y theo từ ngữ mà dịch thì câu văn trên không có những phần trong ngoặc vuông này.
Tuy nhiên, theo sự nhận hiểu của
chúng tôi từ toàn cảnh
văn kinh thì việc thêm vào các phần này vào sẽ làm rõ ý nên có thể giúp người đọc
dễ hiểu hơn.
Như vậy, các phần trong ngoặc vuông là do
chúng tôi căn cứ vào sự nhận hiểu của mình khi dịch để thêm vào, và được trình bày như vậy để
phân biệt rõ với phần kinh văn dịch sát theo nguyên bản. Bằng cách này, người đọc có thể
chấp nhận hoặc
không chấp nhận cách hiểu tạm xem là
chủ quan của
chúng tôi, để
suy xét và nhận hiểu theo cách riêng của mình. Tuy vậy,
chúng tôi cũng vẫn
hết sức thận trọng suy xét trước khi
thực hiện bất
cứ sự bổ sung nào theo cách này.
Ngoài ra,
phạm vi đề cập quá rộng của kinh này cũng là một khó khăn lớn đối với người đọc. Không giống như phần lớn các
bộ kinh khác, thường chỉ
xoay quanh một số
chủ đề chính yếu, kinh này đề cập đến rất nhiều
vấn đề, và mỗi một
vấn đề đều có tầm vóc lớn lao, quan trọng, không thể xem nhẹ. Vì thế, việc
theo dõi nắm bắt tất cả những
vấn đề được trình bày trong kinh
quả thật không phải chuyện dễ dàng. Do đó, để
giảm bớt khó khăn này cho người đọc, sau khi đã trình bày
trọn vẹn bản Việt dịch
chúng tôi sẽ có một phần Tổng quan về tất cả các phần đã nêu trong kinh,
tương tự như một bảng lược đồ để người đọc có thể
căn cứ vào đó mà nắm bắt hoặc quay lại
nghiên cứu từng
vấn đề một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, người đọc cần
lưu ý rằng đây
hoàn toàn không phải là sự
tóm tắt ý nghĩa của từng phẩm kinh hay
toàn bộ kinh, vì đó là điều gần
như không thể thực hiện! Phần Tổng quan này chỉ
phục vụ như một bản đồ
chỉ dẫn để người đọc có thể dễ dàng
nhận ra vấn đề mình
quan tâm hoặc còn đang
vướng mắc nằm ở phần nào trong
toàn bộ kinh, và như thế sẽ có thể tìm đến đó để đọc lại hoặc nghiễn ngẫm kỹ hơn.
Tất cả những điểm khó khăn hoặc trở ngại trong quá trình
đọc kinh như vừa nêu trên đều có thể
vượt qua nếu người đọc có được một sự say mê và những xúc cảm
chân thành khi
đọc kinh này. Mặc dù vậy, điều đó
thật không dễ có được, và không chỉ
tùy thuộc hoàn toàn vào người dịch. Một bản dịch dù đã
nỗ lực hoàn thiện và
cung cấp mọi
điều kiện thuận lợi cho người đọc, nhưng nếu chính
bản thân người đọc không có sự
nỗ lực và
chú tâm khi đọc thì hầu như cũng không thể gặt hái được kết quả gì. Vì thế, theo
thiển ý của
chúng tôi thì quý vị
cần phải có sự chuẩn bị chu đáo trước khi bắt đầu
đọc kinh này, sao cho có thể toàn tâm toàn ý với việc
đọc kinh mà không bị phân tán
tư tưởng bởi bất cứ
ngoại duyên nào. Nếu
thực hiện được điều này, có thể nói là quý vị đã nắm chắc được đến một nửa khả năng sẽ được
lợi lạc trong việc
đọc kinh. Một nửa khả năng còn lại
phụ thuộc vào các
yếu tố mà
chúng tôi sẽ trình bày
tiếp theo sau đây.
Nếu quý vị đã từng nghe
giới thiệu về
bộ kinh này và đã
hết sức mong muốn được đọc nó, thì khi quý vị đang đọc những dòng này, rất có thể quý vị đã
hết sức nôn nóng muốn lướt thật nhanh qua những trang đầu để
đi thẳng vào nội dung kinh. Hơn thế nữa, rất có thể trong lòng quý vị còn hình thành một
ý định là sẽ đọc ngay
một lần trọn
bộ kinh này, để xem trong đó có hàm chứa những gì đã từng được nghe người khác
xưng tán,
ca ngợi hay không.
Tuy nhiên, nếu điều đó là
sự thật,
chúng tôi xin quý vị hãy dừng ngay lại và
kiên nhẫn đọc tiếp những dòng dưới đây.
Việc
đọc kinh với một
tâm niệm hối hả, nôn nóng
chắc chắn sẽ không bao giờ
mang đến cho quý vị những kết quả
tích cực. Cuộc sống của
chúng ta vốn đã có quá nhiều
thời gian phải chạy đua, phải bôn ba
hối hả và nôn nóng... Nhưng tất cả những quãng
thời gian đó đều không để lại được gì làm
thỏa mãn nhu cầu
nuôi dưỡng đời sống tâm linh vốn luôn
tồn tại trong mỗi
chúng ta. Chính vì thế mà
chúng ta mới phải tìm đến với
đạo Phật, với
kinh điển... Do đó, thật
vô lý nếu ta vẫn
tiếp tục hối hả và nôn nóng ngay cả khi đọc kinh!
Nếu quý vị là người bận rộn – mà trong
thời đại ngày nay thì có đến 99% khả năng điều đó là đúng – và không có nhiều
thời gian dành cho việc
đọc kinh, quý vị vẫn nên
sử dụng bất cứ quãng
thời gian ít ỏi nào có được để
đọc kinh một cách thật
thư thả, chậm rãi. Ý tôi muốn nói là, thay vì đọc mỗi lần được 10 trang kinh với tốc độ “thông thường” của mình chẳng hạn, quý vị
vẫn có thể dừng lại thật chậm rãi để chỉ đọc một vài trang thôi! Nhưng một vài trang kinh đó sẽ thực sự có đủ
điều kiện để thấm sâu vào lòng và giúp khai mở kho tàng
trí tuệ sẵn có trong quý vị.
Có thể quý vị sẽ đặt câu hỏi: Đọc như thế thì đến bao giờ mới xong
bộ kinh đồ sộ này? Nhưng điều đó thật ra
hoàn toàn không quan trọng! Cho dù quý vị thực sự không đọc được hết trọn
bộ kinh, thì mỗi một dòng kinh mà quý vị đọc qua cũng đã kịp ươm mầm
trí tuệ trong
tâm thức quý vị. Còn nếu
hối hả cố đọc cho xong trọn
bộ kinh mà không gặt hái được gì thì có khác nào chưa từng đọc kinh?
Chúng tôi khởi sự
công trình này từ khoảng trước năm 2000, và
cho đến khi quý vị bắt đầu đọc được những dòng này thì gần 10 năm đã
trôi qua.
Trong suốt thời gian đó,
sự thật là
chúng tôi không có đủ
may mắn để được dành trọn
thời gian cho việc
dịch kinh, vì là người
cư sĩ nên
chúng tôi không
tránh khỏi việc bận rộn lo toan cho cuộc sống của
bản thân và
gia đình. Tuy vậy,
chúng tôi đã luôn
cố gắng để không bao giờ
cảm thấy hối hả, nôn nóng mỗi khi tiếp cận với kinh văn, cho dù đây là một
công trình tưởng chừng như
vượt quá những
nỗ lực của
chúng tôi và sự kéo dài
thời gian trong công việc thậm chí đã có những lúc làm
chúng tôi phải băn khoăn tự hỏi về khả năng
hoàn tất.
Vì thế, nếu quý vị
cảm thấy việc đọc hết trọn
bộ kinh này là một
mục tiêu không dễ
thực hiện, thì điều đó là
hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng
chúng tôi mong rằng quý vị sẽ không vì
lý do đó mà cố đọc lướt nhanh qua những trang kinh, vì
chắc chắn điều đó sẽ không mang lại bất cứ kết quả
tốt đẹp nào. Xin hãy tin
chúng tôi, chỉ cần quý vị tiếp cận kinh văn với sự
chân thành và
an tĩnh, thì mỗi một trang kinh quý vị đọc qua đều có thể
trở thành một bài
thuyết pháp hoàn chỉnh, có khả năng khai mở
trí tuệ Bát-nhã sẵn có nơi quý vị. Và
nếu có thể đọc kinh theo cách như thế thì việc đọc qua trọn
bộ kinh này cũng sẽ không còn là
vấn đề khó khăn nữa.
Tất cả
kinh điển Phật giáo đều hàm chứa
ít nhất hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất được
diễn đạt bởi
ngôn ngữ quy ước, giúp
chúng ta nắm hiểu được những
sự kiện,
chi tiết được
mô tả trong kinh văn. Nhưng tầng nghĩa này chỉ là một phần rất nhỏ so với những gì kinh văn muốn chuyển tải.
Ví như một núi băng trôi trên mặt
đại dương, cái mà
chúng ta nhìn thấy được chỉ là phần chóp nhọn rất nhỏ, trong khi phần chìm sâu bên dưới mặt nước là cả một khối lượng khổng lồ. Cũng vậy, tầng nghĩa thứ nhất vừa nói trên chỉ là phần rất nhỏ so với tầng nghĩa thứ hai là những gì hàm chứa phía sau lớp vỏ
ngôn ngữ.
Tuy nhiên, để tiếp cận được với tầng nghĩa thứ hai này, quý vị không thể
sử dụng sự
phán đoán,
suy luận của trí óc, mà phải nhờ đến
năng lực trực giác, tức là sự
rung động hay cảm nhận trực tiếp của
tâm thức, không thông qua bất cứ quá trình
suy diễn nào, vì mọi quá trình
suy diễn tất yếu đều bị
giới hạn bởi những khái niệm mà
chúng ta ai ai cũng sẵn có.
Nói cách khác, để có thể
tiếp nhận được tầng nghĩa thứ hai này, ta không thể chỉ
đọc kinh đơn thuần bằng trí óc, mà
nhất thiết phải cần đến một
tâm thức thật
an tĩnh,
sáng suốt. Đây chính là
lý do vì sao ta không thể
đọc kinh với sự
hối hả và nôn nóng.
Tất nhiên,
chúng ta cũng không thể phủ nhận mối tương quan giữa hai tầng nghĩa của kinh văn. Để có thể cảm nhận
nghĩa kinh bằng
trực giác thì trước hết
chúng ta phải nắm hiểu được một cách
trọn vẹn phần
ý nghĩa được
diễn đạt qua
ngôn ngữ. Cũng như để
khám phá được núi băng khổng lồ đang trôi trên
đại dương kia,
chúng ta trước hết phải nhìn thấy được phần chóp nhỏ nổi lên bên trên mặt nước của nó.
Tương tự như thế, chính nhờ nắm hiểu
trọn vẹn những
ý nghĩa trên bề mặt
ngôn ngữ của kinh văn mà
chúng ta mới có thể làm
sinh khởi trong
tâm thức những
hình tượng,
cảm xúc tương quan, và từ đó mới có khả năng
đạt đến sự
trực nhận những gì kinh văn muốn nói. Quá trình này là cả một sự
nỗ lực toàn tâm toàn ý và có thể sẽ diễn ra không
hoàn toàn giống nhau
tùy theo từng
trường hợp của mỗi người.
Trong quá trình
thực hiện công trình,
chúng tôi luôn dành
thời gian để đọc kỹ lại từng phẩm kinh sau khi chuyển dịch xong, vừa để rà soát lại những lỗi do sơ sót, vừa là để nắm
hiểu ý kinh trước khi
tiếp tục chuyển dịch phần
tiếp theo. Mỗi lần đọc lại kinh văn như thế,
chúng tôi đều có được những cảm nhận mới mẻ hơn, sâu sắc hơn đối với từng đoạn kinh văn.
Lấy ví dụ như ngay từ phẩm đầu tiên trong kinh này, mặc dù đã
nghiền ngẫm cân nhắc từng câu chữ
trong suốt quá trình chuyển dịch, nhưng đến khi đọc lại
toàn bộ phẩm kinh
chúng tôi vẫn có được nhiều sự cảm nhận mới, và phải đến lần đọc lại thứ ba
chúng tôi mới có được những
cảm xúc cuốn hút, say mê thực sự đối với từng câu chữ, từng
chi tiết được
tuần tự diễn đạt trong kinh văn.
Khi bắt đầu chuyển dịch phẩm
kinh đầu tiên,
chúng tôi có
cảm tưởng đây chỉ là phần kinh văn mang tính “thủ tục”, vì không
diễn đạt gì nhiều ngoài việc
mô tả và
liệt kê những đối tượng
chúng sinh lần lượt kéo nhau đến xin
cúng dường Phật sau khi biết tin Phật sắp nhập Niết-bàn. Thậm chí có nhiều
chi tiết mô tả được lặp đi lặp lại đôi khi làm
chúng tôi cảm thấy như có phần nào
tẻ nhạt,
vô vị.
Tuy nhiên, đến khi đọc kỹ lại toàn
văn kinh chúng tôi mới
nhận ra được
dụng ý của từng
chi tiết mô tả, và trình tự
xuất hiện một cách
hợp lý của chúng trong kinh không chỉ
đơn giản là để kể lại sự việc, mà còn có
tác dụng như những nét cọ
dần dần vẽ lên trong
tâm thức người đọc những
hình ảnh tương quan
nhất định, gần như tái hiện
toàn bộ khung cảnh và mọi
sự kiện đã diễn ra trước lúc
đức Phật nhập Niết-bàn.
Và đến lần đọc lại thứ ba thì
chúng tôi bất chợt dâng tràn một nguồn
cảm xúc hầu
như không thể mô tả!
Bức tranh hoành tráng của rừng Sa-la nơi Phật nhập Niết-bàn như
hiện ra rõ rệt trong
tâm thức chúng tôi, với tầng tầng lớp lớp các loài
chúng sinh từ khắp
mười phương vũ trụ cùng quy tụ về, từ những loài
súc sinh hạ đẳng
cho đến chư thiên các
cõi trời, rồi đến cả chư
Bồ Tát ở các
cõi Phật phương xa...
cho đến trong
thế giới loài người là
nhân dân, vua chúa, quan binh,
tăng ni,
cư sĩ... Tất cả đều tìm về vây quanh đấng
Đại Giác Thế Tôn trùng trùng bất tận, nhưng không có bất cứ một sự chen chúc,
hỗn độn nào... Ngược lại, không khí
trang nghiêm và hùng tráng bao trùm cả
Pháp hội, khiến cho mỗi một
cá thể xuất hiện trong đó đều như tan hòa với
toàn thể đại chúng, và
cảm xúc chung của toàn
đại chúng chính là sự
bi thương và
tôn kính đối với đấng
Như Lai đang sắp
thị hiện Niết-bàn...
Sự cảm nhận được những
hình ảnh như thế khiến
chúng tôi như
nhất thời vượt qua mọi
giới hạn của các nguyên lý
vật lý thông thường, không còn chịu bất cứ một sự hạn cuộc nào trong các khái niệm như nhiều và ít, lớn và nhỏ, gần và xa... Hơn thế nữa, mọi
ý niệm về
thời gian và
không gian cũng hầu như bị xóa sạch, với
vô số hình ảnh trang nghiêm diễm lệ như
đồng thời hiện ra xen lẫn nhau trong sự
hóa hiện vô biên của chư vị
Bồ Tát, không thể và cũng không
cần thiết phải
phân biệt giữa trên và dưới, trong và ngoài, trước và sau, đã qua và sắp đến...
Chính từ nơi nguồn
cảm xúc này mà
chúng tôi luôn có thể
thực hiện công việc một cách không
mệt mỏi, luôn say mê và cuốn hút vào công việc với một sự hứng khởi gần như bất tận. Và cũng chính từ
kinh nghiệm tự thân này mà
trong suốt quá trình chuyển dịch
chúng tôi luôn
trân trọng từng câu chữ, từng
chi tiết nhỏ trong kinh văn, không dám tùy tiện bỏ qua hoặc để sót bất cứ điều gì. Hơn nữa,
chúng tôi thiết nghĩ, có thể có những
chi tiết nào đó mà khi đọc thoáng qua ta không cảm nhận được gì, nhưng lại có thể là nguồn khơi dậy
cảm xúc cho chính ta trong những lần đọc lại sau này, với một
tâm thức thanh tịnh và
sáng suốt hơn; hoặc cũng có thể là nguồn khơi dậy
cảm xúc đối với những người đọc khác...
Tất cả những ai chỉ dừng lại trong
thế giới duy lý sẽ không thể nào
hình dung được những gì mà người
đọc kinh này có thể cảm nhận được. Và cũng chính vì thế mà sự
chú tâm đóng
vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
đọc kinh. Khi
tâm thức không bị cuốn hút và phân tán bởi những
yếu tố trần cảnh từ bên ngoài,
chúng ta mới có thể có được sự
sáng suốt cần thiết để
trực nhận được những
ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong từng câu kinh. Hầu hết các
kinh điển Đại thừa đều mượn việc
mô tả các
hình tượng,
sự kiện như một
phương tiện khơi dậy
trực giác, và chính từ sự
phát khởi được
trí tuệ trực giác mà người
đọc kinh mới có thể
tiếp nhận được những lời dạy thuộc về
Chân đế hay
Đệ nhất nghĩa đế. Đó là những
ý nghĩa hoàn toàn không
thể đạt đến thông qua sự
suy diễn.
Điều
tiếp theo mà
chúng tôi muốn đề cập đến nơi đây chính là
đức tin. Theo
suy nghĩ của riêng chúng tôi, nếu quý vị chưa có được một
lòng tin sâu vững vào
Tam bảo thì quý vị chưa nên vội
đọc kinh này. Một số
học giả có thể sẽ
phản đối điều này, vì đối với họ thì việc
đọc kinh chỉ là để
tìm kiếm trong đó những
tư tưởng triết lý, những
lập luận biện minh cho điều này hay điều khác, hoặc quá lắm cũng chỉ là những chuẩn mực
đạo đức nào đó... giống như
vô số những sách vở
thế tục khác. Mặc dù những điều này
quả thật cũng có thể
tìm thấy trong kinh văn, nhưng đó
hoàn toàn không phải là những
giá trị chân thật và
rốt ráo mà người
đọc kinh cần
đạt đến. Và vì thế, khi đến với
kinh điển Đại thừa thì các vị
học giả này
chắc chắn sẽ không
đạt được gì khác hơn là sự hoang mang
nghi ngại, hoặc chí ít cũng là một nỗi
thất vọng tràn trề. Là những người
Phật tử,
chúng tôi hoàn toàn không mong muốn quý vị sẽ vấp phải sự hoang mang
nghi ngại hay
thất vọng tràn trề tương tự như thế.
Trong rất nhiều
kinh điển,
đức Phật đã từng khuyến cáo rằng
giáo pháp Đại thừa ví như cơn mưa lớn, chỉ có lợi cho những loài cây lớn có gốc rễ
vững chắc; còn đối với những cây cỏ nhỏ yếu,
chắc chắn sẽ phải bị
vùi dập, nghiêng ngả, thậm chí còn có thể bị bật gốc cuốn trôi đi... Gốc rễ
vững chắc ở đây chính là
đức tin sâu vững nơi
Tam bảo, vào
đức Phật và
giáo pháp do ngài truyền dạy, được ghi chép
thành kinh điển.
Đức tin đó
hoàn toàn không phải một
bản năng tự nhiên sẵn có nơi mỗi người hay một số người, mà là một
thành quả tất yếu của quá trình
tu tập,
hành trì theo đúng
lời Phật dạy. Đây chính là
lý do vì sao trong lần
Chuyển Pháp luân đầu tiên tại
vườn Lộc Uyển đức Phật đã không hề đề cập đến tánh Phật của
chúng sinh hay bất cứ một phần
giáo pháp nào khác thuộc
phạm vi Đại thừa.
Nhưng nói như thế cũng không có nghĩa là một sự loại trừ bất cứ đối tượng nào ra khỏi
phạm vi giáo hóa của kinh này, vì
sự thật là mỗi
chúng ta đều có thể tự
nuôi dưỡng cho mình một
đức tin sâu vững bằng cách khởi sự
thực hành từ những điều
căn bản nhất trong
Phật pháp. Nếu quý vị có thể
kiên trì giữ gìn Năm giới, tiến đến việc
nỗ lực thực hành Mười điều thiện và
thành tâm lễ bái hình tượng chư Phật bất cứ khi nào có thể,
chắc chắn quý vị sẽ sớm
đạt được một
lòng tin sâu vững.
Lòng tin này không phải được
ban cho quý vị bởi một
phép lạ nhiệm mầu nào, mà
sự thật là nó
xuất phát từ sự an vui
lợi ích tất yếu có được từ sự
thực hành như trên. Và một khi đã có được
lòng tin sâu vững nhờ
thực hành giáo pháp, quý vị sẽ có thể
tiếp nhận được những
ý nghĩa sâu xa trong
giáo pháp. Quý vị sẽ có thể bắt đầu nhận hiểu được từ những
ý nghĩa cơ bản nhất về
Tứ diệu đế,
cho đến Thập nhị nhân duyên... và sau đó
dần dần tiến đến việc đọc hiểu được kinh này.
Mặc dù có những khó khăn được nêu ra như trên,
tâm nguyện của
chúng tôi khi chuyển
dịch kinh này vẫn là mong sao nó có thể đến được với tất cả
mọi người, để
bản hoài của
chư Phật mười phương được gửi gắm nơi đây không phải chịu sự
mai một bởi
thời gian. Trên
tinh thần đó,
chúng tôi xin
thành tâm cầu nguyện cho tất cả
chúng sinh đều có được cơ hội
tiếp xúc và
lãnh thọ kinh này.
Trong quá trình
thực hiện công trình,
chúng tôi đã
tham khảo nhiều tư liệu,
công trình hiện có, kể cả những thông tin
liên quan trong các từ điển
Phật học Hán ngữ, Anh ngữ cũng như Việt ngữ.
Chúng tôi xin
ghi nhận nơi đây những đóng góp
quý báu của tất cả các
tác giả, soạn giả của những
công trình đã được
sử dụng và xin gửi lời
tri ân chân thành đến tất cả quý vị.
Cuối cùng, mặc dù bản Việt dịch trọn
bộ kinh này đã đến tay quý vị, nhưng
chúng tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng công việc chuyển
dịch kinh này đã được
hoàn tất. Mọi sai sót sẽ
tiếp tục được
loại bỏ hoặc
sửa chữa,
hoàn thiện ngay khi phát hiện. Vì thế, xin nhắc lại
một lần nữa là
chúng tôi luôn
mong mỏi nhận được những
ý kiến đóng góp, chỉ dạy từ tất cả quý vị. Mọi thư từ góp ý xin gửi về địa chỉ:
Nguyễn Minh Tiến
ấp 3, xã Sông Xoài,
huyện Tân Thành, tỉnh BRVT
Hoặc gửi điện thư (email) về:
[email protected]Ngoài ra,
toàn bộ nội dung kinh này cũng sẽ được
giới thiệu trên website Rộng mở
tâm hồn (http://rongmotamhon.net) trong phần
Kinh điển. Quý vị có thể vào xem và góp ý thông qua kênh giao tiếp của website này.
Chúng tôi luôn sẵn lòng đón nhận và
chân thành cảm ơn quý vị.
Những gì cần làm và có thể làm
chúng tôi đều đã
cố gắng hết sức mình. Tuy vậy,
chúng tôi vẫn luôn tự biết rằng mỗi một điểm
hạn chế trong
năng lực và
trình độ của
chúng tôi đều tất yếu sẽ dẫn đến một khó khăn
tương ứng cho quý vị trong quá trình đọc hiểu kinh văn.
Vì vậy,
chúng tôi xin
chân thành nhận lỗi và mong rằng quý vị có thể niệm tình
tâm nguyện vị tha của
chúng tôi mà bỏ qua cho những sự
yếu kém đó.
Chúng tôi cũng xin
thành tâm sám hối trước
mười phương chư Phật vì tự
bản thân mình đã không có đủ
trí huệ và
biện tài vô ngại để có thể diễn giảng
giáo pháp Đại thừa của chư Phật theo một cách
hoàn hảo nhất. Nguyện cho
trong đời này và
vô số đời sau nữa vẫn sẽ không ngừng
tu tập theo
Chánh pháp để có được
năng lực hộ trì và rộng
truyền giáo pháp
Đại thừa ra khắp
mọi nơi, làm
lợi ích cho tất cả
chúng sinh.
Cuối cùng, cho dù
chúng tôi đã
hết sức nỗ lực trong công việc, nhưng
nếu không có sự
đảm đương về mặt tài chánh của vợ chồng anh Nguyễn Hữu Cứ (Công ty
Văn hóa Hương Trang, Nhà sách
Quang Minh - http://nhasachquangminh.net) thì có lẽ quý vị đã không thể có trong tay
bộ kinh Đại thừa vô giá này. Vì thế, nhân đây
chúng tôi xin có lời
chân thành tri ân và
tán thán công đức hỗ trợ việc
lưu hành kinh điển của vợ chồng anh Nguyễn Hữu Cứ.
Nguyện đem mọi
công đức có được trong
việc làm này
hồi hướng về tất cả
chúng sinh trong
pháp giới. Nguyện cho tất cả đều sớm khai mở
tuệ giác vô thượng, đồng
thành Phật đạo.
Những gì cần nói đã nói xong. Xin
cảm ơn quý vị đã dành
thời gian đọc qua hết những lời
dông dài này. Bây giờ, xin mời quý vị lắng lòng
thanh tịnh để bắt đầu
tiếp nhận kinh văn.
Trân trọng,
NHỮNG NGƯỜI
THỰC HIỆN
[1] Vu Điền: tên nước thời cổ, Phạn danh là Kustana (Khuất-đan), nay là Khotan (huyện Hòa Điền, tỉnh Tân Cương). Người Tây Tạng thời cổ gọi tên nước này là Lih-yul (Ly-dư). Đây là một địa danh quan trọng vì phần lớn kinh điển Đại thừa được mang sang Trung Hoa đều phải đi qua vùng đất này.
[2] Kinh Bi Hoa – Nguyễn Minh Tiến Việt dịch, Nguyễn Minh Hiển hiệu đính, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2007.
[3] Cư sĩ Chân Nguyên tức Đỗ Quốc Bảo, hiện cư trú tại Đức, là người biên soạn quyển Từ điển Phật học thường được giới nghiên cứu gọi là Từ điển Chân Nguyên.