PHẨM THÁNH HẠNH
Phẩm thứ bảy – Phần một[54]
Lúc ấy,
đức Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát nên đối với kinh Đại Niết-bàn này,
chuyên tâm suy xét về
năm hạnh. Những gì là năm hạnh? Một là
Thánh hạnh, hai là
Phạm hạnh, ba là
Thiên hạnh, bốn là
Anh nhi hạnh và năm là Bệnh hạnh.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát thường nên
tu tập năm
công hạnh ấy. Lại còn một hạnh nữa gọi là hạnh
Như Lai, đó là nói
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn.
“Ca-diếp!
Bồ Tát ma-ha-tát
tu tập Thánh hạnh như thế nào?
Bồ Tát ma-ha-tát hoặc theo
Thanh văn, hoặc
theo Như Lai, được nghe kinh Đại Niết-bàn này; nghe rồi liền sanh
lòng tin. Tin rồi nên
suy xét rằng: ‘Chư
Phật Thế Tôn có đạo cao trổi hơn hết, có
Chánh pháp lớn lao, có
Đại chúng tu hành chân chánh, lại có
kinh điển Phương đẳng Đại thừa. Nay ta nên vì lòng
ái mộ và
ham muốn kinh Đại thừa mà
lìa bỏ vợ con,
quyến thuộc thân ái, nơi ăn chốn ở,
vàng bạc trân bảo,
chuỗi ngọc tốt đẹp,
hương hoa kỹ nhạc, tôi tớ hầu hạ gái trai lớn nhỏ, voi ngựa xe cộ, bò dê gà chó... mọi thứ.’
“Lại
suy xét rằng: ‘Đời sống
gia đình chật hẹp
tù túng, dường như lao ngục, hết thảy
phiền não đều do đó mà sanh ra.
Xuất gia thì
rộng rãi thoáng đãng, dường như
hư không, tất cả pháp lành do đó mà
nảy nở,
tăng trưởng. Nếu ở nhà thì chẳng được
suốt đời tu tập hạnh
thanh tịnh. Nay ta nên cạo râu xuống tóc,
xuất gia học đạo.’
Suy xét như vậy rồi, tự thấy
nhất định phải
xuất gia tu học đạo Bồ-đề
vô thượng chân chánh.
“Khi
Bồ Tát muốn
xuất gia như vậy,
thiên ma Ba-tuần
hết sức khổ não, tự nói rằng: ‘Bồ Tát ấy rồi sẽ cùng ta khởi cuộc chiến tranh.’
Thiện nam tử! Nhưng vị
Bồ Tát như vậy có lý nào lại gây sự chiến tranh với kẻ khác?
“Lúc ấy,
Bồ Tát liền đến
Tăng phường.[55] Nếu gặp được
Như Lai và
đệ tử Phật,
oai nghi đầy đủ, các căn
an tịnh, trong lòng liền được nhu hòa,
trong sạch,
tịch diệt, liền
cầu xin xuất gia, cạo râu xuống tóc, mặc
ba tấm pháp y.[56] Khi
xuất gia rồi, nghiêm giữ mọi
giới cấm,
oai nghi trọn đủ, đi đứng
an tịnh, không
xúc phạm bất cứ ai;
cho đến đối với tội nhỏ cũng sanh lòng sợ sệt. Tâm
giữ giới của
Bồ Tát ấy bền chắc như
kim cang.
“Thiện nam tử!
Ví như có người dùng một cái phao để bơi qua biển cả. Bấy giờ, giữa biển có một quỷ la-sát bám theo người ấy hỏi xin cái phao. Nghe xong, người ấy liền
suy nghĩ rằng: ‘Nay nếu ta cho cái phao, ắt phải bị
chết chìm.’ Bèn đáp rằng: “La-sát! Thà ngươi giết ta đi, chứ ngươi không thể lấy cái phao này.’
“La-sát lại nói rằng: ‘Nếu ông không thể cho tôi cả cái phao, thì xin thương tình cho tôi phân nửa.’ Người ấy cũng không chịu.
“La-sát lại nói: ‘Nếu không thể cho tôi phân nửa, mong ông rủ lòng cho tôi một phần ba.’ Người ấy cũng chẳng thuận.
“La-sát lại
năn nỉ: ‘Nếu chẳng được vậy, cũng nên thí cho tôi một miếng chỉ bằng bàn tay.’ Người ấy cũng
nhất định không chịu.
“La-sát lại nói: ‘Nay nếu ông không thể cho tôi một miếng bằng bàn tay, tôi đây phải chịu đói khổ
bức bách.
Cầu xin ông giúp cho tôi một mảnh nhỏ bằng
hạt bụi cũng được.’
“Người ấy đáp rằng: ‘Chỗ đòi hỏi của ông thật cũng không nhiều. Nhưng nay tôi phải vượt biển, không biết gần xa như thế nào. Nếu tôi cho ông dù một mảnh nhỏ, hơi trong phao sẽ theo đó mà thoát dần ra hết. Như vậy tôi biết nhờ vào đâu để
vượt qua biển cả? Giữa đường ắt phải chìm xuống nước mà chết!’
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát
giữ gìn giới cấm cũng vậy, như người vượt biển khéo
giữ gìn cái phao.
Bồ Tát trong khi
giữ gìn giới cấm như vậy,
thường có bọn la-sát hung dữ là các
phiền não đến nói rằng: “Ông nên tin tôi, tôi chẳng bao giờ lại đi lừa dối ông. Nếu chỉ phá
Bốn giới cấm nặng thôi, còn giữ đủ các giới khác; nhờ
nhân duyên ấy sẽ vẫn được
yên ổn, vào Niết-bàn.’
Lúc ấy,
Bồ Tát nên đáp rằng: ‘Thà ta
giữ giới cấm ấy mà vào
địa ngục A-tỳ chứ quyết không hủy phạm để sanh lên
cõi trời.’
“La-sát
phiền não lại nói rằng: ‘Như ông không thể phá
Bốn giới cấm nặng, vậy nên phá các giới
tăng tàn. Nhờ
nhân duyên ấy, ông sẽ được
yên ổn, được vào Niết-bàn.’
Bồ Tát cũng không nên nghe theo lời xúi giục ấy.
“La-sát lại nói rằng: ‘Như ông không thể phạm các giới
tăng tàn, cũng nên
phạm tội thâu-lan-già. Nhờ
nhân duyên ấy, ông sẽ được
yên ổn và sẽ vào Niết-bàn.”
Lúc ấy,
Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
“La-sát lại xúi giục rằng: ‘Như ông không thể phạm thâu-lan-già, vậy ông có thể phạm
xả đọa. Nhờ
nhân duyên ấy, ông sẽ được
yên ổn, được vào Niết-bàn.’
Lúc ấy Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
“La-sát lại nói rằng: ‘Như ông không thể phạm
xả đọa, nên phạm ba-dật-đề. Nhờ
nhân duyên ấy, ông sẽ được
yên ổn, được vào Niết-bàn.’
Lúc ấy,
Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
“La-sát nói tiếp rằng: ‘Như ông không thể phạm ba-dật-đề, tôi xin ông hảy hủy
phá giới đột-kiết-la. Nhờ
nhân duyên ấy, ông sẽ được
yên ổn, được vào Niết-bàn.’
“Lúc ấy,
Bồ Tát tự
suy nghĩ rằng: ‘Ngày nay, nếu ta
phạm tội đột-kiết-la và không tự
bộc lộ, ắt ta không thể sang
đến bờ bên kia của biển
sanh tử mà được Niết-bàn.’
Bồ Tát ma-ha-tát đối với các giới nhỏ nhất trong
giới luật cũng
giữ gìn một cách
kiên cố, tâm bền chắc như
kim cang.
“Bồ Tát ma-ha-tát
giữ gìn Bốn giới cấm nặng cho đến các giới đột-kiết-la,[57]
kiên trì cẩn trọng như nhau, không có sai khác. Nếu
Bồ Tát giữ gìn được
kiên trì như vậy tức là
thành tựu đủ năm phần của giới. Đó là
thành tựu giới làm
thanh tịnh các
nghiệp căn bản của
Bồ Tát; giới làm
thanh tịnh các
hành vi liên quan khác trước đây và sau này; giới làm
thanh tịnh sự
nhận thức, thấy biết,
xa lìa những
nhận thức sai lầm, xấu ác; giới làm
thanh tịnh mọi
ý niệm, luôn
duy trì,
giữ gìn chánh niệm; và giới
hồi hướng [mọi
công đức] về
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Ca-diếp! Vị
Bồ Tát ma-ha-tát này lại có đủ hai thứ giới. Một là giới nhận
lãnh thọ học những
kiến thức thế tục, hai là giới
thành tựu Chánh pháp. Nếu
Bồ Tát giữ giới thành tựu Chánh pháp thì không bao giờ làm việc ác. Nếu muốn
giữ giới nhận
lãnh thọ học những
kiến thức thế tục thì trước phải theo đúng pháp
tác bạch tứ Yết-ma rồi sau mới được thọ nhận.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có hai thứ giới: một là giới có
tính chất quan trọng, hai là giới nhằm
ngăn ngừa sự
ganh ghét của
thế gian. Giới có
tính chất quan trọng là nói
Bốn giới cấm nặng. Giới
ngăn ngừa sự
ganh ghét của
thế gian là không làm [những điều như] buôn bán, cân non, đong thiếu, dối gạt người khác,
cậy thế lực kẻ khác, chiếm đoạt tài vật người khác,
cố ý hại người,
phá hoại sự
thành công của người khác, [lười nhác] ngủ ngày, làm ruộng, trồng cây, khuếch trương
sự nghiệp riêng; không [vì lợi mà] nuôi voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, lừa, gà, chó, khỉ,
chim sẻ, chim két, chim
cộng mạng, câu-chỉ-la, chó sói, cọp, beo, mèo, chồn... hoặc các
thú dữ khác; không
tích lũy, chứa giữ những thứ như xe cộ, kẻ hầu hạ trai, gái, lớn, nhỏ... hoặc vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê, chân châu,
xa cừ,
mã não,
san hô, ngọc bích, các thứ
ngọc thạch, chén bát bằng đồng đỏ, thiếc trắng và bằng thau,
y phục dệt bằng lông thú hoặc ghép bằng lông chim, tất cả các giống lúa, gạo, lúa mạch lớn, lúa mạch nhỏ, đậu, mè, bắp, nếp, đồ ăn còn sống hoặc nấu chín...
“[Người
giữ giới] chỉ ăn mỗi ngày một bữa, đă ăn rồi thì không ăn nữa. Nếu đi
khất thực hoặc khi ăn chung với
Chúng tăng thường tự biết no bụng thì dừng, không nhận sự mời thỉnh
đặc biệt. Không
ăn thịt, không uống rượu, không ăn
năm món cay nồng.[58] Nhờ vậy trong thân không
có mùi hôi, thường được
chư thiên và tất cả người đời
cung kính cúng dường,
tôn trọng ngợi khen. [Những kẻ] nhanh chân bước vội vì miếng ăn, rốt cùng không thể được sống lâu. [Người
giữ giới chỉ] nhận lãnh
y phục vừa đủ che thân; dù đi tới đâu cũng luôn có đủ
ba tấm pháp y và
bình bát, không lìa hai món ấy, như con chim không lìa đôi cánh.
“[Người
giữ giới] không
tích lũy chứa giữ
các loại củ rễ, thân, mắt ghép, nhánh ghép,
hạt giống của cây. Không
tích lũy chứa giữ kho báu như vàng, bạc, đồ
ăn uống chất chứa nơi nhà bếp và trong kho lẫm, áo quần, đồ trang sức, giường cao rộng lớn, giường bằng ngà voi và bằng vàng, những món
thêu dệt sặc sỡ chẳng nên dùng làm nệm ngồi. Không chứa trữ những chiếu dệt bằng các nguyên liệu nhỏ mịn. Không ngồi trên bành voi, yên ngựa... Không được dùng loại vải nhỏ mịn và đẹp mà trải giường nằm. Ở đầu giường không được để hai cái gối, cũng không được nhận giữ gối rất đẹp màu đỏ hoặc gối bằng cây sơn thếp màu vàng. Không khi nào xem sự đấu nhau của voi, ngựa, chiến xa, quân đội, [
cho đến] đàn ông, đàn bà, bò, dê, trâu, gà, trĩ, két... cũng không được
cố ý đến xem chiến trận.
“[Người
giữ giới cũng] không được lắng nghe những tiếng sáo, địch, ốc tù và, tiếng trống, tiếng đàn cầm, đàn sắt, đàn tranh, đàn
không hầu... cùng mọi tiếng
ca nhạc múa hát, chỉ trừ [những
âm thanh để dâng lên]
cúng dường Phật. Không
tham gia các
trò vui đánh cờ, bài bạc, trò ba-la-tắc.[59] Không xem các loài
sư tử, voi đấu nhau, không chơi đánh cờ, sáu môn cờ bạc
ăn thua, đánh cầu, ném đá, thảy hồ, dắt đường, chơi cờ tám đường quanh thành,[60] [nói chung] hết thảy mọi
trò vui đùa bỡn cợt đều không nên
tham dự vào hoặc đến xem...
“[Người
giữ giới cũng] không được
xem tướng tay, chân, mặt, mắt... Không được dùng móng chân, móng tay, gương soi, cỏ thi, nhành dương, bát thủ, sọ người mà làm quẻ bói. Cũng không được ngước nhìn các vì sao
trên trời, trừ khi là để phá tan cơn
buồn ngủ. Không được nhận những
sứ mạng đi lại do kẻ có quyền chức
giao phó, không đem việc người này nói với người kia, đem việc người kia nói với người này... Không bợ đỡ nịnh hót, sống bằng
tà mạng.[61] Cũng không được nói việc vua quan, trộm cướp, đấu tranh,
ăn uống, cùng những việc thất mùa đói kém,
lo âu sợ sệt, no đủ,
vui sướng,
an ổn trong cõi nước.
“Thiện nam tử! Đó gọi là giới mà vị
Bồ Tát giữ theo để
ngăn ngừa sự
ganh ghét của
thế gian.
Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát giữ trọn những giới ngăn che,
chế ngự như vậy, cũng không hề xem nhẹ hơn các giới có
tính chất quan trọng.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát sau khi
thọ trì các
giới cấm như vậy rồi, liền
phát nguyện rằng: ‘Thà [tôi] đem thân này lao vào hầm sâu lửa dữ chứ quyết không bao giờ hủy phạm các
giới cấm mà chư
Phật thời quá khứ,
vị lai và
hiện tại đã chế định, [chẳng hạn như] làm những việc không
trong sạch với người nữ thuộc dòng sát-lỵ, bà-la-môn,
trưởng giả hay
cư sĩ...’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Thà ta dùng sắt nóng đắp quanh
thân hình chứ quyết không bao giờ dám nhận
y phục của người
đàn việt có
tín tâm khi tự mình đã
phá giới.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Thà ta bỏ hòn sắt nóng vào miệng nuốt chứ quyết không bao giờ dám dùng đến những
thức ăn uống của người
đàn việt có
tín tâm khi tự mình đã
phá giới.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà nằm trên sắt nóng chứ quyết không bao giờ dám thọ nhận giường nằm, nệm gối của người
đàn việt có
tín tâm khi tự mình đã
phá giới.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Thà thân ta phải
chịu đựng ba trăm mũi giáo chứ quyết không bao giờ dám nhận thuốc men của người
đàn việt có
tín tâm khi tự mình đã
phá giới.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà nhảy vào nồi sắt nóng chứ quyết không bao giờ dám thọ nhận phòng ốc, nhà cửa của người
đàn việt có
tín tâm khi tự mình đã
phá giới.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà tự dùng chùy sắt đập nát
toàn thân này thành bụi nhỏ chứ quyết không bao giờ dám thọ nhận sự
cung kính lễ bái của các hàng sát-lỵ, bà-la-môn,
trưởng giả,
cư sĩ... khi tự mình đã
phá giới.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà dùng lưỡi đao, giáo bằng sắt nóng mà tự khoét hai mắt ra chứ quyết không bao giờ đem tâm
nhiễm ô nhìn những
hình sắc đẹp bên ngoài.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà lấy dùi sắt tự đâm thủng lỗ tai chứ quyết không bao giờ đem tâm
nhiễm ô mà lắng nghe những
âm thanh hay lạ [của
thế tục].’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà lấy dao bén tự cắt bỏ mũi mình chứ quyết không bao giờ đem tâm
nhiễm ô mà tham ngửi các
mùi thơm.’
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà lấy dao bén tự cắt đứt lưỡi mình chứ quyết không bao giờ đem tâm
nhiễm ô mà tham đắm những vị ngon.”
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại
phát nguyện rằng: ‘Ta thà dùng lưỡi búa sắc bén tự chặt đứt thân mình, chứ quyết không bao giờ đem tâm
nhiễm ô mà tham đắm những sự xúc chạm
êm ái.’
“Vì sao vậy? Vì những
nhân duyên ấy có thể làm cho người
tu hành đọa vào nơi
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh.
“Ca-diếp! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát
giữ gìn giới cấm.
Bồ Tát ma-ha-tát
giữ gìn các
giới cấm như vậy rồi, liền
bố thí [mọi
công đức thành tựu] cho hết thảy
chúng sanh. Vì
nhân duyên ấy, nguyện cho tất cả
chúng sanh đều
giữ gìn giới cấm, được
giới thanh tịnh, giới
tốt lành,
giới không thiếu sót,
giới không bị hủy phá, giới
Đại thừa,
giới không thối chuyển, giới
tùy thuận, giới
rốt ráo, giới
thành tựu đầy đủ các pháp ba-la-mật.
“Thiện nam tử! Khi
Bồ Tát ma-ha-tát
tu trì giới thanh tịnh như vậy, liền được bắt đầu trụ vào
địa vị Bất động.[62] Sao gọi là
địa vị Bất động?
Bồ Tát trụ vào
địa vị Bất động thì không còn có những sự
dao động, sa đọa,
thối chuyển hay tán thất.
“Thiện nam tử!
Ví như núi Tu-di, lốc xoáy và những cơn gió mạnh không thể làm cho núi ấy lay động, sụp đổ, đẩy lùi hay vỡ nát. Vị
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
địa vị Bất động cũng vậy, không hề bị
dao động vì
hình sắc,
âm thanh, hương vị, xúc cảm... không còn bị sa đọa vào
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, không thể thối lui
trở lại địa vị Thanh văn, Phật Bích chi, không bị những luồng gió
tà kiến làm cho
tán loạn mà rơi vào
nếp sống tà vạy không chân chánh.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bất động còn có nghĩa là không bị
dao động bởi
tham dục,
sân khuể,
ngu si; không sa đọa còn có nghĩa là không rơi vào Bốn
cấm giới nặng;
không thối chuyển còn có nghĩa là không thối lui,
buông bỏ giới luật mà
quay về đời sống thế tục; không tán thất còn có nghĩa là không vì trái nghịch với
kinh điển Đại thừa mà phải bị
tán loạn, hư hoại mất.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát cũng không bị các ma
phiền não làm khuynh động, không bị ma
năm ấm làm sa đọa.
Cho đến khi [sắp
thành đạo] ngồi nơi
đạo tràng dưới cội cây Bồ-đề, tuy có chúng ma từ
cõi trời đến quấy phá cũng không thể làm cho
Bồ Tát thối lui đối với quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Bồ Tát cũng không còn bị ma chết làm tán hoại.
“Thiện nam tử! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu tập Thánh hạnh.
“Thiện nam tử! Sao gọi là Thánh hạnh?
Thánh hạnh, đó là chỗ
hành trì của Phật và
Bồ Tát. Vì thế nên gọi là
Thánh hạnh.
“Vì sao gọi chư Phật,
Bồ Tát là thánh nhân? Vì các vị ấy có pháp của bậc thánh, thường quán xét tánh rỗng không
vắng lặng của các pháp. Vì nghĩa ấy, nên gọi là
thánh nhân. Vì có giới của bậc thánh nên gọi là
thánh nhân. Vì có định, huệ của bậc thánh nên gọi là
thánh nhân. Vì có
Bảy món báu của bậc Thánh là: tín, giới, tàm, quý,[63]
đa văn,
trí huệ, xả ly, cho nên gọi là
Thánh nhân. Lại có
bảy Thánh giác[64] nên gọi là
Thánh nhân. Vì nghĩa ấy, nên lại gọi là
Thánh hạnh.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN MƯỜI MỘT
QUYỂN MƯỜI HAI
PHẨM THÁNH HẠNH
Phẩm thứ bảy – Phần hai
Lại nữa,
thiện nam tử!
Thánh hạnh của
Bồ Tát ma-ha-tát là
quán sát thân này từ đầu đến chân, trong đó duy chỉ toàn là những thứ như tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, các thứ dơ nhớp, da, thịt, gân, xương, tỳ, thận, tim, phổi, gan, mật, ruột, dạ dày, hai tạng sanh và thục, các
cơ quan đại,
tiểu tiện, nước mũi, nước miếng, nước mắt, những lớp mỡ, da mỏng bọc ở ngoài mỡ, tủy xương, mủ, máu, não, các mạch từ não
cho đến ngón chân cái...
“Trong khi
Bồ Tát chuyên tâm quán sát như vậy, liền
suy xét rằng: ‘Trong những thứ đó có gì là ngã? Cái ngã thuộc về ai? Nó nằm ở chỗ nào? Cái gì thuộc về ngã?’
“Bồ Tát lại
suy nghĩ rằng: ‘Bộ xương là ta chăng? Lìa bộ xương là ta chăng?’
“Lúc bấy giờ,
Bồ Tát liền
loại bỏ da và thịt,
chỉ quán xét riêng bộ xương trắng. Lại
suy xét rằng: ‘Màu sắc của xương có khác nhau như xanh, vàng, trắng[65]...
cho đến [xám tro] như màu lông chim câu. Tướng trạng của xương như vậy cũng chẳng phải là cái ngã. Vì sao vậy? Cái ngã đó chẳng phải xanh, vàng, trắng
cho đến [xám tro] như màu lông chim câu.’
“Khi
Bồ Tát chú tâm quán tưởng như vậy liền dứt trừ được sự
ham muốn đối với
hình sắc.
“Bồ Tát lại xét nghĩ rằng: ‘Bộ xương này do
nhân duyên mà sanh. Nhân nơi xương bàn chân mà chống chịu xương mắt cá; nhân nơi xương mắt cá mà chống chịu xương ống chân; nhân nơi xương ống chân mà chống chịu xương đầu gối; nhân nơi xương đầu gối mà chống chịu xương đùi; nhân nơi xương đùi mà chống chịu xương mu; nhân nơi xương mu mà chống chịu xương chậu; nhân nơi xương chậu mà chống chịu xương sống; nhân nơi xương sống mà chống chịu gân cốt; lại nhân nơi xương sống mà phía trên có xương cổ; nhân nơi xương cổ mà chống chịu xương hàm; nhân nơi xương hàm mà chống chịu bộ răng, trên hết lại có xương sọ; lại nhân nơi xương cổ mà chống chịu xương vai; nhân nơi xương vai mà chống chịu xương cánh tay; nhân nơi xương cánh tay mà chống chịu xương cổ tay; nhân nơi xương cổ tay mà chống chịu xương bàn tay; nhân nơi xương bàn tay mà chống chịu xương ngón tay.’
“Khi
Bồ Tát ma-ha-tát quán xét như vậy, thấy hết thảy những xương
hiện có trong thân đều [là những phần] tách rời riêng biệt [
kết hợp trong sự
phụ thuộc lẫn nhau]. Quán xét được như vậy rồi liền dứt trừ ba thứ
ham muốn: một là
ham muốn nhan sắc, hai là
ham muốn dáng vẻ, ba là
ham muốn xúc chạm.[66]
“Khi
Bồ Tát ma-ha-tát quán xương màu xanh, liền thấy cõi đất này về bốn phương đông, tây, nam, bắc và
bốn phương kế cận,[67] hai phương trên, dưới, thảy đều có tướng màu xanh.
“Cũng như màu xanh, khi quán những màu vàng, trắng, xám cũng đều như vậy.
“Khi
Bồ Tát ma-ha-tát
thực hiện phép quán như vậy, từ khoảng giữa hai chân mày liền phóng ra những
hào quang xanh, vàng, đỏ, trắng, xám. Trong mỗi loại
hào quang ấy,
Bồ Tát đều nhìn thấy có hình Phật. Thấy như vậy rồi, liền tự hỏi rằng: ‘Như thân này là do những
nhân duyên bất tịnh hòa hiệp mà thành, sao lại có thể ngồi, dậy, đi, đứng, co lại, duỗi ra, cúi xuống, ngẩng lên, nhìn xem, nháy mắt, ho hen, khóc lóc, vui cười...? Ở trong thân ấy không có chủ, vậy ai
sai khiến như vậy?’ Tự hỏi như vậy rồi,
hình tượng chư Phật trong
hào quang kia bỗng
nhiên không còn nữa.
“Bồ Tát lại nghĩ rằng: ‘Hoặc giả thức là ngã chăng, cho nên khiến chư Phật chẳng vì ta mà thuyết dạy?’ Lại quán thức này
lần lượt sanh diệt, dường như dòng nước chảy, cũng không phải ngã.
“Bồ Tát lại xét nghĩ rằng: ‘Nếu thức không phải ngã thì
hơi thở ra vào có lẽ là ngã chăng?’ Lại xét rằng: ‘Hơi
thở ra vào đó chính là tánh gió, mà tánh gió ấy cũng là trong
bốn đại.[68] Trong
bốn đại ấy, cái nào là ngã? Đất chẳng phải ngã, nước, lửa, gió lại cũng chẳng phải ngã.’
“Bồ Tát lại nghĩ rằng: ‘Trong thân này hết thảy đều không có cái ngã. Chỉ có tâm như cơn gió hòa hiệp với các
nhân duyên mà
hiện ra đủ mọi thứ
hành vi, sự việc. Cũng
ví như những thứ do sức
thần chú,
ảo thuật tạo thành, lại cũng
ví như cái đàn
không hầu,[69]
tùy theo ý người chơi mà phát ra
âm thanh. Cho nên thân này là không
trong sạch như vậy, do các
nhân duyên giả hợp mà thành.
“Vậy
do nơi đâu mà sanh ra tham dục? Nếu bị người khác nhục mạ, lại
do nơi đâu mà sanh sân khuể? Thân này của ta chứa 36 thứ,[70] thảy đều là hôi thối, không
trong sạch, vậy
do nơi đâu có người bị mạ nhục?’ Nếu nghe tiếng mạ nhục, liền
suy xét rằng: ‘Do nơi tiếng nào thấy được sự mạ nhục?’ Liền xét trong mỗi tiếng riêng rẽ không tiếng nào có thể thấy được sự mạ nhục. Nếu mỗi tiếng không thể thấy sự mạ nhục, thì nhiều tiếng
hợp lại cũng không thể thấy sự mạ nhục. Vì nghĩa ấy mà không nên sanh tâm
sân hận.’
“Nếu người khác đánh đập mình, cũng nên xét rằng: ‘Sự đánh đập đó, do đâu mà sanh?’ Lại xét rằng: “Do có tay người, dao gậy, và thân ta nên mới có cái gọi là đánh đập. Nay vì
duyên cớ gì ta lại
nổi giận với người khác? Chính do cái thân này của ta tự chuốc lấy
tai hại ấy. Do cái thân
năm ấm mà ta
thọ lãnh, cũng
ví như nhân cái đích mới có mũi tên bắn trúng. Thân ta
cũng thế, bởi có thân nên mới có sự đánh đập. Nếu ta
không nhẫn chịu, tâm tất phải
tán loạn. Nếu
tâm tán loạn, tất phải mất
chánh niệm. Nếu mất
chánh niệm, tất không thể quán xét
ý nghĩa thiện và
bất thiện.
Nếu không thể quán xét
ý nghĩa thiện và
bất thiện tất sẽ làm việc ác. Do tạo
nhân duyên ác, ắt phải đọa vào những
cảnh giới địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
“Bấy giờ,
Bồ Tát đã quán xét như vậy rồi liền được
Bốn niệm xứ.[71]
Đạt được Bốn niệm xứ rồi, ắt sẽ được trụ ở
địa vị Kham nhẫn.[72]
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
địa vị ấy rồi, ắt có thể nhẫn chịu đối với sự
tham dục,
sân khuể,
ngu si, cũng có thể nhẫn chịu đối với những sự lạnh nóng,
đói khát, muỗi mòng, chí rận, gió mạnh, sự xúc chạm hung dữ, mọi thứ dịch bệnh, người
ác khẩu chửi mắng hay đánh đập,
hành hạ... Mọi
khổ não về
thân tâm đều có thể nhẫn chịu được tất cả. Vì thế nên gọi là trụ ở
địa vị Kham nhẫn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Bồ Tát chưa được trụ ở
địa vị Bất động, trong khi
giữ giới thanh tịnh, có
nhân duyên gì có thể
phá giới chăng?”
“Thiện nam tử!
Bồ Tát chưa được trụ ở
địa vị Bất động, khi có
nhân duyên có thể
phá giới.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch
Thế Tôn, đó là những
nhân duyên gì?”
Phật bảo Ca-diếp: “Nếu
Bồ Tát biết là dùng
nhân duyên phá giới thì có thể khiến người khác
thọ trì và
ưa chuộng, ngưỡng mộ
kinh điển Đại thừa, lại có thể khiến người khác
đọc tụng thông suốt, sao chép trọn quyển kinh, vì người khác mà
thuyết giảng rộng, không còn thối lui đối với
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì vị
Bồ Tát này vì những việc như vậy có thể
phá giới.
Lúc ấy,
Bồ Tát nên nghĩ rằng: ‘Ta thà đọa vào
địa ngục A-tỳ để
chịu tội trong một kiếp hoặc một
kiếp giảm, nhưng
nhất thiết phải [dùng
phương tiện] khiến cho những người như vậy không còn
thối chuyển đối với
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Ca-diếp! Vì
nhân duyên ấy, vị
Bồ Tát ma-ha-tát có thể hủy
phạm giới thanh tịnh.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu có
Bồ Tát giữ gìn,
bảo vệ những người như vậy, khiến họ không còn
thối chuyển đối với tâm Bồ-đề, thì
không có lý nào vì sự [
phương tiện] hủy
phạm giới hạnh
thanh tịnh như
vậy mà phải đọa vào
địa ngục A-tỳ.”
Bấy giờ, Phật
ngợi khen Văn-thù-sư-lợi rằng: “Lành thay,
lành thay, đúng như ông vừa nói đó! Ta nhớ lại thuở xưa, ở cõi Diêm-phù-đề này ta làm một vị Đại
quốc vương tên là
Tiên Dự, thường
ái mộ, tưởng nhớ,
kính trọng kinh điển Đại thừa. Lòng vua thuần thiện, không có những điều thô ác, tật đố,
tham lam keo kiệt; miệng vua thường nói ra những lời
thân ái,
hiền lành, thường đem thân
bảo vệ che chở những kẻ bần cùng,
cô độc, thường làm việc
bố thí,
tinh tấn, chẳng hề bê trễ.
“Thuở ấy không có Phật,
Thanh văn,
Duyên giác ra đời. Ta vì
ái mộ kinh điển Phương đẳng Đại thừa nên trong 12 năm lo
phụng sự các thầy bà-la-môn,
cung cấp mọi sự
cần dùng. Qua 12 năm, việc
cúng dường đã xong, ta bèn nói rằng: ‘Nay các thầy nên
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Có thầy bà-la-môn nói: ‘Đại vương! Tánh Bồ-đề ấy vốn là không có,
kinh điển Đại thừa cũng vậy. Sao
đại vương lại khiến cho
con người và
vạn vật đồng như hư không?’
“Thiện nam tử!
Thuở ấy, trong lòng ta
tôn trọng Đại thừa nên vừa nghe thầy bà-la-môn ấy
phỉ báng kinh Phương đẳng như vậy, ta liền giết chết ngay.
“Thiện nam tử!
Nhân duyên là như vậy, mà từ ấy
đến nay ta không hề đọa vào
địa ngục.
“Thiện nam tử! Nhờ sự
ủng hộ,
giữ gìn kinh điển Đại thừa mới có được
thế lực vô lượng như vậy.”
Đức Phật lại bảo
Bồ Tát Ca-diếp: “Ca-diếp! Còn có
Thánh hạnh gọi là
Tứ thánh đế. Khổ, Tập, Diệt, Đạo gọi là
Tứ thánh đế.
“Ca-diếp! Khổ là tướng
bức bách. Tập là tướng có sức sanh trưởng. Diệt là tướng
tịch diệt. Đạo là
tướng Đại thừa.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Khổ là tướng
hiện ra. Tập là tướng
chuyển đổi. Diệt là tướng dứt trừ. Đạo là tướng có
năng lực dứt trừ.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Khổ đó, có
ba tướng khổ là tướng khổ vì sự khổ, tướng khổ vì các hành và tướng khổ vì
hoại diệt.[73] Tập, là
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Diệt, là dứt trừ hết thảy
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Đạo là
tu tập giới, định, huệ.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Pháp hữu lậu có hai loại: pháp có nhân và pháp có quả. Pháp
vô lậu cũng có hai loại: pháp có nhân và pháp có quả. Quả của
pháp hữu lậu gọi là khổ. Nhân của
pháp hữu lậu gọi là tập. Quả của pháp
vô lậu gọi là diệt. Nhân của pháp
vô lậu gọi là đạo.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có tám tướng gọi là khổ. Đó là: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, yêu mến phải lìa xa là khổ, oán ghét phải
gặp nhau là khổ, mong cầu không được là khổ,
năm ấm bạo phát là khổ.[74]
“Vì phát sanh tám tướng khổ nên gọi là tập. Chỗ không có
tám pháp khổ ấy gọi là diệt. Mười sức,[75]
Bốn đức chẳng sợ,[76]
Ba chỗ niệm,[77] tâm
đại bi, đó gọi là đạo.
“Thiện nam tử! Sanh là tướng
xuất hiện. Có năm loại: một là vừa mới
xuất hiện, hai là đã
thành hình, ba là ngày càng phát triển lớn lên, bốn là ra khỏi thai, năm là sanh ra thành chủng loại.
“Những gì là già? Già có hai loại: một là già đi trong từng giây phút, hai là già lúc cuối đời. Lại có hai loại: một là già trong khi
tăng trưởng, lớn lên; hai là già trong khi
hoại diệt. [Những
trạng thái] như vậy đều gọi là già.
“Thế nào là bệnh? Đó là nói
bốn đại như
bốn con rắn độc không
hòa hợp nhau. Lại có
hai loại bệnh: một là bệnh nơi thân, hai là bệnh nơi tâm. Thân bệnh có năm loại: một là do nước, hai là do gió, ba là do sức nóng, bốn là do nhiều
nguyên nhân lẫn lộn, năm là do
nguyên nhân từ bên ngoài.
“Bệnh do
nguyên nhân từ bên ngoài có bốn loại: một là do
gắng gượng làm những việc
vượt quá sức mình, hai là do
sơ ý té ngã, ba là do dao gậy, gạch đá, bốn là do các loài quỷ mỵ
vướng mắc.
“Tâm bệnh cũng có bốn loại: một là phấn khích, hai là khiếp sợ, ba là lo buồn, bốn là
ngu si.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Bệnh của
thân tâm thường có ba loại. Những gì là ba? Một là do
nghiệp báo, hai là do không lìa xa được những [
tác động] đối nghịch xấu ác, ba là do
thời tiết thay đổi.
“[Từ đó] sanh ra sự
phân biệt [các bệnh] theo
nhân duyên, tên gọi,
cảm thọ. [
Phân biệt bệnh theo]
nhân duyên là như các thứ bệnh [trúng] phong, [bệnh nhiễm nước].v.v... [
Phân biệt bệnh theo] tên gọi là như bệnh tâm muộn (trong lòng
buồn bực) bệnh sưng phổi, bệnh thượng khí (hơi đưa lên), bệnh ho nghịch, bệnh khiếp nhược, bệnh kiết lỵ... [
Phân biệt bệnh theo]
cảm thọ là như bệnh nhức đầu, bệnh đau mắt, bệnh tay chân nhức mỏi... Như thế đều gọi chung là bệnh.
“Những gì gọi là chết? Chết nghĩa là xả bỏ cái thân đang có. Xả bỏ cái thân đang có, cũng có hai
trường hợp: một là do
thọ mạng đã hết mà chết, hai là do
nhân duyên bên ngoài mà chết.
“Thọ mạng đã hết mà chết lại có ba loại: một là
thọ mạng đã dứt nhưng
phước đức chưa dứt, hai là
phước đức đã dứt nhưng
thọ mạng chưa dứt, ba là cả
phước đức và
thọ mạng đều dứt hết.
“Do
nhân duyên bên ngoài mà chết cũng có ba
trường hợp: một là chẳng phải số phần của mình nhưng tự hại mà chết, hai là bị kẻ khác hại mà chết, ba là cùng chết với kẻ khác.
“Lại có ba loại chết: một là chết
phóng dật, hai là chết
phá giới, ba là chết
mạng căn hư hoại.
“Sao gọi là chết phóng dật? Nếu có người
phỉ báng Phương đẳng Đại thừa,
Bát-nhã ba-la-mật, đó gọi là chết
phóng dật.[78] Sao gọi là chết phá giới? Hủy phạm những
giới cấm mà chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại chế định. Đó gọi là chết
phá giới.[79] Sao gọi là chết
mạng căn hư hoại? Xả bỏ thân
năm ấm.[80] Đó gọi là chết
mạng căn hư hoại. Như vậy gọi rằng chết là nỗi khổ lớn lao!
“Những gì gọi rằng yêu mến phải lìa xa là khổ? Những vật mình yêu mến bị
phá hoại, lìa tan. Những vật mình yêu mến bị hư hoại, lìa tan cũng có hai
trường hợp: một là ở
cõi người,
năm ấm bị hư hoại, hai là ở
cõi trời năm ấm bị hư hoại.
Năm ấm mà người ta và
chư thiên yêu mến,
phân biệt, kể đếm ra có
vô số thứ loại. Như vậy gọi rằng yêu mến phải lìa xa là khổ.
“Sao gọi rằng oán ghét phải
gặp nhau là khổ? [Đó là khi] những gì mình không yêu mến lại phải cùng
tụ họp một nơi. Những gì mình không yêu mến lại phải cùng
tụ họp một nơi cũng có ba
trường hợp. Ấy là:
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh. Ba cảnh khổ ấy,
phân biệt kể đếm ra có đến
vô số thứ loại. Như vậy gọi rằng oán ghét phải
gặp nhau là khổ.
“Sao gọi rằng mong cầu không được là khổ? Mong cầu không được là khổ cũng có hai
trường hợp: một là đặt niềm
hy vọng, mong cầu mà không thể được; hai là
tốn công gắng sức rất nhiều nhưng chẳng được kết quả. Như vậy đều gọi rằng mong cầu không được là khổ.
“Sao gọi rằng
năm ấm bạo phát là khổ? Cái khổ
năm ấm bạo phát ấy là khổ sanh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ yêu mến phải lìa xa, khổ oán ghét phải
gặp nhau, khổ mong cầu mà chẳng được. [Những nỗi khổ này đều có
căn bản phát sanh từ sự
tụ họp,
xung khắc và tan rã của
năm ấm nên] như vậy gọi rằng
năm ấm bạo phát là khổ.
“Ca-diếp!
Do nơi sanh là
căn bản mà có bảy thứ khổ kia, từ khổ già
cho đến khổ
năm ấm bạo phát.
“Ca-diếp! Sự già yếu không phải tất cả đều có. Như Phật và
chư thiên nhất định không có sự già yếu. Còn trong
nhân loại thì không
nhất định: kẻ có, người không.
“Ca-diếp! Trong
Ba cõi, có thọ thân thì không ai là không có sanh, nhưng tướng già thì không
nhất định. Cho nên sanh là
căn bản của tất cả.
Chúng sanh ở
thế gian vì sự
điên đảo che lấp trong tâm nên tham đắm tướng sanh,
ghê sợ những tướng già, chết. Ca-diếp!
Bồ Tát không phải như thế, quán xét từ tướng sanh ra
ban đầu đã thấy chỗ
tai hại rồi!
“Ca-diếp! Như có một cô gái kia vào nhà kẻ khác. Cô gái ấy đoan chánh,
vẻ mặt và
hình tướng đều rất đẹp, lại còn dùng
chuỗi ngọc tốt để trang điểm trên thân. Chủ nhà nhìn thấy cô liền hỏi rằng: ‘Cô tên họ gì? Là người của ai?’ Cô gái đáp rằng: ‘Tôi đây chính là
Công Đức Đại Thiên.’ Chủ nhân lại hỏi: ‘Cô đến đây để làm gì?’ Cô gái đáp: ‘Những nơi tôi đến đều có thể được
ban cho đủ
các loại vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê,
trân châu,
san hô,
hổ phách,
xa cừ,
mã não, voi, ngựa, xe cộ, tôi trai, tớ gái, kẻ hầu người hạ...’ Chủ nhà nghe xong sanh lòng
vui mừng, phấn khích
vô cùng, liền nói rằng: ‘Nay tôi có
phước đức nên khiến cô đến nhà tôi.’ Người ấy liền
đốt hương, rảy hoa,
cúng dường,
cung kính lễ bái.
“Lúc ấy, ngoài cửa lại có một cô gái khác hình dạng
xấu xí, áo quần rách nát,
dơ bẩn,
da thịt nứt nẻ, sắc diện
già nua, nhợt nhạt... Chủ nhà thấy vậy lại hỏi rằng: ‘Cô tên họ gì? Là người của ai?’ Cô gái đáp rằng: ‘Tôi tên là
Hắc Ám.’ Lại hỏi: ‘Vì sao cô có tên là Hắc Ám?’ Cô gái đáp: ‘Những nơi tôi đi đến, có thể làm cho mọi thứ
của cải, đồ quý trong nhà ấy đều
hao tổn,
suy giảm.’ Nghe xong, chủ nhà liền cầm dao bén nói rằng: ‘Nếu cô không đi ngay ta sẽ giết chết cô.’ Cô gái đáp rằng: ‘Ông thật quá
ngu si, chẳng có chút
trí huệ.’ Chủ nhà hỏi: ‘Sao lại gọi là
ngu si, không có trí huệ?’ Cô gái đáp: ‘Người ở trong nhà ông đó là chị của ta. Chị ấy với ta thường cùng đi
với nhau. Nếu ông đuổi ta, cũng là đuổi chị ấy.’
“Chủ nhân trở vào nhà hỏi
Công Đức Thiên rằng: “Bên ngoài có một cô gái nói là em của cô, có thật vậy chăng?’
Công Đức Thiên nói: ‘Thật là em tôi. Tôi với cô em đó thường đi chung
với nhau, chưa từng
xa lìa. Đến ở nơi nào thì tôi thường làm việc tốt, em tôi thường làm việc xấu, tôi thường làm
lợi ích, em tôi thường gây
suy giảm, tốn hao. Nếu yêu mến tôi, cũng phải yêu mến em tôi. Như
cung kính tôi, cũng phải
cung kính em tôi.’
“Chủ nhà liền nói: ‘Nếu có việc tốt lẫn xấu như
vậy thì tôi đây không cần cả hai, các cô cứ
tùy ý mà đi đi.’ Bấy giờ, hai cô gái cùng đưa nhau đi, định
trở về chỗ cũ. Chủ nhà thấy họ đi rồi, trong lòng
vui vẻ, phấn khích
vô cùng.
“Lúc ấy, hai cô gái cùng đi
với nhau, đến một nhà nghèo kia. Người nhà nghèo ấy nhìn thấy hai cô rồi, trong lòng
vui vẻ, liền
thỉnh mời rằng: ‘Từ nay trở đi xin hai cô cứ ở lại nhà tôi.’
Công Đức Thiên nói: ‘Trước đây
chúng tôi vừa bị người khác đuổi đi. Cớ sao ông lại
thỉnh mời cả hai
chúng tôi ở lại?’ Người nhà nghèo đáp rằng: “Nay cô nghĩ đến tôi, tôi vì cô mà cũng
cung kính cô kia. Cho nên tôi
thỉnh mời cả hai cô cùng ở lại nhà tôi.’
“Ca-diếp!
Bồ Tát ma-ha-tát cũng như thế, chẳng nguyện sanh lên cảnh trời, vì có sanh tất phải có già, bệnh, chết.
Vì vậy nên dứt hết, chưa từng khởi lòng yêu mến. Những kẻ
phàm ngu chẳng biết chỗ
tai hại của già, bệnh, chết nên
ham thích cả hai pháp sống và chết.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như có đứa trẻ dòng bà-la-môn,
đang lúc quá đói, thấy ở trong đống phân người có một trái am-la liền đưa tay nhặt lấy. Người có trí thấy vậy,
quở trách rằng: ‘Cậu là người dòng bà-la-môn
thanh tịnh, sao lại nhặt trái dơ trong đống phân?’ Đứa trẻ ấy nghe xong, thẹn đỏ mặt, đáp rằng: ‘Tôi
thật không ăn, chỉ muốn lấy rửa cho sạch rồi ném bỏ.’ Người có trí kia liền bảo nó rằng: ‘Mày thật quá
ngu si, nếu định ném bỏ thì trước đó chẳng nên nhặt lấy.’
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, đối với cái sanh, chẳng thọ cũng chẳng bỏ, như người có trí kia
quở trách đứa trẻ. Những kẻ
phàm phu ưa sống ghét chết, như đứa trẻ kia nhặt trái rồi lại vứt đi.
“Lại nữa Ca-diếp!
Ví như có người mang nhiều
thức ăn đủ các màu sắc, hương vị, đến chỗ ngã tư đường để bán. Có người từ xa đến, đói kém
suy nhược, thấy cơm và
thức ăn có đủ các màu sắc, hương vị liền dừng lại, hỏi rằng: ‘Đây là những món gì?’ Người chủ nói: ‘Đây là những
thức ăn ngon nhất, có đủ màu sắc, hương vị. Như ai ăn vào thì được
hình sắc tốt đẹp, có
sức mạnh, trừ được
đói khát, được gặp
chư thiên. Chỉ có một điều
tai hại là phải chết.’ Người ấy nghe rồi liền nghĩ rằng: ‘Nay tôi chẳng cần
hình sắc,
sức mạnh, gặp
chư thiên, cũng chẳng muốn chết.’ Liền hỏi rằng: ‘Nếu ăn vào phải chết, vậy nay ông mang bán
thức ăn này để làm chi?’ Người chủ
thức ăn đáp rằng: ‘Người có trí chẳng bao giờ chịu mua, duy có những kẻ ngu không hiểu việc ấy, trả cho tôi nhiều tiền, vì tham mà ăn.’
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát cũng như thế, chẳng nguyện sanh lên
cõi trời, được
hình sắc tốt,
sức mạnh, gặp
chư thiên. Vì sao vậy? Vì những việc ấy cũng chẳng khỏi các sự
khổ não. Những kẻ
phàm ngu, tùy chỗ sanh ra đều đem lòng tham mến. Là vì không thấy được những sự già, bệnh, chết [là khổ].
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như cây có độc, rễ nó có thể làm chết người, thân nó cũng có thể làm chết người,
cho đến vỏ cây, hoa, trái, hạt... thảy đều có thể làm chết người.
Thiện nam tử! Trong 25
cảnh giới hiện hữu, tùy chỗ thọ sanh mà thọ nhận
năm ấm cũng vậy, hết thảy đều có thể làm chết người.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như phẩn dơ, dù nhiều hay ít cũng đều hôi thối.
Thiện nam tử! Sự sanh ra cũng vậy, dù cho sống lâu đến tám vạn năm, hoặc chỉ được mười tuổi cũng đều là chịu khổ.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như cái hầm nguy hiểm, bên trên có cỏ che phủ, bên cạnh mép hầm lại có nhiều
cam lộ. Như ai ăn được chất
cam lộ ấy thì sống đến ngàn năm, trừ tuyệt các bệnh,
an ổn khoái lạc. Những kẻ
phàm ngu vì tham ăn món ấy, không biết là phía dưới có cái hầm rất sâu, liền đi tới để lấy, bất ngờ trượt chân,
sa xuống hầm mà chết. Người trí đã biết nên
lìa bỏ,
lánh xa.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy,
cho đến những món
ăn ngon nhất ở
cõi trời còn chẳng
tham muốn, huống gì món ăn ở cõi người? Kẻ
phàm tục cho đến ở nơi
địa ngục còn nuốt lấy những hòn sắt nóng, huống chi những món
ăn ngon thịnh soạn ở
cõi trời,
cõi người, làm sao có
thể không ăn?
“Ca-diếp! Bởi những
thí dụ ấy, và còn
vô số thí dụ khác nữa, nên biết rằng sự sanh thật là nỗi khổ rất lớn.
“Ca-diếp! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét sự sanh là khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét già là khổ? Sự
già nua có thể khiến cho người ta phải bị ho hen, khí nghịch đưa lên; có thể làm tiêu
mất sức mạnh,
trí nhớ; làm mất đi tuổi thanh niên
tráng kiện, khoái lạc, ngạo mạn tự cao,
an ổn thỏa chí; làm cho lưng còng,
chậm chạp biếng nhác, bị người khác khinh chê.
“Ca-diếp!
Ví như trong hồ nước có đầy
hoa sen nở ra
đẹp đẽ, tươi tắn, trông rất đáng
ưa thích. Bỗng gặp khi trời đổ cơn mưa đá xuống,
phá hoại tất cả.
Thiện nam tử! Cái già
cũng thế, có thể
phá hoại sắc đẹp tuổi thanh xuân!
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như vua kia có một
vị quan trí tuệ, khéo biết cách dùng binh. Có một vua khác đối địch,
chống lại. Vua ấy liền sai
vị quan có trí đi đánh phạt.
Vị quan bắt được vua kia đem về nộp lên. Cảnh già cũng như thế, bắt lấy cái sắc đẹp
tráng kiện đem nộp cho vua chết.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như cái
trục xe gãy không thể dùng vào việc gì. Cái già cũng vậy, không thể dùng vào việc gì được nữa.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như một nhà rất giàu, có nhiều
của cải, vật quý,
vàng bạc,
lưu ly,
san hô,
hổ phách,
xa cừ,
mã não... Nếu giặc cướp vào nhà ấy có thể cướp giật làm cho mất sạch.
Thiện nam tử! Sắc đẹp và
tuổi thanh xuân tráng kiện cũng vậy, thường bị giặc cướp là cái già cướp mất.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như người nghèo tham ăn món ngon, tham mặc vải lụa tốt, tuy có
hy vọng như vậy nhưng không có được.
Thiện nam tử! Cái già cũng vậy, tuy có lòng
tham muốn thọ hưởng giàu có,
vui sướng,
thỏa thích trong năm món dục,[81] nhưng không thể được vậy.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như con rùa ở trên cạn, thường nhớ nghĩ đến nước.
Thiện nam tử! Người ta
cũng thế, đã bị khô héo vì già yếu thì lòng thường nhớ nghĩ đến năm món dục đã
thọ hưởng thời trai trẻ.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như mùa thu có
hoa sen, ai cũng muốn nhìn ngắm, đến khi
héo tàn, ai cũng chán chê.
Thiện nam tử! Sắc đẹp tuổi xuân cũng vậy,
ai nấy đều
ưa thích. Đến khi già yếu thì ai cũng chán chê.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như cây mía ép lấy nước rồi thì chẳng còn vị ngọt.
Thiện nam tử! Sắc đẹp tuổi xuân cũng vậy, khi bị cái già ép đến rồi thì không còn [
thực hiện được] ba việc: một là
xuất gia, hai là
đọc tụng [
kinh điển], ba là
ngồi thiền.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như mặt trăng tròn, ban đêm sáng nhiều, còn ban ngày không được vậy.
Thiện nam tử! Người ta cũng như vậy, lúc
tuổi thanh xuân dáng vẻ
nghiêm trang,
hình mạo to khỏe; đến lúc già thì
suy yếu,
hình dung khô héo,
tiều tụy.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như một vị vua
thường dùng chánh pháp trị nước chăn dân,
lòng dạ chân thật, không
tà vạy, giàu đức
từ bi,
thường hành bố thí. Bấy giờ bị nước địch
phá hoại, vua trôi dạt
trốn tránh,
cuối cùng đến một nước khác.
Nhân dân nước ấy thấy vua liền sanh lòng
thương xót, thảy đều nói rằng: ‘Đại vương thuở xưa trị nước theo
chánh pháp,
muôn dân khỏi sự
oan uổng, vì sao trong sớm chiều đã trôi dạt tới đây?’
Thiện nam tử! Người ta
cũng thế, khi bị sự già yếu làm cho
bại hoại rồi, thường
ca ngợi những
việc đã làm vào thuở tráng niên.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như cây đèn cháy được nhờ nơi dầu thắp. Khi dầu sắp hết thì đèn không thể cháy được lâu.
Thiện nam tử! Người ta cũng như thế, chỉ nhờ nơi loại dầu tráng niên. Khi dầu tráng niên đã hết,
ngọn đèn già yếu làm sao còn cháy được lâu?
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như con sông khô cạn không thể làm
lợi ích cho
loài người, loài
phi nhân,
cho đến các loài chim, thú...
Thiện nam tử! Người ta cũng vậy, bị cái khô cạn của
tuổi già rồi thì không thể làm
lợi ích bất cứ công việc nào cả.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như cây cao đứng cạnh mé sông, nếu gặp gió lớn ắt phải ngã nhào.
Thiện nam tử! Người ta cũng như vậy, đứng ven bờ nguy hiểm là cảnh già, khi gió chết thổi tới, tất không đứng vững nữa được.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như chiếc xe bị gãy trục, không thể chở đồ.
Thiện nam tử! Kẻ già rồi cũng vậy, không thể
học hỏi bất cứ pháp lành nào.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như đứa trẻ con, bị
mọi người xem thường.
Thiện nam tử! Kẻ già cũng vậy, thường bị hết thảy
mọi người khinh chê.
“Ca-diếp! Vì những
thí dụ ấy và
vô số thí dụ khác, nên biết rằng sự già đó thật là nỗi khổ rất lớn.
“Ca-diếp! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn, quán sự già là khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét bệnh là khổ? Gọi là bệnh đó, có thể làm mất hết mọi sự
an ổn,
vui sướng,
ví như mưa đá làm
tổn hại lúa mạ.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như người có
kẻ thù, trong lòng thường lo buồn mà ôm lấy sự sợ sệt.
Thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh lại cũng như vậy, vì sợ
bệnh khổ nên trong lòng thường lo buồn.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như có người [thanh niên]
tướng mạo đẹp đẽ tuấn tú, hoàng hậu của vua [trông thấy]
động lòng yêu thương, sai người
ép buộc gọi đến để cùng làm việc mây mưa. Bấy giờ vua bắt được liền sai người khoét một con mắt, cắt một lỗ tai, chặt đứt một tay và một chân.
Lúc ấy, người này
hình dung đổi lạ,
ai nấy đều chê ghét.
Thiện nam tử! Người ta cũng như thế, trước thời
dung mạo đoan nghiêm, tai mắt đầy đủ, đến khi đã bị
bệnh khổ vây quanh
bức bách thì
mọi người đều ghét bỏ, chê bai.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như những loại cây chuối, cây tre, cây lau, cây sậy,
con la, khi có trái hoặc có con thì phải chết.
Thiện nam tử! Người ta
cũng thế, có bệnh thì phải chết.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như vua
Chuyển luân, vị đại thần cầm quân thường ở phía trước, còn vua đi phía sau. Lại như vua cá, vua kiến, vua ốc, vua trâu cùng vị
thương chủ thì đi phía trước, trong khi cả đoàn đều
đi theo sau, không hề rời bỏ.
Thiện nam tử! Vua chết
cũng thế, thường
theo sau vị đại thần là bệnh, chẳng hề rời bỏ. Cũng như các vị vua cá, vua kiến, vua ốc, vua trâu cùng vị
thương chủ, vua bệnh thường
đi trước và đoàn chết luôn
theo sau.
“Ca-diếp!
Nhân duyên của bệnh là
khổ não, lo rầu,
buồn nản,
thân tâm chẳng yên, hoặc bị kẻ oán thù, giặc cướp
bức bách, làm hại,
phá hoại phao nổi, rút bỏ cầu cống, cũng có thể cướp mất
căn bản chánh niệm, lại có thể
phá hoại sắc đẹp,
sức mạnh, sự yên vui của tuổi tráng niên, trừ bỏ lòng
hổ thẹn, có thể làm cho
thân tâm trở nên
nóng nảy,
bứt rứt.
“Bởi những
thí dụ ấy và
vô số những
thí dụ khác, nên biết rằng
bệnh khổ đó là nỗi khổ rất lớn.
“Ca-diếp! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét bệnh là nỗi khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét sự chết là khổ? Gọi là chết đó, là có thể đốt cháy,
tiêu diệt.
“Ca-diếp! Như nạn lửa nổi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ cảnh trời
Nhị thiền sức lửa chẳng tới.
Thiện nam tử! Lửa chết cũng vậy, có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ
Bồ Tát trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn,
thế lực nó chẳng tới.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như nạn lụt nổi lên, tất cả đều bị cuốn trôi, nhấn chìm, chỉ trừ cảnh trời
Tam thiền, sức nước chẳng tới.
Thiện nam tử! Trận lụt chết
cũng thế, nó cuốn trôi, nhấn chìm tất cả, chỉ trừ
Bồ Tát trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như nạn gió bão nổi lên, có thể thổi bay tất cả, làm cho
tiêu tan, diệt mất, chỉ trừ cảnh trời
Tứ thiền, sức gió chẳng tới.
Thiện nam tử! Cơn bão chết
cũng thế, nó thổi bay mất hết thảy
mọi vật đang có, chỉ trừ
Bồ Tát trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Cảnh trời
Tứ thiền đó, do
nhân duyên gì mà gió không thể thổi, nước không thể trôi, lửa không thể cháy?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Cảnh trời
Tứ thiền đó, trong ngoài đều dứt sạch hết thảy mọi
lỗi lầm,
tai họa.
Thiện nam tử! Chỗ
lỗi lầm tai họa ở cảnh trời
Sơ thiền là bên trong có
giác quan, bên ngoài có nạn lửa. Chỗ
lỗi lầm tai họa ở cảnh trời
Nhị thiền là bên trong có sự
vui mừng, bên ngoài có nạn lụt. Chỗ
lỗi lầm tai họa ở cảnh trời
Tam thiền là bên trong có
hơi thở gấp, bên ngoài có nạn gió bão.
“Thiện nam tử! Cảnh trời
Tứ thiền đó, trong ngoài đều dứt sạch hết thảy mọi
lỗi lầm,
tai họa. Cho nên các nạn [gió, nước, lửa đều] không thể tới.
Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như thế, nhờ trụ yên ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn cho nên mọi
lỗi lầm,
tai họa trong ngoài đều dứt sạch.
Vì vậy nên vua chết chẳng tới được.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như chim kim sí[82] có thể nuốt vào và
tiêu hóa hết thảy những loài rồng, cá, vàng, bạc cùng
mọi vật báu khác, chỉ trừ chất
kim cang là không thể
tiêu hóa.
Thiện nam tử! Cái chết cũng như
chim kim sí kia, có thể nuốt vào và
tiêu hóa tất cả
chúng sanh, nhưng không thể tiêu được vị
Bồ Tát ma-ha-tát trụ yên nơi
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như ven bờ sông có
các loại cây cỏ, gặp trận nước lụt tràn qua, thảy đều trôi giạt, bị cuốn vào biển cả, chỉ trừ cây dương liễu, nhờ cây ấy
mềm dẻo.
Thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh lại cũng như thế, thảy đều cuốn theo dòng nước trôi vào biển chết, chỉ trừ
Bồ Tát trụ nơi
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp! Như [vị
lực sĩ cõi trời là] na-la-diên có thể khuất phục hết thảy các
lực sĩ khác, chỉ trừ cơn gió lớn mà thôi. Vì sao vậy? Vì không có
chướng ngại.
Thiện nam tử! Cái chết cũng như vị na-la-diên kia, có thể khuất phục hết thảy
chúng sanh, chỉ trừ
Bồ Tát trụ nơi
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì không có
chướng ngại.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như có người kia đối với kẻ mình oán thù căm ghét lại giả làm ra vẻ
thân thiện, thường
theo đuổi như bóng với hình, rình rập chờ lúc
thuận tiện để giết. Nhưng kẻ oán thù ấy thật
cẩn thận, phòng bị
chắc chắn, nghiêm ngặt, làm cho người kia không thể nào giết được.
Thiện nam tử! Cái chết cũng như người có oán thù kia, thường rình rập
chúng sanh, chờ dịp để giết,
chỉ không giết được vị
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị
Bồ Tát này không bao giờ lười nhác, buông thả
phóng túng.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như [khi trời]
thình lình đổ xuống trận mưa lớn bằng chất
kim cang, ắt sẽ làm hư hoại mọi loài cây thuốc, cây cối nơi rừng núi, đất, cát, ngói gạch, sỏi đá, vàng, bạc,
lưu ly, hết thảy
mọi vật,
chỉ không thể làm hư hoại chất
kim cang thật.
Thiện nam tử! Cái chết cũng như trận mưa
kim cang kia, có thể
phá hoại tất cả
chúng sanh, chỉ trừ bậc
Bồ Tát kim cang trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như chim kim sí, có thể
ăn thịt cả loài rồng,
chỉ không thể
ăn thịt những
chúng sanh nào đã thọ
Tam quy y.
Thiện nam tử! Cái chết cũng như
chim kim sí kia, có thể ăn được hết thảy
vô lượng chúng sanh, chỉ trừ vị
Bồ Tát trụ ở ba phép định. Những gì là ba phép định? Đó là [các pháp]: không,
vô tướng và
vô nguyện.[83]
“Lại nữa, Ca-diếp! Như con
rắn độc ma-la, những ai đã bị nó cắn thì dù có
thần chú, thuốc hay
mầu nhiệm nhất cũng không làm gì được! Chỉ có tinh chú A-kiệt-đa mới có thể chữa khỏi. Nọc độc của cái chết cũng vậy, hết thảy mọi phương thuốc đều vô hiệu! Chỉ trừ sức
chú thuật của
Bồ Tát trụ ở
Đại thừa Đại Niết-bàn.
“Lại nữa, Ca-diếp!
Ví như có người bị vua giận, nếu biết dùng lời dịu ngọt,
hiền hòa cùng với
của cải, vật quý mà dâng lên vua thì có thể thoát tội.
Thiện nam tử! Cái chết chẳng giống như vua kia, cho dù có đem lời dịu ngọt, cùng với tiền tài,
trân bảo mà dâng lên, cũng chẳng thoát được.
“Thiện nam tử! Người nhận lấy cái chết tức là đang ở nơi
tai nạn nguy hiểm mà không có chút
tiền của, lương thực nào; phải đi đến chỗ xa xôi
diệu vợi mà không có bạn
đồng hành, đi suốt ngày đêm mà chẳng biết đâu là bờ bến, sâu thẳm,
u ám, chẳng có
ánh đèn, không có cửa vào nhưng thật có xứ sở; tuy không có chỗ đau nhưng không thể
điều trị, đi lại không ai
ngăn cản nhưng rốt cùng không thể thoát; không có chỗ
phá hoại nhưng ai thấy cũng buồn lo, căm giận; chẳng phải là
hình sắc dữ tợn nhưng khiến người sợ sệt; lộ rõ bên mình mà không thể hay biết.
“Ca-diếp! Vì những
thí dụ ấy và
vô số thí dụ khác, nên biết rằng sự chết thật là nỗi khổ rất lớn. Ca-diếp! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét sự chết là nỗi khổ.
“Ca-diếp! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét sự yêu mến phải lìa xa là khổ? Nỗi khổ phải lìa xa chỗ yêu mến đó có thể là
căn bản của mọi nỗi khổ, như
bài kệ ta thuyết đây:
“Yêu mến sanh lo buồn,
Yêu mến sanh
sợ hãi,
Nếu
lìa bỏ yêu mến,
Còn lo gì, sợ gì?”[84]
“Do
nhân duyên ái luyến, ắt phải sanh ra lo rầu,
khổ não. Do lo rầu,
khổ não, ắt phải khiến cho
chúng sanh trở nên già yếu. Khổ vì phải lìa xa chỗ yêu mến là nói khi mạng sống đã hết.
Thiện nam tử!
Do nơi sự
biệt ly mà có thể phát sanh đủ mọi
khổ não nhỏ nhặt khác. Nay ta sẽ vì ông mà
phân biệt nói rõ.
“Thiện nam tử! Vào thời
quá khứ, người ta sống lâu
vô lượng. Bấy giờ, ở
thế gian có một vị vua tên là
Thiện Trụ. Vua ấy từ lúc còn
thơ ấu, lớn lên làm
thái tử lo việc cai trị,
cho đến lúc
lên ngôi vua, cả thảy là tám vạn bốn ngàn năm. Bấy giờ, trên đỉnh đầu vua bỗng mọc lên một bướu thịt. Bướu ấy mềm nhuyễn như bông đâu-la-miên, loại bông mềm nhuyễn
nhất thế gian. Bướu
dần dần lớn lên nhưng không đau nhức chi cả. Khi đủ mười tháng, bướu ấy tự vỡ, sanh ra một bé trai
hình dung kỳ lạ, đoan chánh chẳng ai
sánh bằng,
hình sắc dáng vẻ
phân biệt rõ ràng, bậc nhất trong
nhân loại. Vua cha lấy làm
vui sướng, đặt tên [cho đứa con kỳ lạ ấy] là Đỉnh Sanh.
“Về sau, vua
Thiện Trụ đem việc nước mà
giao phó cho Đỉnh Sanh, rồi
lìa bỏ cung điện,
vợ con,
quyến thuộc, vào núi
học đạo tu hành trọn tám vạn bốn ngàn năm.
“Một hôm, nhằm ngày rằm, Đỉnh Sanh ở trên lầu cao, tắm gội thọ trai. Bỗng đâu từ phương đông có một bánh xe báu bằng vàng
hiện ra. Bánh xe ấy có một ngàn cây nan hoa và có đủ các bộ phận,
tự nhiên hình thành mà không phải do bàn tay thợ làm ra. Bánh xe ấy
hiện ra rồi lại
tự nhiên bay đến
trước mặt vua Đỉnh Sanh.
“Đại vương Đỉnh Sanh liền nghĩ rằng: ‘Từ trước, ta từng nghe những vị
tiên nhân đạt được Ngũ thông[85] nói rằng: Nếu vị vua dòng sát-đế-lợi, nhằm ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội thọ trai, nếu có bánh xe báu bằng vàng có một ngàn cây nan hoa và có đủ các bộ phận,
tự nhiên hình thành mà không phải do tay thợ làm ra,
tự nhiên bay đến ứng hầu, nên biết rằng vua ấy sẽ được làm
Chuyển luân Thánh vương.’
“Vua lại nghĩ rằng: ‘Nay ta nên thử xem.’ Vua liền lấy tay trái nâng bánh xe vàng ấy lên. Kế đó, tay mặt cầm
lư hương, quỳ xuống phát
lời nguyện rằng: ‘Nếu bánh xe vàng này là thật, chẳng phải
hư dối, thì xin hãy tự đi một đường như những bánh xe của các vị
Chuyển luân Thánh vương trong
quá khứ đã đi.’
“Vua
phát nguyện xong, bánh xe bằng vàng ấy liền bay lên
hư không, đi khắp
mười phương và
trở về trụ nơi bàn tay trái của vua.
Lúc ấy, vua Đỉnh Sanh lấy làm
vui mừng phấn khích, lại nói rằng: ‘Nay ta chắc rằng sẽ làm được
Chuyển luân Thánh vương.’
“Sau đó chẳng lâu, lại có con
bạch tượng quý báu hiện ra,
hình dung đoan nghiêm như
hoa sen trắng, chân, ngà và vòi voi đều chấm đất. Vua Đỉnh Sanh liền nghĩ rằng: ‘Từ trước, ta từng nghe những vị
tiên nhân đạt được Ngũ thông nói rằng: Nếu vị vua dòng sát-đế-lợi, nhằm ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội thọ trai, nếu có
bạch tượng quý báu hình dung đoan nghiêm như
hoa sen trắng, chân, ngà và vòi voi đều chấm đất,
hiện ra ứng hầu, nên biết rằng vua ấy sẽ được làm
Chuyển luân Thánh vương.’ Vua lại nghĩ rằng: ‘Nay ta nên thử xem.’ Vua liền nâng
lư hương, quỳ xuống phát
lời nguyện rằng: ‘Nếu
bạch tượng quý báu này là thật, chẳng phải
hư dối, hãy đi một đường như những
bạch tượng của các vị
Chuyển luân Thánh vương trong
quá khứ đã đi.’
“Vua
phát nguyện xong,
bạch tượng ấy liền ra đi từ sáng đến chiều, đủ khắp tám phương, đến tận bờ biển cả, rồi
trở về đứng ở chỗ cũ.
Lúc ấy, vua Đỉnh Sanh lấy làm
vui mừng thích ý. Người lại nghĩ rằng: ‘Nay ta chắc sẽ được làm
Chuyển luân Thánh vương.’
“Sau đó chẳng lâu, lại có con ngựa báu màu xanh biếc
tuyệt đẹp, lông đuôi màu
vàng ròng [hiện đến]. Đỉnh Sanh thấy vậy rồi, lại nghĩ rằng: ‘Từ trước ta từng nghe những vị
tiên nhân đạt được Ngũ thông nói rằng: Nếu có vua
Chuyển luân, vào ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội thọ trai, bỗng có con ngựa quý màu xanh biếc
tuyệt đẹp, lông đuôi màu
vàng ròng, hiện đến ứng hầu, nên biết rằng vua ấy tức là
Thánh vương.’
“Vua lại nghĩ rằng: ‘Nay ta nên thử xem.’ Vua liền nâng
lư hương, quỳ xuống
phát nguyện rằng: ‘Nếu ngựa quý màu xanh biếc này là thật, chẳng phải
hư dối, hãy đi một đường như những ngựa quý của các vị
Chuyển luân Thánh vương trong
quá khứ đã đi.’ Vua phát
lời nguyện ấy rồi, ngựa quý liền ra đi từ sáng tới chiều, đi khắp tám phương, đến tận bờ biển cả, rồi
trở về đúng chỗ cũ.
Lúc ấy, Đỉnh Sanh lấy làm
vui mừng phấn khích, lại nói rằng: ‘Nay ta chắc rằng sẽ được làm bậc
Chuyển luân Thánh vương.’
“Sau đó chẳng bao lâu, lại có một mỹ nhân
hình dung đoan chính,
xinh đẹp bậc nhất, không cao không thấp, chẳng trắng chẳng đen. Từ các lỗ chân lông trên thân cô lại
tỏa ra mùi hương chiên-đàn, trong miệng bay ra
mùi thơm như
hoa sen xanh. Mắt cô có thể nhìn xa đến một do-tuần,[86] tai cũng có thể nghe xa, mũi cũng có thể ngửi xa đến như vậy. Lưỡi cô lớn rộng, khi thè ra có thể che trùm cả khuôn mặt, hình thể da dẻ mịn màng
xinh đẹp, có màu như đồng đỏ. Mỹ nhân ấy lại
thông minh sáng suốt, đối vơi
chúng sanh thường nói lời êm dịu. Khi cô dùng tay sờ vào áo vua, liền có thể biết được thân vua đang an vui hay có bệnh, lại có thể biết được trong lòng vua đang nghĩ đến những điều gì.
Lúc ấy, vua Đỉnh Sanh lại nghĩ rằng: ‘Nếu có người mỹ nhân khéo biết được trong lòng vua, ấy là báu vật
vô giá.’
“Rồi sau đó chẳng bao lâu, trong cung vua
tự nhiên xuất hiện hạt châu ma-ni
quý báu, có màu xanh thuần như
lưu ly, lớn bằng bắp đùi người, có thể ở trong
chỗ tối chiếu ra ánh sáng xa đến một do-tuần. Nếu khi trời đổ mưa, hạt mưa lớn như trục bánh xe, hạt châu ấy có thể hóa ra cây lọng quý che khắp một
do tuần, chẳng để cho hạt mưa nào có thể rơi xuống
trong khoảng ấy. Bấy giờ, Đỉnh Sanh lại nghĩ rằng: ‘Như vua
Chuyển luân mà được hạt châu này, ắt phải là
Thánh vương.’
“Sau đó chẳng bao lâu, lại có
vị quan Chủ tạng thần
tự nhiên xuất hiện. Vị ấy có nhiều
của cải trân bảo,
giàu có vô lượng, kho báu đầy tràn, không thiếu món chi. Vị ấy có cặp mắt nhìn thấu suốt bên dưới lòng đất, thấy được kho tàng
ẩn khuất ở
mọi nơi,
tùy ý vua
cần dùng bao nhiêu, vị ấy đều có thể liệu kiếm được đủ cho vua dùng.
“Lúc ấy, Đỉnh Sanh lại muốn thử xem. Vua liền cùng ngồi thuyền với vị Chủ tạng thần ấy đi ra biển cả, bảo rằng: ‘Nay ta muốn có những món
trân bảo lạ.’ Nghe xong, vị Chủ tạng thần liền lấy hai bàn tay mà khuấy nước biển.
Lúc ấy, nơi mười đầu ngón tay của vị ấy bỗng
xuất hiện mười kho báu, người dâng lên
Thánh vương và tâu rằng: ‘Đại vương cần những thứ chi, xin
tuỳ ý dùng. Còn dư bao nhiêu, xin trả lại biển cả.’
Lúc ấy, Đỉnh Sanh lấy làm
vui mừng phấn khích
vô cùng, lại nói rằng: ‘Nay ta
chắc chắn rằng ta sẽ là
Chuyển luân Thánh vương.’
“Sau đó chẳng bao lâu, lại có
vị quan Chủ binh thần
tự nhiên xuất hiện. Vị này
dũng mãnh thao lược, mưu trí bậc nhất, khéo biết
sử dụng cả
bốn loại quân.[87] Khi nhận
trách nhiệm chiến đấu, ắt
Thánh vương xuất hiện.
Nếu không nhận
trách nhiệm chiến đấu, liền rút lui chẳng hiện. Đối với những người chưa khuất phục, có thể làm cho khuất phục, đối với những người đã khuất phục, có thể
đủ sức bảo vệ,
giữ gìn.
“Bấy giờ, vua Đỉnh Sanh nghĩ rằng: ‘Nếu vua
Chuyển luân được quân đội
quý báu này,
chắc chắn phải là
Chuyển luân Thánh vương.’
“Một hôm,
Chuyển luân Thánh vương Đỉnh Sanh hỏi các đại thần rằng: ‘Các khanh nên biết là cõi Diêm-phù-đề này đã được
an ổn, phồn thạnh. Nay trẫm có đủ
bảy món báu và một ngàn đứa con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan tâu rằng: ‘Vâng, tâu
Đại vương, Phất-bà-đề ở phương đông chưa qui thuận
uy đức của ngài, nên đến đó thảo phạt.’
“Lúc ấy,
Thánh vương cùng với
bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay lên
hư không mà đến cõi Phất-bà-đề ở phương đông. Ở châu ấy,
nhân dân thảy đều
vui lòng qui thuận.
“Vua lại hỏi các đại thần rằng: ‘Châu Diêm-phù-đề và châu Phất-bà-đề đã được
an ổn, phồn thạnh,
nhân dân thảy đều qui thuận. Trẫm có đủ
bảy báu và một ngàn đứa con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan tâu rằng: ‘Dạ, tâu
Đại vương, Cồ-đà-ni ở phương tây hãy còn chưa quy thuận đức lớn của ngài.’
Lúc ấy,
Thánh vương với
bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay trên
hư không mà đến Cồ-đà-ni ở phương tây. Khi vua ngự tới đó rồi,
nhân dân cõi ấy cũng
quy phục đức lớn của ngài.
“Vua lại hỏi các đại thần rằng: ‘Châu Diêm-phù-đề, châu Phất-bà-đề và châu Cồ-đà-ni nay đều được
an ổn, phồn thạnh,
nhân dân thảy đều quy thuận. Trẫm có đủ
bảy báu và một ngàn đứa con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan tâu rằng: “Tâu Đại vương! Uất-đan-việt ở phương bắc hãy còn chưa qui thuận.”
“Lúc ấy,
Thánh vương với
bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay lên
hư không mà đến châu Uất-đan-việt ở phương bắc. Khi vua ngự tới đó rồi,
nhân dân ở cõi ấy đều
vui lòng qui thuận đức lớn của ngài.
“Vua lại phán với các đại thần rằng: ‘Bốn cõi
thiên hạ đều được
an ổn, phồn thạnh,
nhân dân thảy đều qui thuận đức lớn của ta. Ta có đủ
bảy báu và một ngàn đứa con trai, vậy nên làm việc gì nữa?’
“Các quan đáp rằng: ‘Dạ, Thánh vương! Ở
cõi trời Ba mươi ba[88] mạng sống của
chư thiên rất
lâu dài,
an ổn, khoái lạc.
Chư thiên ở đó
thân hình đoan nghiêm không chi
sánh bằng. Cung điện mà họ ở, giường ngủ, ghế ngồi đều toàn bằng
bảy món báu. Họ
dựa vào phước lực cõi trời nên chưa chịu đến quy hóa. Nay có thể đến đó mà làm cho họ khuất phục.’
“Lúc ấy,
Thánh vương lại cùng với
bảy báu của ngài và tất cả quân binh đều bay lên
hư không, lên tới cung trời Đao-lợi, nhìn thấy một cái cây màu xanh lục.
Thánh vương liền hỏi các đại thần rằng: ‘Đó là màu sắc gì vậy?’ Đại thần đáp rằng: ‘Đó là màu sắc của cây ba-lợi-chất-đa-la.
Chư thiên ở
cõi trời Đao-lợi này, trong ba tháng
mùa hạ thường
vui chơi dưới cội cây ấy.’ Lại thấy màu trắng dường như mây bạc, vua hỏi đại thần rằng: ‘Đó là màu sắc gì vậy?’ Đại thần đáp rằng: ‘Là màu sắc của
Thiện pháp đường.
Chư thiên ở Đao-lợi thường họp lại trong đó,
luận bàn việc ở
cõi trời và
cõi người.’
“Lúc ấy vị
Thiên chủ Thích-đề-hoàn-nhân biết rằng vua Đỉnh Sanh đã đến ở bên ngoài, bèn ra
nghinh tiếp.
Gặp nhau rồi, nắm tay cùng lên
Thiện pháp đường, phân chỗ mà ngồi.
“Lúc ấy, hai vua
hình dung tướng mạo y hệt như nhau, duy chỉ cặp mắt có phần hơi khác nhau thôi. Ngay
lúc ấy,
Thánh vương khởi
ý nghĩ rằng: ‘Nay ta có nên
từ bỏ ngôi vua kia mà ở lại đây làm
Thiên vương chăng?’
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Đế-thích
thọ trì,
đọc tụng kinh điển Đại thừa, lại vì người khác mà mở mang,
chỉ bảo,
phân biệt giảng nói, chỉ đối với
nghĩa lý sâu xa chưa
thông đạt đến mức cùng tột mà thôi. Nhờ sức
nhân duyên của việc
thọ trì,
đọc tụng, vì người khác mà
phân biệt giảng rộng [
kinh điển Đại thừa] nên có
oai đức rất lớn.
“Thiện nam tử! Vì Đỉnh Sanh đối với Đế-thích
sanh khởi lòng xấu ác nên liền bị
đọa lạc, [
lập tức] rơi
trở lại cõi Diêm-phù-đề, ôm lòng nhớ tưởng sự chia lìa giữa
cõi người và
cõi trời mà phát
sanh khổ não rất lớn. Sau lại mắc bệnh nặng, liền phải bỏ mạng.
“Đế-thích lúc bấy giờ tức là
Phật Ca-diếp sau này, còn
Chuyển luân Thánh vương thuở ấy tức là
tiền thân của ta.
“Thiện nam tử! Nên biết rằng cái khổ yêu mến phải chia lìa đó thật là khổ lớn.
Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát còn nhớ tới những nỗi khổ vì chia lìa ấy trong các đời
quá khứ của mình, huống chi
Bồ Tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn mà chẳng quán xét nỗi khổ yêu mến phải chia lìa
trong đời hiện tại này sao?
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Niết-bàn quán xét sự khổ vì oán ghét phải gặp nhau?
Thiện nam tử! Vị
Bồ Tát ma-ha-tát ấy nhìn thấy ở các
cõi địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ,
cõi người,
cõi trời, thảy đều có sự khổ vì oán ghét phải
gặp nhau.
“Ví như người ta xét thấy những cảnh trói giam,
gông cùm nơi lao ngục là khổ lớn,
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như vậy, xét thấy tất cả muôn loài thọ sanh trong năm đường[89] đều là nỗi khổ lớn vì phải gặp gỡ người mình oán ghét.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có một người kia thường sợ sự
gông cùm, xiềng khóa của kẻ oán thù, bèn
lìa bỏ cha mẹ,
vợ con,
quyến thuộc,
trân bảo, sản nghiệp mà trốn đi xa.
Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát lại cũng như vậy, vì sợ sệt
sanh tử bèn
tu hành trọn vẹn sáu pháp ba-la-mật,[90] vào nơi Niết-bàn.
“Ca-diếp! Đó gọi là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn quán xét việc oán ghét phải
gặp nhau là khổ.
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát tu hành kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn quán xét việc mong cầu không được là khổ? Nói mong cầu đó là mọi thứ đều dốc lòng cầu. Dốc lòng cầu có hai
trường hợp: một là
cầu pháp lành, hai là
cầu pháp chẳng lành. Pháp lành chưa
đạt được là khổ, pháp chẳng lành chưa dứt bỏ được là khổ.
“Đó là lược nói qua về
năm ấm bạo phát là khổ. Ca-diếp! Đó gọi là
Khổ đế.”
Lúc ấy Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói về cái khổ
năm ấm bạo phát, nghĩa ấy không
thích hợp. Vì sao vậy? Trước đây Phật có nói với Thích-ma-nam rằng: ‘Nếu
hình sắc là khổ thì hết thảy
chúng sanh chẳng nên cầu
hình sắc. Nếu có người cầu, tức không gọi là khổ.’ Lại như Phật có dạy chư tỳ-kheo rằng: ‘Có ba loại
cảm thọ:
cảm thọ khổ,
cảm thọ vui, và
cảm thọ không vui không khổ.’ Lại như trước đây Phật có dạy chư tỳ-kheo rằng: ‘Nếu có người biết
tu hành theo pháp lành, ắt được hưởng sự
vui thích.’ Lại như Phật có dạy: ‘Trong
thiện đạo có sáu sự xúc chạm tạo ra
vui thích, như mắt thấy
hình sắc đẹp liền sinh lòng
vui thích. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý đối với các pháp
tốt đẹp tương ứng cũng vậy.’ Như Phật có thuyết kệ rằng:
“Giữ giới ắt được vui,
Thân không chịu các khổ,
Giấc ngủ được
yên ổn,
Khi thức lòng
vui vẻ.
Như lúc lãnh áo cơm,
Tụng tập rồi
kinh hành,[91]
Cô độc nơi rừng núi,
Như vậy là vui nhất!
Nếu đối với
chúng sanh,
Ngày đêm thường tu từ,
Nhân đó thường được vui,
Vì không
tổn hại ai.
Ít muốn, biết đủ, vui,
Nghe nhiều rõ biết, vui,
La-hán không đắm chấp,[92]
Cũng gọi là được vui.
Bồ Tát ma-ha-tát,
Rốt cùng đến bờ kia,[93]
Mọi việc đã làm xong,
Gọi là vui bậc nhất.
“Bạch Thế Tôn! Như trong các kinh nói về tướng
vui thích,
ý nghĩa là như vậy. Nay như Phật vừa nói đó, làm sao
phù hợp với nghĩa ấy?”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN MƯỜI HAI
[54] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu quyển 11, phẩm Thánh hạnh thứ 19, phần một.
[55] Tăng phường: Nơi tu tập của chư tăng, như chùa chiền, tinh xá...
[56] Ba tấm pháp y: Bộ pháp phục của vị tỳ-kheo gồm ba tấm y là y an-đà-hội, y uất-đa-la-tăng và y tăng-già-lê. Người đã xuất gia chỉ được mặc các y này, không được sử dụng y phục của người thế tục.
[57] Đột-kiết-la hay Bách chúng học pháp (100 điều cần phải học) là những giới nhỏ nhặt nhất trong giới luật của vị tỳ-kheo, quy định chi tiết cách ứng xử hàng ngày, tạo nên oai nghi tế hạnh của người xuất gia. Những pháp này rất chi ly, nhỏ nhặt và không nhất thiết mỗi mỗi khi phạm vào đều phải bị xử phạt, nhưng lại là khuôn mẫu rất quan trọng để vị tỳ-kheo có thể sống tốt đời sống tu tập.
[58] Năm món cay (ngũ vị tân): 1. tỏi (đại toán), 2. hành (cách thông), 3. hẹ (từ thông), 4. kiệu (lan thông), 5. nén (hưng cừ). Năm món này có vị cay nồng, kích thích sự ham muốn nhục dục, nên người xuất gia không nên ăn.
[59] Trò ba-la-tắc: một trò chơi đặc biệt ở Ấn Độ thời cổ, gồm 2 người chia ra hai phe, cưỡi trên voi hoặc ngựa, xông vào đấu trường để tranh nhau một vị trí định trước, ai được là thắng. Trong kinh văn Hán tạng đôi khi cũng gọi trò chơi này là tượng mã đấu, nhưng thật ra chỉ là trò chơi cưỡi trên lưng voi, ngựa chứ voi và ngựa thật không đấu nhau.
[60] Cờ tám đường quanh thành: Nguyên bản là “bát đạo hành thành”. Theo Thụy ứng bản khởi kinh thì đây là một trò chơi giống như đánh cờ, dùng tám bức vẽ làm đường đi cho các quân cờ, mô phỏng sự kiện thái tử ra khỏi thành xuất gia có bốn vị thiên vương theo chân ngựa thái tử... Tuy không hiểu cụ thể nhưng có thể biết đây là một trò giải trí thời đó.
[61] Tà mạng: Trái với chánh mạng, nghĩa là sanh sống bằng những hành vi, nghề nghiệp tà vạy, không chân chánh. Tà mạng của người cư sĩ là những nghề nghiệp gây tổn hại đến người khác, nhưng đối với vị tỳ-kheo thì chánh mạng là phải dùng việc khất thực đúng pháp để nuôi sống, nên nếu làm bất cứ việc gì không đúng Chánh pháp để kiếm sống đều gọi là tà mạng, chẳng hạn như tất cả các nghề nghiệp của thế gian.
[62] Bất động địa, là địa vị tu chứng thứ 8 trong Thập địa của hàng Bồ Tát. Đạt đến địa vị này, Bồ Tát không còn bị dao động bởi bất kỳ một cảnh ngộ nào, và đã biết chắc khi nào mình sẽ thành tựu quả vị Phật.
[63] Tàm và quý: Tàm có nghĩa là tự hổ thẹn với chính mình về những việc sai trái đã mắc phải. Quý có nghĩa là xấu hổ với người khác vì đã làm chuyện sai trái. Như vậy, người có đủ hai đức tàm và quý thì dẫu có hay không có sự chứng kiến của người khác cũng chẳng hề phạm vào những điều xấu ác.
[64] Bảy Thánh giác, hay Thất Thánh giác, cũng gọi là Thất giác chi, Thất giác ý, bao gồm: 1. Trạch pháp giác chi 2. Tinh tấn giác chi 3. Hỷ giác chi 4. Khinh an giác chi 5. Niệm giác chi 6. Định giác chi và 7. Xả giác chi.
[65] Nguyên bản dùng “thanh hoàng xích bạch...”, Nam bản bỏ chữ “xích”, chúng tôi theo vì thấy hợp lý: không thấy xương có màu đỏ bao giờ. Có lẽ cụm từ “thanh hoàng xích bạch” được dùng theo thói quen. Hơn nữa, ngay trong một đoạn sau cũng thấy viết là: “như thanh sắc, quán hoàng, bạch, cáp sắc diệc phục như thị...” nghĩa là không có chữ “xích” (màu đỏ).
[66] Ba sự ham muốn (Tam dục): 1. Hình mạo dục: ham muốn nhan sắc, thân hình đẹp đẽ của kẻ khác; 2. Tư thái dục: Ham muốn dáng vẻ, cung cách đi đứng của kẻ khác; 3. Tế xúc dục: Ham muốn sự xúc chạm mềm mại, êm dịu với kẻ khác.
[67] Bốn phương kế cận (tứ duy): là các phương đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc. Khái niệm mười phương (thập phương) thường dùng trong đạo Phật là xuất phát từ đây, bao gồm các phương đông, tây, nam, bắc, đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc, cùng với hai phương trên, dưới.
[68] Bốn đại (tứ đại): bốn yếu tố cấu thành vật chất theo quan điểm xưa, gồm có đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong). Hiểu theo ý nghĩa tượng trưng thì đây là bốn tính chất phổ biến của vật chất: đất tượng trưng cho độ rắn chắc, kết cấu của vật chất; nước tượng trưng cho độ ẩm, sự hiện diện của nước trong vật chất; lửa tượng trưng cho nhiệt năng hay năng lượng, hàm chứa trong mọi vật chất; và gió tượng trưng cho sự chuyển động, thay đổi của các phân tử cấu thành vật chất.
[69] Đàn không hầu: một loại nhạc cụ ngày xưa, giống đàn sắt nhưng nhỏ hơn, có 23 dây.
[70] Ba mươi sáu thứ (Tam thập lục vật): Một cách liệt kê tượng trưng các chi tiết hợp thành thân người, bao gồm: 12 thứ ngoài thân: tóc, lông, móng, răng, dử ghèn, nước mắt, nước miếng, đàm dãi, phẫn, nước tiểu, cáu ghét, mồ hôi; 12 thứ trong thân: da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ trong, mỡ ngoài, não, mạc; 12 cơ quan nội tạng: gan, mật, ruột, dạ dày, lách, cật, tim, phổi, sanh tạng (tam tiêu), thục tạng (bàng quang), đàm trắng, đàm đỏ. Cũng có thể hiểu 36 thứ là cách nói tượng trưng chỉ cho sự kết hợp của rất nhiều bộ phận, cơ quan chi tiết khác nhau tạo thành cơ thể.
[71] Tứ niệm xứ (Bốn chỗ niệm tưởng): 1. Niệm tâm vô thường (Tâm niệm xứ): luôn thấy biết rằng tâm niệm vô thường, nối tiếp sanh diệt, không có gì bền chắc, đáng cố chấp 2. Niệm thọ thị khổ (Thọ mạng xứ): luôn thấy biết rằng mọi cảm thọ đều là khổ, không có gì để mê đắm, tham tiếc. 3. Niệm pháp vô ngã (Pháp niệm xứ): luôn thấy biết rằng hết thảy các pháp đều do nhân duyên mà sanh, giả hơp thành tướng, trong đó không có pháp nào có thể gọi là ngã. 4. Niệm thân bất tịnh (Thân niệm xứ): luôn thấy biết rằng thân này do nhân duyên giả hợp, gồm những vật chất bất tịnh, nhơ nhớp, không bền chắc, không có gì để tham đắm, chấp giữ. Bồ Tát do nơi bốn niệm xứ này mà luôn thấy được tánh thật của các pháp.
[72] Kham nhẫn địa: Địa vị ban sơ trong mười địa vị (Thập địa) của hàng Bồ Tát, cũng gọi là Hoan hỷ địa.
[73] Ba tướng khổ (khổ khổ, hành khổ và hoại khổ). Tướng khổ vì sự khổ: các nỗi khổ như tật bệnh, đói khát, nóng lạnh... nối nhau không dứt. Cái khổ này vừa dứt thì cái khổ khác tiếp theo, làm cho chúng sanh đau khổ. Tướng khổ vì các hành: do các hành là vô thường nên vạn vật trong thế gian đều là thường, liên tục biến đổi. Sự vô thường thay đổi của chúng làm cho người ta phải khổ. Tướng khổ vì hoại diệt: Vạn vật trong thế gian đều phải hư hoại, bản thân mỗi người cũng như hết thảy những con người và sự vật mình yêu thích đều phải hoại diệt. Điều ấy làm cho chúng sanh phải khổ.
[74] Tám nỗi khổ này thường được gọi chung là Bát khổ.
[75] Mười sức của Phật (Thập lực), cũng gọi là Mười trí lực (Thập trí lực), bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực, 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực, 3. Tri chư thiên giải thoát tam-muội trí lực, 4. Tri chúng sanh tâm tánh trí lực, 5. Tri chủng chủng giải trí lực, 6. Tri chủng chủng giới trí lực, 7. Tri nhất thiết sở đạo trí lực, 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực, 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực, 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
[76] Bốn đức chẳng sợ (Tứ vô sở úy), cũng gọi là Tứ vô úy. Bao gồm:
a. Nhất thiết trí vô sở úy
b. Lậu tận vô sở úy
c. Thuyết chướng đạo vô sở úy
d. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy
Đó là bốn đức chẳng sợ của Phật. Lại có bốn đức chẳng sợ của hàng Bồ Tát:
a. Tổng trì bất vong thuyết pháp vô úy
b. Tận tri pháp dược, cập tri chúng sanh căn dục tánh tâm, thuyết pháp vô úy
c. Thiện năng vấn đáp, thuyết pháp vô úy
d. Năng đoạn vật nghi, thuyết pháp vô úy
[77] Ba chỗ niệm (Tam niệm xứ): cũng gọi là Tam niệm trụ hay Tam chánh niệm xứ. 1. Đệ nhất niệm xứ: Đức Phật khi thuyết pháp niệm tưởng pháp giới bình đẳng, rốt cùng không có tướng suy giảm, nên dù chúng sanh không hết lòng nghe pháp cũng chẳng sanh tâm lo lắng. 2. Đệ nhị niệm xứ: Đức Phật khi thuyết pháp niệm tưởng pháp giới bình đẳng, rốt cùng không có tướng tăng tiến, nên dù chúng sanh hết lòng nghe pháp cũng chẳng sanh tâm vui mừng. 3. Đệ tam niệm xứ: Đức Phật khi thuyết pháp niệm tưởng pháp giới bình đẳng, rốt cùng các tướng sanh tử, Niết-bàn đều không thể nắm bắt, vì thế thường sanh tâm buông xả, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh nhưng không hề có ý niệm làm lợi ích chúng sanh.
[78] Người này tuy mạng căn chưa dứt nhưng phạm vào tội hủy báng kinh điển Đại thừa nên xem như đã chết, không thể cứu vãn.
[79] Tuy mạng căn chưa dứt nhưng hủy phạm cấm giới nên xem như đã chết, không thể cứu vãn.
[80] Năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[81] Năm món dục (Ngũ dục): Năm sự ưa thích, vui thỏa với trần cảnh, bao gồm sự đắm vui với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị giác và xúc giác. Sự đam mê của chúng sanh tuy rất nhiều nhưng không ra ngoài 5 món dục này.
[82] Chim kim sí (Kim sí điểu): Chim cánh vàng, cũng gọi là chim đại bàng, là loài chim có hình thể lớn nhất.
[83] Cũng gọi là Tam giải thoát môn, là ba phép quán tưởng, thiền định giúp người tu tập đạt đến sự giải thoát. Không là nhận biết ngã và pháp đều trống không; vô tướng là nhận biết hết thảy các pháp đều bình đẳng, vô tướng; vô nguyện là nhận biết sanh tử là khổ, dứt hết mọi ham muốn, có thể đạt đến Niết-bàn.
[84] Nội dung bài kệ này được ghi lại trong kệ số 212 của kinh Pháp cú như sau: Tùng hỷ ái sanh ưu, tùng hỷ ái sanh bố, ly hỷ ái vô ưu, hà xứ hữu khủng bố. - Từ hỷ ái sanh ra lo lắng, từ hỷ ái sanh sợ sệt. Xa lìa hỷ ái thì chẳng còn lo lắng, còn có gì phải khiếp sợ?
[85] Tiên Ngũ thông (Ngũ thông tiên): là những vị ẩn cư trên núi cao, giữ hạnh thanh tịnh, được phép thần thông và thọ mạng lâu dài. Năm phép thần thông của các vị này (Ngũ Thông) là: 1. Thiên nhãn thông: mắt thấy các cõi chúng sanh 2. Thiên nhĩ thông: tai nghe các thanh âm ở các nơi 3. Tha tâm thông: biết được tư tưởng của chúng sanh. 4. Thần túc thông: biến hóa nhiều phép thuật linh nghiệm phi thường 5. Túc mạng thông: biết các đời trước của chúng sanh, nhớ được các đời trước của mình.
[86] Một do-tuần (yojana), cũng đọc là do-diên hay du-thiện-na, tương đương khoảng 9.216 mét.
[87] Bốn loại quân trong quân đội ngày xưa, bao gồm: 1. Tượng binh: quân sử dụng voi chiến 2. Mã binh: quân sử dụng ngựa chiến 3. Xa binh: quân sử dụng các loại chiến xa 4. Bộ binh: quân chỉ thuần đánh bộ.
[88] Cảnh trời Ba mươi Ba: Tam thập tam thiên cũng gọi là Đao-lợi thiên, vì Đao-lợi thiên gồm 33 cõi trời. Bốn phương, mỗi phương có 8 cõi trời, với 1 cõi trời ở trung tâm là 33. Mỗi cõi trời có một vị Thiên Đế cai quản, ở trung tâm có thành gọi là Hỷ Kiến, có đức Đế Thích ngự tại Thiện Pháp Đường là vị chủ quản cao nhất.
[89] Năm đường (Ngũ đạo): Năm cảnh giới thọ sanh của chúng sanh do tạo nghiệp, bao gồm: 1. Địa ngục 2. Súc sanh 3. Ngạ quỷ 4. Cõi người 5. Cõi trời.
[90] Sáu pháp Ba-la-mật (Lục ba-la-mật), cũng gọi là Lục độ, bao gồm: 1. Bố thí Ba-la-mật 2. Trì giới Ba-la-mật 3. Nhẫn nhục Ba-la-mật 4. Tinh tấn Ba-la-mật 5. Thiền định Ba-la-mật 6. Trí huệ Ba-la-mật.
[91] Kinh hành: đi chậm rãi và nhiếp tâm, chung quanh điện Phật hoặc sân chùa, am, tịnh thất, thường là vào những giờ nhất định trong ngày.
[92] La-hán không đắm chấp (Vô trước A-la-hán): Vị A-la-hán là người đã trừ sạch phiền não, không còn vướng mắc, đắm chấp nơi trần cảnh.
[93] Tức là đạt được sự giải thoát, vì kinh Phật ví sự mê lầm của chúng sanh là bờ bên này (thử ngạn), cảnh giới giải thoát của chư Phật là bờ bên kia (bỉ ngạn).
QUYỂN MƯỜI BA
PHẨM THÁNH HẠNH
Phẩm thứ bảy – Phần ba
Phật dạy Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Ông thật khéo hỏi
Như Lai nghĩa ấy!
Thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh khi chịu ít khổ hơn liền sanh ra
tư tưởng trái ngược cho là
vui sướng. Cho nên tướng khổ mà hôm nay ta thuyết dạy so về
căn bản cũng không khác biệt.”
Lúc ấy Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Như Phật dạy rằng
chúng sanh khi chịu ít khổ hơn liền sanh ra
tư tưởng cho là
vui sướng,
vậy thì những sự ít khổ khác như già, bệnh, chết, yêu mến phải lìa xa, mong cầu không được, oán ghét phải
gặp nhau,
năm ấm bạo phát, lẽ ra cũng đều có chỗ
vui sướng.
“Bạch Thế Tôn! Sanh nơi
thấp kém, đó là nói
Ba cảnh dữ.[94] Sanh nơi trung bình, đó là nói
cõi người. Sanh nơi cao quý, đó là nói
cõi trời. Như có người lại hỏi: ‘Nếu khi được ít vui lại sanh ra
tư tưởng cho là khổ, được
vui sướng trung
bình sanh ra
tư tưởng cho là không
khổ không vui, được
vui sướng nhiều liền sanh ra
tư tưởng cho là
vui sướng.’ Vậy phải
trả lời như thế nào?
“Bạch Thế Tôn! Như nói khi chịu ít khổ hơn mà sanh ra
tư tưởng cho là
vui sướng, con chưa từng thấy có người nào sắp phải chịu đánh ngàn lần mà khi bị đánh
một lần đầu lại sanh ra
tư tưởng vui sướng! Nếu chẳng sanh
tư tưởng ấy, sao nói rằng khi chịu ít khổ hơn liền sanh ra
tư tưởng vui sướng?”
Phật bảo Ca-diếp: “Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì nghĩa ấy nên không có cái
tư tưởng vui sướng. Vì sao vậy? Cũng như người kia, sắp phải chịu đánh một ngàn lần, nhưng vừa chịu đánh xong
một lần liền
được giải thoát. Lúc đó, người ấy liền sanh
tư tưởng vui sướng. Cho nên biết rằng, [người ấy] đối với việc
không vui sướng mà
sai lầm sanh ra
tư tưởng vui sướng.”
Ca-diếp nói: “Bạch Thế Tôn! Người ấy không phải vì chịu đánh
một lần mà phát sanh
tư tưởng vui sướng, chính là vì được thoát [khỏi những lần còn lại] nên sanh ra
tư tưởng vui sướng.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Cho nên
ngày xưa ta vì Thích-ma-nam[95] mà dạy về sự
vui sướng trong
năm ấm,[96] chẳng phải lời
hư dối.
“Ca-diếp! Có ba sự
cảm thọ và ba sự khổ. Ba sự
cảm thọ là:
cảm thọ vui sướng,
cảm thọ đau khổ,
cảm thọ không vui không khổ. Ba sự khổ là: khổ vì sự khổ, khổ vì các hành và khổ vì sự hư hoại.
“Thiện nam tử!
Cảm thọ đau khổ đó là [
chịu đựng đủ] ba sự khổ: khổ vì sự khổ, khổ vì các hành và khổ vì sự hư hoại. Còn hai
cảm thọ kia là khổ vì các hành và khổ vì sự hư hoại.
“Thiện nam tử! Vì
nhân duyên ấy nên giữa chốn
sanh tử thật có
cảm thọ vui sướng. Bậc
Đại Bồ Tát thấy rõ tánh thật của khổ đau và
vui sướng chẳng hề lìa nhau nên mới dạy rằng: ‘Tất cả đều là khổ.’
“Thiện nam tử! Giữa chốn
sanh tử thật không có gì là
vui sướng. Chỉ vì chư Phật,
Bồ Tát tùy thuận thế gian nên dạy rằng có
vui sướng.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu chư Phật và
Bồ Tát tùy thuận thế tục mà nói thì đó có phải là
hư vọng chăng? Như Phật có dạy: ‘Tu hành điều thiện, ắt hưởng
quả báo vui sướng;
giữ giới thì được an vui, thân không chịu khổ;
cho đến làm xong
mọi việc thì đó là sự
vui sướng tột bực. Những kinh như vậy nói về sự
cảm thọ vui sướng, có phải là
hư dối chăng? Nếu là
hư dối, thì chư
Phật Thế Tôn tu đạo Bồ-đề trong
vô lượng trăm ngàn muôn
ức kiếp lâu xa, đã
lìa bỏ sự
nói dối, nay lại nói ra như vậy là
ý nghĩa gì?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như trên đã nói,
bài kệ giảng về những
cảm thọ vui sướng tức là
căn bản của đạo Bồ-đề, lại cũng có thể nuôi lớn
quả vị Chánh đẳng chánh giác. Bởi nghĩa ấy nên trước đây trong kinh ta có nói về tướng
vui sướng như vậy.
“Thiện nam tử!
Ví như ở
thế gian, những thứ cần đến
trong đời sống có thể là
nguyên nhân của
vui sướng, nên gọi đó là
vui sướng. Những thứ ấy là: sắc đẹp
phụ nữ, rượu ngon, món ăn
thịnh soạn, vị ngọt, lúc khát gặp nước uống, lúc lạnh gặp lửa ấm, áo quần, vòng chuỗi, voi ngựa, xe cộ, tôi trai tớ gái,
vàng bạc,
lưu ly,
san hô, chân châu, kho lẫm lúa thóc... Những thứ như vậy là chỗ cần đến của
thế gian, có thể là
nguyên nhân của
vui sướng, cho nên gọi là
vui sướng.
“Thiện nam tử! Những thứ như vậy lại cũng có thể sanh ra
đau khổ. Do người
phụ nữ mà làm cho người đàn ông sanh ra những sự
đau khổ, lo buồn, than khóc,
cho đến bỏ mạng.
Do nơi rượu ngon, món ăn
thịnh soạn... hết thảy các thứ
cho đến kho lẫm lúa thóc... mà làm cho người ta sanh mối
lo lắng buồn phiền lớn. Vì nghĩa ấy, hết thảy đều là khổ,
thật không có tướng
vui sướng.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát đối với
tám nỗi khổ, biết rõ là khổ nên không có khổ.
“Thiện nam tử! Hết thảy hàng
Thanh văn,
Bích-chi Phật chẳng biết
nguyên nhân của
vui sướng. Vì những người như vậy nên ở trong chỗ ít khổ mà nói là có tướng
vui sướng. Chỉ có
Bồ Tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn mới có thể rõ biết
nguyên nhân của
đau khổ và
nguyên nhân của
vui sướng như vậy.[97]
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn mà
quán sát Tập đế?
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát quán
Tập đế ấy là
nhân duyên của các ấm.[98] Gọi là tập, ấy là quay lại
luyến ái chỗ
sở hữu.
Luyến ái có hai loại: một là
luyến ái tự thân, hai là
luyến ái những thứ cần đến.
“Lại chia ra hai loại: một là khi chưa được năm món dục[99] thì
hết lòng mong cầu; hai là khi đã cầu được rồi thì cố
chịu đựng mà mê đắm bám giữ theo.
“Lại chia ra ba loại: một là
luyến ái ở
Dục giới, hai là
luyến ái ở
Sắc giới, ba là
luyến ái ở
Vô sắc giới.
“Lại chia ra ba loại: một là
luyến ái do
nhân duyên nghiệp, hai là
luyến ái do
nhân duyên phiền não, ba là
luyến ái do
nhân duyên khổ.
“Người
xuất gia có bốn thứ
luyến ái. Những gì là bốn? Một là
y phục, hai là
thức ăn uống, ba là đồ dùng nằm ngồi,[100] bốn là thuốc thang trị bệnh.
“Lại chia ra có năm loại, tức là tham đắm
vướng mắc năm ấm.
Tùy theo những thứ cần đến, hết thảy đều
luyến ái vướng mắc, nếu
phân biệt tính đếm sẽ thành ra
vô lượng vô biên.
“Thiện nam tử!
Luyến ái lại có hai loại: một là
luyến ái thiện, hai là
luyến ái bất thiện.
Luyến ái bất thiện, chỉ có kẻ ngu mới cầu.
Luyến ái thiện là chỗ cầu của chư
Bồ Tát. Về pháp
luyến ái thiện, lại cũng chia ra hai loại:
bất thiện và thiện. Người cầu
Nhị thừa[101] gọi là
bất thiện, người
cầu Đại thừa gọi là thiện.
“Thiện nam tử! Chỗ
luyến ái của
phàm phu gọi là tập, không gọi là đế. Chỗ
luyến ái của
Bồ Tát gọi là
Thật đế, không gọi là tập. Vì sao vậy?
Bồ Tát vì
cứu độ chúng sanh nên thọ sanh, chẳng phải vì
luyến ái mà thọ sanh.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như ở trong các kinh khác, Phật vì
chúng sanh thuyết dạy rằng nghiệp là
nhân duyên, hoặc dạy rằng lòng
kiêu mạn, hoặc
sáu xúc,[102] hoặc
vô minh là
nhân duyên của
năm ấm bạo phát. Hôm nay vì nghĩa gì mà khi
thuyết giảng Bốn Thánh đế, chỉ riêng nói tánh
luyến ái là nhân của năm ấm?”
Phật khen
Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Như ông vừa nói, các
nhân duyên đó chẳng phải làm ra, chẳng phải là
nguyên nhân, chỉ vì
năm ấm cần thiết phải có nhân nơi
luyến ái.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
đại vương nếu ra đi tuần du thì các vị đại thần,
quyến thuộc đều phải theo hầu.
Luyến ái cũng như vậy. Tùy chỗ có
luyến ái, các
kết sử[103] cũng đều
đi theo đến.
Ví như cái áo trơn láng, khi có bụi liền bám vào, bám vào rồi liền
đi theo áo.
Luyến ái cũng như vậy. Tùy chỗ có
luyến ái, các
nghiệp kết[104] cũng ở đó.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như đất ẩm có thể sanh các mầm cây.
Luyến ái cũng vậy, có thể sanh ra hết thảy các mầm nghiệp và
phiền não.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại Thừa Đại Bát Niết-bàn quán xét
sâu xa sự
luyến ái đó, nói chung có chín loại: Một là như món nợ chưa trả hết, hai là như người vợ La-sát, ba là như thân cây hoa đẹp có con
rắn độc quấn quanh, bốn là như món ăn độc chẳng nên ăn nhưng phải gượng ăn, năm là như người đàn bà
dâm đãng, sáu là như hạt ma-lâu-ca,[105] bảy là như chỗ thịt lồi ra nơi ghẻ độc, tám là như trận gió bão, chín là như sao chổi.
“Sao gọi là như món nợ trả chưa hết?
Thiện nam tử!
Ví như người
cùng khổ, nợ tiền người khác. Tuy có trả nợ, muốn cho hết nhưng vẫn chưa hết, nên người ấy bị phải giam trong ngục chưa được thả ra. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác cũng vậy, do tánh
luyến ái vẫn chưa hết nên không thể
thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thiện nam tử! Đó gọi là như món nợ trả chưa hết.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như người vợ la-sát?
Thiện nam tử!
Ví như người lấy vợ là la-sát nữ. La-sát nữ ấy, mỗi khi sanh con rồi liền
ăn thịt con. Ăn hết thịt con rồi lại
ăn thịt chồng.
Thiện nam tử!
Luyến ái cũng như la-sát nữ kia, bám theo
chúng sanh, sanh ra con là các căn lành, nhưng sanh ra rồi lại ăn hết. Ăn hết các căn lành rồi lại ăn cả
chúng sanh, khiến họ phải đọa vào [những
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như người vợ la-sát.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như thân cây hoa đẹp có con
rắn độc quấn quanh?
Ví như người
ưa thích hoa đẹp, chẳng thấy nơi thân cây hoa ấy có mối nguy là con
rắn độc, liền đến hái hoa. Hái rồi liền bị rắn cắn chết ngay. Hết thảy người
phàm phu cũng đều như vậy, ham mê loài hoa là năm món dục, chẳng thấy mối nguy
rắn độc là
luyến ái, nên liền nhận lấy, bị con
rắn độc luyến ái cắn mổ, chết đi đọa vào
ba đường ác, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như thân cây hoa đẹp có con
rắn độc quấn quanh.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như món ăn [có độc] chẳng nên ăn nhưng cũng gượng ăn?
Ví như có người gặp món ăn [có độc] chẳng nên ăn nhưng cũng gượng ăn. Ăn xong đau bụng thổ tả mà chết.
Luyến ái cũng như món ăn độc kia,
chúng sanh trong Năm đường[106] tham đắm gượng ăn. Vì
nhân duyên ấy nên phải đọa vào
Ba đường ác,[107] chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như món ăn [có độc] chẳng nên ăn nhưng cũng gượng ăn.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như người đàn bà dâm đãng?
Ví như kẻ
ngu si cùng
tư thông với người đàn bà
dâm đãng. Người đàn bà ấy khéo dùng đủ cách
vuốt ve chiều chuộng, giả cách
thương yêu rồi chiếm lấy hết tiền bạc,
tài sản của kẻ
ngu si ấy. Khi lấy hết tiền rồi liền
xua đuổi đi.
Luyến ái cũng như người đàn bà
dâm đãng kia, kẻ
ngu si không có
trí tuệ,
tư thông với nó, liền bị chiếm đoạt hết thảy pháp lành. Pháp lành đã hết liền bị
xua đuổi, đọa vào
ba đường ác, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như người đàn bà
dâm đãng.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như hạt ma-lâu-ca?
Ví như hạt ma-lâu-ca, khi chim nuốt hạt ấy vào bụng rồi, nó theo phân chim mà rơi xuống đất.
Hoặc nhân khi gió thổi bay đến bám ở phía dưới thân cây, rồi
nảy nở lớn dần lên, quấn chặt quanh cây ni-câu-đà, khiến cây này không lớn lên được,
cho đến phải khô chết.
Luyến ái cũng như hạt ma-lâu-ca kia, nó [phát triển lên thì] trói chặt kẻ
phàm phu, khiến những pháp lành không thể
tăng trưởng,
cho đến phải khô chết. Pháp lành đã khô chết rồi, sau khi
mạng chung phải đọa vào
ba đường ác, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như hạt ma-lâu-ca.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như thịt lồi ra trong ghẻ độc?
Ví như người bị ghẻ độc
đã lâu, trong ghẻ sanh ra thịt lồi. Người ấy phải siêng năng
điều trị, không được buông thả. Nếu như buông thả, ghẻ độc liền lớn thêm, lại sanh trùng trong ấy. Do
nhân duyên ấy mà bỏ mạng.
Năm ấm của người
phàm phu ngu si cũng như ghẻ độc kia, trong đó sanh ra thịt lồi là
luyến ái. Phải siêng năng
điều trị chỗ thịt lồi
luyến ái đó. Nếu chẳng
điều trị, khi
mạng chung sẽ đọa vào
ba đường ác, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như thịt lồi ra trong ghẻ độc.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như trận gió bão?
Ví như trận gió bão có thể dời non lật núi, nhổ bật rễ sâu của cây to.
Luyến ái cũng như trận gió bão lớn kia, đối với
cha mẹ mà sanh lòng dữ, có thể nhổ bật rễ sâu cây Bồ-đề
vô thượng của những người như
Đại trí Xá-lỵ-phất, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như trận gió bão.
“Thiện nam tử! Sao gọi là như sao chổi?
Ví như khi sao chổi
xuất hiện thì trong
thiên hạ, hết thảy
nhân dân đều đói kém,
bệnh hoạn, lại thêm mọi sự
khổ não.
Luyến ái cũng như sao chổi kia, có thể làm dứt hết thảy các
hạt giống căn lành, khiến cho người
phàm phu trở nên
cô độc,
cùng khổ, đói kém, sanh các bệnh
phiền não, lăn lộn
trong vòng sanh tử, chịu đủ mọi
khổ não, chỉ trừ hàng
Bồ Tát mà thôi. Đó gọi là như sao chổi.
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn
quán sát luyến ái trói buộc có chín loại như thế.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa đó nên những người
phàm phu có khổ mà không có đế; hàng
Thanh văn và
Duyên giác có khổ, có
khổ đế mà không
chân thật. Các vị
Bồ Tát hiểu rõ được khổ, không khổ, nên không có khổ mà có
chân thật.
“Những kẻ
phàm phu có tập, không có đế; hàng
Thanh văn và
Duyên giác có tập, có
tập đế. Các vị
Bồ Tát hiểu rõ tập, không tập, nên không có tập mà có
chân đế.
“Hàng
Thanh văn và
Duyên giác có diệt, không
chân thật.
Bồ Tát ma-ha-tát có diệt, có
chân đế.
“Hàng
Thanh văn và
Duyên giác có đạo, không
chân thật.
Bồ Tát ma-ha-tát có đạo, có
chân đế.[108]
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn nhìn thấy diệt và diệt đế? Đó là nói dứt trừ hết thảy
phiền não. Nếu
phiền não dứt thì gọi là thường còn.
Dập tắt lửa
phiền não thì gọi là
tịch diệt. Vì
phiền não đã dứt nên được hưởng vui. Chư Phật,
Bồ Tát vì cầu
nhân duyên nên gọi là tịnh. Không còn
trở lại trong hai mươi lăm cảnh nên gọi là
xuất thế. Vì là
xuất thế nên gọi là ngã, là thường. Đối với
hình sắc,
âm thanh, hương vị,
cảm xúc,
nam nữ,
sanh trụ dị diệt, khổ vui, không
khổ không vui... đều
không chấp giữ
tướng mạo, cho nên gọi là
tất cánh tịch diệt, là
chân đế.
Thiện nam tử!
Bồ Tát trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn như vậy, quán xét
Diệt thánh đế.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn
quán Đạo thánh đế như thế nào?
Thiện nam tử!
Ví như ở
chỗ tối, nhờ có đèn mà thấy được các vật lớn nhỏ.
Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, trụ ở
kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn, nhờ có
Bát Thánh đạo mà thấy được hết thảy các pháp, đó là: thường,
vô thường,
hữu vi,
vô vi, có
chúng sanh, không có
chúng sanh, vật, chẳng phải vật, khổ, vui, ngã, tịnh,
bất tịnh,
phiền não, chẳng phải
phiền não, nghiệp, chẳng phải nghiệp, thật, chẳng thật, thừa, chẳng phải thừa, biết, chẳng biết, đà-la-phiêu,[109] chẳng phải đà-la-phiếu, cầu-na,[110] chẳng phải cầu-na, thấy, chẳng thấy, sắc, chẳng phải sắc, đạo, chẳng phải đạo, hiểu, chẳng hiểu.
Thiện nam tử!
Bồ Tát trụ ở
Đại thừa Đại Bát Niết-bàn như vậy, quán xét Đạo
Thánh đế.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu
Bát Thánh đạo chính là Đạo
Thánh đế thì nghĩa chẳng hợp nhau. Vì sao vậy? Có khi
Như Lai dạy rằng:
Đức tin là đạo, có thể
độ thoát các lậu.[111]
“Có khi lại dạy rằng: Đạo là không
phóng dật. Chư
Phật Thế Tôn nhờ không
phóng dật nên
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đó cũng là pháp
trợ đạo của hàng
Bồ Tát.
“Lại có khi dạy rằng:
Tinh tấn là đạo.
Như bảo A-nan rằng: Nếu người nào siêng tu
tinh tấn ắt sẽ được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Hoặc có khi dạy rằng: Hãy
quán thân niệm xứ[112]. Nếu người nào
chú tâm tinh cần tu tập pháp thân niệm xứ sẽ được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề.
“Hoặc có khi dạy rằng:
Chánh định là đạo. Như
Phật bảo Đại đức Ma-ha Ca-diếp[113] rằng:
Chánh định chân thật là Đạo, không phải không
chánh định là đạo. Nếu nhập
chánh định mới có thể
suy xét sự
sanh diệt của
năm ấm, không phải không
nhập định mà có thể
suy xét được.
“Hoặc có khi chỉ dạy một pháp, nếu người
tu tập có thể làm cho
chúng sanh thanh tịnh, dứt trừ hết thảy
ưu sầu khổ não,
dần dần chứng đắc Chánh pháp. Đó là pháp
niệm Phật Tam-muội.
“Hoặc lại dạy rằng: Tu phép
quán tưởng vô thường gọi là đạo.
Như bảo các vị tỳ-kheo rằng: Nếu ai thường tu phép
quán tưởng vô thường có thể
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Hoặc dạy rằng: Ở nơi trống không
vắng lặng, ngồi
một mình mà
suy xét thì có thể nhanh chóng được
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Có khi lại dạy rằng: Vì người khác
giảng pháp, đó gọi là đạo. Nếu
nghe pháp rồi, tức trừ dứt lưới nghi. Dứt nghi rồi sẽ được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại có khi dạy rằng:
Trì giới là đạo.
Như bảo A-nan rằng: Nếu ai
tinh cần tu tập giữ gìn giới cấm, người ấy ắt sẽ
vượt qua khỏi nỗi khổ lớn
sanh tử.
“Hoặc có khi dạy rằng: Gần gũi bạn hiền là đạo.
Như bảo A-nan rằng: Nếu gần gũi với
thiện tri thức sẽ được đầy đủ
giới hạnh thanh tịnh. Nếu có
chúng sanh nào được gần gũi với ta, ắt sẽ được
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Có khi dạy rằng:
Tu tâm từ là đạo. Người
tu học đức từ, dứt các
phiền não, được chỗ không còn
xao động.
“Có khi dạy rằng:
Trí tuệ là đạo. Như lúc trước Phật có vì tỳ-kheo ni Ba-xà-ba-đề mà dạy rằng: Này các bà! Như các vị
Thanh văn dùng
gươm trí tuệ có thể chặt đứt các
phiền não rỉ chảy.
“Hoặc có khi
Như Lai dạy rằng:
Bố thí là đạo. Như lúc trước
Phật bảo vua Ba-tư-nặc rằng:
Đại Vương nên biết, thuở xưa ta thường làm nhiều việc
bố thí rộng rãi. Nhờ
nhân duyên ấy mà ngày nay được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Bạch Thế Tôn! Nếu
Bát Thánh đạo là
Đạo đế thì các kinh như vậy chẳng phải là
sai trái hay sao? Nếu các kinh ấy không phải là
sai trái, vậy
duyên cớ gì mà trong đó không dạy rằng
Bát Thánh đạo là Đạo Thánh đế? Nếu trong đó không dạy, lẽ nào lúc trước
Như Lai đã nhầm lẫn? Nhưng con biết chắc rằng
chư Phật Như Lai từ lâu đã lìa xa mọi sự nhầm lẫn.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn khen ngợi
Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông vì muốn biết chỗ sâu kín trong
kinh điển vi diệu Đại thừa của hàng
Bồ Tát nên mới hỏi như vậy.
Thiện nam tử! Những kinh như vậy, thảy đều thuộc về
Đạo đế.
Thiện nam tử! Như ta đã nói, nếu có người tin đạo,
lòng tin đạo này là
căn bản của
đức tin, có thể trợ giúp cho đạo Bồ-đề. Vậy nên những lời ta dạy đó không có sự nhầm lẫn.
“Thiện nam tử!
Như Lai khéo biết
vô số phương tiện, vì muốn
giáo hóa chúng sanh nên tạo ra đủ mọi cách
thuyết pháp như vậy.
Thiện nam tử!
Ví như vị
lương y thấu hiểu mọi thứ
nguyên nhân gây bệnh của
chúng sanh, liền
tùy theo từng bệnh mà pha chế các món thuốc, cũng như biết rõ những thứ cấm kỵ đối với thuốc. Chỉ có nước là chẳng nằm trong những thứ cấm kỵ. Hoặc cho uống nước gừng, nước cam thảo, nước cây tế tân, nước đường phèn đen, nước a-ma-lặc, nước ni-bà-la, nước bát-trú-la, hoặc cho uống nước lạnh, nước nóng, nước nho, nước
thạch lựu...
Thiện nam tử! Vị
lương y ấy biết rành các chứng bệnh của
chúng sanh, dù có nhiều thứ cấm kỵ đối với thuốc nhưng nước chẳng hề bị cấm kỵ.
Như Lai cũng thế, khéo biết
phương tiện, chỉ nơi một tướng pháp mà
tùy theo các
chúng sanh nên
phân biệt giảng thuyết đủ mọi thứ tên gọi
hình tướng. Các
chúng sanh kia đều tùy chỗ
giảng thuyết của Phật mà
nhận biết.
Nhận biết rồi liền
tu tập, dứt
trừ phiền não, cũng như những người bệnh kia nhờ nghe theo lời dạy của vị
lương y mà trừ dứt bệnh tật.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có người kia khéo hiểu được nhiều thứ tiếng khác nhau trong
đại chúng.
Mọi người trong
đại chúng bị nóng khát, mỗi người đều kêu lên: ‘Tôi muốn uống nước. Tôi muốn uống nước.’ Người ấy liền lấy nước trong mát, rồi
tùy theo ngôn ngữ của mỗi người mà nói rằng: Đây là nước, hoặc nói là ba-ni, uất-trì, sa-lỵ-lam, sa-lỵ, bà-da,
cam lộ hay sữa bò.[114] Người ấy dùng
vô số tên gọi của nước để nói với
đại chúng.
Thiện nam tử!
Như Lai cũng vậy, ngài đem một
Thánh đạo mà vì các vị
Thanh văn diễn thuyết đủ mọi cách, từ các
pháp như tín căn cho đến Bát Thánh đạo.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người thợ vàng, dùng một chất vàng mà
tùy ý làm ra đủ các món xâu chuỗi, trang sức, như là kẹp, khóa, dây chuyền, vòng, xuyến, thoa, mão
thiên quan, tỷ ấn... Tuy các món ấy đều khác biệt nhau, nhưng cũng không ngoài chất vàng.
Thiện nam tử!
Như Lai cũng vậy, dùng một
đạo Phật mà
tùy theo chúng sanh phân biệt đủ cách để vì họ
giảng thuyết.
“Hoặc ngài dạy chỉ có một, đó là một đạo của chư Phật, không có hai. Hoặc lại dạy hai pháp, đó là định và tuệ. Rồi lại dạy có ba pháp, ấy là: kiến, trí và tuệ. Lại dạy bốn pháp:
kiến đạo,
tu đạo,
vô học đạo,
Phật đạo. Lại dạy có năm pháp:
tín hành đạo,
pháp hành đạo,
tín giải thoát đạo, kiến đáo đạo,
thân chứng đạo. Lại dạy có sáu pháp: Tu-đà-hoàn đạo, Tư-đà-hàm đạo, A-na-hàm đạo, A-la-hán đạo,
Bích-chi Phật đạo,
Phật đạo. Lại dạy có bảy pháp: Niệm
giác phần,
Trạch pháp giác phần,
Tinh tấn giác phần,
Hỷ giác phần, Trừ
giác phần, Định
giác phần,
Xả giác phần. Lại dạy
tám pháp là:
Chánh kiến,
Chánh tư duy,
Chánh ngữ,
Chánh nghiệp,
Chánh mạng,
Chánh tinh tấn,
Chánh niệm,
Chánh định. Lại dạy chín pháp là
Tám Thánh đạo và Tín. Lại dạy mười pháp là Mười sức. Lại dạy mười một pháp là Mười sức và
Đại từ. Lại dạy mười hai pháp là Mười sức và
Đại từ,
Đại bi. Lại dạy mười ba pháp là: Mười sức,
Đại từ,
Đại bi và
Niệm Phật Tam-muội. Lại dạy mười sáu pháp là: Mười sức,
Đại từ,
Đại bi,
Niệm Phật Tam-muội và
Ba chánh niệm xứ[115] của chư Phật. Lại dạy hai mươi đạo là: Mười sức,
Bốn đức chẳng sợ,[116]
Đại từ,
Đại bi,
Niệm Phật Tam-muội và
Ba chánh niệm xứ...
“Thiện nam tử! Đạo này là
một thể; ngày trước
Như Lai vì
chúng sanh mà
phân biệt đủ mọi cách.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như một thứ lửa nhưng do vật đốt nên có rất nhiều tên, như lửa cây, lửa cỏ, lửa cám, lửa trấu, lửa phân bò, phân ngựa...
Thiện nam tử!
Đạo Phật cũng vậy, chỉ có một không hai, nhưng vì
chúng sanh mà
phân biệt ra đủ mọi cách.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như chỉ một thức mà
phân biệt nói là sáu. Như ở nơi con mắt thì gọi là
nhãn thức,
cho đến ở nơi ý cũng gọi tên khác đi như thế.[117]
Thiện nam tử! Đạo cũng như vậy, chỉ một không hai.
Như Lai vì
giáo hóa chúng sanh mà
phân biệt đủ mọi cách.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như sắc pháp chỉ là một, nhưng chỗ thấy của mắt thì gọi là
hình sắc, chỗ nghe của tai thì gọi là
âm thanh, chỗ ngửi biết của mũi thì gọi là mùi hương, chỗ nếm biết của lưỡi thì gọi là vị nếm, chỗ
nhận biết của thân thì gọi là xúc chạm.
Thiện nam tử! đạo cũng như vậy, chỉ một không hai.
Như Lai vì
giáo hóa chúng sanh mà
phân biệt đủ mọi cách.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy cho nên lấy
Bát Thánh đạo mà gọi là Đạo
Thánh đế.
Thiện nam tử!
Bốn Thánh đế này[118] được chư
Phật Thế Tôn lần lượt thuyết dạy. Nhờ
nhân duyên đó,
vô lượng chúng sanh được
thoát khỏi sanh tử.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Có
một lần trước đây, khi Phật ở trong rừng Thi-thủ bên
bờ sông Hằng.
Lúc ấy Phật cầm
một nắm lá cây, hỏi chư tỳ-kheo rằng: ‘Lá cây ta đang nắm trong tay là nhiều, hay là lá của hết thảy cây cỏ trên mặt đất là nhiều?’ Chư tỳ-kheo đáp rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Tất cả những lá cây cỏ trên mặt đất là nhiều, không
thể tính đếm. Những lá cây mà
Như Lai nắm trong tay đó thật quá ít không đáng nói.’
“Lúc ấy, Phật dạy rằng: ‘Chư tỳ-kheo! Tất cả những pháp mà ta biết rõ,
ví như [số lá của cây cỏ] mọc trên mặt đất. Những pháp mà ta vì
chúng sanh thuyết dạy chỉ như số lá ta nắm trong tay.’ Bạch Thế Tôn! Theo lời Phật nói
lúc ấy thì
Như Lai rõ biết
vô lượng các pháp. Nếu các pháp ấy đều nằm trong Bốn đế, như vậy đều là những pháp đã thuyết. Còn nếu chẳng nằm trong Bốn đế, thì lẽ ra phải có đến Năm đế!”
Lúc ấy, Phật khen ngợi
Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Việc ông hỏi ta hôm nay đó có thể làm
lợi ích,
an ổn, khoái lạc cho
vô lượng chúng sanh.
Thiện nam tử! Các
pháp như vậy thảy đều đã thâu nhiếp vào trong
Bốn Thánh đế.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Nếu các pháp ấy đều nằm trong Bốn đế, tại sao
Như Lai nói rằng không có thuyết dạy?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tuy là nằm trong ấy, nhưng không gọi là đã thuyết dạy. Vì sao vậy?
Thiện nam tử!
Hiểu biết về
Bốn Thánh đế, có hai bậc
trí tuệ. Một là bậc trung, hai là bậc thượng. Bậc trung là
trí tuệ của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Bậc thượng là
trí tuệ của chư Phật,
Bồ Tát.
“Thiện nam tử! Rõ biết các ấm[119] là khổ, đó gọi là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt các ấm có
vô lượng hình tướng, thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết các nhập,[120] đó gọi là cửa vào,[121] cũng gọi là khổ, đó gọi là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt các nhập có
vô lượng hình tướng, thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết các giới,[122] đó gọi là phân,[123] cũng gọi là tánh, cũng gọi là khổ, đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt các giới có
vô số hình tướng, thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng hư hoại của sắc,[124] đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt các sắc có
vô số tướng hư hoại, thảy đều là khổ, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng
nhận biết của
cảm thọ,[125] đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt các
cảm thọ có
vô số tướng
nhận biết, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng nắm giữ của tưởng,[126] đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt tưởng ấy có
vô số tướng nắm giữ, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng tạo tác của hành,[127] đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt hành ấy có
vô số tướng tạo tác, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết tướng
phân biệt của thức,[128] đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt thức ấy có
vô số tướng trí, đó không phải là chỗ biết được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác, gọi là
trí tuệ bậc thượng.
Thiện nam tử! Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết
nhân duyên luyến ái có thể sanh ra
Năm ấm, đó là
trí tuệ bậc trung. Một người
sanh khởi lòng
luyến ái vô lượng vô biên, đó là chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể biết được. Có thể biết được chỗ
luyến ái sanh khởi như vậy của tất cả
chúng sanh, gọi là
trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Rõ biết chỗ
diệt trừ phiền não, đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt được các
phiền não không thể đếm kể, chỗ
diệt trừ phiền não lại cũng như vậy, không thể đếm kể, đó không phải chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác biết được, gọi là
trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Biết tướng của đạo thì có thể lìa
phiền não, đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt tướng của đạo
vô lượng vô biên, chỗ lìa
phiền não cũng
vô lượng vô biên, đó không phải chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác biết được, gọi là
trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử!
Hiểu biết Thế đế,[129] đó là
trí tuệ bậc trung.
Phân biệt Thế đế là
vô lượng vô biên, không thể đếm kể, đó không phải chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác biết được, gọi là
trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.
“Thiện nam tử! Tất cả các hành
vô thường, các
pháp vô ngã, Niết-bàn
tịch diệt, đó là
Đệ nhất nghĩa,[130] gọi là
trí tuệ bậc trung. Biết
Đệ nhất nghĩa là
vô lượng vô biên, không thể đếm kể, đó không phải là chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác biết được, gọi là
trí tuệ bậc thượng. Những nghĩa như vậy ta cũng chẳng hề thuyết trong kinh khác.”
Lúc ấy Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn!
Thế đế và
Đệ nhất nghĩa đế mà Phật dạy đó,
ý nghĩa như thế nào?
“Bạch Thế Tôn! Trong
Đệ nhất nghĩa có
Thế đế hay không? Trong
Thế đế có
Đệ nhất nghĩa hay không? Nếu có,
tức chỉ là một mà thôi.
Nếu không, chẳng phải
Như Lai đã nói lời
hư dối rồi sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Thế đế tức là
Đệ nhất nghĩa đế.”
“Thế Tôn! Nếu như vậy tức là không có hai đế.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Có
phương tiện khéo léo,
tùy thuận chúng sanh mà dạy rằng có hai đế.
Thiện nam tử! Nếu
theo như lời nói, hẳn phải có hai pháp: một là pháp
thế gian, hai là pháp
xuất thế gian.
“Thiện nam tử! Chỗ
hiểu biết của người
xuất thế gọi là
Đệ nhất nghĩa đế. Chỗ
hiểu biết của người
thế gian gọi là
Thế đế.
“Thiện nam tử!
Năm ấm hòa hiệp thì gọi tên đó là người này, người kia.[131]
Chúng sanh phàm phu tùy theo đó mà gọi tên, gọi là
Thế đế.
Hiểu rõ trong các ấm không có những tên gọi người này, người kia; lìa khỏi các ấm cũng không có tên gọi người này, người kia, người
xuất thế đối với
hình tướng và
thể tánh như thế có thể rõ biết, gọi là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có những pháp thật có và có tên gọi; hoặc có những
pháp không thật có nhưng có tên gọi.
Thiện nam tử!
Pháp không thật có nhưng có tên gọi, đó là
Thế đế; pháp thật có và có tên gọi, đó là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Thiện nam tử! Các
pháp như bản ngã,[132]
chúng sanh,
thọ mạng,
tri kiến,
dưỡng dục,
trượng phu, người tạo tác, người thọ nhận,[133]
ảo ảnh lúc trời nóng,[134] cảnh
hóa thành,[135] lông rùa,
sừng thỏ,[136] vòng lửa xoáy quanh, các ấm, giới, nhập..., đó gọi là
Thế đế. Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đó gọi là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Thiện nam tử!
Thế pháp có năm loại: một là danh thế, hai là cú thế, ba là phược thế, bốn là pháp thế, năm là
chấp trước thế.
“Thiện nam tử! Sao gọi là danh thế? Kẻ nam, người nữ,
bình bát,
y phục, xe cộ, phòng ốc..., những thứ như vậy gọi là danh thế.[137]
“Sao gọi là cú thế? Bốn câu thành một
bài kệ, các
bài kệ như vậy gọi là cú thế.[138]
“Sao gọi là phược thế? Những việc như đóng cuốn, kết lại,
trói buộc,
chấp tay, đó gọi là phược thế.[139]
“Sao gọi là pháp thế? Như đánh chuông nhóm tăng, nổi trống thúc quân, thổi vỏ ốc biết giờ, đó gọi là pháp thế.[140]
“Sao gọi là
chấp trước thế?
Ví như nhìn ra xa thấy người mặt áo nhuộm, liền sanh ra
tư tưởng chấp trước, nói đó là sa-môn,[141] chẳng phải bà-la-môn.[142] Như thấy có gút dây mà choàng trên thân liền nghĩ rằng: Đó là bà-la-môn, chẳng phải sa-môn. Như vậy, gọi là
chấp trước thế.[143]
“Thiện nam tử! Đó gọi là năm loại
Thế pháp.
Thiện nam tử! Nếu có
chúng sanh nào đối với năm loại
Thế pháp ấy mà
tâm không điên đảo,
hiểu biết đúng
như thật, đó gọi là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như đốt cháy, cắt đứt, chết mất, hư hoại, đó gọi là
Thế đế. Không đốt cháy, không cắt đứt, không chết mất, không hư hoại, đó gọi là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có tám tướng khổ gọi là
Thế đế. Không sanh, không già, không bệnh, không chết, không chia lìa người
thương yêu, không gặp gỡ kẻ oán cừu, không mong cầu chẳng được, không
năm ấm bạo phát, đó gọi là
Đệ nhất nghĩa đế.
“Thiện nam tử!
Ví như một người có thể làm được nhiều việc, khi chạy đua thì gọi là
vận động viên, khi cắt gặt lại gọi là thợ gặt, khi nấu ăn gọi là đầu bếp, khi làm những đồ gỗ thì gọi là thợ mộc, khi làm những đồ
vàng bạc thì gọi là thợ kim hoàn. Một người như vậy có nhiều tên gọi.
“Pháp cũng như thế, thật chỉ là một nhưng có nhiều tên. Do
cha mẹ hòa hợp sanh ra, đó gọi là
Thế đế. Do
Mười hai nhân duyên hòa hợp mà sanh, đó gọi là
Đệ nhất nghĩa đế.”
Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn!
Thật đế mà Phật dạy đó,
ý nghĩa như thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Nói Thật đế đó, gọi là
pháp chân thật.
Thiện nam tử! Nếu
pháp không chân thật, chẳng gọi là
Thật đế.
“Thiện nam tử!
Thật đế đó, không có sự
điên đảo. Không có
điên đảo mới gọi là
Thật đế.
“Thiện nam tử!
Thật đế đó, không có sự
hư dối. Nếu có
hư dối, chẳng gọi là
Thật đế.
“Thiện nam tử!
Thật đế đó, gọi là
Đại thừa. Không phải
Đại thừa, chẳng gọi là
Thật đế.
“Thiện nam tử!
Thật đế đó, chính là
lời Phật dạy, không phải thuyết của ma. Nếu là thuyết của ma, không phải thuyết của Phật thì không gọi là
Thật đế.
“Thiện nam tử!
Thật đế đó, chỉ một đạo
thanh tịnh, chẳng có hai.
“Thiện nam tử! Có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, đó gọi là nghĩa của
Thật đế.”
Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu lấy
chân thật là
Thật đế, thì
pháp chân thật tức là
Như Lai, là
hư không, là tánh Phật. Nếu là như
vậy thì Như Lai,
hư không và tánh Phật đều không có khác biệt.”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Có khổ, có đế, có
chân thật; có tập, có đế, có
chân thật; có diệt, có đế, có
chân thật; có đạo, có đế, có
chân thật.
“Thiện nam tử!
Như Lai chẳng phải khổ, chẳng phải đế, là
chân thật.
Hư không chẳng phải khổ, chẳng phải đế, là
chân thật. Tánh Phật chẳng phải khổ, chẳng phải đế, là
chân thật.
“Văn-thù-sư-lợi! Nói rằng khổ là tướng
vô thường, tướng có thể dứt đoạn, đó là
Thật đế. Tánh
Như Lai không phải khổ, không phải
vô thường, không thể dứt đoạn, cho nên là
chân thật.
Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nói rằng tập là có thể làm cho
năm ấm hòa hợp mà sanh, cũng gọi là khổ, cũng gọi là
vô thường, là tướng có thể dứt đoạn, đó là
Thật đế.
Thiện nam tử!
Như Lai chẳng phải là tánh tập như vậy, chẳng phải do nhân các ấm, chẳng phải tướng có thể dứt đoạn, cho nên là
chân thật.
Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Nói rằng diệt là
diệt trừ phiền não, cũng là thường,
vô thường. Chỗ
chứng đắc của hàng
Nhị thừa[144] gọi là
vô thường. Chỗ
chứng đắc của chư Phật gọi là thường, cũng gọi là pháp chứng, đó là
Thật đế.
Thiện nam tử! Tánh
Như Lai chẳng gọi là diệt, có
thể diệt trừ phiền não, chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường, không gọi là chứng biết,
thường trụ không
biến đổi, nên là
chân thật.
Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Thiện nam tử! Nói rằng đạo là có thể dứt
trừ phiền não, cũng là thường,
vô thường, là pháp có thể tu, gọi là
Thật đế.
Như Lai chẳng phải đạo, có thể dứt
trừ phiền não, chẳng phải thường,
vô thường, chẳng phải pháp có thể tu,
thường trụ không
biến đổi, nên là
chân thật.
Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nói
chân thật đó, tức là
Như Lai.
Như Lai là
chân thật.
Chân thật đó, tức là
hư không.
Hư không là
chân thật.
Chân thật đó, tức là tánh Phật. Tánh Phật là
chân thật.
“Văn-thù-sư-lợi! Có
đau khổ, có
nguyên nhân của
đau khổ, có sự
chấm dứt đau khổ, có cách
đối trị đau khổ.
Như Lai chẳng phải là khổ,
cho đến chẳng phải là
đối trị đau khổ, nên là
chân thật, không gọi là đế.
Hư không, tánh Phật cũng là như vậy.
“Khổ, ấy là
pháp hữu vi,
hữu lậu,
không vui sướng.
Như Lai chẳng phải
hữu vi, chẳng phải
hữu lậu,
hồn nhiên sâu lắng an vui, là
chân thật, chẳng phải đế.”
Văn-thù-sư-lợi lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy, không có
điên đảo gọi là
Thật đế. Nếu vậy, trong Bốn đế có
Bốn điên đảo[145] hay chăng? Nếu có, vì sao lại dạy rằng không
điên đảo gọi là
Thật đế, hết thảy
điên đảo không gọi là chân thật?”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Hết thảy pháp
điên đảo đều nằm trong
Khổ đế. Như
chúng sanh nào có tâm
điên đảo thì gọi là người
điên đảo.
Thiện nam tử!
Ví như có người không nhận lời
dạy bảo của
cha mẹ và các bậc tôn trưởng, hoặc có nhận cũng không theo đó mà làm. Những kẻ như vậy gọi là
điên đảo. Những kẻ
điên đảo như vậy không thể là không khổ, chính là khổ vậy.”
Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Như Phật có dạy không
hư dối tức là
Thật đế. Nếu vậy, nên biết rằng
hư dối hẳn không phải là
Thật đế.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả
hư dối đều vào trong
Khổ đế. Như có
chúng sanh nào dối gạt kẻ khác, do
nhân duyên ấy đọa vào
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ. Những
pháp như vậy gọi là
hư dối.
Hư dối như vậy không thể là không khổ, chính là khổ vậy. Đó là chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác và chư
Phật Thế Tôn đều
xa lìa không làm, nên gọi là
hư dối. Sự
hư dối như vậy, chư Phật và những vị trong hàng
Nhị thừa đều đã trừ dứt, nên gọi là
Thật đế.”
Văn-thù-sư-lợi lại
bạch Phật: “Như
lời Phật dạy,
Đại thừa là
Thật đế, vậy nên biết rằng các thừa
Thanh văn và
Bích-chi Phật[146] hẳn là không chân thật!”
Phật dạy: “Văn-thù-sư-lợi!
Hai thừa ấy cũng là thật, cũng là
không thật. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác dứt trừ các
phiền não nên gọi là thật.
Vô thường chẳng trụ, là pháp
biến đổi nên gọi là
không thật.”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Như Phật có dạy: Nếu là lời
Phật thuyết thì gọi là thật, nên biết rằng lời ma thuyết hẳn là
không thật. Bạch Thế Tôn! Như lời ma thuyết có thâu nhiếp vào trong
Thánh đế hay chăng?”
Phật dạy: “Văn-thù-sư-lợi! Lời của ma thuyết thâu nhiếp vào trong hai đế là
Khổ đế và
Tập đế. Nói chung hết thảy những điều không phải
Chánh pháp, không phải
giới luật thì không thể làm cho người ta được
lợi ích. Dù có
thuyết giảng suốt ngày cũng chẳng có ai nhờ đó mà thấy được khổ, dứt trừ
nguyên nhân của khổ, chứng được chỗ dứt trừ
đau khổ,
tu tập đạo
giải thoát. Đó gọi là
hư dối.
Hư dối như vậy gọi là thuyết của ma.”
Văn-thù-sư-lợi nói: “Như Phật có dạy, chỉ một đạo
thanh tịnh, chẳng có hai. Những kẻ
ngoại đạo cũng nói rằng: ‘Ta có một đạo
thanh tịnh, chẳng có hai.’ Nếu nói rằng chỉ một đạo là
Thật đế, thì so với
ngoại đạo kia có gì khác biệt?
Nếu không khác biệt thì không nên nói rằng chỉ một đạo thanh tịnh!”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Những kẻ
ngoại đạo có
Khổ đế,
Tập đế, nhưng họ không có
Diệt đế,
Đạo đế. Trong chỗ không phải diệt mà nảy sanh
tư tưởng đó là diệt, trong chỗ không phải đạo mà nảy sanh
tư tưởng đó là đạo, trong chỗ không phải quả mà nảy sanh
tư tưởng đó là quả, trong chỗ không phải nhân mà nảy sanh
tư tưởng đó là nhân. Vì nghĩa ấy, họ không có một đạo
thanh tịnh duy nhất không
phân biệt.”
Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: “Như
lời Phật dạy: Có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, đó là thật nghĩa. Những kẻ
ngoại đạo lẽ ra là có
Thật đế, còn trong
Phật pháp lại không có. Vì sao vậy? Vì những kẻ
ngoại đạo cũng nói rằng: ‘Các hành[147] là thường.’ Thế nào là thường? Dù
vừa ý hay không
vừa ý, hết thảy các
nghiệp báo đều phải nhận chịu chẳng hề sai mất. Nói
vừa ý, đó là
quả báo của
Mười điều lành.[148] Nói không
vừa ý, đó là
quả báo của
Mười điều ác.[149] Nếu nói rằng ‘các hành đều vô thường’, vậy người tạo nghiệp
sau khi chết mất ở nơi này, còn ai lại ở nơi kia mà chịu quả báo? Vì nghĩa ấy nên các hành chính là thường.
Nhân duyên sát sanh cũng gọi là thường!
“Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng ‘các hành đều vô thường’, thì kẻ giết hại và kẻ
bị giết hại, cả hai đều là
vô thường. Nếu là
vô thường, vậy ai ở
địa ngục mà
chịu tội báo? Nếu nói
chắc chắn có người
chịu tội báo nơi
địa ngục, thì nên biết rằng các hành thật chẳng phải
vô thường.
“Bạch Thế Tôn!
Chuyên tâm ghi nhớ cũng gọi là thường. Như chỗ ghi nhớ trong mười năm, thậm chí đến trăm năm cũng chẳng hề quên mất, cho nên là thường. Nếu là
vô thường thì những việc mình đã thấy từ trước còn ai nhớ, ai nghĩ? Vì
nhân duyên ấy, hết thảy các hành đều chẳng phải
vô thường.
“Thế Tôn! Hết thảy mọi sự nhớ tưởng cũng gọi là thường. Như có người trước kia đã nhìn thấy rõ một người khác từ đầu đến chân. Về sau, nếu có gặp liền nhớ lại ngay. Nếu là
vô thường thì những sự nhớ tưởng việc trước kia lẽ ra phải mất rồi!
“Thế Tôn! Các nghề nghiệp,
việc làm, đều nhờ sự
học hỏi,
rèn luyện lâu ngày, như từ khi mới học phải
trải qua ba năm, hoặc năm năm... mới được
thông thạo, cho nên là thường.
“Thế Tôn! Trong phép tính toán, từ số một đến số hai, từ số hai đến số ba...
cho đến số trăm ngàn. Nếu là
vô thường,
đáng lẽ số một
ban đầu phải mất. Số một
ban đầu nếu mất, làm sao có đến số hai? Như vậy chỉ
thường có số một, rốt cùng cũng chẳng có số hai! Vì số một không mất mới có đến số hai,
cho đến số trăm ngàn, cho nên là thường.
“Thế Tôn! Như trong phép tụng đọc, phải
đọc kinh A-hàm bộ thứ nhất, kế đến A-hàm bộ thứ nhì, rồi đến bộ thứ ba, thứ tư.[150] Nếu là
vô thường, thì việc
đọc tụng rốt cũng không đến được bộ thứ tư. Vì có
nhân duyên là sự tụng đọc tăng dần như vậy nên gọi là thường.
“Thế Tôn!
Bình bát,
y phục, xe cộ... như người
thiếu nợ;
hình tướng trên mặt đất, núi sông, rừng rậm, cây cối cỏ lá làm thuốc,
chúng sanh trị bệnh, thảy đều là thường, cũng lại như vậy.
“Thế Tôn! Tất cả
ngoại đạo đều nói rằng: ‘Các hành là thường.’ Nếu các hành là thường, tức là Thật đế!
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng có sự
vui sướng. Vì sao biết được? Người thọ nhận,
chắc chắn sẽ được
quả báo vừa ý. Thế Tôn! Nói chung những người thọ nhận sự
vui sướng chắc chắn sẽ được như vậy, đó là những
cảnh giới Đại Phạm Thiên vương,
Đại Tự Tại thiên, Thích-đề-hoàn-nhân,
Tỳ Nữu thiên, cùng
cõi người,
cõi trời. Vì nghĩa ấy nên gọi là
quyết định có sự
vui sướng.
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng có sự
vui sướng, vì có thể khiến
chúng sanh nảy sanh lòng mong cầu: kẻ đói mong cầu
thức ăn, kẻ khát mong cầu
thức uống, kẻ lạnh mong cầu được ấm, kẻ nóng mong cầu được mát, kẻ
cực khổ mong cầu được nghỉ ngơi, kẻ mắc bệnh mong cầu được khỏi, kẻ
tham dục mong cầu sắc đẹp.
Nếu không có sự
vui sướng, vì sao những kẻ ấy lại mong cầu? Bởi có kẻ mong cầu nên biết rằng có sự
vui sướng.
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng
bố thí có thể được
vui sướng. Người đời thích
bố thí cho sa-môn, bà-la-môn, những kẻ bần cùng khốn khổ các món áo quần,
thức ăn uống, đồ ngủ, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, hương bột, hương thoa, các thứ hoa, phòng ốc, nhà cửa, chỗ nương dựa, đèn đuốc... Làm đủ các việc
bố thí như vậy là vì muốn rằng
đời sau sẽ được
quả báo vừa ý.
Vì vậy nên biết rằng
chắc chắn có sự
vui sướng.
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng vì có
nhân duyên nên biết rằng có sự
vui sướng. Như nói người được
vui sướng là vì có
nhân duyên nên gọi là
cảm xúc vui sướng.
Nếu không có
vui sướng làm sao có nhân duyên?
Như không có
sừng thỏ, hẳn không có
nhân duyên. Bởi có
nhân duyên vui sướng, nên biết rằng có sự
vui sướng.
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng vì có các
cảnh giới cao, thấp và trung bình nên biết là có sự
vui sướng.
Cảnh giới thấp được
vui sướng là cảnh Thích-đề hoàn-nhân.
Cảnh giới trung bình được
vui sướng là cảnh
Đại Phạm Thiên vương.
Cảnh giới cao được
vui sướng là cảnh
Đại Tự Tại thiên. Bởi có ba
cảnh giới cao, thấp và trung bình như vậy, nên biết rằng có sự
vui sướng.
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng có sự
thanh tịnh. Vì sao vậy?
Nếu không có sự
thanh tịnh thì lẽ ra không khởi lòng
tham muốn. Nếu có khởi lòng
tham muốn, nên biết là có sự
thanh tịnh.
“Lại có kẻ nói rằng: vàng, bạc,
trân bảo,
lưu ly,
pha lê,
xa cừ,
mã não,
san hô, chân châu, ngọc bích, ngọc đá, suối nước chảy, ao tắm,
ẩm thực,
y phục, hoa hương, hương bột, hương thoa, đèn đuốc... những vật như vậy đều là
pháp thanh tịnh.
“Lại nữa, có sự
thanh tịnh, như nói
năm ấm là vật chứa
thanh tịnh, vì chứa những vật
thanh tịnh như là người ta,
chư thiên, các vị tiên, A-la-hán,
Bích-chi Phật,
Bồ Tát, chư Phật. Vì nghĩa ấy nên gọi là
thanh tịnh.
“Thế Tôn! Có những
ngoại đạo lại nói rằng có ngã, vì có sự nhìn thấy, có khả năng tạo tác.
Ví như có người vào nhà thợ gốm, tuy chẳng thấy người thợ ấy nhưng nhìn thấy những đồ nghề làm gốm liền biết chắc rằng nhà ấy có thợ gốm. Cái ngã cũng vậy, do thấy
hình sắc nên biết rằng có ngã.
Nếu không có ngã thì ai nhìn thấy hình sắc? Nghe biết
âm thanh cho đến tiếp xúc với các pháp, cũng là như thế.[151]
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Do
hình tướng mà biết được. Những gì là hình tướng?
Hơi thở nhanh chậm, con mắt nhìn nháy, mạng sống, đem lòng nhận chịu những sự
đau khổ,
vui sướng,
tham lam, mong cầu,
giận dữ. Những
pháp như vậy đều là
hình tướng của ngã. Bởi vậy nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã là vì biết
phân biệt mùi vị. Như có người ăn trái cây, nhìn thấy đã biết được vị. Vì thế nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Vì
thực hiện được các công việc. Như cầm liềm có thể cắt cỏ, cầm rìu có thể đốn cây, cầm bình chứa nước, lên xe có thể cưỡi đi... Những việc như vậy là do cái ngã có khả năng
thực hiện. Bởi vậy nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Ngay khi sanh ra đã muốn được bú mớm, là do
thói quen từ đời trước. Bởi vậy nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Vì có sự hòa hiệp làm
lợi ích cho những
chúng sanh khác.
Ví như bình bát,
y phục, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa,
núi rừng cây cối, voi, ngựa, bò, dê. Những vật như vậy, nếu hòa hiệp hẳn có
lợi ích.
Năm ấm trong thân người cũng vậy, từ con mắt
cho đến các
giác quan khác nếu
hòa hợp hẳn có
lợi ích cho người. Bởi vậy nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Là vì có những pháp ngăn che. Như có vật nên có ngăn che,
chướng ngại.
Nếu không có vật thì không có ngăn che. Nếu có ngăn che thì biết là có ngã. Bởi vậy nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Lại nữa, nói có ngã, vì sao biết được? Vì có sự
phân chia ra cùng nhóm, không cùng nhóm.
Thân thiết và không
thân thiết, đó chẳng phải là cùng nhóm.
Chánh pháp,
tà pháp cũng chẳng phải cùng nhóm. Trí và
vô trí, cũng chẳng phải cùng nhóm. Sa-môn, chẳng phải sa-môn; bà-la-môn, chẳng phải bà-la-môn; con, chẳng phải con; ngày, chẳng phải ngày; đêm, chẳng phải đêm; ngã, chẳng phải ngã... những
pháp như vậy là cùng nhóm và không cùng nhóm. Bởi vậy nên biết rằng
nhất định có ngã.
“Thế Tôn! Những kẻ
ngoại đạo dùng đủ cách để nói rằng có thường, lạc, ngã, tịnh. Nên biết rằng
nhất định có thường, lạc, ngã, tịnh. Thế Tôn! Vì nghĩa ấy nên những kẻ
ngoại đạo cũng có thể nói rằng: Ta có
chân đế.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu có vị sa-môn, bà-la-môn nào có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, họ chẳng phải là sa-môn, bà-la-môn. Vì sao vậy? Vì
mê muội nơi
sanh tử, lìa xa bậc
Đại đạo sư thông hiểu tất cả. Hạng sa-môn, bà-la-môn ấy
chìm đắm trong các dục, vì pháp lành của họ bị
yếu ớt, mất đi. Những kẻ
ngoại đạo này bị
trói buộc trong ngục tù của
tham dục,
sân khuể và
ngu si, cam tâm hưởng thụ sự
vui sướng.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy biết rằng
nghiệp quả tự làm tự chịu, nhưng chưa thể lìa xa pháp xấu ác. Những kẻ
ngoại đạo ấy không tự sanh sống theo
Chánh pháp,
chánh mạng. Vì sao vậy? Vì không có lửa
trí tuệ nên không thể
tiêu trừ.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy tham đắm vướng chấp nơi năm món
dục lạc ở hàng cao quý
tốt đẹp nhưng lại có rất ít pháp lành, vì không siêng năng
tu tập. Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy muốn
đạt được giải thoát chân chánh nhưng không giữ đúng theo
giới luật nên không thể
thành tựu.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy muốn được
vui sướng nhưng không thể cầu được
nhân duyên của sự
vui sướng. Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy
chán ghét mọi
khổ não nhưng
việc làm của họ chưa thể lìa xa những
nhân duyên gây
đau khổ.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy tuy bị con
rắn độc bốn đại[152] buộc trói, nhưng vẫn còn làm việc buông thả, không thể
cẩn thận. Những kẻ
ngoại đạo ấy bị
vô minh che lấp, lìa xa các bạn lành,
vui thích ở trong đám lửa lớn hừng hực của
Ba cõi vô thường mà không thể thoát ra.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy mắc phải bệnh nan y
phiền não nhưng lại không cầu tìm bậc
lương y có
trí tuệ lớn. Những kẻ
ngoại đạo ấy, trong tương lai sẽ
trải qua đường xa
hiểm trở vô cùng, nhưng không biết
tích lũy các pháp lành để làm hành trang, lương thực
mang theo, tự làm
tốt đẹp cho mình.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy thường bị hại bởi
tai họa độc địa và
dâm dục nhưng họ lại ôm giữ lấy đám sương độc năm món dục. Những kẻ
ngoại đạo ấy có lòng
sân hận bốc cao nhưng họ lại gần gũi những người bạn xấu.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy thường bị
vô minh che lấp nhưng lại tìm cầu những pháp tà ác. Những kẻ
ngoại đạo ấy thường bị những
tà kiến mê hoặc nhưng trong chỗ ấy lại nảy sanh
tư tưởng thân thiện.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy cầu được ăn trái ngọt nhưng lại gieo
hạt giống đắng. Những kẻ
ngoại đạo ấy ở trong nhà tối
phiền não nhưng lại lìa xa ngọn đuốc
sáng trí tuệ lớn.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy, tuy khổ bức vì cơn khát
phiền não nhưng lại uống vào thứ nước mặn là các món
tham dục. Những kẻ
ngoại đạo ấy trôi dạt
chìm đắm trong dòng sông lớn
sanh tử không bờ bến nhưng lại lìa xa vị
thuyền sư giỏi nhất.
“Những kẻ
ngoại đạo ấy
mê hoặc,
điên đảo, nói rằng các hành là thường. Các hành nếu là thường thì thật là vô lý![153]
“Thiện nam tử! Ta xét thấy các hành đều là
vô thường. Vì sao biết được? Là do
nhân duyên. Nếu có các pháp do duyên mà sanh, hẳn biết được là
vô thường. Những kẻ
ngoại đạo ấy không có pháp nào lại không do
duyên sanh.
“Thiện nam tử! Tánh Phật là không sanh, không diệt, không đến, không đi; không thuộc
quá khứ, không thuộc
vị lai, không thuộc
hiện tại; không phải do
nhân tạo tác, cũng chẳng phải không do
nhân tạo tác; không tạo tác, không người tạo tác; không phải tướng, không phải
vô tướng; chẳng phải có tên, chẳng phải không tên, chẳng phải tên gọi; chẳng phải
hình sắc, chẳng dài, chẳng ngắn; chẳng phải chỗ thâu nhiếp, nắm giữ của các ấm, giới, nhập. Vì thế nên gọi là thường.
“Thiện nam tử! Tánh Phật tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp. Pháp tức là thường.
Thiện nam tử! Thường tức là
Như Lai.
Như Lai tức là Tăng. Tăng tức là thường. Vì nghĩa ấy nên những pháp do nhân sanh ra chẳng gọi là thường. Những kẻ
ngoại đạo ấy không có pháp nào là không do nhân sanh ra.
“Thiện nam tử! Những kẻ
ngoại đạo ấy chẳng thấy được tánh Phật,
Như Lai và pháp. Cho nên những lời mà họ nói ra đều là
sai lầm,
hư dối, không có
chân đế. Những kẻ
phàm phu trước thấy những vật như
bình bát,
y phục, xe cộ, nhà cửa, thành quách, sông rạch,
núi rừng,
nam nữ, voi ngựa, bò dê.. về sau lại thấy những hình dạng cũng
tương tự như thế, liền cho đó là thường.[154] Nên biết, thật ra đó chẳng phải thường.
“Thiện nam tử! Hết thảy các
pháp hữu vi đều là
vô thường.
Hư không vô vi nên là thường. Tánh Phật
vô vi nên là thường.
Hư không tức là tánh Phật; tánh Phật tức là
Như Lai.
Như Lai tức là
vô vi;
vô vi tức là thường; thường tức là pháp; pháp tức là Tăng; Tăng tức là
vô vi.
Vô vi đó, tức là thường.
“Thiện nam tử! Các
pháp hữu vi nói chung có hai loại: pháp
hình sắc và
pháp không hình sắc.
Pháp không hình sắc là các pháp tâm và
tâm sở.[155] Pháp
hình sắc là những thứ như đất, nước, lửa, gió...[156]
“Thiện nam tử! Tâm gọi là
vô thường. Vì sao vậy? Vì
bản tánh nó là
phan duyên,[157] tùy chỗ
tiếp xúc mà
phân biệt.
Thiện nam tử! Tánh của
nhãn thức là
biến đổi,
cho đến tánh của
ý thức cũng là
biến đổi,[158] nên là
vô thường.
“Thiện nam tử!
Cảnh giới của
hình sắc là
biến đổi,
cho đến cảnh giới của pháp là
biến đổi,[159] nên là
vô thường.
“Thiện nam tử! Sự
tương ứng của
nhãn thức là
biến đổi,
cho đến sự
tương ứng của
ý thức là
biến đổi, nên là
vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu tâm là thường thì
đáng lẽ riêng một
nhãn thức cũng đủ duyên theo hết thảy các pháp!
Thiện nam tử! Nếu
nhãn thức là
biến đổi,
cho đến ý thức cũng là
biến đổi, thì biết đó là
vô thường. Vì các pháp có chỗ tương tợ như nhau, trong mỗi khoảnh khắc thường sanh ra và diệt mất, nên kẻ
phàm phu thấy vậy liền cho đó là thường.
“Thiện nam tử! Vì
hình tướng của các
nhân duyên có thể hư hoại nên cũng gọi là
vô thường. Chẳng hạn như nhân có con mắt, có
hình sắc, có ánh sáng, có sự
suy xét, mới sanh ra sự
nhận biết của mắt. Khi sanh ra sự
nhận biết của tai thì lại
do nơi các nhân khác biệt, chẳng phải cùng các nhân như sự
nhận biết của mắt.
Cho đến sự
nhận biết của ý đều khác biệt, cũng là như vậy.[160]
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN MƯỜI BA
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN MƯỜI BỐN
PHẨM THÁNH HẠNH
Phẩm thứ bảy – Phần bốn
Lại nữa,
thiện nam tử!
Nhân duyên hư hoại của các hành là khác nhau, cho nên tâm gọi là
vô thường. Chẳng hạn như tâm
tu tập [
quán tưởng]
vô thường là khác, tâm
tu tập [
quán tưởng] các pháp khổ, không,
vô ngã cũng khác. Nếu tâm là thường, lẽ ra chỉ thường
tu pháp [
quán tưởng]
vô thường. Như vậy không thể quán được các pháp khổ, không,
vô ngã, huống hồ có thể quán các
pháp thường, lạc, ngã, tịnh? Vì nghĩa ấy nên trong pháp của
ngoại đạo không thể thâu nhiếp giữ lấy thường, lạc, ngã, tịnh.
Thiện nam tử! Nên biết rằng
tâm pháp nhất định là
vô thường.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Vì
tâm tánh khác nhau nên gọi là
vô thường. Chẳng hạn như
tâm tánh của hàng
Thanh văn là khác,
tâm tánh của hàng
Duyên giác là khác,
tâm tánh của chư Phật lại cũng khác.
“Hết thảy
ngoại đạo có ba thứ tâm. Một là tâm
xuất gia, hai là tâm
tại gia, ba là tâm
tại gia muốn
xa lìa. Tâm
tương ứng với
vui sướng là khác, tâm
tương ứng với khổ là khác, tâm
tương ứng với việc chẳng khổ chẳng vui là khác. Tâm
tương ứng với
tham dục là khác, tâm
tương ứng với
sân khuể là khác, tâm
tương ứng với
ngu si là khác... Hết thảy
ngoại đạo, tâm
tương ứng của họ cũng khác nhau. Chẳng hạn như tâm
tương ứng với
ngu si là khác, tâm
tương ứng với
nghi hoặc là khác, tâm
tương ứng với
tà kiến là khác. Những lúc
tới lui, giữ theo
oai nghi, tâm ấy cũng khác.
“Thiện nam tử! Nếu tâm là thường thì người ta không thể
phân biệt được các màu, chẳng hạn như màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu tím...
Thiện nam tử! Nếu tâm là thường thì những việc đã nhớ nghĩ lẽ ra không thể quên mất!
Thiện nam tử! Nếu tâm là thường thì trong việc tụng đọc lẽ ra không có sự
tiến triển.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu tâm là thường, lẽ ra không thể nói rằng: đã làm, đang làm, sẽ làm. Nếu có ‘đã làm, đang làm, sẽ làm’, phải biết rằng tâm ấy
nhất định là
vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu tâm là thường, hẳn không có oán thù hay
thân thiện, hoặc chẳng oán chẳng thân. Nếu tâm là thường, hẳn không nên nói là ‘vật của tôi’, ‘vật của người khác’, hoặc chết, hoặc sống... Nếu tâm là thường, tuy có chỗ làm nhưng lẽ ra là không có sự phát triển.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên biết rằng
tâm tánh có nhiều loại khác nhau. Vì có khác nhau nên biết rằng là
vô thường.
“Thiện nam tử! Nay ta đã
giảng giải lẽ
vô thường trong chỗ
pháp không hình sắc. Nghĩa ấy đã rõ. Ta lại sẽ vì ông mà giảng lẽ
vô thường của
hình sắc.
“Sắc ấy là
vô thường, vốn không có sanh, vì sanh đã diệt. Bên trong thì như thân người lúc mới vào thai, giai đoạn ca-la-ra[161] vốn không có sanh, vì sanh đã
biến đổi. Bên ngoài thì như các mầm cây vốn không có sanh, vì sanh đã
biến đổi. Vì thế nên biết rằng tất cả pháp
hình sắc đều là
vô thường.
“Thiện nam tử! Những
hình sắc ở trong thân đều [
liên tục]
biến đổi theo từng thời điểm. Khi ở
thời kỳ ca-la-ra là khác, khi ở
thời kỳ an-phù-đà là khác, khi ở
thời kỳ già-na là khác, khi ở
thời kỳ nắm tay là khác, khi ở
thời kỳ thành hình bào thai là khác, khi ở
thời kỳ sơ sanh là khác, khi ở
thời kỳ hài nhi là khác, khi ở
thời kỳ nhi đồng là khác, mãi
cho đến khi
già nua, mỗi lúc đều có
biến đổi...
“Những
hình sắc bên ngoài cũng vậy: mầm cây là khác, thân cây là khác,
cho đến cành, lá, hoa, trái... đều là khác.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Cho đến mùi vị bên trong cũng luôn đổi khác. Khi ở
thời kỳ ca-la-ra là khác,
cho đến thời kỳ già nua, mỗi lúc đều
biến đổi...
Mùi vị bên ngoài cũng vậy, mầm cây, thân cây, cành, lá, hoa, trái... mỗi lúc đều có vị khác nhau...
“Khi ở
thời kỳ ca-la-ra,
sức lực là khác,
cho đến khi
già nua sức lực cũng khác. Khi ở
thời kỳ ca-la-ra,
hình dáng là khác, đến khi
già nua hình dạng lại khác nữa. Khi ở
thời kỳ ca-la-ra,
quả báo là khác, đến khi
già nua,
quả báo lại khác nữa. Khi ở
thời kỳ ca-la-ra, tên gọi là khác, đến khi
già nua, tên gọi cũng khác.
“Hình sắc trong thân hư hoại rồi
hợp lại, nên biết là
vô thường.
Hình sắc bên ngoài như cây cối cũng hư hoại rồi
hợp lại, nên biết là
vô thường. Cứ
tuần tự theo thứ lớp sanh ra, nên biết là
vô thường.
“Theo thứ lớp sanh ra là như từ
thời kỳ ca-la-ra cho tới lúc
già nua. Theo thứ lớp sanh ra là như từ mầm cây cho tới quả, hạt... nên biết là
vô thường.
“Các
hình sắc có
thể diệt mất, nên biết là
vô thường. Sự diệt mất ở
thời kỳ ca-la-ra là khác,
cho đến sự diệt mất ở
thời kỳ già nua là khác. Sự diệt mất của mầm cây là khác,
cho đến sự diệt mất của trái cây là khác... nên biết là
vô thường. Kẻ
phàm phu không
hiểu biết, thấy chỗ sanh ra
tương tự liền cho là thường. Vì nghĩa ấy nên gọi là
vô thường.
“Nếu là
vô thường tức là khổ; nếu là khổ tức là
bất tịnh.
Thiện nam tử, nhân vì trước đây Ca-diếp có hỏi việc ấy, ta đã
giải đáp rồi.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Các pháp là
vô ngã.
Thiện nam tử! Tất cả các pháp
gồm có pháp
hình sắc và
pháp không có
hình sắc. Các pháp có
hình sắc chẳng phải là ngã. Vì sao vậy? Vì có thể bị phá hỏng, bị hư hoại, bị xé rách, bị đánh đập, sanh ra rồi lớn dần lên. Còn cái ngã thì không thể bị phá hỏng, bị hư hoại, bị xé rách, bị đánh đập, không sanh ra rồi lớn dần lên. Vì nghĩa ấy nên biết các pháp có
hình sắc chẳng phải là ngã. Các
pháp không hình sắc cũng chẳng phải là ngã. Vì sao vậy? Vì do
nhân duyên mà sanh ra.
“Thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo nhờ
chuyên tâm suy nghĩ mà biết là có ngã, thì tánh của sự
chuyên tâm suy nghĩ đó thật chẳng phải ngã. Nếu lấy sự
chuyên tâm suy nghĩ mà cho là tánh của ngã, thì những việc trong
quá khứ hẳn phải có chỗ quên mất. Vì có chỗ quên mất, nên biết chắc là
vô ngã.
“Thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo nhờ nghĩ nhớ mà biết rằng có ngã, vì không nghĩ nhớ nên biết chắc là
vô ngã. Như nói: ‘Có người bàn tay đến sáu ngón.’ Vừa nghe vậy liền hỏi rằng: ‘Trước đây tôi có gặp người ấy ở đâu kìa?’ Nếu là có ngã, lẽ ra không cần hỏi lại. Vì có hỏi nhau nên biết chắc là
vô ngã.
“Thiện nam tử! Như có những kẻ
ngoại đạo vì có chỗ ngăn che mà biết rằng có ngã.
Thiện nam tử! Bởi có sự ngăn che nên biết chắc là
vô ngã. Như nói: ‘Điều-đạt’[162] thì chẳng bao giờ nói ‘chẳng phải Điều-đạt’. Cái ngã cũng vậy, nếu nói chắc là có ngã thì chẳng bao giờ lại ngăn che cái ngã. Bởi có ngăn che cái ngã nên biết chắc là
vô ngã. Nếu vì sự ngăn che mà biết rằng có ngã, nay ông không có sự ngăn che,
nhất định phải là vô ngã!
“Thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo lấy việc cùng nhóm, chẳng cùng nhóm mà biết rằng có ngã;
vậy thì vì không cùng nhóm lẽ ra không có ngã! Có những
pháp không có gì cùng nhóm, ấy là:
Như Lai,
hư không, tánh Phật. Cái ngã cũng vậy,
thật không có gì cùng nhóm. Vì nghĩa ấy nên biết chắc là
vô ngã.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo lấy tên gọi mà biết rằng có ngã, trong những
pháp vô ngã cũng có tên gọi ngã, như người nghèo hèn có tên là Phú Quý. Như nói: ‘Ta chết’. Nếu là ta chết, thì là tự ta giết ta. Nhưng cái ngã
thật không thể giết. Tạm gọi là ‘giết ta’, cũng như người lùn thấp mà có tên là Người Cao Lớn. Vì nghĩa ấy, nên biết chắc là
vô ngã.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo thấy trẻ vừa sanh ra đã biết đòi bú mà cho rằng có ngã.
Thiện nam tử! Nếu là có ngã thì hết thảy trẻ con lẽ ra không bốc lấy phẩn dơ, lửa, rắn, thuốc độc... Vì nghĩa ấy nên biết chắc là
vô ngã.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có ba việc mà hết thảy
chúng sanh đều có sự
hiểu biết như nhau. Đó là: sự
dâm dục, sự
ăn uống và sự khiếp sợ.
Vì vậy nên
vô ngã.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo vì
tướng mạo mà biết rằng có ngã.
Thiện nam tử! Vì có tướng nên
vô ngã. Vì
không tướng cũng là
vô ngã. Như người đang ngủ không thể đi, đứng, cúi xuống, ngẩng lên, nhìn, nháy mắt, chẳng biết khổ, vui, lẽ ra là không có ngã. Nếu lấy việc đi, đứng, cúi xuống, ngẩng lên, nhìn, nháy mắt mà biết là có ngã, thì người máy bằng gỗ[163] lẽ ra cũng có ngã!
Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng cúi xuống, chẳng ngẩng lên, chẳng nhìn, chẳng nháy mắt, chẳng khổ, chẳng vui, chẳng tham, chẳng giận, chẳng si, chẳng làm.
Như Lai như vậy,
chân thật có ngã.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu có những kẻ
ngoại đạo thấy người khác ăn trái cây, trong miệng chảy nước miếng, do đó biết rằng có ngã.
Thiện nam tử! Bởi có nhớ tưởng nên nhìn thấy thì chảy nước miếng, nước miếng đó chẳng phải ngã. Ngã cũng chẳng phải là nước miếng, chẳng phải vui, chẳng phải buồn, chẳng phải ngáp, chẳng phải cười, chẳng phải nằm, chẳng phải ngồi, chẳng phải đói, chẳng phải no... Vì nghĩa ấy nên biết chắc là
vô ngã.
“Thiện nam tử! Những kẻ
ngoại đạo ấy
ngu si như trẻ con, không có
phương tiện trí tuệ, không rõ biết các
lẽ thường,
vô thường, khổ, vui, tịnh,
bất tịnh, ngã,
vô ngã,
thọ mạng, chẳng phải
thọ mạng,
chúng sanh, chẳng phải
chúng sanh, thật, chẳng phải thật, có, chẳng phải có. Ở trong
Phật pháp, họ chỉ nắm được một phần rất nhỏ,
hư dối cho rằng có thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng thật chẳng biết thường, lạc, ngã, tịnh.
“Như người mù từ lúc mới sanh, không biết màu của sữa, liền hỏi một người khác: ‘Màu của sữa giống cái gì?’ Người kia đáp: ‘Màu trắng như vỏ ốc.’ Người mù lại hỏi: ‘Màu của sữa có giống như tiếng thổi vỏ ốc[164] chăng?’ Đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi: ‘Màu của vỏ ốc giống cái gì?’ Đáp: ‘Như cháo nếp.’ Người mù lại hỏi: ‘Sữa có
mềm dẻo như cháo nếp chăng? [Đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi:] Cháo nếp giống cái gì?’ Đáp: ‘Giống như mưa tuyết.’ Người mù lại hỏi: ‘Cháo nếp có lạnh như tuyết chăng? [Đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi:] Tuyết giống cái gì?’ Đáp: ‘Giống như con hạc trắng.’
“Người mù từ lúc mới sanh ấy, tuy nghe bốn cách
so sánh như vậy, nhưng
rốt cuộc cũng chẳng biết được màu thật của sữa. Những kẻ
ngoại đạo kia cũng vậy,
rốt cuộc cũng chẳng biết được thường, lạc, ngã, tịnh.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên trong pháp Phật mới có
chân lý chân thật,
ngoại đạo không có được.”
Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thật ít có thay, Thế Tôn! Nay
Như Lai sắp
buông xả tất cả mà vào Niết-bàn, dùng
phương tiện chuyển bánh xe pháp Vô thượng,[165]
phân biệt Chân đế như vậy!”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Hôm nay vì sao ông đối với
Như Lai lại nảy sanh
tư tưởng [cho rằng
Như Lai sắp vào] Niết-bàn?
“Thiện nam tử!
Như Lai thật là
thường trụ, không
biến đổi, không có vào Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Như có ý cho rằng: ‘Ta là Phật, ta thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ta là pháp, pháp là của ta. Ta là đạo, đạo là của ta. Ta là
Thế Tôn,
Thế Tôn là của ta. Ta là
Thanh văn,
Thanh văn là của ta. Ta có thể
thuyết pháp, khiến người khác nghe và tin nhận. Ta
chuyển bánh xe Pháp,
ngoài ra những người khác không thể.’
Như Lai không bao giờ có những
ý nghĩ như vậy. Cho nên
Như Lai không có
chuyển bánh xe Pháp.
“Thiện nam tử! Như có người có những
ý tưởng hư dối cho rằng: ‘Ta là mắt, mắt là của ta.
Cho đến tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như vậy.[166] Ta là sắc, sắc là của ta;
cho đến pháp cũng là như vậy.[167] Ta là đất, đất là của ta,
cho đến nước, lửa, gió cũng là như vậy.’[168] [Những
ý tưởng như vậy đều là
hư dối.]
“Thiện nam tử! Như có người nói rằng: ‘Ta là tín, tín là của ta. Ta là
đa văn,[169]
đa văn là của ta. Ta là
Đàn ba-la-mật,[170]
Đàn ba-la-mật là của ta. Ta là
Thi-la ba-la-mật,[171]
Thi-la ba-la-mật tức là của ta. Ta là
Sằn-đề ba-la-mật,[172]
Sằn-đề ba-la-mật là của ta. Ta là
Tỳ-lê-da ba-la-mật,[173]
Tỳ-lê-da ba-la-mật là của ta. Ta là
Thiền ba-la-mật,[174]
Thiền ba-la-mật là của ta. Ta là
Bát-nhã ba-la-mật,[175]
Bát-nhã ba-la-mật là của ta. Ta là
Bốn niệm xứ,[176]
Bốn niệm xứ là của ta.
Bốn chánh cần,[177]
Bốn như ý túc,[178] Năm căn,[179]
Năm sức,[180]
Bảy phần giác,[181]
Tám Thánh đạo[182] lại cũng như vậy.’ [Những
ý tưởng như vậy đều là
hư dối.]
Thiện nam tử!
Như Lai chẳng bao giờ có những
ý nghĩ [
hư dối] như thế, nên
Như Lai thật không có
chuyển bánh xe Pháp.
“Thiện nam tử! Nếu nói [
Như Lai] là
thường trụ, không hề
biến đổi, sao lại nói rằng Phật chuyển bánh xe Pháp? Cho nên hôm nay ông không nên nói rằng ‘Như Lai
phương tiện chuyển bánh xe Pháp’.
“Thiện nam tử!
Ví như có nhân là con mắt, có các duyên là
hình sắc, ánh sáng, sự
suy xét. Nhân và duyên
hòa hợp mà sanh ra sự thấy biết của mắt, tức là
nhãn thức.
Thiện nam tử! Con mắt không nghĩ rằng: ‘Ta có thể sanh ra
nhãn thức.’
Hình sắc, ánh sáng, sự
suy xét cũng đều không nghĩ rằng: ‘Ta sanh ra
nhãn thức.’
Nhãn thức lại cũng không nghĩ rằng: ‘Ta có thể tự sanh ra.’
Thiện nam tử! Những
pháp như vậy, do nhân và duyên
hòa hợp nên được gọi là sự thấy.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế. Nhân có sáu pháp ba-la-mật, ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề, nên rõ biết hết các pháp. Lại nhân có yết hầu, lưỡi, răng, môi, miệng, lời lẽ, giọng nói, nên vì Kiều-trần-như mà
thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là
chuyển bánh xe Pháp. Vì nghĩa ấy nên không gọi là ‘Như Lai chuyển bánh xe pháp’.[183]
“Thiện nam tử! Nếu
như không chuyển thì gọi đó là Pháp. Pháp đó là
Như Lai.
“Thiện nam tử!
Ví như nhân có
đồ đánh lửa,[184] nhân sự chà xát, nhân bàn tay, nhân phân bò khô mà sanh ra lửa.[185]
Đồ đánh lửa không nói rằng: ‘Ta có thể sanh ra lửa.’ Sự chà xát, bàn tay, phân bò, mỗi thứ cũng không nghĩ rằng: ‘Ta có thể sanh ra lửa.’ Lửa cũng chẳng nói rằng: ‘Ta có thể tự sanh ra.’
“Như Lai cũng vậy, nhân nơi sáu pháp ba-la-mật
cho đến vì Kiều-trần-như mà
thuyết pháp, gọi là
chuyển bánh xe Pháp.
Như Lai không nghĩ rằng: ‘Ta
chuyển bánh xe Pháp.’
“Thiện nam tử!
Nếu không sanh ra, tức gọi là
chuyển bánh xe Pháp một cách chân chánh.
Chuyển bánh xe pháp như vậy, gọi là
Như Lai.
“Thiện nam tử!
Ví như nhân có sữa, có nước, có sự khuấy đảo, có bình chứa, có sợi dây,[186] có tay người vớt lấy, mà có món bơ. Sữa không nghĩ rằng: ‘Ta có thể làm ra bơ.’ Các
yếu tố khác,
cho đến tay người cũng không nghĩ rằng: ‘Ta có thể làm ra bơ.’ Món bơ cũng không nói rằng: ‘Ta có thể tự làm ra.’ Bởi nhiều duyên
hòa hợp nên mới thành món bơ.
Như Lai cũng vậy, chẳng bao giờ nghĩ rằng: ‘Ta
chuyển bánh xe pháp.’
“Thiện nam tử! Nếu chẳng làm ra [như vậy], đó gọi là
chuyển bánh xe Pháp một cách chân chánh.
Chuyển bánh xe pháp như vậy, tức là
Như Lai.
“Thiện nam tử!
Ví như nhân có
hạt giống, có đất, có nước, có sự ấm áp, có gió, có phân bón, có
thời tiết, có người trồng tỉa... nên mầm cây được sanh ra.
Thiện nam tử!
Hạt giống không nói rằng: ‘Ta có thể sanh ra mầm cây.’ Các
yếu tố khác,
cho đến người trồng tỉa cũng đều chẳng nói rằng: ‘Ta có thể sanh ra mầm cây.’ Mầm cây cũng không nói rằng: ‘Ta có thể tự sanh ra.’
Như Lai cũng thế, không bao giờ nghĩ rằng: ‘Ta
chuyển bánh xe pháp.’
“Thiện nam tử!
Nếu không tạo tác, ấy gọi là
chuyển bánh xe pháp một cách chân chánh.
Chuyển bánh xe pháp như vậy tức là
Như Lai.
“Thiện nam tử!
Ví như nhân có cái trống, có khoảng không, có da bịt trống, có người, có dùi trống,
hợp lại mà phát ra tiếng. Cái trống chẳng nghĩ rằng: ‘Ta có thể phát ra tiếng.’ Các
yếu tố khác,
cho đến cái dùi trống cũng đều như vậy. Tiếng trống cũng chẳng nói: ‘Ta có thể tự phát ra.’
Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, chẳng bao giờ nghĩ rằng: ‘Ta
chuyển bánh xe pháp.’
“Thiện nam tử!
Chuyển bánh xe Pháp, đó gọi là không tạo tác; không tạo tác tức là
chuyển bánh xe Pháp.
Chuyển bánh xe Pháp tức là
Như Lai.
Thiện nam tử!
Chuyển bánh xe Pháp [như thế] đó mới là
cảnh giới của chư
Phật Thế Tôn, chẳng phải chỗ hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể rõ biết được.
“Thiện nam tử!
Hư không không sanh ra, không
xuất hiện, không tạo tác, không phải
pháp hữu vi.
Như Lai cũng vậy, không sanh ra, không
xuất hiện, không tạo tác, không phải
pháp hữu vi. Như tánh
Như Lai, tánh Phật cũng vậy, không sanh ra, không
xuất hiện, không tạo tác, không phải
pháp hữu vi.
“Thiện nam tử!
Ngôn ngữ của chư
Phật Thế Tôn có hai phần: một là
ngôn ngữ thế gian, hai là
ngôn ngữ xuất thế gian.
Thiện nam tử!
Như Lai vì hàng
Thanh văn,
Duyên giác mà
giảng thuyết bằng
ngôn ngữ thế gian, vì các vị
Bồ Tát mà
giảng thuyết bằng
ngôn ngữ xuất thế gian.
“Thiện nam tử! Trong
đại chúng đây cũng có hai hạng: một là hạng cầu
Tiểu thừa, hai là hạng
cầu Đại thừa.
Ngày xưa, ở thành Ba-la-nại ta vì hàng
Thanh văn mà
chuyển bánh xe Pháp. Hôm nay, ở tại thành Câu-thi-na này ta lần đầu tiên vì các vị
Bồ Tát mà chuyển bánh xe
Đại pháp.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có hai hạng người: hạng
căn tánh trung bình và hạng
căn tánh cao tột. Trước đây ở thành Ba-la-nại ta đã
chuyển bánh xe pháp cho hạng người
căn tánh trung bình. Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na, ta chuyển bánh xe
đại pháp cho hạng người
căn tánh cao tột, hàng
voi chúa giữa loài người,[187] là các vị như
Bồ Tát Ca-diếp đây.
“Thiện nam tử! Với hạng người
căn tánh kém cỏi nhất thì
Như Lai chẳng bao giờ vì họ mà
chuyển bánh xe Pháp. Hạng
căn tánh kém cỏi nhất, đó là những kẻ nhất-xiển-đề.[188]
“Lại nữa,
thiện nam tử! Những người cầu
Phật đạo cũng có hai hạng: một là hạng
tinh tấn bậc trung, hai là hạng
tinh tấn bậc thượng. Trước đây, ở thành Ba-la-nại ta đã
chuyển bánh xe pháp cho hạng
tinh tấn bậc trung. Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na, ta chuyển bánh xe
Đại pháp cho hạng
tinh tấn bậc thượng.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Trước đây khi ở thành Ba-la-nại ta
chuyển bánh xe Pháp lần đầu, có tám vạn
chư thiên và người ta
đắc quả Tu-đà-hoàn.[189] Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na, có tám mươi vạn ức người được
địa vị không còn
thối chuyển[190] đối với
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Khi ở thành Ba-la-nại,
Đại Phạm thiên vương cúi đầu
sát đất thỉnh ta
chuyển bánh xe Pháp. Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na,
Bồ Tát Ca-diếp cúi đầu
sát đất thỉnh ta
chuyển bánh xe Pháp.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Khi xưa ta ở thành Ba-la-nại kia
chuyển bánh xe Pháp,
giảng thuyết những pháp
vô thường, khổ, không,
vô ngã. Nay ở nơi này, tại thành Câu-thi-na,
chuyển bánh xe Pháp,
giảng thuyết những
pháp thường, lạc, ngã, tịnh.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Ta xưa ở thành Ba-la-nại kia
chuyển bánh xe Pháp, những
lời nói ra tận cảnh
trời Phạm thiên cũng nghe. Nay
Như Lai ở thành Câu-thi-na
chuyển bánh xe Pháp, những
lời nói ra thấu suốt các
thế giới của chư Phật ở phương đông nhiều như số cát hai mươi
sông Hằng. Về các phương nam, phương tây, phương bắc,
bốn phương phụ, phương trên và phương dưới cũng đều vang xa như vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Chư
Phật Thế Tôn giảng thuyết bất cứ điều gì cũng đều gọi là
chuyển bánh xe Pháp.
Thiện nam tử!
Ví như vị
Thánh vương có bánh xe quý, với những kẻ chưa
hàng phục có thể khiến cho
hàng phục; những kẻ đã
hàng phục rồi lại có thể khiến cho được
an ổn.
Thiện nam tử! Những sự
giảng thuyết của chư
Phật Thế Tôn cũng vậy, những ai chưa
điều phục vô lượng phiền não có thể khiến cho
điều phục; những ai đã
điều phục rồi, lại khiến cho
sanh khởi các căn lành.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
Thánh vương có bánh xe quý, ắt có thể
tiêu diệt hết thảy giặc thù.
Như Lai thuyết pháp cũng vậy, có thể khiến cho hết thảy giặc
phiền não đều trở nên tĩnh lặng.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như vị
Thánh vương có bánh xe quý, trên dưới đều xoay chuyển.[191]
Như Lai thuyết pháp cũng vậy, có thể khiến cho những
chúng sanh tệ ác ở
những cảnh giới thấp[192] được sanh lên
cõi người,
cõi trời,
cho đến vào trong
Phật đạo.
“Thiện nam tử! Vì thế nên hôm nay ông không nên
xưng tán rằng: ‘Như Lai lại
chuyển bánh xe Pháp ở đây.’”
Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn! Con chẳng phải là không biết nghĩa ấy.
Sở dĩ thưa hỏi là vì muốn được
lợi ích cho
chúng sanh.
“Bạch Thế Tôn! Từ lâu con đã biết rằng
chuyển bánh xe Pháp thật là cảnh gới của
chư Phật Như Lai, chẳng phải chỗ hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.”
Bấy giờ,
Thế Tôn bảo
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Đó gọi là chỗ
thực hành Thánh hạnh của vị
Bồ Tát trụ nơi
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Do
ý nghĩa gì mà gọi là Thánh hạnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Thánh là danh xưng của chư
Phật Thế Tôn. Vì nghĩa ấy nên gọi là
Thánh hạnh.”
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Thế Tôn! Nếu là hạnh của chư Phật, ắt không phải hàng
Thanh văn,
Duyên giác và
Bồ Tát có thể
tu hành.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Chư
Phật Thế Tôn trụ yên ở kinh Đại Bát Niết-bàn này mà đưa ra những lời chỉ bày
phân biệt như vậy,
diễn thuyết ý nghĩa. Vì nghĩa ấy nên gọi là
Thánh hạnh. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác và
Bồ Tát được nghe như vậy rồi liền có thể kính cẩn làm theo, nên gọi là
Thánh hạnh.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát khi được
Thánh hạnh này rồi, ắt được trụ nơi
địa vị Vô sở úy.[193]
Thiện nam tử! Như có
Bồ Tát nào trụ nơi
địa vị Vô sở úy, ắt không còn
trở lại sợ sệt
tham dục,
sân khuể,
ngu si, sanh, già, bệnh, chết. Cũng không còn sợ sệt những đường ác như
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
“Thiện nam tử! Sự ác có hai loại: một là a-tu-la,[194] hai là trong
cõi người. Trong
cõi người có ba hạng ác: một là những kẻ nhất-xiển-đề, hai là những kẻ
phỉ báng kinh điển Phương đẳng,[195] ba là những kẻ phạm
Bốn tội nghiêm trọng.[196]
Thiện nam tử! Trụ ở
địa vị Vô sở úy rồi, các vị
Bồ Tát không bao giờ sợ rơi vào những điều ác như vậy, cũng không sợ sệt hàng sa-môn, bà-la-môn,
ngoại đạo tà kiến,
Thiên ma Ba-tuần, cũng không còn sợ thọ sanh vào
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.[197]
Vì vậy nên
địa vị ấy gọi là
Vô sở úy.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở
địa vị Vô sở úy có hai mươi lăm phép Tam-muội
vượt qua được
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
Thiện nam tử!
Bồ Tát chứng được
Vô cấu Tam-muội có thể
vượt qua cõi địa ngục.
Chứng được Vô thối Tam-muội có thể
vượt qua cõi
súc sanh.
Chứng được
Tâm lạc Tam-muội có thể
vượt qua cõi ngạ quỷ.
Chứng được
Hoan hỷ Tam-muội có thể
vượt qua cõi a-tu-la.
Chứng được
Nhật quang Tam-muội có thể
vượt qua cõi Phất-bà-đề.
Chứng được
Nguyệt quang Tam-muội có thể
vượt qua cõi Cồ-da-ni.
Chứng được Nhiệt diệm Tam-muội có thể
vượt qua cõi Uất-đan-việt.
Chứng được
Như huyễn Tam-muội có thể
vượt qua cõi Diêm-phù-đề.
Chứng được
Nhất thiết pháp bất động Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Tứ Thiên Vương.
Chứng được Tồi phục Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Ba mươi ba.
Chứng được
Duyệt ý Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Diệm-ma.
Chứng được Thanh sắc Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Đâu-suất.
Chứng được
Hoàng sắc Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Hóa lạc.
Chứng được
Xích sắc Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Tha hóa tự tại.
Chứng được
Bạch sắc Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Sơ thiền.
Chứng được
Chủng chủng Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Đại phạm.
Chứng được Song Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Nhị thiền.
Chứng được Lôi âm Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Tam thiền.
Chứng được Chú vũ Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Tứ thiền.
Chứng được Như
hư không Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Vô tưởng.
Chứng được Chiếu kính Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Tịnh cư A-na-hàm.
Chứng được
Vô ngại Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Không xứ.
Chứng được Thường Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Thức xứ.
Chứng được Lạc Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Bất dụng xứ hữu.
Chứng được Ngã Tam-muội có thể
vượt qua cõi trời Phi tưởng, phi
phi tưởng xứ.
“Thiện nam tử! Đó gọi là
Bồ Tát chứng được hai mươi lăm phép Tam-muội dứt trừ được
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
Thiện nam tử! Hai mươi lăm phép Tam-muội ấy gọi là Tam-muội vương, là vua của các phép Tam-muội.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát khi nhập vào các phép Tam-muội vương này, nếu muốn thổi nát núi chúa Tu-di thì có thể
tùy ý làm được ngay. Nếu muốn biết hết
ý nghĩ trong tâm của
chúng sanh trong
Tam thiên Đại thiên thế giới, liền có thể biết được ngay. Nếu muốn đem
chúng sanh trong
Tam thiên Đại thiên thế giới đặt vào một lỗ chân lông trên thân mình, thì
tùy ý làm được ngay, lại cũng có thể làm cho các
chúng sanh ấy không
cảm thấy bị dồn ép. Nếu muốn hóa ra
vô lượng chúng sanh đầy khắp cả
Tam thiên Đại thiên thế giới, cũng có thể
tùy ý làm được. Muốn phân một thân ra thành nhiều thân, rồi khiến nhiều thân ấy
hợp lại thành một thân. Tuy làm những việc như thế, nhưng trong
tâm không có chỗ
vướng mắc, luôn
tinh khiết như
hoa sen.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát khi nhập vào các phép Tam-muội vương này, liền được trụ nơi
địa vị tự tại.
Bồ Tát trụ ở
địa vị tự tại ấy thì có sức
tự tại, muốn sanh ra ở xứ nào liền được sanh đến đó.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
Thánh vương thống lãnh
bốn cõi thiên hạ[198]
tùy ý đi lại, không gì có thể
chướng ngại.
Bồ Tát ma-ha-tát cũng vậy, trong hết thảy
mọi nơi, muốn sanh nơi nào thì
tùy ý sanh đến đó.
“Thiện nam tử! Khi
Bồ Tát ma-ha-tát thấy trong tất cả
chúng sanh ở
địa ngục có kẻ có thể
giáo hóa, khiến cho trụ nơi căn lành được, liền
tức thời sanh vào trong
địa ngục.
Bồ Tát tuy sanh ra [trong
địa ngục] nhưng chẳng phải do
nghiệp quả của mình.
Bồ Tát ma-ha-tát trụ nơi
địa vị tự tại, do sức
nhân duyên mà sanh vào trong đó.
Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát tuy ở
địa ngục nhưng không chịu những nỗi khổ như đốt cháy, cưa xẻ nát thân.
“Thiện nam tử! Chỗ
thành tựu công đức như vậy của
Bồ Tát ma-ha-tát là
vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết, huống chi là
công đức của chư Phật lại có thể nói hết được sao?”
Lúc ấy, trong chúng có một vị
Bồ Tát tên là Trụ
Vô Cấu Tạng Vương, có
oai đức lớn,
thành tựu thần thông, được phép đại
tổng trì,[199] đầy đủ các phép Tam-muội, được đức không sợ sệt, từ chỗ ngồi
đứng dậy vén y bày bên vai phải, quỳ gối phải
sát đất,
chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa dạy, chỗ
thành tựu công đức và
trí tuệ của chư Phật,
Bồ Tát là
vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức,
thật không thể nói hết. Nhưng ý con cho là cũng không
bằng kinh điển
Đại thừa này. Vì sao vậy? Vì nhờ sức của
kinh Phương đẳng Đại thừa này mà có thể sanh ra
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề của chư
Phật Thế Tôn.”
Bấy giờ, Phật liền khen ngợi: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Đúng như vậy, đúng như lời ông vừa nói đó, các
kinh điển Phương đẳng Đại thừa khác tuy có
vô lượng công đức, nhưng nếu muốn so với kinh này thì không thể được.
Công đức của kinh này vượt hơn gấp trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn ức lần,
cho đến so sánh tính toán cũng không thể nói hết!
“Thiện nam tử!
Ví như từ bò sữa sanh ra sữa, từ sữa sanh ra kem sữa, từ kem sữa sanh ra bơ sống, từ bơ sống sanh ra bơ chín, từ bơ chín sanh ra đề-hồ. Đề-hồ là món tốt nhất, người nào ăn vào thì các bệnh đều dứt, vì
các loại thuốc đều có trong đó.
“Thiện nam tử!
Đức Phật cũng như thế. Từ Phật nói ra
Mười hai bộ kinh, từ
Mười hai bộ kinh mà có Tu-đa-la, từ Tu-đa-la mà có
kinh Phương đẳng, do
kinh Phương đẳng mà có kinh
Bát-nhã Ba-la-mật, từ kinh
Bát-nhã Ba-la-mật mà có kinh Đại Niết-bàn này, cũng như chất đề-hồ. Nói đề-hồ là
ví như tánh Phật. Tánh Phật tức là
Như Lai.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên nói rằng
công đức của
Như Lai là
vô lượng vô biên, không thể nói hết.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như lời Phật
ngợi khen thì kinh Đại Niết-bàn cũng như đề-hồ là món ăn tốt nhất, ngon quý nhất. Nếu người nào được ăn thì các bệnh đều dứt, vì
các loại thuốc đều có trong đó. Con được
nghe lời này rồi, lại có ý riêng rằng: ‘Nếu người nào không thể nghe và tin nhận kinh này, nên biết rằng người ấy là quá
ngu si, không có tâm lành.’
“Bạch Thế Tôn! Con nay thật sự có thể nhẫn chịu sự lột da mình làm giấy, chích máu tự thân làm mực, lấy tủy trong xương mình làm nước, chẻ xương mình làm bút để sao chép kinh Đại Niết-bàn này. Khi sao chép ra rồi, con sẽ
đọc tụng cho được
thông suốt, sau đó sẽ vì người khác mà giảng rộng
nghĩa kinh này.
“Bạch Thế Tôn! Nếu có những
chúng sanh tham đắm tiền bạc,
của cải, con sẽ
bố thí cho họ tiền bạc, sau đó lấy kinh Đại Niết-bàn này mà khuyên họ đọc. Nếu là người
tôn quí, trước hết con sẽ dùng lời
êm ái tùy thuận ý họ, sau đó
dần dần sẽ đem
kinh Đại thừa Đại Niết-bàn này mà khuyên họ đọc. Nếu là kẻ tầm
thường dân dã, con sẽ dùng oai thế
ép buộc họ phải
đọc kinh này. Nếu là những kẻ
kiêu căng khinh mạn, con sẽ theo hầu hạ,
tùy thuận ý họ để khiến họ
vui vẻ, sau đó mới dùng kinh Đại Niết-bàn này để
dạy bảo,
chỉ dẫn họ. Nếu có những kẻ
phỉ báng kinh Đại thừa, con sẽ dùng
thế lực mà khuất phục họ, sau đó mới khuyên họ
đọc kinh Đại Niết-bàn này. Nếu có những ai
ưa thích kinh Đại thừa, con sẽ đích thân đến chỗ những vị ấy
cung kính cúng dường,
ngợi khen tôn trọng.”
Lúc ấy,
đức Phật khen ngợi
Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Ông nay rất
ưa thích kinh điển Đại thừa,
ham muốn kinh Đại thừa, tin nhận
kinh Đại thừa, hiểu thấu
kinh Đại thừa, kính tin và
tôn trọng,
cúng dường Đại thừa.
“Thiện nam tử! Ông nay nhờ
nhân duyên có tâm lành đó sẽ vượt hơn cả
vô lượng vô biên, các vị
Đại Bồ Tát nhiều như
số cát sông Hằng, ở ngay trước các vị ấy mà
thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Chẳng bao lâu nữa, ông cũng sẽ rộng vì
đại chúng mà
diễn thuyết kinh Đại Bát Niết-bàn này, cùng những
ý nghĩa của
Như Lai, tánh Phật, kho tàng sâu kín của chư Phật.
“Thiện nam tử! Vào đời
quá khứ, khi
mặt trời Phật đạo chưa mọc lên,[200] ta làm một thầy bà-la-môn, tu theo hạnh
Bồ Tát, có thể
thông đạt tất cả
kinh luận của
ngoại đạo. Ta tu hạnh
tịch diệt, đầy đủ
oai nghi, trong
tâm thanh tịnh, chẳng bị
phá hoại bởi những
ngoại cảnh làm nảy sanh
ý tưởng tham dục,
dập tắt lửa
sân hận,
thọ trì các
pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Ta đi khắp nơi tìm
cầu kinh điển
Đại thừa, nhưng thậm chí chưa từng được nghe đến tên gọi
Phương đẳng.
“Thuở ấy ta ở tại
Tuyết sơn.[201] Núi ấy
thanh tịnh, có suối chảy, ao tắm, cây gỗ, cây thuốc mọc đầy mặt đất. Khắp nơi đều có suối chảy trong veo giữa các khe đá, có nhiều thứ
hoa thơm tô điểm, chim chóc, muông thú nhiều không kể xiết, trái cây ngon ngọt sai oằn đủ loại, khó nói hết được... Lại có
vô số những củ sen, rễ ngọt, rễ thơm của cây xanh.
“Thuở ấy,
một mình ta
ở trong núi, chỉ ăn
các loại trái cây. Ăn rồi
ngồi thiền,
chú tâm suy xét.
Trải qua vô số năm cũng chẳng nghe có
Như Lai ra đời, [chẳng nghe] có tên
kinh điển Đại thừa.
“Thiện nam tử! Trong khi ta
tu khổ hạnh khó khăn như vậy, Thích-đề-hoàn-nhân[202] và
chư thiên [nhìn thấy] thảy đều
hết sức kinh ngạc, lấy làm kỳ lạ, liền cùng nhau hội họp.
Ai nấy bảo nhau cùng nói ra
bài kệ rằng:
Người người đều chỉ cho nhau,
Tuyết sơn thanh tịnh có người
ngồi yên,
Lìa xa
tham dục não phiền,
Là vua
công đức trang nghiêm muôn phần!
Đã lìa xa tham, mạn, sân,
Mãi mãi dứt trừ siểm nịnh,
ngu si.
Miệng người chẳng nói
điều chi,
Xấu xa, thô ác, hoặc lời khó nghe.
“Bấy giờ, trong hội có một vị
thiên tử[203] tên là
Hoan Hỷ, lại đọc kệ rằng:
Người ấy lìa xa
tham dục,
Chuyên cần,
thanh tịnh, siêng
tu pháp lành,
Chẳng mong Đế-thích ngôi cao,
Cùng là
địa vị chư thiên cõi trời?
Nếu
tu pháp ngoại đạo thì,
Theo các hạnh khổ
ngu si sai lầm,
Hẳn nhiều
tham muốn mong cầu,
Ngôi cao Đế-thích
đứng đầu chư thiên!
“Lúc ấy lại có một vị
Tiên thiên tử[204] vì Đế-thích mà đọc kệ rằng:
Này Đế-thích Kiều-thi-ca![205]
Chớ nên
lo lắng sanh ra
buồn phiền.
Ngoại đạo tu hành khổ hạnh,
Chưa hẳn đã cầu Đế-thích ngôi cao.
“Vị ấy đọc kệ xong lại nói rằng: ‘Này Kiều-thi-ca!
Trong đời có bậc
đại sĩ vì
chúng sanh nên chẳng
tham tiếc thân mình; vì muốn
lợi ích chúng sanh nên tu
vô lượng khổ hạnh đủ cách. Người như vậy thấy rõ mọi
tội lỗi sai lầm trong chốn
sanh tử nên dù có nhìn thấy
trân bảo đầy khắp mặt đất, trên núi cao, trong biển lớn, cũng chẳng sanh lòng tham đắm, chỉ xem đó như bãi nước bọt nhơ nhớp. Bậc
đại sĩ như vậy đã
buông xả hết tiền bạc,
châu báu,
vợ con luyến ái, đầu, mắt, tủy, não, tay, chân các thứ, nhà cửa phòng ốc, voi ngựa xe cộ, tôi trai tớ gái... Cũng chẳng cầu sanh lên
cõi trời, chỉ mong cho hết thảy
chúng sanh đều được an vui,
sung sướng.
Theo như chỗ tôi hiểu thì bậc
đại sĩ như vậy luôn
thanh tịnh không
nhiễm ô, đã
mãi mãi dứt sạch mọi
phiền não trói buộc, chỉ
duy nhất mong cầu
quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà thôi.’
“Thích-đề-hoàn-nhân lại hỏi: ‘Như ông nói đó, người này ắt là thâu nhiếp được hết thảy
chúng sanh ở thế gian!
“‘Này Đại tiên! Nếu như
thế gian này có Phật ra đời như cây to bóng mát,[206] sẽ dứt trừ được con
rắn độc phiền não của hết thảy
chư thiên, người đời và a-tu-la. Nếu
chúng sanh được ở dưới bóng mát của
đức Phật thì các độc
phiền não ắt được dứt sạch.
“Này Đại tiên! Người này nếu như
trong đời tương lai sẽ thành bậc
Thiện thệ,[207] ắt sẽ giúp
chúng ta có thể
tiêu diệt được
vô lượng phiền não như lửa dữ. Việc như vậy thật khó tin. Vì sao vậy? Có
vô lượng trăm ngàn
chúng sanh phát tâm cầu quả
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng khi gặp đôi chút
nghịch duyên liền bị lay động,
thối chuyển đối với quả
Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cũng như hình
mặt trăng dưới nước, khi nước
xao động thì
mặt trăng ấy liền
xao động; lại như
bức tranh vẽ, làm thành thì khó nhưng phá hỏng rất dễ. Tâm Bồ-đề cũng vậy,
phát tâm thật khó nhưng hoại mất rất dễ.
“Đại tiên!
Ví như có nhiều người tự trang bị những bằng áo giáp, binh khí
kiên cố, muốn xông lên phía trước dẹp giặc, nhưng khi lâm trận khiếp sợ liền thối lui, tan rã.
Vô lượng chúng sanh cũng vậy,
phát khởi tâm Bồ-đề, tự trang bị cho mình rất
kiên cố, nhưng khi thấy những
lỗi lầm chốn
sanh tử thì trong lòng sanh ra khiếp sợ liền thối lui, tan rã.
“Đại tiên! Tôi đã nhìn thấy
vô lượng chúng sanh như vậy, sau khi
phát tâm rồi đều bị lay động,
thối chuyển. Cho nên hôm nay tuy thấy người này
tu khổ hạnh, không
phiền não nóng nảy, luôn sống trong sự kiểm thúc theo
đạo pháp,[208] có hạnh
thanh tịnh, nhưng vẫn chưa thể tin được. Nay tôi
cần phải tự mình đến đó
thử thách, để xem người ấy
quả thật có thể nhận lãnh
gánh vác được
trách nhiệm lớn lao là
thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề hay chăng.
“Đại tiên! Như xe có hai bánh thì mới dùng chuyên chở được, chim có hai cánh mới
đủ sức bay đi. Người
tu khổ hạnh ấy cũng vậy. Tuy tôi thấy người ấy giữ bền
cấm giới, nhưng chưa biết là có
trí tuệ sâu xa hay chăng. Nếu có
trí tuệ sâu xa thì biết rằng có thể nhận lãnh
gánh vác được
trách nhiệm lớn lao là
thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Đại tiên!
Ví như con cá có nhiều trứng nhưng số trứng được nở thành cá con rất ít. Như cây am-la có nhiều hoa nhưng đậu quả rất ít.
Vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ-đề, nhưng đến khi
thành tựu thì rất ít, không
đáng kể.
“Đại tiên! Tôi và ông hãy cùng đến đó
thử thách người ấy. Đại tiên!
Ví như vàng thật, phải thử qua ba cách mới biết được là thật. Ba cách ấy là: nung, đập và mài. Muốn
thử thách vị
khổ hạnh kia, cũng nên như vậy.’
“Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân tự biến thân mình
thành hình tướng la-sát[209] rất
đáng sợ, hạ xuống nơi
Tuyết sơn, cách chỗ ta không xa rồi đứng đó.
Lúc ấy la-sát trong lòng không sợ sệt,
sức mạnh khó đương, lại có tài biện thuyết mạch lạc. Với giọng
thanh tao nhã nhặn, la-sát ấy đọc lên nửa
bài kệ mà
đức Phật quá khứ đã từng thuyết:
Các hành
vô thường,
Là pháp
sanh diệt.
“Đọc nửa
bài kệ ấy rồi, la-sát liền đến đứng ngay ở phía trước ta,
hiện ra tướng mạo hình dạng
hết sức đáng sợ, quay nhìn khắp nơi,
quan sát cả
bốn hướng.
“Ta vừa
nghe được nửa
bài kệ này, trong lòng sanh ra
vui mừng. Cũng
ví như có người khách buôn đi qua vùng nguy hiểm,
đang đêm lạc mất bạn
đồng hành,
lo lắng tìm kiếm, hỏi han khắp nơi, bỗng nhiên gặp lại bạn, lòng sanh ra
vui mừng,
hết sức phấn khích. Lại
ví như người mang bệnh
đã lâu, chưa gặp được
lương y chẩn bệnh, cho thuốc hay, rồi sau bỗng nhiên lại gặp được thầy, được thuốc. Như người
chìm đắm nơi biển cả bỗng nhiên gặp được tàu thuyền. Như người đang khát gặp được ly nước trong mát. Như người bị kẻ oán thù rượt đuổi bỗng nhiên được
cứu thoát. Như người bị trói
đã lâu bỗng
nghe tin được thả ra. Lại như người làm ruộng
đang khi nắng hạn mà gặp cơn mưa. Lại như người đi xa
trở về nhà, người nhà gặp được
hết sức vui mừng.
“Thiện nam tử! Ta
lúc ấy nghe được nửa
bài kệ kia rồi, trong lòng cũng
hết sức vui mừng như vậy. Ta liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, lấy tay vén tóc, nhìn quanh
bốn hướng mà hỏi rằng: ‘Vừa nghe nói kệ đó là ai nói ra vậy?’ Bấy giờ nhìn mãi cũng chẳng thấy người nào khác, chỉ thấy có một quỷ la-sát, ta liền hỏi rằng: ‘Ai mở
cửa giải thoát như vậy? Ai có thể phát ra tiếng nói của chư Phật như sấm rền? Trong chốn
sanh tử như giấc ngủ mê, ai là người riêng mình
thức tỉnh, nói lên những lời như vậy? Ở chốn này ai là người có thể chỉ bày đường đi,
đạo vị cao quý nhất cho
chúng sanh đói khó?
Vô lượng chúng sanh chìm đắm trong biển khổ
sanh tử, ai có thể ở trong ấy làm vị
đại thuyền sư?[210]
Chúng sanh thường bị cơn bệnh nặng
phiền não trói buộc, ai có thể vì họ mà làm vị lương y? Nói ra nửa
bài kệ ấy làm khai mở, bừng tỉnh tâm tôi, như một nửa vầng trăng, như
hoa sen đang dần nở ra.’
“Thiện nam tử! Bấy giờ ta nhìn mãi không thấy ai khác, chỉ thấy quỷ la-sát. Ta lại nghĩ rằng: ‘Phải chăng la-sát đây vừa đọc
bài kệ ấy?’ Nhưng rồi lại
sanh nghi, cho rằng không phải vậy. Vì sao? Vì thấy hình thù rất
đáng sợ. Nếu như người được nghe mấy câu kệ ấy thì tất cả những
hình tướng xấu xa ghê sợ ắt được dứt sạch. Tại sao người có
hình dung tướng mạo như vậy lại có thể đọc
bài kệ ấy? Trong lửa đỏ không lẽ sanh ra hoa sen! Không thể trong ánh sáng
mặt trời lại sanh ra nước lạnh!
“Thiện nam tử!
Lúc ấy ta lại nghĩ rằng: ‘Nay ta không có
trí tuệ, biết đâu la-sát ấy lại chẳng được gặp chư Phật
quá khứ, nương theo nơi chư Phật mà
nghe được nửa
bài kệ ấy. Nay ta nên hỏi nghĩa nửa
bài kệ ấy.’ Ta liền đến
trước mặt la-sát, nói rằng: ‘Lành thay, Đại sĩ! Ngài ở nơi đâu mà
nghe được nửa
bài kệ ấy của bậc
Ly bố úy[211] trong
quá khứ đã nói ra?
Đại sĩ ở nơi đâu mà được nửa
hạt châu như ý[212] này? Đại sĩ!
Ý nghĩa của nửa
bài kệ này mới là
Chánh đạo của chư
Phật Thế Tôn đời
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Hết thảy
vô lượng chúng sanh ở
thế gian thường bị mạng lưới dày đặc của các
tà kiến[213] vây phủ,
che lấp,
trọn đời ở trong pháp
ngoại đạo mà chẳng hề
nghe được chỗ
thuyết giảng nghĩa không của bậc
xuất thế Thập lực thế hùng.[214]
“Thiện nam tử! Khi nghe ta hỏi như vậy rồi, la-sát liền đáp rằng: ‘Đại bà-la-môn! Nay ông chẳng nên hỏi tôi nghĩa ấy. Vì sao vậy? Đã nhiều ngày rồi tôi không ăn chi cả. Tôi đi khắp nơi
tìm kiếm mà chẳng được món chi. Tôi
đói khát khổ não, trong lòng
rối loạn nên nói
mê sảng, đó chẳng phải là chỗ
hiểu biết thật trong lòng tôi.
Giả sử nay tôi có
thế lực mà bay đi, dạo nơi
hư không, tới châu Uất-đan-việt,
cho đến miền
thiên thượng, đi
mọi nơi để tìm món ăn, cũng không tìm được. Vì
nhân duyên ấy tôi mới nói ra lời đó.’
“Thiện nam tử! Khi ấy ta lại nói với la-sát rằng: ‘Đại sĩ! Nếu ông đọc cho tôi nghe trọn
bài kệ, tôi sẽ làm
đệ tử của ông
suốt đời.
“Đại sĩ! Chỗ ông nói ra lúc nãy thật chưa
trọn lời, cũng chưa trọn nghĩa. Vì
duyên cớ gì mà ông không muốn nói hết?
“Nói chung thì việc
bố thí tiền của ắt phải có lúc cạn kiệt, còn
nhân duyên thí pháp không thể hết được. Tuy không thể hết được nhưng lại được nhiều
lợi ích. Nay tôi đã nghe nửa
bài kệ nói pháp ấy rồi, lòng sanh ra
hoài nghi,
kinh ngạc. Mong ông có thể vì tôi trừ dứt lòng nghi ấy, nói ra trọn
bài kệ ấy rồi, tôi sẽ
suốt đời làm
đệ tử cho ông.’
“La-sát đáp rằng: ‘Ông thật khôn ngoan
thái quá, chỉ biết lo cho
bản thân mà chẳng biết xét nghĩ cho tôi. Nay tôi khổ bức vì đói,
thật không thể nói ra.’
“Ta liền hỏi: ‘Vậy
thức ăn của ông là món gì?’
“La-sát đáp: ‘Ông chẳng
cần phải hỏi, nếu tôi nói ra sẽ khiến cho nhiều người sợ sệt.’
“Ta lại hỏi: ‘Tôi ở nơi đây
một mình, không còn người nào khác cả. Tôi đã không sợ, sao ông lại chẳng nói ra?’
“La-sát đáp: ‘Món ăn của tôi chỉ
duy nhất là thịt tươi còn ấm của
con người.
Thức uống của tôi chỉ
duy nhất là máu nóng của người. Vì tôi
bạc phước nên chỉ dùng được các món đó thôi. Tôi đã đi khắp nơi
tìm kiếm, mỏi mệt
rã rời mà không thể tìm được. Tuy
trong đời có rất nhiều người, nhưng họ đều có
phước đức, lại thêm được
chư thiên bảo vệ, tôi không có
sức mạnh nên không thể giết họ.’
“Thiện nam tử! Ta lại nói rằng: ‘Ông chỉ cần nói ra cho trọn
bài kệ ấy. Tôi nghe kệ rồi tôi sẽ dùng thân này mà phụng thí
cúng dường cho ông.
“Đại sĩ! Giá như tôi chết rồi thì thân này không có chỗ dùng, sẽ làm món ăn cho cọp, sói và các loài chim dữ. Sau đó tôi cũng không được
mảy may phước báo. Nay tôi vì cầu
quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề sẽ
lìa bỏ cái thân không bền chắc này để được thân
kiên cố.’
“La-sát đáp: ‘Có ai tin được những lời như vậy của ông, chỉ vì tám chữ[215] mà có thể
lìa bỏ thân thể mình yêu mến hay sao?’
“Thiện nam tử! Ta liền đáp rằng: ‘Ông
thật không có
trí tuệ.
Ví như có người kia thí cho kẻ khác món đồ bằng sành để được món đồ bằng
bảy báu.[216] Tôi cũng như vậy, xả bỏ thân không bền chắc này để được
thân kim cang.[217] Ông nói rằng: Có ai tin được? Nay tôi có người làm chứng:
Đại Phạm thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân và bốn vị
Thiên vương đều có thể làm chứng việc ấy. Lại có chư
Bồ Tát thiên nhãn, vì muốn
lợi ích cho
vô lượng chúng sanh nên
tu hành Đại thừa, có đủ sáu pháp ba-la-mật, các vị ấy cũng có thể chứng biết. Lại có chư
Phật Thế Tôn mười phương,
vì lợi ích cho
chúng sanh cũng có thể
chứng minh cho việc tôi vì tám chữ mà
xả bỏ thân mạng này.’
“La-sát lại nói: ‘Nếu ông có thể
xả thân như vậy, hãy lắng nghe đây! Tôi sẽ vì ông nói ra nửa
bài kệ còn lại.’
“Thiện nam tử!
Lúc ấy, ta nghe như vậy trong lòng lấy làm
vui vẻ, liền cởi tấm áo da hươu đang mặc trải ra làm
pháp tòa cho la-sát ấy, bạch rằng: ‘Hòa thượng! Xin thỉnh ngài ngồi lên tòa này.’ Rồi ta ở
trước mặt la-sát,
chắp tay quỳ mọp, thưa rằng: ‘Thỉnh
hòa thượng vì con nói ra nửa
bài kệ còn lại, khiến cho được đầy đủ,
trọn vẹn.’
“La-sát liền nói:
Sanh diệt dứt rồi,
Tịch diệt là vui.
“Bấy giờ, la-sát nói ấy kệ rồi bảo ta rằng: ‘Bồ Tát ma-ha-tát, nay ông đã nghe trọn nghĩa
bài kệ.
Sở nguyện của ông đã được trọn đủ. Nếu muốn
lợi ích cho các
chúng sanh, bây giờ xin hãy
thí thân cho tôi.’
“Thiện nam tử!
Thuở ấy ta
suy xét sâu xa ý nghĩa bài kệ ấy. Về sau ở khắp nơi, hoặc trên đá, hoặc trên vách tường, cây cối, nơi đường sá, ta đều viết lên
bài kệ ấy.
“Khi đó ta liền mặc đủ
y phục vì e rằng
sau khi chết thân thể phải lõa lồ, rồi trèo lên một cây cao.
“Vị thần cây hỏi ta rằng: ‘Lành thay!
Nhân giả, ngài muốn làm gì vậy?’
“Thiện nam tử!
Lúc ấy ta đáp rằng: ‘Tôi muốn
xả thân để trả giá
bài kệ.’
“Vị thần cây hỏi: ‘Bài kệ ấy có
ích lợi gì?’
“Ta đáp: ‘Những câu kệ ấy là của chư Phật
quá khứ,
hiện tại và
vị lai thuyết dạy, khai mở
pháp không của
Chánh đạo. Tôi vì pháp này
xả bỏ thân mạng, chẳng vì
lợi dưỡng,
danh vọng,
của cải,
trân bảo, chẳng vì các ngôi vị
Chuyển luân Thánh vương,
Bốn Đại thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân,
Đại Phạm Thiên vương cùng mọi sự
vui sướng trong
cõi người,
cõi trời. Chỉ vì muốn
lợi ích cho hết thảy
chúng sanh nên xả bỏ thân này.’
“Thiện nam tử! Khi ta
xả bỏ thân mạng lại nói ra lời này: ‘Nguyện cho tất cả những kẻ keo lận thảy đều nhìn thấy tôi
lìa bỏ thân này! Như có người ít làm việc
bố thí,
khởi tâm cao ngạo cũng khiến cho được nhìn thấy tôi vì một
bài kệ mà
xả bỏ thân mạng này như vất bỏ cỏ cây.’
“Nói xong lời ấy, ta liền buông mình từ trên cây cao mà rơi xuống. Khi ta rơi chưa đến mặt đất thì giữa
hư không bỗng phát ra rất nhiều
âm thanh.
Âm thanh ấy vang lên đến tận cảnh
trời Sắc cứu cánh.[218] Bấy giờ, la-sát hiện nguyên hình Đế-thích, giữa không trung đón lấy thân ta và đặt yên trên mặt đất.
“Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân cùng
chư thiên,
Đại Phạm Thiên vương, thảy đều cúi đầu làm lễ dưới chân ta,
ngợi khen rằng: ‘Lành thay,
lành thay! Ngài
quả thật là
Bồ Tát, có thể làm
lợi ích lớn cho
vô lượng chúng sanh, muốn thắp lên cây đuốc pháp lớn giữa chốn
vô minh tăm tối. Vì
chúng tôi mến tiếc
Chánh pháp lớn lao của
Như Lai nên mới cùng nhau đến
quấy rối ngài. Xin ngài nhận cho
sự sám hối
tội lỗi của
chúng tôi. Về sau ngài
nhất định sẽ
thành Phật đạo, nguyện xin
cứu độ chúng tôi.’
“Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân và
chư thiên cùng
lễ bái dưới chân ta, từ biệt mà đi, bỗng nhiên mất dạng.
“Thiện nam tử! Như ta
thuở ấy vì nửa
bài kệ mà xả bỏ thân này. Do
nhân duyên ấy liền
vượt qua được đủ mười hai kiếp,
thành Phật trước
Bồ Tát Di-lặc.
“Thiện nam tử! Ta được
vô lượng công đức như vậy đều
do nơi sự
cúng dường Chánh pháp của
Như Lai.
Thiện nam tử! Các ông nay
cũng thế,
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, ắt là đã vượt lên hơn cả các vị
Bồ Tát nhiều
vô lượng vô biên như
số cát sông Hằng.
“Thiện nam tử! Đó gọi là
Bồ Tát trụ ở
kinh Đại thừa Đại Bát Niết-bàn,
tu tập Thánh hạnh.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN MƯỜI BỐN
[94] Ba cảnh dữ (Tam ác thú) là những cảnh: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Cũng gọi là Ba đường ác (Tam ác đạo).
[95] Thích-ma-nam: Một trong năm vị tỳ-kheo thuộc nhóm ông Kiều-trần-như, quy y trước nhất với Phật tại Lộc Uyển, gần thành Ba-la-nại.
[96] Năm ấm (Ngũ ấm, cũng gọi là Ngũ uẩn): là những yếu tố cấu thành hết thảy mọi chúng sanh, được kể ra như sau:
1. Sắc ấm: Năm căn, năm trần và những vật hữu hình.
2. Thọ ấm: Đối cảnh sanh cảm thọ vui sướng, buồn khổ hoặc không vui không khổ.
3. Tưởng ấm: Đối cảnh nhận ra sự đen, trắng, nhỏ, to, dài, ngắn, đàn ông, đàn bà.v.v...
4. Hành ấm: Đối cảnh sanh lòng ham muốn hoặc ghét giận.
5. Thức ấm: Đối cảnh liền nhận biết, phân biệt.
[97] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu quyển 12, phẩm Thánh hạnh phần thứ 2.
[98] Các ấm, hay năm ấm, bao gồm: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm.
[99] Năm món dục: Năm điều thỏa mãn đối với năm giác quan, như mắt được nhìn ngắm những thứ xinh đẹp, tai được nghe những âm thanh êm dịu, mũi được ngửi những mùi hương thơm tho, lưỡi được nếm những vị ngon ngọt, thân được xúc chạm những thứ mềm mại, trơn nhuyễn.
[100] Đồ dùng nằm, ngồi: là những thứ như giường, mền, chiếu, gối..
[101] Nhị thừa: chỉ hai thừa Thanh văn và Duyên giác, cũng gọi là Tiểu thừa và Trung thừa.
[102] Sáu xúc (Lục xúc): Sáu sự tiếp xúc giữa sáu căn ở trong và sáu trần ở ngoài. Bao gồm: 1. Mắt tiếp xúc với hình sắc, 2. Tai tiếp xúc với âm thanh, 3. Mũi tiếp xúc với mùi hương, 4. Lưỡi tiếp xúc với vị nếm, 5. Thân tiếp xúc với các vật thể, 6. Ý tiếp xúc với các pháp.
[103] Kết sử: những sự trói buộc và sai sử, tức là các phiền não.
[104] Nghiệp kết: nghiệp và các phiền não trói buộc.
[105] Ma-lâu-ca: tên Phạn ngữ là Maruka, một loại dây thuộc loại ký sinh trên thân cây khác, sống mãi ở đó cho đến khi cây chủ khô chết. Các bản kinh khác cũng phiên âm là ma-già, ma-lỗ-già hoặc ma-lâu-già.
[106] Năm đường (Ngũ đạo): Năm cảnh giới thọ sanh của chúng sanh, bao gồm ba cảnh dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và cảnh giới loài người (cõi người), cảnh giới của chư thiên (cõi trời).
[107] Ba đường ác (Tam ác đạo), tức là Ba cảnh dữ (Tam ác thú), bao gồm địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[108] Các đoạn kinh văn trên phân biệt pháp tu Tứ đế của hàng Nhị thừa và hàng Bồ Tát Đại thừa. Nhị thừa cũng tu pháp Tứ đế, có đủ Khổ, Tập, Diệt, Đạo nhưng do chưa liễu ngộ rốt ráo nên không đạt được sự chân thật. Hàng Bồ Tát dựa trên sự liễu ngộ rốt ráo về các pháp nên đạt đến sự chân thật, giải thoát rốt ráo. Phần tiếp theo lần lượt nói rõ hơn về pháp tu Tứ đế của hàng Bồ Tát.
[109] Đà-la-phiếu (Dravya): dịch nghĩa là Chủ đế hay Sở y đế, là một trong 6 đế của Thắng luận. Cũng dịch là Thực cú nghĩa, là thực pháp của 9 loại: đất, nước, gió, lửa, không, thời, phương, nghĩa và ý.
[110] Cầu-na (Guṇa): dịch nghĩa là Y chỉ hay Đức cú nghĩa, là một trong sáu cú nghĩa của Thắng luận.
[111] Lậu: sự rỉ chảy, tiết ra, chỉ các phiền não, vì có thể làm cho thân tâm bị rỉ chảy những thứ bất tịnh, không giữ được sự thanh tịnh.
[112] Thân niệm xứ: Một pháp trong Tứ niệm xứ (gồm có: thân, thọ, tâm và pháp) Thân niệm xứ dạy quán thân là bất tịnh, bằng cách quán tưởng các món tạo thành thân như: da, thịt, xương, gân, ruột, gan, tim, phổi... để thấy rằng hết thảy đều là bất tịnh, không thường còn. Cũng quán tưởng thân người sau khi chết tan rã, hôi thối, không thường còn.
[113] Đại đức Ma-ha Ca-diếp: Một trong 10 đại đệ tử của Phật, thuộc hàng Thanh văn, đã chứng quả A-la-hán, được đức Phật khen là Đệ nhất tu hạnh đầu đà, khác với vị Bồ Tát Ca-diếp đang thưa hỏi Phật.
[114] Đây đều là tên gọi của nước trong các ngôn ngữ khác nhau.
[115] Ba chánh niệm xứ (Tam chánh niệm xứ): cũng gọi là Tam niệm trụ hay Tam niệm xứ, tức ba chỗ an trụ của chư Phật, dùng tâm bình đẳng mà quán sát chúng sanh. 1. Khi Phật thuyết pháp, quán xét pháp giới bình đẳng, rốt ráo không hề có sự thối giảm, nên tuy chúng sanh không có sự chú tâm nghe pháp, Phật cũng không sanh lòng lo buồn, tức là đệ nhất niệm xứ; 2. Lại quán xét pháp giới bình đẳng, rốt ráo không có chỗ đạt đến, nên tuy chúng sanh hết lòng nghe pháp, Phật cũng không sinh tâm vui mừng, tức là đệ nhị niệm xứ; 3. Lại quán xét pháp giới bình đẳng, sanh tử hay Niết-bàn rốt cùng đều không có chỗ đạt đến, nên thường hành tâm xả, làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh nhưng không khởi tâm thấy có chúng sanh nào được lợi ích cả, tức là đệ tam niệm xứ.
[116] Bốn đức chẳng sợ (Tứ vô sở úy, cũng gọi là Tứ vô úy): a. Bốn đức vô úy của quả vị Phật là: 1. Nhất thiết trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy. b. Bốn đức vô úy của hàng Bồ Tát là: 1. Tổng trì bất vong, thuyết pháp vô úy; 2. Tận tri pháp dược cập tri chúng sanh căn dục tánh tâm, thuyết pháp vô úy; 3. Thiện năng vấn đáp, thuyết pháp vô úy; 4. Năng đoạn vật nghi, thuyết pháp vô úy.
[117] Có nghĩa là: ở nơi tai nghe gọi là nhĩ thức, ở nơi mũi ngửi gọi là tỵ thức, ở nơi lưỡi nếm gọi là thiệt thức, ở nơi thân xúc chạm gọi là thân thức, ở nơi ý suy tưởng gọi là ý thức, đều là gọi tên khác đi tùy theo nơi công năng ứng dụng, nhưng vẫn chỉ là một thức duy nhất mà thôi.
[118] Bốn Thánh đế (Tứ đế) hay Bốn đế, cũng tức là Đạo Thánh đế vừa nói trên, bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế, là bốn chân lý được Phật thuyết dạy về bản chất đời sống và sự tu tập đạt đến giải thoát.
[119] Các ấm: tức là Năm ấm (Ngũ ấm), gồm có sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm.
[120] Các nhập: tức là Mười hai nhập (Thập nhị nhập), nghĩa là sáu căn nhập với sáu trần và sáu trần nhập với sáu căn. Như nhãn (con mắt) nhập với sắc (hình sắc) thì gọi là nhãn nhập, sắc nhập với nhãn thì gọi là sắc nhập. Vì thế có cả thảy 12 nhập.
[121] Hiểu rõ căn nhập với trần, trần nhập với căn, trong và ngoài thiệp nhập với nhau nên gọi là chỗ cửa ra vào.
[122] Các giới: tức là mười tám giới (Thập bát giới), nghĩa là sáu căn ở trong, sáu trần ở ngoài, sáu thức ở khoảng giữa nhận biết, hợp với nhau thành ra có sự phân biệt, nhận biết các pháp.
[123] Do sáu căn ở trong, sáu trần ở ngoài, sáu thức ở giữa hợp thành 18 giới là những chỗ phân biệt nhận biết các sắc pháp, nên gọi các giới là phân, nghĩa là chỗ phân chia, phân biệt.
[124] Sắc: hay sắc tướng, chỉ chung mọi biểu hiện cct nhận biết được của vật chất, gồm cả năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), năm trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, đối tượng xúc chạm) và mọi vật hữu hình. Sắc cũng là một trong năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
[125] Thọ: tức là cảm thọ, sanh ra do sự tiếp xúc giữa tâm và cảnh. Tùy theo tính chất của sự tiếp xúc đó mà có cảm thọ vui sướng (lạc thọ), đau khổ (khổ thọ) hoặc không vui không khổ. Thọ cũng là một trong năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
[126] Tưởng: Là những khái niệm khác nhau được tạo ra tùy theo từng đối tượng khi tiếp xúc với trần cảnh, như đen, trắng, nhỏ, to, dài, ngắn, đàn ông, đàn bà... Tưởng cũng là một trong năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
[127] Hành: Là sự tạo tác của ba nghiệp thân, khẩu và ý, đều do khi tiếp xúc với trần cảnh khởi tâm ham muốn hoặc ghét giận. Hành cũng là một trong năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
[128] Thức: Là khả năng nhận biết và phân biệt khi tiếp xúc với trần cảnh. Tùy chỗ nhận biết và phân biệt mà chia ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức cũng là một trong năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
[129] Thế đế: chân lý hay sự thật nhìn từ góc độ của thế gian, cũng gọi là chân lý hay sự thật tương đối.
[130] Đệ nhất nghĩa, hay Đệ nhất nghĩa đế, là chân lý hay sự thật nhìn từ góc độ thật tánh của các pháp, cũng gọi là chân lý hay sự thật tuyệt đối.
[131] Thực thể con người mà chúng ta nhìn thấy thật ra chỉ là sự hội đủ nhân duyên hòa hợp của năm ấm. Người thế gian nhận lầm đó là những thực thể tồn tại độc lập, gọi tên phân biệt người này, người kia...
[132] Đây chỉ cái “bản ngã” mà chúng sanh nhận lầm từ sự kết hợp của năm ấm. Bản ngã đó chỉ là kết quả của sự hòa hợp nhân duyên, không thật có. Khi nhân duyên không còn đủ thì “bản ngã” ấy cũng tan rã. Cần phân biệt với cái “ngã” hay “chân ngã” được thuyết dạy trong kinh này, là thật tánh bản lai thường tồn, không hoại mất.
[133] Người tạo tác (tác giả), người thọ nhận (thọ giả), đều là những khái niệm được xây dựng trên cái “ngã” không có thật. Nếu thấy được cái “ngã” đã không thật thì không còn có cái gọi là người tạo tác sự việc hay người nhận chịu sự việc ấy nữa.
[134] Ảo ảnh lúc trời nóng: Người đi trong sa mạc hay trên đường lớn vào lúc nắng nóng, do không khí nóng bốc lên mà nhìn thấy từ xa lung linh huyền ảo hiện ra đủ thứ ảo ảnh, có khi cũng tùy sự tưởng tượng của mình, như thấy có nước (đang khát nước), có người đi lại, có nhà cửa, cây cối... đều là những ảo ảnh không thật.
[135] Hóa thành, tức càn-thát-bà thành, là cảnh thành quách do càn-thát-bà hóa hiện ra, tuy nhìn thấy rõ ràng nhưng không thật có.
[136] Lông rùa, sừng thỏ: ví dụ rất thường dùng trong kinh điển, để chỉ những việc hoàn toàn không có thật, cũng như rùa chẳng hề có lông, thỏ chưa từng có sừng.
[137] Các pháp nhóm này là tất cả sự vật được thế gian đặt cho tên gọi (danh), nên gọi là danh thế.
[138] Các pháp nhóm này là chỉ chung loại văn thơ, dựa theo vần điệu nhất định (như tứ cú nhất kệ...) để viết ra thành câu (cú), thành quyển, nhằm mô tả sự vật.
[139] Các pháp nhóm này chỉ chung những sự ràng buộc, níu trói, hữu hình cũng như vô hình, như nói thê tróc tử phược (vợ con trói buộc), cho nên gọi là phược thế.
[140] Các pháp nhóm này chỉ chung những quy định, ước lệ, phép tắc (pháp) do người thế gian đặt ra trong sanh hoạt, nên gọi là pháp thế.
[141] Sa-môn: Vị xuất gia tu hành theo đạo Phật, mặc y phục nhuộm màu cho xấu đi. Vì thế nên khi thấy người mặc áo nhuộm thì dựa vào chỗ đã biết trong tư tưởng mà có định kiến ngay rằng đó là vị sa-môn, không phải bà-la-môn.
[142] Bà-la-môn: Tu sĩ đạo bà-la-môn, khi mặc y phục thường lấy dây thắt gút rồi choàng ngang qua thân. Vì thế nên khi thấy người có choàng dây thắt gút thì dựa vào chỗ đã biết trong tư tưởng mà có định kiến ngay rằng đó là vị bà-la-môn, không phải sa-môn.
[143] Các pháp nhóm này là những định kiến sanh ra do những điều đã biết từ trước qua kinh nghiệm hay học hỏi, do có sự cố chấp vào những định kiến ấy (chấp trước) để phán đoán sự việc nên gọi là chấp trước thế.
[144] Nhị thừa: Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, cũng gọi là Tiểu thừa và Trung thừa.
[145] Bốn điên đảo (Tứ điên đảo, cũng gọi là Tứ đảo): Bốn tư tưởng sai trái, ngược lại với chân lý. Đó là: 1. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường; 2. Khổ cho là vui, vui cho là khổ. 3. Không có ngã cho là có ngã, có ngã cho là không có ngã. 4. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh.
[146] Bích-chi Phật thừa cũng chính là Duyên giác thừa. Vị Bích-chi Phật nhờ quán sát 12 nhân duyên mà chứng đắc quả vị, nên cũng gọi là Duyên giác Phật. Lại ra đời vào lúc không có Phật, tự mình tu tập theo Kinh điển mà đạt được sự giải thoát nên cũng gọi là Độc giác Phật. Sự giải thoát của các vị này chưa hoàn toàn rốt ráo, nên thuộc về Trung thừa, không phải Đại thừa, chưa đạt đến quả vị Phật Thế Tôn.
[147] Các hành (Chư hành): Những pháp về tâm, về cảnh thường hay dời đổi, những pháp hữu vi, do nhân duyên sanh, gọi là các hành. Kinh Phật có dạy rằng: “Các hành là vô thường.”
[148] Mười điều lành (Thập thiện): 1. Không sát sanh, thường làm việc tha thứ và phóng sanh. 2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người. 3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng. 4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật. 5. Không nói lời trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi. 6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau. 7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận. 8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn. 9. Không sân khuể, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục. 10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến.
[149] Mười điều ác (Thập bất thiện hay Thập ác): Là ngược lại với Mười điều lành vừa kể trên, cụ thể là: 1. Sát sanh, 2. Trộm cướp, 3. Tà dâm, 4. Vọng ngữ, 5. Ỷ ngữ, 6. Lưỡng thiệt, 7. Ác khẩu, 8. Tham lam, 9. Sân hận, 10. Si mê.
[150] A-hàm : Tên gọi chung các kinh Tiểu thừa, dịch nghĩa là Pháp quy (muôn pháp đều theo về), cũng dịch là Vô tỷ pháp (pháp không chi sánh bằng). Cả thảy có bốn bộ A-hàm là: 1. Trường A-hàm, 2. Trung A-hàm, 3. Tạp A-hàm, 4. Tăng nhất A-hàm.
[151] Câu này tóm lại việc sáu căn tiếp xúc với sáu trần, theo lập luận của ngoại đạo cho rằng thảy đều là bằng chứng sự hiện diện của cái ngã.
[152] Tứ đại: Bốn thành phần căn bản của mọi vật chất trong vũ trụ theo quan điểm ngày xưa, đó là: đất, nước, gió và lửa. Đất tượng trưng cho độ rắn chắc, nước tượng trưng cho sự ẩm ướt, gió tượng trưng cho sự chuyển động, lửa tượng trưng cho nguồn năng lượng hay nhiệt năng của vật chất. Tất cả vật chất trong vũ trụ đều do bốn tính chất này hòa hợp theo những tỷ lệ khác nhau mà tạo thành. Thân thể con người cũng không phải ngoại lệ, nên được gọi là thân tứ đại. Vì thân tứ đại là cội nguồn của mọi sự tham dục, khổ não nên xem nó như là con rắn độc.
[153] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 12, bắt đầu quyển 13, phẩm Thánh hạnh phần sau (Thánh hạnh phẩm chi hạ).
[154] Những gì chúng ta nhìn thấy trước mắt tuy có dáng vẻ, hình tướng tương tự như trước đây, nhưng thật ra tất cả đều biến đổi và hư hoại trong từng sát-na. Vì vậy, những gì ta nhìn thấy trước kia và hiện nay không phải là một sự vật. Hay nói cách khác, không có sự vật nào là thường tồn qua thời gian cả.
[155] Nguyên bản dùng tâm số, là cách dịch cũ chỉ tâm sở, bao gồm hết thảy những tình ý, nghĩ tưởng do trong tâm cảm xúc, suy tính.
[156] Tức là Tứ đại, dùng để chỉ chung cho hết thảy vật chất.
[157] Phan duyên: nương theo, vịn theo các duyên. Ví như nhân một chuyện này mà nghĩ đến các chuyện khác, lại đến các chuyện khác nữa, như sợi dây leo bò mãi đến không cùng, gọi là phan duyên. Tâm ý nương theo sáu trần làm duyên, nảy sanh những ý tưởng suy xét, mưu tính mãi mãi không dừng, gọi là phan duyên.
[158] Nhãn thức... cho đến ý thức...: Nghĩa là nói tóm cả sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức đều như vậy.
[159] Cảnh giới của hình sắc... cho đến cảnh giới của pháp...: Nghĩa là nói tóm cả sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều như vậy.
[160] Cho đến sự nhận biết của ý...: Nghĩa là nói tóm cả sáu thức, từ nhãn thức cho đến ý thức đều do các nhân khác nhau mà sanh ra.
[161] Giai đoạn đầu tiên khi bào thai hình thành.
[162] Điều-đạt, cũng gọi là Điều-bà Đạt-đa, Đề-bà, Đề-bà Đạt-đa, một vị đệ tử xuất gia của Phật, dòng họ Thích, đối với Phật là anh em chú bác, là anh ruột của A-nan. Điều-đạt là người ác, xúi giục Thái tử A-xà-thế giết cha mà soán ngôi. Lại là người gây chia rẽ trong giáo hội Tăng-già, muốn thay Phật lãnh đạo Giáo hội.
[163] Người được làm bằng gỗ, bên trong khoét rỗng có đặt máy móc khiến cho có thể cử động, đi, đứng, nháy mắt... như người thật. Theo mô tả này thì cũng tương tự như các người máy hiện nay, nhưng có hình thức đơn sơ hơn.
[164] Người xưa dùng vỏ ốc để thổi lên âm thanh vang xa như tiếng tù-và.
[165] Chuyển bánh xe pháp vô thượng (Chuyển Vô thượng Pháp luân): Cũng gọi là Chuyển Đại Pháp luân, chỉ việc Phật thuyết pháp Đại thừa. Khi Phật thuyết pháp lần đầu ở thành Ba-la-nại, giảng pháp Tiểu thừa thì chỉ gọi là Chuyển Pháp luân.
[166] Đây kể chung sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
[167] Đây kể chung sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
[168] Đây kẻ chung tứ đại: đất, nước, lửa, gió.
[169] Đa văn: nghe nhiều, chỉ việc được nghe thuyết giảng nhiều kinh điển. Như trong hàng đệ tử Phật có ngài A-nan được Phật khen ngợi là Đa văn đệ nhất.
[170] Đàn ba-la-mật: tức Thí độ, Bố thí ba-la-mật, một trong sáu pháp ba-la-mật.
[171] Thi-la ba-la-mật: tức Trì giới độ, Trì giới ba-la-mật, một trong sáu ba-la-mật..
[172] Sằn-đề ba-la-mật: tức Nhẫn độ, Nhẫn nhục ba-la-mật, một trong sáu ba-la-mật.
[173] Tỳ-lê-da ba-la-mật: tức Tinh tấn độ, Tinh tấn ba-la-mật, một trong sáu ba-la-mật.
[174] Thiền ba-la-mật: tức Thiền độ, Thiền định ba-la-mật, một trong sáu ba-la-mật.
[175] Bát-nhã ba-la-mật: tức Tuệ độ, Trí tuệ ba-la-mật, một trong sáu ba-la-mật.
[176] Bốn niệm xứ (Tứ niệm xứ): Bốn chỗ quán tưởng, suy xét của người tu tập, gồm có: Quán thân bất tịnh (Thấy rõ sự nhơ nhớp của thân thể do vật chất cấu thành, dễ tan rã, hư hoại), quán thọ thị khổ (Thấy rõ tất cả mọi cảm thọ đều là khổ não, không chìm đắm, say mê trong đó), quán tâm vô thường (Thấy rõ mọi tâm niệm thường biến đổi, sanh diệt trong từng sát-na) và quán pháp vô ngã (Thấy rõ tất cả các pháp đều không thật có một bản ngã tồn tại độc lập, chỉ là do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra).
[177] Bốn chánh cần (Tứ chánh cần): Bốn pháp tu chuyên cần của người tu tập, gồm có: 1. Chuyên cần gìn giữ không phạm vào những tội lỗi đã phạm, 2. Chuyên cần gìn giữ không phạm vào những tội lỗi chưa phạm, 3. Chuyên cần thực hiện những điều thiện chưa làm, 4. Chuyên cần phát triển những điều thiện đã làm được.
[178] Bốn như ý túc (Tứ như ý túc): Cũng gọi là Tứ thần túc, bốn pháp tu có thể giúp người tu tập có được thần lực, thần thông, nghĩa là sức mạnh vượt qua tất cả chướng ngại trên đường tu tập, bao gồm: 1. Dục như ý túc (lòng mong muốn tha thiết, khát khao giải thoát, ý chí kiên trì trong tu tập); 2. Tinh tấn như ý túc, hay Cần như ý túc (phát triển nghị lực mạnh mẽ trong tu tập, luôn chuyên cần, tinh tấn tu tập chánh pháp); 3. Tâm như ý túc (nhất tâm, tập trung tâm ý vào sự tu tập, chú tâm); 4. Trạch pháp như ý túc (nghiên tầm, học hỏi giáo lý, phân biệt rõ chánh pháp, tà pháp).
[179] Năm căn (Ngũ căn): Năm pháp căn bản, được xem là cội gốc, điều kiện để sanh khởi các pháp tu khác, cũng gọi là Ngũ thù thắng căn, bao gồm: Tín căn (lòng tin, đức tin sâu vững vào Tam bảo, vào giáo pháp giải thoát do Phật chỉ dạy, chẳng hạn như Tứ thánh đế...), Cần căn hay Tinh tấn căn, cũng gọi là Nguyện căn (tinh tấn, chuyên cần và phát nguyện dũng mãnh trong việc tu tập thiện pháp, hướng đến giải thoát), Niệm căn (luôn nghĩ nhớ, niệm tưởng đến chánh pháp) Định căn (tu tập định lực, nhiếp tâm không tán loạn) và Tuệ căn (trí tuệ sáng suốt, phân biệt rõ chân lý và những điều hư dối, chánh pháp và tà pháp).
[180] Năm sức (Ngũ lực): Năm nguồn sức mạnh giúp người tu tập khi sanh khởi thì có thể vượt qua mọi khó khăn, chướng ngại. Năm sức mạnh đó là: tín lực (sức mạnh của đức tin), nguyện lực (sức mạnh của tâm nguyện, quyết thực hiện điều đã phát nguyện), niệm lực (sức mạnh nghĩ nhớ, niệm tưởng đến chánh pháp, phá được tất cả mọi tà niệm, tạp niệm), định lực (sức mạnh của sự định tâm, nhiếp tâm) và tuệ lực (sức mạnh của trí tuệ sáng suốt).
[181] Bảy phần giác (Thất giác chi): Bảy phần sáng suốt góp phần tạo nên trí tuệ giải thoát, hay bảy sự hiểu biết chân chánh về những khía cạnh khác nhau trên đường tu tập, bao gồm: Trạch pháp giác chi (sự sáng suốt phân biệt chánh pháp và tà pháp, chọn lựa đúng giáo pháp chân chánh để hành trì), Tinh tấn giác chi (sự sáng suốt biết tinh tấn, chuyên cần tu học chánh pháp), Hỷ giác chi (sự sáng suốt biết vui sướng, hoan hỷ khi được chánh pháp), Khinh an giác chi (sự sáng suốt thanh thản nhẹ nhàng, trừ bỏ mọi chướng ngại trên đường tu tập), Niệm giác chi (sự sáng suốt thường niệm tưởng chánh pháp, Tam bảo), Định giác chi (sự sáng suốt an trú trong chánh định, không tán loạn tâm ý) và Xả giác chi (sự sáng suốt buông bỏ các tà pháp, ác pháp).
[182] Tám Thánh đạo (Bát Chánh đạo hay Bát Thánh đạo): Tám pháp chân chánh mà người tu tập phải noi theo để trừ dứt mọi nguyên nhân của khổ não. Bát Chánh đạo bao gồm: Chánh kiến (thấy biết chân chánh), Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh), Chánh ngữ (lời nói chân chánh), Chánh nghiệp (hành động, việc làm chân chánh), Chánh mạng (nuôi sống bằng nghề nghiệp chân chánh), Chánh tinh tấn (tinh tấn, chuyên cần đúng chánh pháp), Chánh niệm (niệm tưởng chân chánh, duy trì sự tỉnh thức không vọng niệm) và Chánh định (thiền định chân chánh). Bát Chánh đạo cũng chính là Đạo đế trong Tứ đế. Tất cả các pháp vừa kể trên cũng gọi chung là 37 pháp trợ đạo, hay 37 phần Bồ-đề, bao gồm: 4 Niệm xứ, 4 Chánh cần, 4 Như ý túc, 5 Căn, 5 Sức, 7 Giác phần, 8 phần Thánh đạo.
[183] Vì việc thuyết pháp của Phật cũng là do hội đủ các nhân duyên như vừa kể trên mà có, chẳng phải chỉ riêng đức Như Lai tự làm ra việc ấy.
[184] Đồ đánh lửa: dụng cụ ngày xưa được dùng để lấy lửa, nhờ vào độ nhám và sự chà xát mạnh mà phát sanh tia lửa. Dụng cụ này có thể là một miếng tre khô có vỏ nhám, hoặc một miếng đá nhám mà khi chà xát có thể sanh ra lửa.
[185] Phân bò khô được dùng như chất dễ bắt lửa, và để giữ lửa trước khi cho thêm củi khô vào.
[186] Những thứ cần thiết trong quá trình làm bơ sữa.
[187] Voi chúa giữa loài người (Nhân trung tượng vương): Cách nói tỷ dụ để tôn xưng những bậc cao quý nhất. Vì voi chúa là oai dũng nhất trong loài voi, nên dùng hình ảnh voi chúa giữa loài người để biểu thị sự oai dũng, mạnh mẽ và cao quý nhất.
[188] Nhất-xiển-đề: người đã đánh mất hoàn toàn niềm tin vào Tam bảo. Vì không có đức tin nên không thể tiếp nhận bất cứ giáo pháp nào.
[189] Quả Tu-đà-hoàn: Quả đầu tiên trong bốn quả Tiểu thừa. Tu-đà-hoàn dịch nghĩa là Nghịch lưu (đi ngược dòng nước), Nhập lưu (vào dòng), hay Dự lưu (dự vào dòng), với nghĩa là bắt đầu bước vào hàng các vị thánh.
[190] Không thối chuyển (Bất thối chuyển): Địa vị tu hành của hàng Bồ Tát, khi không còn thối lui nữa, chỉ thẳng tiến dần đến mục đích là quả Phật.
[191] Trên dưới đều xoay chuyển (hạ thượng hồi chuyển): Bánh xe quý của vị Chuyển luân vương do cảm ứng mà hiện ra, có bốn loại khác nhau là vàng, bạc, đồng, thiết (kim, ngân, đồng, thiết) tùy theo đức độ của vị vua ấy, nhưng tất cả đều có công năng giúp vua hàng phục kẻ thù. Bánh xe ấy có khả năng tự bay đi trong khắp bốn cõi thiên hạ, đánh tan những kẻ thù của vua rồi tự trở về nơi vua ngự.
[192] Những cảnh giới thấp: chỉ ba cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[193] Địa vị không còn phải sợ sệt bất cứ điều gì, do chứng đắc được thật tánh của tất cả các pháp.
[194] A-tu-la: Một cảnh giới trong sáu nẻo luân hồi (lục đạo), dịch nghĩa là phi thiên, tuy giống chư thiên nhưng chẳng phải chư thiên, địa vị của a-tu-la thấp hơn chư thiên. A-tu-la nam thì hình tướng xấu, hay nóng giận, hiếu chiến. A-tu-la nữ thì đẹp đẽ.
[195] Kinh phương đẳng, cũng tức là kinh điển Đại thừa.
[196] Bốn tội nghiêm trọng (Tứ trọng cấm), cũng gọi là Tứ ba-la-di: Là các tội mà vị tỳ-kheo phạm vào phải bị trục xuất khỏi Tăng đoàn. Đó là các tội: dâm dục, trộm cắp, giết người và nói dối rằng mình chứng thánh quả. Về các tội thứ ba và thứ tư, giết người xem là tội ba-la-di, phải trục xuất, còn giết hại sanh mạng của loài vật gọi chung là sát sanh, thuộc về giới thứ 61 trong 90 giới ba-dật-đề; chưa chứng thánh quả mà nói dối rằng mình chứng thánh quả, gọi là đại vọng ngữ, xếp vào tội ba-la-di, phải trục xuất, còn các tội nói dối khác gọi là tiểu vọng ngữ, thuộc về giới thứ nhất trong 90 giới ba-dật-đề.
[197] Hai mươi lăm cảnh (Nhị thập ngũ hữu): Bao gồm hết thảy những cảnh giới trong Tam giới. Vì thế, cũng đồng nghĩa với những danh từ như Tam giới, Ba cõi, Tam hữu.
[198] Bốn cõi thiên hạ (Tứ thiên hạ): Bốn châu ở bốn phương núi Tu-di, dưới quyền thống lãnh của vị Chuyển luân Thánh vương khi vị vua ấy ra đời: Phương bắc là Câu-lô châu, hay Uất-đan-việt châu, phương nam là Thiệm-bộ châu, hay Diêm-phù-đề châu, phương tây là Ngưu-hóa châu hay Cồ-da-ni châu, phương đông là Thắng-thần châu hay Phất-bà-đề châu.
[199] Tổng trì (Đà-la-ni), nghĩa là nắm giữ tất cả, hàm ý có thể nắm giữ được vô lượng pháp Phật không để mất đi.
[200] Nghĩa là khi chưa có Phật ra đời.
[201] Tức là dãy núi Hy-mã-lạp sơn (Himalaya). Do trên đỉnh núi quanh năm tuyết phủ nên gọi là Tuyết sơn (núi tuyết).
[202] Thích-đề-hoàn-nhân, gọi đủ là Thích-ca Đề-hoàn Nhân-đà-la, thường gọi là Đế-thích, vị vua của cõi trời thứ ba mươi ba (Tam thập tam thiên), hay còn gọi là cõi trời Đao-lợi, thuộc Dục giới.
[203] Thiên tử: tên gọi chung của chư thiên, khác với từ thiên tử dùng để chỉ vị vua ở cõi người.
[204] Người tu pháp khổ hạnh dứt hết mọi tham dục nên sau khi mạng chung liền được sanh lên cõi trời, gọi là tiên thiên tử.
[205] Kiều-thi-ca: tên gọi của đức Đế-thích.
[206] Nguyên văn dùng Phật thụ, nghĩa là Phật ví như cây đại thụ, tàn cây che mát cho chúng sanh. Được gần Phật thì dứt hết sự nóng nảy của phiền não, thân tâm mát mẻ, vâng làm theo lời Phật dạy thì dứt hết các bệnh do phiền não gây ra, cũng giống như người được vào nấp dưới bóng cây đại thọ thì mọi sự nóng nảy đều không còn.
[207] Thành bậc Thiện thệ, nghĩa là thành quả Phật. Thiện thệ là một trong 10 danh hiệu tôn xưng của đức Phật. Thiện nghĩa là tốt lành; thệ nghĩa là đi qua, không còn trở lại. Thiện thệ nghĩa là bậc đã viên mãn mọi điều lành, mãi mãi không còn chịu nghiệp quả thọ sanh trong luân hồi.
[208] Sống trong sự kiểm thúc theo đạo pháp: nguyên văn dùng đạo kiểm, nghĩa là thường kiểm điểm đạo hạnh của mình, tự xem xét đạo đức của mình, lấy đạo đức làm khuôn phép, không bao giờ vượt ra khỏi đó.
[209] La-sát: Loài hung thần ác quỷ, dịch nghĩa là bạo ác, khả úy (đáng ghê sợ). Loài này hình tướng rất ghê sợ, thích ăn thịt người.
[210] Đại thuyền sư: Vị thuyền trưởng tài ba, thông thạo mọi đường nước trên biển cả, có thể chỉ huy con tàu vượt biển đến nơi an toàn.
[211] Ly bố úy: Người đã lìa khỏi sự sợ sệt, cũng như Vô úy hay Vô sở úy, đều là những cách nói tôn xưng đức Phật.
[212] Châu như ý (Như ý châu): Cũng gọi là Ma-ni bảo châu, hạt ngọc quý đặc biệt có thể giúp người sở hữu nó muốn gì được nấy (như ý), nên gọi là châu như ý. Nửa bài kệ của Phật cũng quý báu đặc biệt như thế nên ví như nửa hạt châu như ý.
[213] Tà kiến: nguyên bản dùng “chư kiến”, chỉ cho các ý kiến, các sở kiến lầm lạc, thiên lệch của kẻ phàm phu, ngoại đạo, nên chúng tôi dịch thẳng là tà kiến.
[214] Thập lực thế hùng: Đức Thế hùng có đủ mười trí lực, là tôn hiệu của Phật. Phật có đủ 10 trí lực là:
1. Tri thị xứ phi xứ trí lực: Trí lực biết sự, lý đúng hay chẳng đúng, phân biệt việc tốt có quả tốt và việc xấu có quả xấu.
2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực: Trí lực rõ biết nhân quả của chúng sanh trong ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực: Trí lực rõ biết các mức độ tu hành của chúng sanh, biết sức thắng tình dục bằng sự tham thiền tĩnh lự.
4. Tri chúng sanh tâm tánh trí lực: Trí lực rõ biết căn tánh của tất cả chúng sanh cao hoặc thấp.
5. Tri chủng chủng giải trí lực: Trí lực rõ biết chúng sanh hiểu đạo như thế nào, biết rõ các cách nhận hiểu của thế gian và xuất thế gian.
6. Tri chủng chủng giới trí lực: Trí lực rõ biết các cảnh giới giống nhau hoặc khác nhau, các cảnh giới trong mười phương, bất luận là cảnh giới nào.
7. Tri nhất thiết sở đạo trí lực: Trí lực biết hết phần hành hữu lậu của lục đạo đến đâu và phần hành Niết-bàn vô lậu đến đâu, nghĩa là biết hết các con đường mà chúng sanh noi theo để được giải thoát.
8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: Trí lực thấy biết mọi việc của chúng sanh trong vô lượng thế giới, thấy biết thông suốt chẳng bị ngăn ngại; thấy biết cuộc sanh tử và việc thiện ác của họ.
9. Tri túc mạng vô lậu trí lực: Trí lực vô lậu biết các đời trước rất xa của chúng sanh.
10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực: Trí lực đoạn hẳn các tập khí, làm cho các thói quen tánh xấu đều dứt tuyệt.
Tôn xưng Phật là bậc thế hùng (bậc anh hùng giữa thế gian) vì ngài có đủ Thập trí lực như trên, hùng mãnh hơn hết, có thể chế phục được hết thảy chúng ma.
[215] Tám chữ: Trong nguyên văn nửa bài kệ còn lại có 2 câu, mỗi câu 4 chữ nên cả thảy còn thiếu 8 chữ.
[216] Bảy báu (thất bảo): bảy món quý giá là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa-cừ, xích châu, mã não.
[217] Thân kim cang (Kim cang thân): Thân bền chắc không gì có thể làm hư hoại được, cũng không tự hư hoại theo thời gian. Đây là cách nói để ví với thân Phật.
[218] Cõi trời Sắc cứu cánh (A-ca-ni-trá thiên), là cõi trời thứ 18 thuộc Sắc giới, ở trên cả cõi trời Tứ thiền.