KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống
Phần ghi chú
Ghi Chú (1)
Đức Thế tôn: bản dịch này dùng chữ này để dịch hầu hết những chữ gọi
đức Phật. Hầu hết những chữ Ngài tự xưng thì dùng chữ
Như lai.
Ghi Chú (1B)
Đại cung điện: coi ghi chú 6 .
Ghi Chú (2)
Nơi: chữ này, ở đây và những chỗ dưới đây, là
tham chiếu Ngụy dịch mà dịch.
Ghi Chú (3)
Đại bồ tát: Ở đây chỉ
Bồ tát 10 địa.
Ghi Chú (4)
Sống: Chính văn là trì, dịch rõ là giữ cho sống còn.
Ghi Chú (5)
Các loại ma:
phiền não ma,
uẩn ma,
tử ma và
thiên ma.
Ghi Chú (6)
Nơi
kiến thiết ...
vô số lượng
công đức:
Hoa sen chúa, chỗ khác nói là
Liên hoa đài tạng, còn đại cung điện là
Hoa tạng thế giới, và đó là
tha thọ dụng độ của Phật.
Ghi Chú (7)
Tuệ giác cực kỳ
trong sạch: câu này là phẩm chất tổng quát trong 21 sự
thù thắng của Phật, 20 câu
tiếp theo là phẩm chất
chi tiết.
Ghi Chú (8)
Bất nhị:
nghĩa đen là không hai. Hai là chỉ cho hết thảy khái niệm đối hiện và
đối lập lẫn nhau. Nói cái này là cây bút thì có nghĩa tất cả cái khác là phi cây bút ấy: bút và phi bút là 2 khái niệm đối hiện, nói cách khác, khái niệm là biểu hiện sự đối hiện ấy. Khái niệm, như vậy, là gốc gác mà cũng là
hiện thân của sự thác loạn. Khái niệm, như vậy,
tính chất của nó
tự siêu việt lấy nó: đó gọi là
bất nhị.
Bất nhị ở đây là không
hiện hành sinh tử cũng không
hiện hành niết bàn.
Ghi Chú (9)
Vô tướng: ở đây là
chân như hay
vô trú niết bàn.
Ghi Chú (10)
Chỗ đứng của các
đức Thế tôn: ở đây là tâm
đại bi.
Ghi Chú (11)
Không còn
chướng ngại: không còn
phiền não chướng và
sở tri chướng.
Ghi Chú (12)
Khéo nghĩ... được làm: là cả 3 nghiệp đều
tùy thuận tuệ giác.
Ghi Chú (13)
Tuệ giác nhanh...
tuệ giác rộng: nhanh là hiểu nhanh pháp và giới của
Phật thuyết, chóng là nhanh mà nhiều, sắc là hiểu nhanh và nhiều mà nhỏ và sâu, thoát ra là cái hiểu ấy làm cho
thoát khỏi sinh tử,
quyết trạch siêu việt là cái hiểu ấy dẫn ra
niết bàn, lớn là biện thuyết
vô cùng tận, rộng là
quán triệt sâu rộng.
Ghi Chú (14)
Tổng cọng có 15 đức tính: 14 đức tính đầu là
chi tiết, là quả, 1 đức tính chót là tổng quát, là nhân.
Ghi Chú (15)
Tách rời...
phân biệt: ở đây có
nghĩa không phân biệt về thì gian tính và siêu thì gian tính ẫ tức là sự
tinh tiến vĩ đại.
Ghi Chú (16)
Vượt qua tất cả 5 sự
sợ hãi: sợ không có
phương tiện để sống, sợ
tiếng xấu,
sợ chết, sợ đường dữ, sợ oai
công chúng hay
cá nhân.
Ghi Chú (17)
Giải thâm
nghĩa ý: Giải
thậm thâm nghĩa
mật ý.
Ghi Chú (18)
Mạn thù:
Mạn thù thất l﮼/dt>
Ghi Chú (19)
Thắng nghĩa: nói đủ là
Thắng nghĩa đế tướng (sắc thái của
chân lý tuyệt đối).
Thắng nghĩa đế cũng gọi là
đệ nhất nghĩa đế (
chân lý bậc nhất),
chân đế (
chân lý chân thật); đối lại là
thế tục đế (
chân lý phổ thông), cũng gọi là
thế đế hay
tục đế (
chân lý giả thiết). Ở đây,
chân lý tuyệt đối chỉ cho
pháp tánh (Tâm hay Như).
Ghi Chú (20)
Bất nhị: coi lại ghi chú 8 . Ở đây,
bất nhị là
pháp tánh phi hữu vi phi
vô vi.
Ghi Chú (21)
Nếu là...
diễn tả: chấp và nói thì mới nghe là chấp và nói. Nói như vậy chỉ là thêm chấp.
Ghi Chú (22)
Những câu này nói
pháp tánh phi hữu vi là
hữu vi.
Ghi Chú (23)
Câu này nói
pháp tánh phi hữu vi là
vô vi.
Ghi Chú (24)
Câu này nói
pháp tánh phi hữu vi là
hữu vi vô vi.
Ghi Chú (25)
Thánh giả nói là tùy người mà nói, là nói theo
chân lý phổ thông,
phương tiện dẫn người vào
chân lý tuyệt đối.
Ghi Chú (26)
Những câu này nói
pháp tánh phi
vô vi là
vô vi.
Ghi Chú (27)
Câu này nói
pháp tánh phi
vô vi là
hữu vi.
Ghi Chú (28)
Câu này nói
pháp tánh phi
vô vi là
vô vi hữu vi.
Ghi Chú (29)
Loa bối: vỏ ốc quí, bên trong
lóng lánh, xưa dùng làm tiền tiêu, hoặc khảm vào đồ cho đẹp.
Ghi Chú (29B)
Nên tưởng...
bản thân ấy:
bản thân và
chi tiết, chính văn là thân và
sai biệt (mà
đáng lẽ phải là
tự tánh và
sai biệt), là chỉ cho mỗi
hiện tượng và những
trừu tượng nơi mỗi
hiện tượng ấy.
Ghi Chú (30)
Dị sinh: những kẻ khác với
thánh giả.
Ghi Chú (31)
Hành tướng: sự diễn biến; ở đây là đối tượng,
ấn tượng (của sự
phân biệt).
Ghi Chú (32)
Phân biệt:
cựu dịch là
vọng tưởng (và có thể là
vọng niệm hay niệm). Theo đại luận Du dà mà Vạn 34/331B trích dẫn,
phân biệt có 8 thứ và sinh 3 sự. Theo đó thì có thể nói
phân biệt bao gồm quan niệm (trong đó có khái niệm) và
ý niệm. Ngài Huyền tráng còn nói
phân biệt là
vô ký dị thục tuệ (cái biết bẩm sinh,
bản năng) hoặc chính là tầm tư (
tư duy,
tư tưởng).
Ghi Chú (33)
Thế nhưng...
tuệ giác: câu này gồm pháp và dụ mà nói. Nói rõ thì phải là: thế nhưng có
hành tướng của sự
phân biệt làm cho
tuệ giác bị
mê hoặc,
như ảo trạng
mê hoặc thị giác.
Ghi Chú (34)
Hai
pháp y cứ: là
nhị biên luận mà nói theo ở đây là
hữu vi vô vi.
Ghi Chú (35)
Tầm tư: hay tầm cầu, là sự tầm tứ (tìm xét). Coi lại ghi chú 32 .
Ghi Chú (35B)
Tránh luận: trương
ngã kiến ra mà
cãi nhau.
Ghi Chú (35C)
Loại bỏ ngũ dục: dịch rõ và đủ là
loại bỏ (sự
đam mê)
sắc thanh hương vị xúc (
thích ý).
Ghi Chú (36)
Thấy nghe hay biết: nói chung mọi sự
nhận thức của các
giác quan.
Ghi Chú (36B)
Tính
thế gian: ở đây là
biến động và dẫn ra
đam mê,
phiền lụy.
Ghi Chú (37)
Địa vị Thắng giải hành: là
vô số kiếp thứ nhất, gồm 10 tín, 10 trú, 10 hành, 10 hướng và 4 da hành.
Danh hiệu địa vị này có 4: nguyện lạc,
tín hành,
thắng giải hành và
ý lạc.
Địa vị này khẳng định về
chân như được dạy cho, chứ chưa
chứng ngộ chân như ấy.
Ghi Chú (38)
Các hành: ở đây chỉ cho các
pháp hữu vi; các pháp ấy
đặc tính là diễn biến trong thì gian, nên gọi là các hành.
Ghi Chú (39)
Tướng phược: sự
kềm chế bởi ảo tượng (
tướng phần hữu lậu).
Ghi Chú (40)
Trọng phược: sự
kềm chế bởi
ảo giác (
kiến phần hữu lậu: tham sân
vân vân).
Ghi Chú (41)
Cọng tướng của các hành gọi là
thắng nghĩa: các hành có
tự tướng và cọng tướng (
đặc tính riêng và
đặc tính chung).
Tự tướng ở đây là
sắc uẩn là
chất ngại cho đến thức uẩn là
liễu biệt. Cọng tướng ở đây là
chân như vô ngã:
chân như ấy là
thắng nghĩa.
Ghi Chú (42)
Nếu
thắng nghĩa với các hành khác nhau thì...
đáng lẽ tạp nhiễm và
thanh tịnh cùng lúc dị biệt mà song lập: nhiễm là các hành, tịnh là
thắng nghĩa. Nhiễm đang còn thì tịnh chưa hiện, tịnh đã hiện thì nhiễm phải mất. Nói
thắng nghĩa với các hành khác nhau thì
đáng lẽ nhiễm tịnh cùng lúc có thể cùng
tồn tại.
Ghi Chú (43)
Thắng nghĩa các hành: chính văn là hành giới
thắng nghĩa. Giới là giới tính mà cũng là
thể tính, nên chính văn ấy có nghĩa các hành với
thắng nghĩa, cũng có nghĩa
thắng nghĩa của các hành.
Ghi Chú (44)
Chúng sinh thì bị tướng phược trọng phược:
chúng sinh thì bị
kềm chế bởi các hành.
Ghi Chú (45)
Có tăng... của mình: chưa chứng biết
thắng nghĩa mà tự cho đã chứng biết.
Ghi Chú (46)
Dò thì thấy đoạn này kể đối tượng của
hiện quán hữu sở đắc gồm có: đầu tiên là 5 uẩn, 12 xứ, 12
duyên khởi, rồi 4 thực, 4 đế, 18 giới, sau đó là 37
giác phần: 4 niệm trú, 4 chính đoạn, 4
thần túc, 5 căn, 5 lực, 7
giác chi và 8
thánh đạo.
Ghi Chú (47)
Thanh tịnh sở duyên: đối tượng
trong sáng do
tuệ giác trong sáng nhận thức.
Hiển dương luận 16 nói
thắng nghĩa chính là
thanh tịnh sở duyên, vì duyên theo đối tượng ấy thì được sự
thanh tịnh của Tâm (Vạn 34/356B dẫn).
Ghi Chú (48)
Và chính... tính vị: nghĩa là không phải những sự
hiện quán có thủ đắc theo
nhị biên mà có thể thẩm cứu tiến chứng
chân như bất nhị.
Ghi Chú (49)
Pháp tánh...
an trú:
pháp tánh và
pháp giới đều là biệt danh của
chân như.
Pháp tánh an lập:
chân như là
bản thể xác lập.
Pháp giới an trú:
chân như là
thực thể bất biến.
Ghi Chú (50)
Tâm thức: nói đủ là
Tâm ý thức tướng (sắc thái của
tâm ý thức).
Tâm ý thức thường nói có 2 nghĩa: có khi 3 chữ là 1 nghĩa, có khi 3 chữ là 3 nghĩa.
Tâm ý thức, 3 chữ ấy cùng một nghĩa thì không
cần phải nói.
Tâm ý thức, 3 chữ ấy là 3 nghĩa thì tâm là
a lại da, ý là
mạt na, thức là 6 thức, tổng cọng có 8 thức. Nhưng
thực ra 6 thức là
nhận thức mà chỉ như những thông tín viên nhận tin và phát tin ở khắp các
cảm quan. Còn
ý thức rằng đó là
nhận thức của mình, tức tự
ý thức về tự ngã mà từ đó
năng sở hóa tâm vật hoặc tự tha hóa mình người, lại tùy còn hay mất
ý thức tự ngã mà thành ra
ô nhiễm hay
thanh tịnh, thì đó là
mạt na. Nhưng
căn bản của
toàn bộ các thức nói trên, kể cả mọi đối tượng chất cũng như ảnh của các thức ấy, thì đó là
a lại da. Nói cách khác, các pháp là biểu hiện của
a lại da.
A lại da chính là Tâm, tuy là con mà đang làm giặc, tuy đang làm giặc mà vốn là và vẫn là con. Nên cái
tiêu đề Tâm ý thức, hay gọi tắt là
Tâm thức,
thực ra có nghĩa là nói về Tâm và về ý với thức của Tâm, dẫu rằng chính văn ẩn lược
mạt na.
Ghi Chú (51)
Khéo biết
mật nghĩa: chính văn là
bí mật thiện xảo, dịch sát thì phải là khéo léo về
bí mật.
Ghi Chú (52)
Hai câu hỏi này phải coi sự
trả lời của Phật ở dưới mới hiểu và thấy khác nhau thế nào.
Ghi Chú (53)
Chúng sinh chết ở
thế giới nào rồi sinh vào
thế giới nào: là nói luân rồi. Nhưng không phải có một
linh hồn bỏ chỗ này sinh chỗ khác, chết đời này sinh đời khác.
Mười phương thế giới toàn là Tâm,
nghiệp báo này hết thì gọi là chết,
nghiệp báo khác sinh thì gọi là sinh, tựa như miếng sáp in dấu ấn: dấu ấn kia mất đi thì dấu ấn này nổi lên, thế thôi.
Ghi Chú (53B)
Sự sống ấy ... lớn lên: Sinh mạng của mọi loài
chúng sinh có 4 giai đoạn gọi là 4 hữu:
sinh hữu (
sát na kiết sinh đầu tiên)
bản hữu (
trưởng thành trong thai và sinh ra sống còn
một đời)
tử hữu (
sát na chết hẳn
cuối cùng)
trung hữu (sự
liên tục giữa
tử hữu và
sinh hữu). Rồi
trung hữu lại
sinh hữu,
luân chuyển vô cùng cho đến địa vị không còn
đời sau (
La hán) hay sinh chết
tự do (
Bồ tát). Đầu tiên ở đây là
sinh hữu chứ không phải sinh mạng có khởi điểm.
Chủng tử thức vốn đã
thành thục là
chủng tử thức chuyển thành
dị thục thức (
nghiệp thức).
Triển chuyển hóa hợp là hóa hợp với phụ tinh mẫu huyết, và đó là
sinh hữu.
Tuần tự lớn lên là
bản hữu, có 8
thời kỳ: ở thai, ra thai, hài nhi, đồng ấu,
thiếu niên, trung niên, trưởng niên và lão mạo.
Ghi Chú (54)
Với hai sự ... mà có:
Chấp thọ các
sắc căn và
sở y của các
sắc căn là
chấp thọ thân thể và
thế giới của
thân thể.
Chấp thọ chủng tử của tướng, danh và
phân biệt, loại
chủng tử do
ngôn từ hý luận mà có, là
chấp thọ chủng tử hữu lậu. Tướng danh và
phân biệt là
tướng phần và
kiến phần thuộc giai đoạn
hữu lậu. Thường nói các pháp thì chính chữ pháp nghĩa là khái niệm (chứ không có
tự tánh); mỗi pháp là một khái niệm, và khái niệm này
phân tách mà nói thì là
nhận thức của đối tượng và đối tượng của
nhận thức, nhưng thật ra 2 phần này là
nhận thức hóa đối tượng và đối
tượng hóa nhận thức, hình thành lẫn nhau và toàn là
nhận thức. Trong đối tượng của
nhận thức gồm có đối tượng (tướng) và sự
biểu thị của nó (danh), cùng với
nhận thức của đối tượng nữa (
phân biệt), như vậy, toàn là sự biểu hiện
đồng nghĩa với sự
hý luận, nên gọi là
ngôn từ hý luận.
Ghi Chú (55)
Coi ghi chú 57 .
Ghi Chú (56)
Những danh và nghĩa này cho thấy nên nói
bản thức là chủ thể của thức (và của tất cả) hơn nói nó cũng là một thức.
Ghi Chú (57)
Coi lại ghi chú 50 . Như đã nói ở đó, kinh này ẩn lược
mạt na; nhưng trong
sinh hữu và
bản hữu, nói
a lại da chấp thọ là nói mọi sự hữu ấy là mọi sự biểu hiện của
a lại da, chứ
ý thức mọi sự hữu ấy làm tự ngã thì chính là
mạt na. Mặt khác,
mạt na điều phối 6 thức là điều phối theo
ý thức tự ngã của nó,
mạt na ý thức a lại da là
ý thức càng theo
ý thức tự ngã của nó (và đó là trong giai đoạn mê, trong giai đoạn ngộ thì theo
ý thức vô ngã của nó), nhưng cả đoạn nhỏ có ghi chú 55 và đoạn nhỏ này đều ẩn lược
mạt na.
Lý do ẩn lược chính là vì
ý thức tự ngã ấy.
Ghi Chú (58)
Trí pháp trú:
Hữu bộ nói là cái trí biết nhân (trú) của quả (pháp),
Kinh bộ nói là cái trí biết
pháp thường trú,
Đại thừa nói là cái trí biết sự
thiết lập của các
pháp môn.
Đại thừa nói sát và đúng hơn.
Ghi Chú (59)
Đúng như
sự thật mà không thấy: đúng như
thắng nghĩa đế mà thấy chứ không như
thế tục đế mà thấy, thì không thấy như cái thấy
bình thường là thấy gì cũng theo
ý tưởng bình thường, mà là thấy
chân như thắng nghĩa của các pháp.
Ghi Chú (59B)
Có thể đổi ví dụ mà nói như những phân tử
li ti phát ra một cách rất mau chóng nên tạo
thành hình ảnh trên màn ảnh,
chủng tử hiện hành thành thân tâm và
thế giới thì cũng
tương tự như vậy.
Ghi Chú (60)
Tự tánh: Chính văn là
nhất thế pháp tướng (sắc thái của các pháp), tức nói về 3
tự tánh. Ba
tự tánh là
quan sát mọi mặt của mỗi
pháp hữu vi mà nói, chứ không phải có riêng ngoài mỗi pháp ấy. Ba
tự tánh có thể nói và ví dụ
vắn tắt như vầy, theo
Phật học đại từ điển (trang 307). Một,
biến kế là ảo trạng của
phàm phu ngộ nhận,
như ngộ nhận sợi giây là con rắn;
biến kế này chính là
ngã pháp do
phàm phu vọng chấp mà có. Hai,
y tha là do
yếu tố mà có, như sợi giây do chỉ gai và mọi sự hỗ trợ mà thành;
y tha này chính là các
pháp hữu vi, do
chủng tử nơi
a lại da nhờ các
trợ duyên mà
hiện hành. Ba,
viên thành là
thực thể của các
pháp hữu vi, như
thực chất của sợi giây là chất chỉ gai;
viên thành này chính là
pháp tánh chân như, do
tuệ giác chứng ngộ. Cũng nên ghi chú rằng, nói
pháp tánh tùy duyên mà thành các
pháp y tha thì được coi là nghĩa thật, nói
pháp tánh làm
bản thể mà có các
pháp y tha thì được gọi là nghĩa tạm. Ba
tự tánh như vậy, tánh có nghĩa là có, nhưng mỗi tánh có mỗi cách:
biến kế là vọng hữu (có một cách
sai lầm)
y tha là
giả hữu (có một cách
tương đối)
viên thành là
thật hữu (có một cách đích thực).
Ghi Chú (60B)
Tự tướng và
sai biệt: Ở đây có nghĩa là
đặc tính (hay
bản thân) và
chi tiết. Riêng
chi tiết thì chính là
trừu tượng nơi các
hiện tượng, vì chúng giống nhau (nên cũng gọi là cọng tướng).
Ghi Chú (61)
Nhuộm màu xanh: Cũng có thể dịch hiêểp với màu xanh, để trong màu xanh. Để trong màu xanh là lời Ngụy dịch. Những chữ nhuộm ở dưới cũng vậy.
Ghi Chú (61B)
Có thể dịch
như vầy cho
dễ hiểu: cái
viên thành thật tánh cũng
như vầy -- cái
viên thành thật tánh mà
biến kế chấp tánh luôn luôn và
vĩnh viễn không thật có và không
đặc tính.
Ghi Chú (62)
Dịch sát là "thì hủy diệt
chứng đắc sự thanh tịnh"
Ghi Chú (62B)
Trú pháp động pháp:
niết bàn thường trú,
sinh tử biến động.
Ghi Chú (63)
Đã không lại có: đã không
niết bàn, lại có
sinh tử.
Ghi Chú (64)
Vô tánh: Chính văn là
vô tự tánh tướng (sắc thái
vô tánh của các pháp), tức nói 3
vô tánh, cũng gọi là 3
vô tự tánh tánh.
Ghi Chú (65)
Thắng nghĩa vô tánh là thế nào ... gọi là
thắng nghĩa vô tánh: Ghi chú câu này có 3
chi tiết.
Chi tiết một,
thắng nghĩa vô tánh có 2: thứ nhất,
y tha không phải
thắng nghĩa nên cũng gọi là
thắng nghĩa vô tánh; thứ hai,
viên thành do
pháp không hiển lộ nên gọi là
thắng nghĩa vô tánh. Nói cách khác cho
dễ hiểu,
thắng nghĩa không phải như
y tha (vì
y tha không phải
thắng nghĩa)
thắng nghĩa càng không phải là
biến kế (vì
biến kế là
ngã pháp,
ngã pháp không đi mới
hiển lộ thắng nghĩa).
Chi tiết hai, chữ
pháp vô ngã trong câu này chính văn là
nhất thế chư pháp pháp vô ngã tánh (sau đây chính văn chỉ nói
pháp vô ngã tánh). Chính văn như vậy phải dịch
pháp vô ngã chứ không thể dịch sự
vô ngã của các pháp. Nhưng
pháp vô ngã (=
pháp không) thì đã
bao gồm nhân vô ngã (đúng ra nên nói ngã
vô ngã =
ngã không), vì được
pháp vô ngã thì đã được
nhân vô ngã rồi.
Thắng nghĩa vô tánh là
thắng nghĩa do
nhân vô ngã và
pháp vô ngã hiển lộ, nên
Duy thức luận, tụng thứ 24, nói hậu do
viễn ly tiền sở
chấp ngã pháp tánh.
Chi tiết ba, cái được 2
vô ngã hiển lộ là
thắng nghĩa (
chân như), được gọi là
thanh tịnh sở duyên.
Thanh tịnh sở duyên: coi lại ghi chú 47 .
Ghi Chú (66)
Ví dụ này là nói mặt
vô tánh, mặt không. Chứ
thắng nghĩa vô tánh (tức
viên thành thật tánh) nên như phẩm bốn đã ví dụ như cảnh vật không thác loạn mà mắt sáng nhìn thấy.
Ghi Chú (67)
Như
ngôn ngữ nổi lên thế nào thì cũng như thế ấy: dịch rõ là như
ngôn ngữ nổi lên thế này hay nổi lên thế khác thì cũng như thế này hay thế khác.
Ghi Chú (67B)
Liên tục trong tâm: chính văn là
tùy miên, chữ này ở đây chỉ có nghĩa như đã dịch.
Ghi Chú (68)
Tăng thêm
biến kế chấp tánh: câu này, ở đây cũng như ở dưới, đúng chính văn thì phải dịch
chấp trước biến kế chấp tánh. Nhưng dịch như vậy không ăn với chữ tăng thêm (
tăng ích) đã nói ở trên. Mà tăng thêm thì đúng hơn.
Ghi Chú (68B)
Như
biến kế chấp tánh thế nào thì cũng như thế ấy: dịch rõ là như
biến kế chấp tánh thế này hay thế khác thì cũng như thế này hay thế khác.
Ghi Chú (69)
Nại lạc ca: Dịch là
địa ngục thì chỉ vì mượn
ý niệm địa ngục của Tàu. Dịch đúng là vô lạc (
thế giới không vui) hay bất khả
cứu tế (
thế giới khó cứu vớt).
Ghi Chú (70)
Chướng ngại: Ở đây là những
sự chướng ngại cho
thiện căn, trong đó có
nghiệp chướng và
báo chướng.
Ghi Chú (71)
Chưa
thành thục liên tục: chưa
thành thục thiện căn một cách
liên tục sau khi gieo trồng.
Ghi Chú (72)
Kinh pháp như vậy: ở đây, và trọn đoạn nhỏ này,
từ ngữ này chỉ cho kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo (vị
liễu nghĩa kinh). Kinh là kinh ấy, pháp là "các
pháp toàn không" trong kinh ấy. Hiểu là
kinh Giải thâm mật thì không xuôi văn ý.
Ghi Chú (72B)
Thấy không, thấy
không tánh:
Không tánh, đúng chính văn là
không tướng. Nhưng tướng ở đây là dị danh của chữ tánh trong 3
tự tánh và 3
vô tánh. Chính 3
tự tánh và 3
vô tánh, chính văn cũng có chỗ, như trong đoạn nhỏ này, gọi là tướng cả. Thấy 3
tự tánh và 3
vô tánh đều không cả thì đó là
ác thủ không (hiểu Không một cách
sai lầm,
tai hại).
Ghi Chú (72C)
10 lần một là mười,
cho đến 10 lần vạn là ức (
lạc xoa), 10 lần ức là triệu (
độ lạc xoa), 10 lần triệu là mười triệu (
câu chi), 10 lần mười triệu là trăm triệu (
mạt đà), 10 lần trăm triệu là tỉ (a dữu đa), 10 lần tỉ là mười tỉ (đại a dữu đa), 10 lần mười tỉ là trăm tỉ (na dữu đa). Trăm ngàn
câu chi na dữu đa là số 1 với 23 số 0
tiếp theo.
Ghi Chú (73)
Lời có trí này sao không
mật ý: sát chính văn thì là ai có
trí bảo không
mật ý. Dịch như vậy không bằng dịch như đã dịch.
Ghi Chú (73B)
Ba thứ như vậy,
Như lai căn cứ mà nói lời trên: sát chính văn là 3 thứ như vậy
Như lai đã nói rõ. Dịch như vậy cũng không bằng như đã dịch.
Ghi Chú (74)
Các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào: Đây là một danh từ, có nghĩa là các hành mà cái biết biết đến và cái chấp
dựa vào. Như vậy có thể chỉ cần nói các hành cũng đủ. Các hành: coi lại ghi chú 38.
Ghi Chú (75)
Tỳ thấp phược: 1 loại
thần dược làm cho thuốc khác được thần hiệu.
Ghi Chú (76)
Bột vẽ màu: sát chính văn là đất vẽ màu (thể họa địa).
Ghi Chú (77)
Lại làm ... các kinh ấy: làm cho
mật ý trong các kinh
bất liễu nghĩa được rõ ra.
Ghi Chú (78)
Rừng
Ban cho ...
sa xuống: tức
Lộc uyển thường nói.
Ghi Chú (79)
Nhất thế thừa: cỗ xe đủ cả.
Nhất thừa bao gồm cả 3 thừa nên có tên như vậy.
Ghi Chú (80)
Sổ, toán, kế, dụ,
ô ba ni sát đàm: sổ toán kế dụ thì hãy
tham khảo Vạn 34/416. Còn
ô ba ni sát đàm thì Ấn có 60 cấp về số (Tàu có 15), cấp
cuối cùng là
ô ba ni sát đàm.
Ghi Chú (81)
Sự sơ hở: là các lậu, dị danh của
phiền não. Dịch thật sát là sự rỉ lọt.
Ghi Chú (82)
Du dà: chính văn là
phân biệt du dà (phân tích về du dà). Du dà (yoga) dịch nghĩa là
tương ưng (
thích ứng với nhau),
chính yếu là
chỉ và quán.
Ghi Chú (83)
Một là ...
thành tựu: đối cảnh có
phân biệt là đối cảnh do
tác ý thắng giải, đối cảnh không
phân biệt là đối cảnh do
tác ý chân thật, đối cảnh
biên tế các pháp là tánh tận
sở hữu và tánh như
sở hữu, đối cảnh
sở tác thành tựu là
sở duyên của
chuyển y (Vạn 34/420 dẫn Tập luận 6).
Ghi Chú (84)
Giáo pháp của ...
giáo pháp ấy: không phải lấy
toàn bộ giáo pháp làm đề tài mà khởi sự
tu tập chỉ quán, mà, trong một thứ tự hay một sự
lựa chọn thích hợp, khởi sự
tu tập chỉ quán bằng một đề tài theo
giáo pháp.
Ghi Chú (85)
Tư duy: ở đây là nguyên chữ của chính văn. Nhưng ngay cái nguyên chữ này cũng phải hiểu là
tư duy tu (
chuyên chú,
chánh định).
Ghi Chú (86)
Khinh an:
nghĩa đen là nhẹ nhàng ổn định,
mô tả trạng thái quân bình của cơ thể và
tâm trí, không những không còn bất ổn trong 2
trạng thái phi
loạn động thì
hôn trầm, mà còn nói đến
trạng thái giác quan, nhất là
cảm giác, được
chế ngự,
thuần hóa,
cho đến siêu thoát.
Ghi Chú (87)
Ấn tượng ...
tư duy:
thí dụ giáo pháp vô thường đã thành
ấn tượng mà
tâm trí chuyên chú vào đó.
Ghi Chú (88)
Thắng giải:
nghĩa đen là cái biết chắc hơn, tức là sự xác quyết, sự khẳng định.
Ghi Chú (89)
Những
chỉ quán mà sự
tiếp nhận quán sát không có mọi sự
tác ý:
chỉ quán đã nhiệm vận
thuần thục, không cần
tác ý nữa (Vạn 34/438A).
Ghi Chú (90)
Văn: ở đây là chữ, là
tự mẫu (hay điểm hoạch) chứ không phải là văn bài (văn bài là
cú thân).
Ghi Chú (91)
Tánh tận hữu, tánh như hữu: tận
sở hữu tánh (cái tánh
cùng tận cái lượng của sự
hiện hữu) và như
sở hữu tánh (cái tánh đúng như cái thực của sự
hiện hữu).
Ghi Chú (92)
Năm
sắc xứ ở trong: 5
sắc căn.
Ghi Chú (93)
Giới
thế giới: coi ghi chú 104 .
Ghi Chú (94)
Thế giới ngàn lớn:
đại thiên thế giới hay
tam thiên đại thiên thế giới.
Ghi Chú (95)
Đồ dùng của
chúng sinh thu thập: cũng có thể dịch là những sự hỗ trợ và đồ dùng; hỗ trợ (
nhiếp thọ) có 7, đồ dùng (tư cụ) có 10, coi Vạn 34/444A.
Ghi Chú (96)
Duyên tố với thì gian: 4 duyên với 3 đời (
không gian tính với thì gian tính).
Ghi Chú (97)
Biện trung biên nói có 6 tên: không,
chân như,
thật tế,
vô tướng,
thắng nghĩa tánh,
pháp giới. Tập luận nói 7 tên, thêm
vô ngã tánh.
Đại niết bàn nói 12 tên:
chân như,
pháp giới,
pháp tánh, bất
hư vọng tánh,
bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh,
ly sinh tánh,
pháp định (
pháp vị), pháp trú,
thật tế,
hư không giới, bất tự nghị giới. Đại
bát nhã nói 11 tên, thiếu
ly sinh tánh.
Ghi Chú (98)
Phong phú với khái quát: chính văn là quảng lược, là như
Trí độ luận 46 nói, cách nói của Phật có 2: trước khái quát sau
phong phú (để
giải thích) và trước
phong phú sau khái quát (để dễ nhớ).
Ghi Chú (99)
Là 4 ký hay 4 đáp.
Ghi Chú (99B)
Tạm diệt
tham sân si: Tạm diệt, chính văn là đoạn
tì nại da.
Tì nại da là khuất phục, đoạn tì nai da dịch đủ là sự
diệt trừ (đoạn) chỉ mới làm cho khuất phục (tì nai da).
Ghi Chú (100)
Có 2
giải thích. Một, đây là
chấp thọ, 3 thọ, các thức và
nhiễm tịnh. Hai, đây là đối tượng của 4 niệm trú: thân thọ
tâm pháp.
Ghi Chú (101)
Sự
chân thật:
chân như.
Ghi Chú (102)
Hai đến năm là 4 đế.
Ghi Chú (103)
Mười sự này cũng có nghĩa nói về 4 đế: 1, là nói tổng quát, 2-5, là nói
đặc tính, 6-10, là nói
chi tiết (coi Vạn 34/448B).
Ghi Chú (104)
Giới
thế giới: là
khí giới; chữ khí được dịch là
thế giới (mà dịch sát là đồ dùng).
Ghi Chú (105)
Vô đắc:
vô sở đắc (không
tìm thấy được thực có).
Ghi Chú (106)
Chân như nơi sự
liễu biệt: coi lại 7
chân như trong đoạn biết nghĩa. Nói chung, muốn hiểu các đoạn này thì phải
đối chiếu với đoạn nói về biết nghĩa (phần đầu, nói về 10 sự).
Ghi Chú (107)
Tướng không: gồm cả
tự tướng không và cọng
tướng không.
Ghi Chú (108)
Vô tiền hậu không: Đại
bát nhã nói là
vô tế không,
Đại trí độ nói là vô thỉ không. Vô
tiền hậu: trong đoạn nói về biết nghĩa đã dịch không mở đầu không chấm hết.
Ghi Chú (109)
Tạp nhiễm thắt buộc: tức là tướng phược và trọng phược (coi lại ghi chú 39 và 40).
Ghi Chú (110)
Được ít đã đủ: nói rõ là đối với
thiện pháp mà mới được chút ít đã mừng và cho là đủ rồi.
Ghi Chú (111)
Năm thứ ngăn che: là
ngũ cái, được kể như sau:
tham dục,
sân nhuế,
thụy miên (
hôn trầm,
thụy miên),
trạo hối (
trạo cử,
ố tác) và
nghi pháp (hay nghi:
hoài nghi chánh pháp).
Ghi Chú (112)
Trầm một: chìm mất, nói sự thiếu
tự tín, ngại tu
chỉ quán, khác với
hôn trầm là
thân tâm nặng nề.
Ghi Chú (113)
Định: Ở đây chính văn là
tam ma bát để dịch ý là đẳng chí, một dị danh của định chứ không khắc hoạch gì.
Ghi Chú (114)
Định: Ở đây chính văn là
tam ma bát để dịch ý là đẳng chí, một dị danh của định chứ không khắc hoạch gì.
Ghi Chú (115)
Định: Ở đây chính văn là
đẳng trì, cũng như ghi chú trên.
Ghi Chú (116)
Đối tượng
sở tác thành tựu: chính văn là
sở tác thành mãn
sở duyên (có chỗ chép thành biện), dịch
như không dịch là đối tượng
sở tác thành tựu, nếu dịch rõ hơn một chút là đối tượng mà
việc làm đã
hoàn thành. Đối tượng
sở tác thành tựu là
cuối cùng trong 4 đối tượng của
chỉ quán (coi lại Đ2 và ghi chú 83 ).
Sở tác thành tựu là
chuyển y.
Chuyển y là
chuyển căn bản y (do
đệ bát thức): chuyển bỏ
phiền não chướng và
sở tri chướng mà chuyển được
đại bồ đề và
đại niết bàn, nên
chuyển y gọi là
sở tác thành tựu. Được
chuyển y rồi thì đối tượng không còn
điên đảo (Vạn 34/420B dẫn sự
giải thích của Tạp tập luận). Đối tượng ấy chính là
đệ bát thức đã
vô lậu (
chân như xuất triền).
Ghi Chú (117)
Là
ấn tượng...
nhiễm tịnh: đây là thân, thọ, tâm, pháp (của 4 niệm trú).
Ấn tượng là
ấn tượng chánh định,
dựa vào các pháp ấy mà có (Vạn 34/468A). Những chữ
ấn tượng ở dưới cũng vậy.
Ghi Chú (118)
Là
ấn tượng... trong ngoài: là tự thân, tha thân, và cả hai; là căn, cảnh, và cả hai; là
hữu tình,
phi tình, và cả hai.
Ghi Chú (119)
Là
ấn tượng... tất cả:
ấn tượng tất cả là cái
ấn tượng được có do biết tất cả pháp có tất cả tướng (có tất cả
ấn tượng nói trên).
Ghi Chú (120)
Đối với bảy... sinh ra: nói như vậy với cái nghĩa
như vầy: đối với cái
chân như đồng nhất nơi 7 pháp (nên gọi là 7
chân như) có cái
trí thông đạt cái
chân như ấy (nên gọi là 7 cái trí).
Ghi Chú (121)
Chánh tánh
ly sanh: Chánh tánh
ly sanh là
Kiến đạo vị, và đây là
Kiến đạo vị của
Bồ tát. Chánh tánh, chánh cũng gọi là thánh; chánh tánh là
vô lậu tuệ.
Ly sanh, sanh là
phiền não (loại
phân biệt) mà
Kiến đạo vị đoạn trừ ẫ
Phiền não này gọi là sanh là vì như đồ
ăn sống ăn vào sanh bịnh,
phiền não này sanh ra
chúng sanh nên gọi là sanh;
vô lậu tuệ đoạn trừ cái sanh ấy nên gọi là chánh tánh
ly sanh. Từ và nghĩa này cũng tùy chỗ mà có những định nghĩa diễn biến, như Đại
bát nhã cuốn 468 nói
hữu sở đắc là sanh, trí
vô sở đắc là
ly sanh; cuốn 484 nói
pháp ái là sanh, trí
pháp không là
ly sanh...
Ghi Chú (121B)
Được đối tượng... các pháp: coi lại Đ2 và ghi chú 83 .
Ghi Chú (122)
Nghĩa là...
thành tựu: coi lại ghi chú 116 .
Ghi Chú (123)
Biết
chính xác chân như nơi sự
liễu biệt: với sự
giải thích cách khác thì câu này cũng có thể dịch: biết
chính xác cái
tâm trí thấu triệt chân như.
Ghi Chú (124)
Và đó là khéo biết rằng phải làm cho tâm mình thoát ra hai thứ như vậy: với cách
giải thích khác, câu này cũng có thể dịch: sự khéo biết
chính xác ấy phải làm cho
tâm trí mình thoát ra 2 thứ như vậy.
Ghi Chú (125)
Niết bàn hoàn toàn:
niết bàn có 2:
niết bàn hoàn toàn (
vô dư y niết bàn) và
niết bàn chưa toàn (
hữu dư y niết bàn).
Ghi Chú (126)
Cảm giác: thọ.
Ghi Chú (127)
Đó là một... đối cảnh: dịch sát: một là cái thọ của chỗ dựa thô nặng, hai là cái thọ của
cảnh giới, cái quả của chỗ dựa nói trên.
Ghi Chú (128)
Thứ nhất là...
vị lai: 1, là cái thọ
tương ứng với 5 thức trước, 2, là cái thọ
tương ứng với
ý thức, 3, là cái thọ do
vô minh và hành
quá khứ sinh ra, 4, cái thọ do hoặc và
nghiệp cảm ra
quả vị lai.
Ghi Chú (129)
Thế giới đang sống: chính văn là
y trì, là cái chỗ mà cái thân
dựa vào và cái
thức a lại da chấp trì ẫ tức là khí
thế giới.
Ghi Chú (130)
Du dà
giáo pháp lập ra: Du dà thì
ngoại đạo cũng có. Có hẳn 1
giáo phái tên Du dà.
Đặc biệt gần
như không thấy Phật
công kích gì cả về
giáo phái này. Còn du dà ở đây là của
Phật pháp, do
giáo pháp lập ra, và nói như vậy để thấy du dà ấy không phải là du dà ở ngoài.
Ghi Chú (131)
Làm hết kiếp lượng: kiếp là
thời kỳ lâu dài. Kiếp lượng là cái lượng của
thời kỳ lâu dài. Nói làm hết kiếp lượng thì có 2 cách hiểu: hiểu theo sự
giả định thì câu ấy có nghĩa làm đến hết
giới hạn vô hạn của thì gian, hiểu theo sự đích xác thì câu ấy có nghĩa làm hết 3
vô số kiếp.
Ghi Chú (132)
Địa độ: chính văn là
địa ba la mật đa, tức 10 địa và 6 độ.
Ghi Chú (133)
Giải hành địa: là
Thắng giải hành địa. Coi lại ghi chú 37 . Ở đây nên nói thêm rằng
Giải hành địa bao gồm cả
Tư lương vị và Da hành vị.
Ghi Chú (134)
Mười
pháp hạnh: Du dà luận cuốn 74 nói, trong
đại thừa có 10 hạnh làm cho
Bồ tát giáo hóa được
chúng sinh, đó là đối với 12 loại
giáo pháp đại thừa mà biết sao chép, ghi nhớ, hiến cúng, cho người, ai nói thì kính nghe, hoặc đọc, hoặc học, rồi lớn tiếng mà tụng, hoặc giảng cho người, hay ở
một mình chỗ
thanh vắng mà nghĩ và tu.
Ghi Chú (135)
Chánh trí tu hành: chính văn có 2 bản chép chánh tri nhi hành, 1 bản chép chánh tri nhi trú.
Dĩ nhiên tôi chọn số nhiều, nhưng chữ trú thật đáng chú ý, theo đó thì phải dịch:
chánh trí mà sống, mà ở hay mà đứng vững.
Ghi Chú (136)
Nặng nề: chính văn là thô trọng, chỉ cho
chủng tử của các thứ ngu tối, và chỉ cho sự không kham nhiệm (không
gánh vác nổi việc gì cả) do các thứ ngu tối dẫn ra.
Ghi Chú (137)
Chỉ trong...
tăng thượng: Thọ sinh
tăng thượng là
tự tại thọ sinh. Nhưng Phật thì không thọ sinh mà chỉ
hóa thân.
Ghi Chú (138)
Nhưng cái... đặc thù: 10 địa đều có 10 độ một cách
bình đẳng; nhưng, theo thứ tự, mỗi địa
vẫn có một độ đặc thù, và cái độ đặc thù ấy vẫn hơn các địa khác.
Ghi Chú (139)
Tùy miên:
chủng tử của
phiền não.
Ghi Chú (140)
Nhiếp pháp: ở đây có thể nói
bao gồm tất cả
phương cách nhiếp hóa
chúng sinh, cũng có thể nói là 4 nhiếp pháp.
Ghi Chú (141)
Lợi người: dịch đủ và rõ là
lợi ích chúng sinh. Những chữ ở dưới cũng vậy.
Ghi Chú (142)
Tinh tiến áo giáp: dịch đủ là mặc áo giáp.
Tinh tiến áo giáp là
tinh tiến thệ nguyện, có nghĩa khoác mặc cái tâm mạnh mẽ làm áo giáp mà xông tới, không sợ bất
cứ sự khó khăn nào.
Ghi Chú (143)
Tịnh lự dẫn ra
pháp lạc: là dịch tắt, dịch đủ là
tịnh lự không
phân biệt, rất
vắng lặng, không
tội lỗi,
đối trị cái khổ của
phiền não mà
an trú pháp lạc (ngay trong
hiện tại).
Ghi Chú (144)
Chú ý sẽ thấy, trừ
thí độ,
nhẫn độ và
tuệ độ, độ nào cũng có loại sinh thiện ; lại trừ
thí độ và
nhẫn độ, độ nào cũng có loại lợi người.
Ghi Chú (145)
Độ: nguyên ngữ dịch âm là
ba la mật đa, dịch nghĩa là
đáo bỉ ngạn, cũng dịch là độ. Tôi chọn chữ độ (vượt) vì đủ cả 2 nghĩa: vượt bỏ bờ bên này và vượt
đến bờ bên kia. Mà
đại sư Khuy cơ nói chữ
ba la mật có đủ cả 2 nghĩa như vậy.
Ghi Chú (145B)
Một là ...
hồi hướng: 5
lý do này sau đây gọi là 5 sự nói trên.
Ghi Chú (146)
Các
thành quả và
dị thục quả: là nói về 5 quả:
dị thục quả,
đẳng lưu quả,
sĩ dụng quả,
tăng thượng quả,
ly hệ quả. Các
thành quả là nói tắt 4 quả sau. Còn
dị thục thì chữ ấy chỗ khác gọi là báo, là quả, là
quả báo.
Ghi Chú (146B)
Dục lạc: tức là
ngũ dục.
Pháp số này có 2 cách kể, là
sắc thanh hương vị xúc (sắc đẹp, tiếng hay, hơi thơm, mùi ngon, xúc khoái), là
tài sắc danh thực thụy (
tiền của, sắc đẹp,
danh vọng,
ăn nhậu, ngủ nghỉ). Như vậy
dục lạc là nói mọi
giác quan đều
thỏa thích cả.
Ghi Chú (147)
Hay ho và hữu ích: chính văn là
công đức và
thắng lợi, cũng có thể dịch
ưu việt và
thắng lợi (!).
Ghi Chú (148)
Khi làm
một độ mà tách rời và đánh mất các độ khác: là nói sự
chấp nhất (chứ không phải
chuyên nhất).
Ghi Chú (149)
Hành khổ: khổ có 3 loại, là
khổ khổ (khổ sở vì lạnh nóng
đói khát gây ra, mà những thứ này đã là khổ rồi),
hành khổ (khổ sở vì sự
biến động của
pháp hữu vi ẫ là 5 uẩn mà
thân tâm và
thế giới chúng ta được phân tích và qui nạp
sơ khởi trong đó),
hoại khổ (khổ sở vì cái vui mất đi).
Ghi Chú (150)
Bẩn
thanh tịnh: bẩn là
phiền não; bẩn
thanh tịnh là
phiền não bị thanh trừng.
Ghi Chú (151)
Hoàn hảo ... thường chuyển:
giới pháp thường xuyên là
suốt đời không xả giới,
giới pháp bền chắc là không
phạm giới (thêm nữa:
lợi lộc,
tôn kính hay
phiền não không thể khuất phục tước đoạt),
giới pháp thường làm là
trì giới không sơ hở,
giới pháp thường chuyển là sơ hở cũng chuyển liền cho
thanh tịnh lại.
Ghi Chú (152)
Sám hối: chính văn là gián hối (hối bộ ngôn, gián hối là khuyên can).
Sám hối là lấy chữ của Ngụy dịch cho
dễ hiểu và sát hơn. Và do chữ của Ngụy dịch mà biết gián hối là khuyên can đừng giận để cầu
sám hối.
Ghi Chú (153)
Tịnh lự biết
thế tục đế và
tịnh lự biết
thắng nghĩa đế: là dịch theo Vạn 35/32A cho
dễ hiểu. Dịch sát là
tịnh lự khéo
thông hiểu về tướng,
tịnh lự viên mãn.
Ghi Chú (154)
Tịnh lự chuyển động... khéo tu: Vạn 35/32A
giải thích rằng 3 loại
tịnh lự này là đi đôi với 3 phần da hành, chánh hành và hậu đắc của trí.
Ghi Chú (155)
Năm
minh xứ: 1,
nội minh là
Phật học, 2,
nhân minh là luận lý học, 3,
thanh minh là sinh ngữ, 4,
y phương minh là y học, 5,
công nghiệp minh là kyՠthuật.
Ghi Chú (156)
Lại vì... là quán: Vạn 35/33B phân câu này thuộc về sự biết đúng
thắng nghĩa đế. Nhưng tôi xét thấy bất ổn, nên nghĩ riêng mà phân câu và dịch như vậy.
Ghi Chú (157)
Không đối với
dị thục quả: chứ không phải không đối với
đẳng lưu quả,
sĩ dụng quả,
tăng thượng quả,
ly hệ quả.
Ghi Chú (158)
Theo Tạp tập luận thì điều một là
ly hệ quả của các độ, điều hai là
tăng thượng quả của các độ, điều ba là
sĩ dụng quả của các độ, điều bốn là
dị thục quả của các độ. Vậy là chỉ thiếu
đẳng lưu quả.
Ghi Chú (159)
Bạch đức...
tự tánh: cái tánh có
tự tánh và cái
tánh không tự tánh, trước đây dịch tắt là
tự tánh và
vô tánh, là tánh và
vô tánh,
tức chỉ cho 3
tự tánh (3 tánh) và 3
vô tánh. Nhưng trong đoạn này, qua
lời Phật dạy, thì cái
tánh không tự tánh ở đây chỉ nói về
thắng nghĩa vô tánh (tức nói về
chân như), thế mà lời hỏi này có ý coi cái biết và cái được biết của
bát nhã cũng chỉ như của
biến kế chấp, biết theo
ngôn ngữ và
ấn tượng của
ngôn ngữ.
Ghi Chú (160)
Như lai không bao giờ... của các pháp:
Bát nhã chứng
chân như là
nội chứng, không thể nói được. Nói
bát nhã chứng
chân như là tạm dùng
ngôn ngữ để nói cho người khác biết như vậy. Câu này, với
đại ý được hiểu như vậy nên đã dịch như đã dịch. Nếu dịch sát chính văn thì khó hiểu :
Như lai không bao giờ nói đem cái
tánh không tự tánh lĩnh hội cái
tánh không tự tánh. Nhưng cái
tánh không tự tánh tách rời
văn tự,
tự nội chứng ngộ, không thể bỏ
ngôn ngữ văn tự mà nói được. Thế nên
Như lai nói rằng
tuệ độ lĩnh hội được cái
tánh không tự tánh của các pháp.
Ghi Chú (161)
Tùy miên hỗ trợ:
Tùy miên thì coi lại ghi chú 139 .
Tùy miên hỗ trợ, nguyên danh là hại bạn
tùy miên (loại
tùy miên hỗ trợ và bị hại trước).
Ghi Chú (162)
Nếu: Vạn 35/39A nói nếu ở đây là
nghĩa không quyết định: có
Bồ tát chế ngự, có
Bồ tát không. Tại sao không
chế ngự, và không
chế ngự cái gì, thì coi đoạn nhỏ thứ tư.
Ghi Chú (163)
Ba là...
hiện hành nữa: Dịch sát thì: Ba là
tùy miên nhỏ nhiệm, là ở địa thứ tám sắp lên, từ đó mà đi thì mọi
phiền não không còn
hiện hành, vì chỉ có
sở tri chướng làm
điểm tựa.
Ghi Chú (164)
Thô trọng: trước đây đã dịch là nặng nề (coi lại ghi chú 136 ). Ở đây nên nói thêm. Thô trọng là
thế lực của
chủng tử 2 chướng làm cho cái
thân hữu lậu không có
kham năng gì:
chủng tử ấy, và
thế lực ấy, gọi là thô trọng, cũng gọi là
tập khí (
thói quen).
Ghi Chú (165)
Làm rõ ra: làm rõ ra
tùy miên nào bị diệt thế nào, ở
Bồ tát địa nào, và diệt rồi được gì.
Ghi Chú (166)
Nửa buổi, một buổi, ngày đêm: ngày đêm là một ngày đêm. Mỗi một ngày đêm, xưa nói có 6 buổi: ngày 3 buổi, đêm 3 buổi; 3 buổi là đầu, giữa và cuối ẫ tức là nay nói mỗi ngày đêm có 24 giờ, mỗi buổi có 4 giờ, nửa buổi có 2 giờ. Ở đây ý nói
vô số kiếp (
thời kỳ vô số) không phải tính bằng các cấp
đơn vị thì gian, mà là tính theo
thời kỳ tăng giảm và thành hoại của
thế giới, lại tính theo
thời kỳ thành đạt các
Bồ tát vị (nên không phải không có chậm hay mau).
Ghi Chú (167)
Lý thú: chỗ mà cái lý qui về (tức
chân như).
Ghi Chú (168)
Thêm lên, bớt đi: ở đây thêm lên là cho có các thừa khác nhau, bớt đi là cho
quyết định chỉ có
nhất thừa.
Ghi Chú (169)
Phật sự: chính văn là
Như lai thành
sở tác sự (những sự của
Như lai thành đạt).
Ghi Chú (170)
Mạn thù:
Mạn thù thất lị (
Văn thù sư lị).
Ghi Chú (171)
Khéo tu
rốt ráo: chính văn là
thiện tu xuất ly.
Xuất ly ở đây, theo Nhiếp luận, là
tiến tu rốt ráo ẫ dẫu rằng cũng có nghĩa ra khỏi rời hết (mọi
sự chướng ngại).
Ghi Chú (172)
Chuyển y: y là
căn bản y, tức
bản thức.
Chuyển y là chuyển
bản thức: chuyển bỏ 2
trọng chướng (
phiền não chướng,
sở tri chướng) mà chuyển được 2 đại quả (
đại niết bàn,
đại bồ đề).
Ghi Chú (173)
Hý luận và thi vi:
bàn luận vô ích và động tác thác loạn.
Ghi Chú (174)
Do giải ...
bình đẳng: nên Phật cũng gọi là
La hán (nhưng không phải chỉ là
La hán).
Ghi Chú (175)
Pháp thân ...
công đức:
vô lượng công đức là như 10 lực, 18
bất cọng,
vân vân, là những
công đức mà nguyên thỉ và
tiểu thừa kê ra nhưng
La hán không có. Do câu này mà biết
pháp thân có nghĩa là cái thân có
vô số pháp công đức.
Ghi Chú (176)
Khắp trong ...
cùng lúc: câu này cho thấy
hóa thân Phật ở
Ấn độ chỉ là một trong
vô số hóa thân cùng lúc thị hiện khắp cả
đại thiên thế giới.
Ghi Chú (177)
Như đã nói trong
dẫn nhập, Viên sớ mất cuốn chót, thiếu từ đây sắp đi. Nên từ đây sắp đi tôi lấy bản giảng lục của
đại sư Thái hư làm
tài liệu.
Đại sư cũng chỉ giảng phẩm này. Bản giảng lục của
đại sư nằm trong
Thái hư toàn thư (tập 14, các trang 1-79).
Ghi Chú (178)
Theo thứ tự, 4 sự này là nghe (và nghĩ), tín, tu và chứng.
Ghi Chú (179)
Theo thứ tự, 9 sự này là 5 uẩn, 12 xứ, 12
duyên khởi, 4 thực, 4 đế, 5 giới (
chúng sinh,
thế giới, các pháp, người được
thuần hóa,
phương pháp thuần hóa), Phật, Pháp,
thính giả.
Ghi Chú (180)
29 sự này chia ra 2 loại là
tạp nhiễm và
thanh tịnh, trong loại
thanh tịnh chia 2 phần là
thế gian và
xuất thế. Loại
tạp nhiễm có 4 là sự 1 đến sự 4; loại
thanh tịnh mà phần
thế gian có 4 là sự 5 đến sự 8; loại
thanh tịnh mà phần
xuất thế chia làm 6 nhóm: nhóm tổng quát có 1 sự là sự 9, nhóm
tứ đế có 4 sự là sự 10 đến sự 13, nhóm
kiến đạo có 4 sự là sự 14 đến sự 17, nhóm
tu đạo có 4 sự là sự 18 đến sự 21, nhóm
giải thoát đạo có 6 sự là sự 22 đến sự 27, nhóm chọn bỏ có 2 sự là sự 28 và sự 29. Dưới đây là ghi chú những sự cần ghi, và sự nào cần lắm mới lặp lại
từ ngữ, không thì chỉ nói số hiệu: 1 là 5 uẩn, 2 là 12
duyên khởi; 7, tâm
an định ở đây là định
vị chí ở cõi Dục, 8, sống trong
pháp lạc ở đây là
định căn bản của
Sơ thiền sắp lên; 9 là nói tổng quát về phần
xuất thế, trong đó chữ
khổ não dịch đúng và đủ theo chính văn là nhân tố và duyên tố của
khổ não; 10 có 3 thứ:
biến tri chỗ của những thứ
điên đảo là biết về chỗ mà người ở đó thấy khổ là vui, chỗ ấy là cõi Dục, 1 chỗ
khổ não;
biến tri chỗ của những thứ
tà hành, vừa dịch vừa
giải thích cho rõ là biết về chỗ mà
ý tưởng của những kẻ hướng về
chúng sinh ở ngoài cõi Dục, tức Phạn thiên hay
Đại tự tại thiên của đỉnh cõi Sắc, mà tu 4
thiền định theo
tà kiến cho những
chúng sinh ấy là chúa tể, chỗ ấy là cõi Sắc, cũng là 1 chỗ
khổ não;
biến tri về chỗ của những thứ nội ly thượng mạn là biết về chỗ mà những người tu 4
vô sắc định hướng đến, những người này bên trong mới hết muốn
hình sắc mà đã sinh thượng mạn, chưa
giải thoát cho là đã
giải thoát, chỗ ấy là cõi
Vô sắc, cũng vẫn là 1 chỗ
khổ não; 11, dịch đúng chính văn là chỗ mà sự
tu tập nhắm vào; 14, cứng chắc là
kiến đạo thì không còn thoái đọa
ác đạo nữa, 17, cái đã đoạn là
kiến hoặc, cái chưa đoạn là
tu hoặc; 24 là
bồ đề của
Thanh văn Độc giác và
Vô thượng, 25 là 2 loại
tư lương phước đức trí tuệ; 28,
chánh kiến đang còn
hữu lậu, chính văn là
thế gian chánh kiến.
Ghi Chú (181)
Giới pháp nặng: là nói cho
dễ hiểu. Chính văn là tha thắng, dịch nghĩa chữ
ba la di. Tha
thắng nghĩa là bị cái khác chiến thắng, cái khác ấy là
tội ác. Tha thắng được nói đến là vì
đứng đầu các loại giới pháp.
Ghi Chú (182)
Bốn là ... không
phạm giới: là nói
phàm phu và
thánh giả.
Ghi Chú (183)
Bản mẫu: là 1 trong 2 tên của
luận tạng. Ngoài tên
luận nghị (Upadesa),
luận tạng còn gọi là
bản mẫu (Matrka) có nghĩa là mẹ gốc: tập hợp
nghĩa lý của
kinh tạng mà
xuất sinh nghĩa lý nữa.
Ghi Chú (184)
Nói về
tác dụng của các pháp: là nói về
y tha khởi tánh.
Ghi Chú (185)
Ký biệt và
sai biệt:
ký biệt là sự
thọ ký;
sai biệt:?
Ghi Chú (186)
Nói tổng quát, trong 4
đạo lý,
đạo lý 1, 2 và 3 là nói về
sự thật tương đối,
đạo lý 4 là nói về
sự thật tuyệt đối.
Ghi Chú (187)
Tiếp theo đây là trọn đoạn nhỏ dưới đây, nói thêm về
đạo lý 3. Nhưng tôi đổi
vị trí một chút cho dễ đọc.
Ghi Chú (188)
Coi lại ghi chú 49 .
Ghi Chú (189)
Do 7 sắc thái ...
vẩn đục: 7 sắc thái
vẩn đục về
đạo lý chứng thành là nói
hình thức luận
lý không chính xác, tức nói về
Nhân minh. Người ghi chép lời
đại sư Thái hư nói sắc thái 1 là lỗi
đồng phẩm nhất phần chuyển
dị phẩm toàn phần chuyển, sắc thái 2 là
dị phẩm nhất phần chuyển
đồng phẩm toàn phần chuyển, sắc thái 3 là
đồng phẩm toàn phần chuyển
dị phẩm toàn phần chuyển, sắc thái 4 là
bất cọng bất định dị phẩm toàn phần chuyển, sắc thái 5 là lỗi về dụ, sắc thái 6 là nói mọi lỗi, sắc thái 7 là khái lược. Tôi nghĩ còn phải
tra cứu nữa đã. Nay, xét văn
ý đoạn kinh này, có thể nói
đại khái như sau. Theo
hình thức luận lý
Nhân minh, tôn thì phải có nhân, nhân thì phải có dụ. Dụ là
đối chiếu nhân với những gì cùng
tính chất (
đồng dụ) và khác
tính chất (
dị dụ), để thấy những gì khác
tính chất thì phải
hoàn toàn không có cái nhân ấy. Nếu có, dầu có một phần hay
toàn phần, thì bị cái lỗi
bất định hay
mâu thuẫn. Như
vậy thì đạo lý chứng thành sẽ bất thành.
Ghi Chú (190)
Có cái tâm bởi nơi người: cái tâm bởi
chúng sinh cảm ứng mà có.
Ghi Chú (191)
Chánh pháp: dịch sát và đủ là đường đi ấy và dấu đi ấy.