KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống
Phẩm tám: Phật Sự (169)
Bấy giờ
đại bồ tát Mạn thù (170) thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói
pháp thân Như lai, vậy
pháp thân Như lai có những sắc thái gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, khéo tu
rốt ráo (171) các độ của các địa mà
hoàn thành chuyển y (172) , thì (
chuyển y) đó là sắc thái của
pháp thân Như lai. Sắc thái này vì hai
lý do nên
bất khả tư nghị, đó là
siêu việt hý luận và
siêu việt thi vi -- mà
chúng sinh thì
hý luận và thi vi (173) .
Bạch đức Thế tôn,
chuyển y của
Thanh văn và
Độc giác được gọi là
pháp thân không?
Thiện nam tử, không.
Bạch đức Thế tôn, vậy nên gọi là gì?
Thiện nam tử, nên gọi là
giải thoát thân. Do
giải thoát thân nên nói
Thanh văn Độc giác cùng với
Như lai rất
bình đẳng (174) , nhưng do
pháp thân nên có khác biệt.
Pháp thân Như lai khác biệt là vì có
vô lượng công đức (175) vừa
tối thắng vừa khác biệt, toán số ví dụ không thể
diễn tả.
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, chúng con nên hiểu như thế nào về
trạng huống sinh khởi của đức Thế tôn?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử,
hóa thân Như lai mà động tác thì cũng như
thế giới sinh khởi mọi thứ; (
hóa thân ấy) được mọi
công đức của
Như lai trang sức và
duy trì. Ông nên biết
hóa thân thì có
sinh khởi,
pháp thân thì phi
sinh khởi.
Bạch đức Thế tôn, chúng con nên hiểu như thế nào về
phương tiện khéo léo của
hóa thân Thế tôn đã thị hiện?
Thiện nam tử, khắp cả
cõi Phật của
Như lai là
đại thiên thế giới này, ở trong vương
gia tăng thượng mà ai cũng
công nhận hay trong
gia đình đại phước mà ai cũng
công nhận,
Như lai cùng lúc (176) vào thai, đản sinh, lớn lên, hưởng dục,
xuất gia,
thị hiện khổ hạnh, rồi bỏ
khổ hạnh mà
thành đẳng chánh giác,
thị hiện với thứ
tự như vậy thì gọi đó là
phương tiện khéo léo của
hóa thân Như lai thị hiện (177) .
Lược Giải.-
Đoạn D1 này có 2 đoạn nhỏ: một nói về
pháp thân, một nói về
hóa thân.
Nói Về Kinh Và Luật
Chính Văn.-
Đại bồ tát Mạn thù thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, có mấy loại tiếng nói của
hóa thân Thế tôn chủ trì, tiếng nói mà nhờ đó những người được
hóa độ chưa
thành thục thì
thành thục, đã
thành thục thì cũng vin vào đó mà mau được giải thoát?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, tiếng nói
Như lai khái lược có ba loại: một là
khế kinh, hai là
điều phục, ba là
bản mẫu.
Bạch đức Thế tôn,
khế kinh là gì?
điều phục là gì?
bản mẫu là gì?
Thiện nam tử, chỗ nào
Như lai căn cứ những sự bao quát mà
thuyết pháp thì đó là
khế kinh. Những sự ấy có bốn, có chín và có hai mươi chín. Bốn sự là những gì, một là lắng nghe, hai là hướng đến, ba là
tu học, bốn là
chứng ngộ (178) . Chín sự là gì, một là
thiết lập chúng sinh, hai là
thiết lập sự
thọ dụng của
chúng sinh, ba là
thiết lập sự
sinh khởi của
chúng sinh, bốn là
thiết lập sự
tồn tại của
chúng sinh, năm là
thiết lập sự
nhiễm tịnh của
chúng sinh, sáu là
thiết lập sự
sai biệt của
chúng sinh, bảy là người nói, tám là pháp được nói, chín là
chúng hội nghe nói (179) . Hai mươi chín sự là gì, loại
tạp nhiễm có 1 là các hành, 2 là các hành
lưu chuyển, 3 là nơi đó
chấp ngã nên
vị lai lưu chuyển, 4 là nơi đó
chấp pháp nên
vị lai lưu chuyển; loại
thanh tịnh có 5 là
chánh niệm pháp được nghe, 6 là
tinh tiến về pháp ấy, 7 là tâm
an định, 8 là sống trong
pháp lạc; 9 là
phương pháp giải thoát khổ não; 10 là
biến tri khổ não -- sự này có ba:
biến tri chỗ của những thứ
điên đảo,
biến tri chỗ của những thứ
tà hành,
biến tri chỗ của những thứ nội ly thượng mạn -- 11 là diệt nhân, 12 là
tác chứng, 13 là
tu tập; 14 là cứng chắc, 15 là
hành tướng của sự cứng chắc, 16 là
sở duyên của sự cứng chắc, 17 là sự khéo
quan sát cái đã đoạn và cái chưa đoạn của sự cứng chắc; 18 là sự
tán loạn của sự cứng chắc, 19 là sự không
tán loạn của sự cứng chắc, 20 là chỗ dựa của sự không
tán loạn, 21 là
tu tập một cách
cần cù nỗ lực; 22 là thắng ích của sự
tu tập, 23 là sự bền chắc của sự
tu tập, 24 là thu hoạch
tuệ giác của
thánh giả, 25 là thu hoạch sự hỗ trợ của
tuệ giác ấy, 26 là
thông suốt chân như, 27 là
chứng đắc niết bàn; 28 là sự
siêu việt trên đỉnh
chánh kiến ngoại đạo của sự
chánh kiến về
pháp Như lai thiện thuyết ẫ dầu sự
chánh kiến ấy đang còn
hữu lậu, 29 là sự
thoái lui của sự
chánh kiến ấy -- nhưng không
tu tập pháp thiện thuyết nên nói là
thoái lui, chứ không phải sự
chánh kiến ấy có gì
sai lầm mà gọi là
thoái lui (180) .
Lược Giải.-
Trên đây nói về
kinh tạng, dưới đây nói về
luật tạng.
Chính Văn.-
Thiện nam tử, chỗ nào
Như lai do các vị
Thanh văn và các vị
Bồ tát mà nói về pháp
biệt giải thoát và pháp
tương ứng với
biệt giải thoát thì đó là
điều phục.
Bạch đức Thế tôn,
biệt giải thoát của
Bồ tát bao gồm vào mấy tiết mục?
Thiện nam tử, nên biết có bảy tiết mục, một là nói về qui tắc
thọ giới, hai là nói về các
giới pháp nặng (181) , ba là nói về sự
phạm giới, bốn là nói về tánh tình còn
phạm giới, năm là nói về tánh tình không
phạm giới (182) , sáu là nói về cách
sám hối sự
phạm giới, bảy là nói về sự xả giới.
Nói Về Luận
Chính Văn.-
Thiện nam tử, chỗ nào
Như lai đem mười một tiết mục mà
thuyết pháp thì đó là
bản mẫu (183) . Mười một tiết mục ấy là những gì, tiết mục 1 là
thế tục đế, tiết mục 2 là
thắng nghĩa đế, tiết mục 3 là
sở duyên của các pháp
bồ đề phần, tiết mục 4 là
hành tướng, tiết mục 5 là
tự tánh, tiết mục 6 là quả của
tự tánh, tiết mục 7 là sự
tiếp nhận khai thị của
tự tánh, tiết mục 8 là
chướng ngại của
tự tánh, tiết mục 9 là
tùy thuận của
tự tánh, tiết mục 10 là
lỗi lầm của
tự tánh, tiết mục 11 là thắng ích của
tự tánh. Tiết mục 1,
thế tục đế có 3 mục: mục 1 nói về
ngã chấp, mục 2 nói về
biến kế chấp, mục 3 nói về
tác dụng của các pháp (184) . Tiết mục 2,
thắng nghĩa đế là nói về 7
chân như. Tiết mục 3,
sở duyên của các pháp
bồ đề phần là nói về tất cả chủng loại
sở tri.
Lược Giải.-
Đ2 có mấy đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ kê tên 11 tiết mục của
luận tạng và lược giải các tiết mục 1, 2 và 3.
Chính Văn.-
Tiết mục 4,
hành tướng là nói về 8 hành quán: mục 1 là đế thật, mục 2 là
an lập, mục 3 là
quá thất, mục 4 là
công đức, mục 5 là
lý thú, mục 6 là
lưu chuyển, mục 7 là
đạo lý, mục 8 là
tổng biệt. Mục 1, đế thật là nói về
chân như của các pháp. Mục 2,
an lập là lập ra
ngã chấp, là lập ra
biến kế chấp, là lập ra
quyết định,
phân tách, hỏi lại và lặng bỏ, là lập ra
ẩn mật và
minh bạch hay
ký biệt và
sai biệt (185) . Mục 3,
quá thất là nói pháp
tạp nhiễm có nhiều mặt
tội lỗi. Mục 4,
công đức là nói
pháp thanh tịnh có nhiều mặt thắng ích. Mục 5,
lý thú có 6 thứ:
lý thú chân lý,
lý thú chứng đắc,
lý thú giáo hóa,
lý thú siêu việt nhị biên,
lý thú bất khả tư nghị,
lý thú mật ý. Mục 6,
lưu chuyển là 3 thì gian, 3
hữu vi tướng và 4 duyên tố. Mục 7,
đạo lý là 4
đạo lý: thứ 1 là
đạo lý quán đãi, thứ 2 là
đạo lý tác dụng, thứ 3 là
đạo lý chứng thành, thứ 4 là
đạo lý pháp nhĩ (186) . Thứ 1,
đạo lý quán đãi là do nhân tố và duyên tố mà phát sinh các hành và phát sinh
ngôn từ liên quan các hành. Thứ 2,
đạo lý tác dụng là do nhân tố và duyên tố mà các pháp sinh, các
pháp thành, các pháp
sinh thành rồi
tác dụng. Thứ 3,
đạo lý chứng thành là do nhân tố và duyên tố mà làm cho
ý nghĩa nói ra được xác lập và làm cho người nghe
hiểu biết chính xác (187) . Thứ 4,
đạo lý pháp nhĩ là
Như lai xuất thế hay không
xuất thế,
pháp tánh các pháp vẫn
an lập,
pháp giới các pháp vẫn
an trú (188) . Mục 8,
tổng biệt là trước nói tổng quát bằng một câu về pháp, sau đó nói những câu
phân tách khác nhau làm cho
rõ ràng trọn vẹn.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ nói về
hành tướng, tiết mục 4.
Chính Văn.-
Thêm nữa,
đạo lý chứng thành có 2 loại, là loại
trong sáng và loại
vẩn đục. Do 5 sắc thái mà
trong sáng và do 7 sắc thái mà
vẩn đục. (Thứ nhất), do 5 sắc thái mà
trong sáng là hiện thấy,
suy luận, luận cứ, toàn hảo và
chánh giáo. Hiện thấy là các hành
vô thường, các
hành khổ não, các
pháp vô ngã,
đại loại như vậy, đó là những điều mà
hiện lượng thấy được.
Suy luận là
dựa vào sự hiện thấy, tức xét thấy các hành là tính
sát na, là tính có
đời sau, là tính
nghiệp lành nghiệp dữ không mất; tính
sát na là do sự
vô thường thô thiển mà biết, tính có
đời sau là do
chúng sinh có nhiều loại vì có nhiều loại nghiệp mà biết, tính
nghiệp lành nghiệp dữ không mất là do
chúng sinh có vui có khổ mà biết,
đại loại như vậy, đó là những điều không hiện thấy mà có thể
suy luận. Luận cứ là
dẫn chứng từ những
thí dụ cùng
tính chất, tức đối với các hành nơi
bản thân hay nơi
ngoại giới đều có thể dẫn sự
sống chết mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn mọi sự
khổ não của sự
sống chết mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn sự bất
tự do mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn sự
thịnh suy mà ai cũng biết để ví dụ,
đại loại như vậy. Toàn hảo là do hiện thấy, do
suy luận và do luận cứ mà làm cho chủ thuyết lập ra được
quyết định.
Chánh giáo là những
giáo huấn tốt đẹp trong sáng, tức những
tuyên thuyết của bậc
toàn giác, như
tuyên thuyết niết bàn là
vắng lặng trọn vẹn,
đại loại như vậy. Do 5 sắc thái như
vậy mà gọi là khéo
quan sát về
đạo lý trong sáng, và do sự
trong sáng ấy mà
đạo lý như vậy đáng được học tập.
Bạch đức Thế tôn, bậc
toàn giác thì có mấy sắc thái?
Thiện nam tử,
đại khái có 5 sắc thái: một là
xuất hiện thế giới thì cái tiếng
toàn giác ai cũng nghe cả; hai là toàn hảo 32 tướng quí của bậc
đại trượng phu; ba là đầy đủ 10
trí lực loại được mọi
nghi hoặc cho
chúng sinh; bốn là đầy đủ 4
vô úy tuyên thuyết chánh pháp, không bị sự
biện luận của ai khuất phục mà lại khuất phục được những sự tà luận; năm là trong
chánh pháp được
tuyên thuyết thì 8
thánh đạo và 4
thánh quả toàn là những cái có thể
thực hiện ngay trong
hiện tại. Sự
xuất hiện thế giới (với cái tiếng
toàn giác và đủ các tướng quí), sự
giải quyết nghi hoặc, sự không
bị khuất phục mà khuất phục được người khác, sự
hiện tại có thể
thực hiện thánh đạo và
thánh quả, 5 sự như vậy là sắc thái của bậc
toàn giác mà ông nên biết. Và, như thế,
đạo lý chứng thành do
hiện lượng, do
tỷ lượng (cùng những luận cứ và sự toàn hảo của
tỷ lượng ấy), và do
chánh giáo lượng, do 5 sắc thái như
vậy mà gọi là
trong sáng. (Thứ hai), do 7 sắc thái mà
vẩn đục là 1, một phần cùng
tính chất, 2, một phần khác
tính chất, 3,
toàn phần cùng
tính chất, 4,
toàn phần khác
tính chất, 5, ví dụ khác
tính chất, 6, không phải toàn hảo, 7, không phải
chánh giáo. Nếu đưa ra
lý do vì
ý thức nhận biết thì đó là
toàn phần cùng
tính chất. Nếu đưa ra
lý do vì sắc thái, vì
đặc tính, vì
tác dụng, vì
nhân quả, mỗi
lý do riêng biệt của mỗi pháp,
quyết định khác nhau, thì đó là
toàn phần khác
tính chất. Nếu đưa ra
lý do mà một phần cùng
tính chất và ví dụ lại
toàn phần khác
tính chất thì
vì vậy mà chủ thuyết lập ra không được
quyết định, nên đó là không phải toàn hảo. Nếu đưa ra
lý do mà một phần khác
tính chất và ví dụ lại
toàn phần cùng
tính chất thì
vì vậy mà chủ thuyết lập ra không được
quyết định, nên đó là không phải là toàn hảo. Không phải toàn hảo, không phải khéo
quan sát đạo lý trong sáng, thì do sự
vẩn đục ấy mà không đáng học tập. Ví dụ khác
tính chất, và không phải
chánh giáo, thì ông nên biết
bản chất toàn là
vẩn đục (189) .
Lược Giải.-
Đoạn nhỏ này, như đã nói ở ghi chú 187, là nói thêm về
đạo lý 3,
đạo lý chứng thành.
Chính Văn.-
Tiết mục 5,
tự tánh là sự
tu hành và sự vin theo mà
Như lai nói cho để thủ đắc các pháp
bồ đề phần là niệm trú và các mục cùng loại. Tiết mục 6, quả của
tự tánh là những sự
diệt trừ phiền não và những
thành quả công đức thuộc cả
phạm vi thế gian và
phạm vi xuất thế. Tiết mục 7, sự
tiếp nhận khai thị của
tự tánh là đối với cái quả nói trên, đem cái trí
giải thoát mà lãnh nhận và khai thị
phong phú cho người. Tiết mục 8,
chướng ngại của
tự tánh là chính các pháp
ô nhiễm gây
chướng ngại cho sự
tu hành các pháp
bồ đề phần. Tiết mục 9,
tùy thuận của
tự tánh là những gì làm cho sự
tu hành ấy nhiều hơn lên. Tiết mục 10,
tội lỗi của
tự tánh là những
tội lỗi của các pháp
chướng ngại nói trên. Tiết mục 11, thắng ích của
tự tánh là những
công đức của các pháp
tùy thuận nói trên.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ chót hết của Đ2, lược giải các tiết mục còn lại là 5 đến 11.
Nói Về
Tổng TrìChính Văn.-
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, xin
đức Thế tôn nói
tóm tắt cho các vị
Bồ tát biết sự
tổng trì kinh luật luận, một sự
tổng trì không cọng hữu với
ngoại đạo; do sự
tổng trì không cọng hữu này mà làm cho các vị
Bồ tát ngộ nhập được
mật ý sâu xa của các pháp
đức Thế tôn tuyên thuyết.
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, ông hãy nghe kyծ
Như lai nay sẽ nói
tóm tắt cho các ông về sự
tổng trì không cọng hữu, để làm cho các vị
Bồ tát khéo
ngộ nhập những
ngôn từ mật ý mà
Như lai tuyên thuyết.
Thiện nam tử, dầu pháp
tạp nhiễm, dầu
pháp thanh tịnh,
Như lai nói tất cả toàn không
tác dụng, toàn không
bản ngã, bởi vì hết thảy chủng loại đều là phi thi vi. Không phải pháp
tạp nhiễm trước bẩn sau sạch, không phải
pháp thanh tịnh sau sạch trước bẩn. Nơi cái thân nặng nề, những kẻ
phàm phu chấp pháp chấp ngã với bao
đặc tính và
chi tiết. Chính
vọng kiến tùy miên này làm duyên tố nên chấp ta và của ta. Chính
vọng kiến tùy miên này bảo ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta chạm, ta biết, ta ăn, ta làm, ta bẩn, ta sạch,
đại loại như vậy chuyển thành
tà hành. Nếu ai biết đúng như thế này thì
vĩnh viễn loại bỏ cái thân nặng nề,
đạt được sự không còn
phiền não, cùng cực
thanh tịnh,
siêu việt hý luận, không làm chỗ nương tựa, không có sự thi vi. Đó là
tóm tắt về
tổng trì không cọng hữu.
Lúc ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
Tất cả các pháp
nhiễm cũng như tịnh,
toàn
vô tác dụng
toàn phi
bản ngã:
phi thi vi này
mà
Như lai nói,
thì bẩn với sạch
không phải trước sau.
Vọng kiến tùy miênlàm duyên tố chính,
thấy thân nặng nề
là ta của ta,
và vọng nói rằng
ta thấy ta biết,
ta ăn ta làm
ta bẩn ta sạch.
Đúng như
sự thậtmà biết như vậy,
vĩnh viễn diệt được
cái thân nặng nề,
được phi
nhiễm tịnhvà siêu
hý luận,
không là chỗ dựa
không là thi vi.
Lược Giải.-
Tổng trì không cọng hữu được dạy như trên đây thì đúng là
Bát nhã và Không của
Bát nhã.
Mấy Điều
Quyết TrạchChính Văn.-
Lúc ấy đại bồ tát Mạn thù thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, chúng con nên nhân thức như thế nào về
trạng thái sinh khởi của tâm đức Thế tôn?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử,
Như lai thì không phải được
biểu thị bằng sự
sinh khởi của
tâm ý thức. Thế nhưng
Như lai có sự
sinh khởi của cái
tâm không cần da hành và sự
sinh khởi ấy nên biết tựa như sự
biến hóa.
Bạch đức Thế tôn,
pháp thân Thế tôn tách rời mọi sự da hành, da
hành không có thì làm sao có sự
sinh khởi của tâm?
Thiện nam tử, do
sức mạnh da hành mà trước đó đã
tu tập về
tuệ độ nên
tâm sinh khởi. Tựa như kẻ đang ngủ một cách không có
tâm thức gì trong giấc ngủ thì không có da hành gì để thức cả, nhưng do
sức mạnh da hành trước đó nên vẫn
thức dậy. Lại như vị đang
nhập định Diệt tận thì không có da hành gì để
xuất định,
xuất định là do da hành trước đó. Như ngủ và định Diệt tận mà
tâm sinh khởi trở lại,
Như lai cũng do
sức mạnh da hành mà trước đó đã
tu tập về
tuệ độ, nên
vẫn có sự
sinh khởi của tâm.
Bạch đức Thế tôn,
hóa thân của
đức Thế tôn có
tâm thức hay
không tâm thức?
Thiện nam tử, không phải có
tâm thức, cũng không phải
không tâm thức, vì không có cái tâm
do nơi mình nhưng có cái tâm bởi nơi người (190)
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, trú xứ với đối tượng, hai thứ ấy của
đức Thế tôn có gì khác nhau?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, trú xứ của
Như lai là hết thảy chủng loại về
cõi Phật tinh khiết mà chư
Như lai cùng có, và được
trang hoàng bởi
vô lượng công đức bất khả tư nghị. Đối tượng của
Như lai là tất cả chủng loại về
năm giới: giới
chúng sinh, giới
thế giới, giới các pháp, giới người được
thuần hóa và giới
phương pháp thuần hóa. Như thế đó gọi là hai thứ khác nhau.
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn,
đức Thế tôn thành đẳng chánh giác, chuyển
chánh pháp luân, nhập
đại niết bàn, ba sự như vậy con nên hiểu là sắc thái gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, nên biết ba sự như vậy toàn là sắc thái
bất nhị: phi
thành đẳng chánh giác,
phi không thành đẳng chánh giác; phi chuyển
chánh pháp luận,
phi không chuyển
chánh pháp luân; phi nhập
đại niết bàn,
phi không nhập
đại niết bàn. Tại sao, bởi vì
pháp thân Như lai thì
cứu cánh thanh tịnh mà
hóa thân Như lai thì
thường xuyên thị hiện.
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn,
các loại chúng sinh chỉ thấy nghe và
phụng sự hóa thân Thế tôn mà sinh
công đức, vậy
đức Thế tôn là duyên tố gì của họ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử,
Như lai là
nhân duyên cho
tăng thượng duyên của họ, bởi vì
hóa thân Như lai là do cái lực của
pháp thân Như lai gìn giữ.
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật :
Bạch đức Thế tôn, cùng là không có da hành mà tại sao
pháp thân Thế tôn vì
chúng sinh mà phóng ánh sáng lớn của trí giác vĩ đại, lại xuất ra
vô lượng ảnh tượng hóa thân, còn
giải thoát thân của
Thanh văn và
Độc giác lại không có những sự ấy?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, tựa như cùng là không có da hành, nhưng tinh thể của
nhật nguyệt thì phóng ánh sáng lớn chứ không phải những tinh thể khác, ấy là vì
chúng sinh đại oai đức giữ gìn, vì
nghiệp lực tăng thượng của
chúng sinh; thêm nữa, như
từ viên ngọc
ma ni được chạm khắc bởi tay thợ lành nghề mới
xuất hiện đường nét, chứ không phải từ những viên ngọc không được chạm khắc.
Tương tự như vậy, do cái
tuệ độ vin hết
vô lượng pháp giới cùng cực khéo léo
tu tập mài dủa mới thành
pháp thân Như lai,
từ pháp thân này mới phóng được ánh
sáng trí giác vĩ đại và xuất ra
vô lượng ảnh tượng hóa thân, chứ không phải chỉ từ
giải thoát thân mà có những sự ấy.
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói, do
oai đức giữ gìn của
đức Thế tôn và của chư
Bồ tát mà làm cho
chúng sinh ở trong cõi Dục thì sinh vào nhà
đại phú quí của đẳng cấp
Sát đế lợi hay đẳng cấp
Bà la môn, cái thân
con người cùng với
tài sản bảo vật không thứ nào không toàn hảo; sinh trong
chư thiên cõi Dục, sinh trong cõi Sắc và cõi Không, thì cũng toàn hảo
thân thể và tài bảo ở những cõi ấy.
Bạch đức Thế tôn, lời này có
mật ý gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử,
Như lai với
Bồ tát đem
oai đức mà
giữ gìn chánh pháp (191) ; bất cứ chỗ nào có thể làm cho
chúng sinh được
thân thể và tài bảo toàn hảo, thì
Như lai tùy nghi mà nói
chánh pháp ấy cho họ. Rồi ai có
năng lực chính xác tu hành chánh pháp ấy, thì sinh ra chỗ nào,
thân thể và tài bảo nhận được cũng đều toàn hảo; ai chống đối khinh
phá chánh pháp ấy, lại quấy phá tức giận
Như lai, thì
mạng chung rồi sinh ra ở đâu,
thân thể và tài bảo nhận được cũng toàn
thấp kém. Do vậy,
oai đức giừ gìn của
Như lai và
Bồ tát không những làm cho
chúng sinh thân thể và tài bảo đều toàn hảo, mà
oai đức giữ gìn của
Như lai và
Bồ tát cũng làm cho
chúng sinh thân thể và tài bảo đều
thấp kém.
Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, trong những
thế giới dơ bẩn thì việc gì dễ có và việc gì khó có? trong những
thế giới tinh khiết thì việc gì dễ có và việc gì khó có?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử, trong những
thế giới dơ bẩn thì có tám sự dễ có và hai sự khó có. Tám sự dễ có là dễ có
ngoại đạo, dễ có kẻ khổ, dễ có đẳng cấp
gia tộc lắm sự
thịnh suy, dễ có sự làm ác, dễ có sự
phạm giới, dễ có các đường dữ, dễ có
giáo lý thấp, dễ có
Bồ tát ý lạc và da hành đều
thấp kém; hai sự khó có là khó có sự đến đó của các vị
Bồ tát mà
ý lạc và da hành đều
tăng thượng, khó có sự
xuất hiện của
Như lai. Trong những
thế giới tinh khiết thì trái ngược với trên đây, có tám sự rất khó có và có 2 sự dễ có.
Lược Giải.-
Đoạn D3 này có 7 đoạn nhỏ tất cả,
quyết trạch khá nhiều
vấn đề về Phật.
Kết Thúc Pháp ThoạiChính Văn.-
Lúc ấy đại bồ tát Mạn thù thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, trong
toàn bộ pháp thoại Giải
thâm mật,
pháp thoại này nên mệnh danh là gì? Chúng con phải kính cẩn ghi nhớ như thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Mạn thù:
Thiện nam tử,
pháp thoại này tên là
Nghĩa lý hoàn hảo về
Phật sự. Ông hãy kính cẩn ghi nhớ theo cái tên như vậy.
Khi
đức Thế tôn nói
pháp thoại Nghĩa lý hoàn hảo về
Phật sự thì trong
đại hội có bảy mươi lăm ngàn
đại bồ tát đều được
chứng ngộ pháp thân viên mãn.
Lời Nói CuốiSau khi dịch giải xong, tôi tìm được 1 bản
chú giải Giải
thâm mật mà có phần chắc là bản mà tôi đã được học. Bản ấy nằm trong Vạn 76/304 - 324, xin ghi để ai muốn thì tìm
tham khảo.
23.10.2532.
Trí Quang