KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống
Phẩm ba: Tâm Thức (50)
Lúc bấy giờ
đại bồ tát Quảng tuệ thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, như Ngài nói
Bồ tát khéo biết
mật nghĩa (51)
tâm ý thức, vậy
Bồ tát khéo biết
mật nghĩa tâm ý thức là ngang đâu mới được gọi là
Bồ tát khéo biết
mật nghĩa tâm ý thức? và ngang đâu mới được Ngài qui định vị
Bồ tát ấy là
Bồ tát khéo biết
mật nghĩa tâm ý thức (52) ?
Đại bồ tát Quảng tuệ bạch hỏi như vậy rồi,
đức Thế tôn dạy ngài: Tốt lắm,
Quảng tuệ, ông có thể hỏi
Như lai cái thâm nghĩa như vậy. Vậy là ông muốn
lợi ích yên vui cho
vô lượng chúng sinh. Ông thương tưởng cả
thế giới loài người, và tám
bộ loại khác, muốn làm cho họ được lợi thật, được yên vui, nên phát ra câu hỏi vừa rồi. Ông hãy nghe kyծ
Như lai sẽ nói cho ông về
mật nghĩa tâm ý thức.
Lược Giải.-
Phẩm này
tiêu đề nói về
tâm ý thức, nhưng
thực ra nói nhiều hơn về
bản thức, cho thấy Nó là cái Tâm
siêu việt (đã nói và còn nói đến hết kinh), là cái
căn bản của các pháp (sẽ nói trong các phẩm 4 và 5).
Chính Văn.-
(Trước hết),
Quảng tuệ, ông nên
nhận thức rằng sự
sinh tử trong
sáu đường,
chúng sinh chết ở
thế giới nào rồi sinh vào
thế giới nào (53) , thì
thân thể hoặc sinh trong loài sinh bằng trứng, hoặc sinh trong loài sinh bằng thai, hoặc sinh trong loài sinh bằng
ẩm thấp, hoặc sinh trong loài sinh bằng
biến hóa. Sự sinh ấy đầu tiên do
chủng tử thức vốn đã
thành thục nay
triển chuyển hóa hợp,
tuần tự lớn lên (53B) , với hai sự
chấp thọ của thức ấy: một là
chấp thọ các
sắc căn và
sở y của các
sắc căn, hai là
chấp thọ chủng tử của tướng, danh và
phân biệt, loại
chủng tử do
ngôn từ hý luận mà có (54) . Sinh trong
thế giới có
hình sắc thì có đủ hai sự
chấp thọ vừa nói, còn sinh trong
thế giới không
hình sắc thì không đủ hai sự
chấp thọ ấy (55) .
Thứ nữa,
Quảng tuệ, thức ấy cũng tên là
a đà na, vì nó theo mà nắm giữ
thân thể; cũng tên là
a lại da, vì nó
chấp thọ mà cùng yên cùng nguy với
thân thể; cũng tên là tâm, vì nó do
sắc thanh hương vị xúc pháp
tích tụ tăng trưởng (56) .
Sau nữa,
Quảng tuệ, chính
a đà na thức làm nền tảng và
xây dựng mà phát sinh sáu thức nhãn nhĩ tyՠthiệt thân ý: do
nhãn căn và
sắc cảnh làm duyên tố mà phát sinh
nhãn thức,
đồng thời đồng cảnh có
ý thức cùng phát sinh với
nhãn thức ấy; do các căn nhĩ tyՠthiệt thân và các cảnh thanh hương vị xúc làm duyên tố mà phát sinh các thức nhĩ tyՠthiệt thân,
đồng thời đồng cảnh có
ý thức cùng phát sinh với các thức nhĩ tyՠthiệt thân ấy. Như vậy nếu một lúc nào đó chỉ có một thức phát sinh thì lúc đó chỉ có một
ý thức cùng phát sinh với một thức ấy, nếu một lúc nào đó có hai đến năm thức phát sinh thì lúc đó cũng chỉ có một
ý thức cùng phát sinh với hai đến năm thức ấy.
Ví như dòng nước chảy vừa mạnh vừa lớn, nếu có duyên tố nổi một cơn sóng thì một cơn sóng nổi lên, nếu có duyên tố nổi hai đến nhiều cơn sóng thì hai đến nhiều cơn sóng nổi lên, nhưng
bản thân dòng nước vẫn chảy mãi, không đứt không hết. Lại như mặt
gương tốt và sáng, nếu có duyên tố hiện một
hình ảnh thì chỉ một
hình ảnh hiện ra, nếu có hai đến nhiều duyên tố hiện hai đến nhiều
hình ảnh thì hai đến nhiều
hình ảnh hiện ra, nhưng không phải mặt gương
biến thành hình ảnh, cũng không có sự hết
hiện hình ảnh.
Tương tự như vậy, do dòng nước
a đà na thức làm nền tảng và
xây dựng, nên một lúc nào đó có duyên tố phát sinh của một thức thì lúc đó một thức phát sinh, nếu một lúc nào đó có duyên tố phát sinh của hai đến năm thức thì lúc đó có hai đến năm thức phát sinh (57) .
Lược Giải.-
Đoạn này có 3 đoạn nhỏ, nói
bản thức là
căn bản của
thân thể (và
thế giới của
thân thể) của sự sống (và
đời sống) của các thức (và đối tượng của các thức). Một cách nhìn khác, năng tính (
chủng tử) và biểu hiện (
hiện hành) của các
pháp toàn là
bản thức. Cái gọi là
thế giới chỉ là sự biểu hiện
tương tự (cọng biến) của các
nghiệp thức tương tự (
cọng nghiệp).
Chính Văn.-
Quảng tuệ, như trên là
Bồ tát do cái trí pháp trú (58) làm nền tảng và
xây dựng mà khéo biết
mật nghĩa tâm ý thức. Thế nhưng
Như lai không ngang đây qui định vị
Bồ tát ấy là
Bồ tát khéo biết tất cả
mật nghĩa của
tâm ý thức.
Quảng tuệ nếu
Bồ tát từ bên trong và rành rẽ, đúng như
sự thật mà không thấy (59)
a đà na và
a đà na thức, không thấy
a lại da và
a lại da thức, không thấy tích tập và tích tập tâm, không thấy
nhãn căn sắc cảnh và
nhãn thức,
cho đến không thấy
ý căn pháp cảnh và
ý thức, như thế mới gọi là vị
Bồ tát khéo biết
thắng nghĩa, và ngang đây
Như lai qui định vị
Bồ tát ấy là
Bồ tát khéo biết
thắng nghĩa; cũng ngang đây gọi là vị
Bồ tát khéo biết tất cả
mật nghĩa của
tâm ý thức, và cũng ngang đây
Như lai qui định vị
Bồ tát ấy là
Bồ tát khéo biết tất cả
mật nghĩa của
tâm ý thức.
Lược Giải.-
Đoạn này đáp 2 câu hỏi mà, nói chung, biết
tâm thức chưa phải khéo biết, biết
tâm thức tự siêu việt (biết
chân như thắng nghĩa của
tâm thức) mới khéo biết. Để dẫn ra cái biết này,
mạt na đã được ẩn lược.
Chính Văn.-
Muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên lúc bấy giờ
đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
Thức
a đà nacùng
cực vi tế,
tất cả
chủng tửnhư dòng nước mạnh (59B) .
Như lai không nói
cho kẻ
phàm ngu,
sợ họ
phân biệtchấp làm
bản ngã.
Lược Giải.-
Chỉnh cú này cho thấy càng rõ cái
lý do ẩn lược
mạt na, cái
ý thức về ngã. Do vậy, nói
a lại da là cốt phủ nhận Phạn thể (
bản ngã) và
thần ngã (tự ngã), nhưng không biết đúng như
sự thật thì có thể
a lại da cũng sẽ bị coi như
bản ngã và tự ngã.
Nói
Tính Cách Có Của Các Pháp
Chính Văn.-