KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống
Phẩm bảy: Địa Độ (132)
Vào lúc bấy giờ,
đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói
mười Bồ tát địa: thứ nhất là
Cực hỷ địa, thứ hai là
Ly cấu địa, thứ ba là
Phát quang địa, thứ tư là
Diệm tuệ địa, thứ năm là
Nan thắng địa, thứ sáu là
Hiện tiền địa, thứ bảy là
Viễn hành địa, thứ tám là
Bất động địa, thứ chín là
Thiện tuệ địa, thứ mười là
Pháp vân địa, lại nói
Như lai địa làm thứ mười một; các địa như vậy được
bao gồm vào mấy sự
thanh tịnh và mấy phần (
viên mãn)?
Lúc ấy đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, nên biết các địa như vậy
bao gồm vào bốn sự
thanh tịnh và mười một phần
viên mãn. Bốn sự
thanh tịnh bao gồm được các địa là một, sự
thanh tịnh do
ý lạc tăng thượng thì
bao gồm địa thứ nhất, hai, sự
thanh tịnh do giới
tăng thượng thì
bao gồm địa thứ hai, ba, sự
thanh tịnh do tâm
tăng thượng thì
bao gồm địa thứ ba, bốn, sự
thanh tịnh do tuệ
tăng thượng thì trong các địa sau đó càng
siêu việt và
tinh tế hơn lên nên
bao gồm từ địa thứ tư
cho đến Như lai địa. Đó là bốn sự
thanh tịnh bao gồm tất cả các địa.
Thiện nam tử, mười một phần
viên mãn bao gồm được các địa là (một), các vị
Bồ tát trước tiên ở
Giải hành địa (133) dùng mười
pháp hạnh (134) mà rất khéo
tu tập về
thắng giải và thắng nhẫn, nên
vượt qua địa ấy mà nhập vào chánh tánh
ly sanh của
Bồ tát. (Hai), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ nhất đã
viên mãn; nhưng chưa thể
chánh trí tu hành (135) trong
hiện hành của sự
lầm lỡ vi phạm rất nhỏ,
vì vậy mà phần địa thứ hai chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Ba), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ hai đã
viên mãn; nhưng chưa
thể đạt được
đẳng trì đẳng
chí viên mãn và
văn trì đà la ni viên mãn thuộc loại
thế gian,
vì vậy mà phần địa thứ ba chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Bốn), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ ba đã
viên mãn; nhưng chưa thể làm cho pháp
bồ đề phần nào đã được thì
tu tập nhiều lên,
tâm trí chưa bỏ được định ái và
pháp ái,
vì vậy mà phần địa thứ tư chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Năm), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ tư đã
viên mãn; nhưng chưa thể
chính xác quán sát các đế lý, chưa bỏ được cái
tác ý một chiều bỏ
sinh tử hướng
niết bàn, chưa tu được các pháp
bồ đề phần bao gồm trong phần
phương tiện,
vì vậy mà phần địa thứ năm chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Sáu), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ năm đã
viên mãn; nhưng chưa thể
chính xác quán sát sự
sinh tử lưu chuyển, lại vì quá chán sự
sinh tử lưu chuyển ấy, nghĩa là chưa thể ở nhiều trong sự
tác ý về
vô tướng,
vì vậy mà phần địa thứ sáu chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Bảy), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ sáu đã
viên mãn; nhưng chưa thể làm cho sự
tác ý về
vô tướng được không
thiếu sót không
gián đoạn và
tu tập nhiều,
vì vậy mà phần địa thứ bảy chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Tám), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ bảy đã
viên mãn; nhưng chưa thể hết được sự
dụng công về
vô tướng, lại chưa được
tự tại với
hữu tướng,
vì vậy mà phần địa thứ tám chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Chín), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ tám đã
viên mãn; nhưng đối với những danh và những tướng
diễn đạt khác nhau về hết thảy chủng loại để
tuyên thuyết chánh pháp thì chưa được
đại tự tại,
vì vậy mà phần địa thứ chín chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Mười), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ chín đã
viên mãn; nhưng chưa
thể hiện tiền chứng
thọ pháp thân
viên mãn,
vì vậy mà phần địa thứ mười chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được. (Mười một), các vị
Bồ tát này do
lý do này mà phần địa thứ mười đã
viên mãn; nhưng đối với
toàn thể cảnh giới sở tri, vẫn chưa được cái trí thấy biết
tinh tế không còn
vướng mắc không còn
chướng ngại,
vì vậy mà phần địa thứ mười một chưa
viên mãn; để phần này được
viên mãn nên
tinh cần tu tập thì chứng được -- Chứng được phần này
viên mãn là
viên mãn tất cả các phần. Đó là mười một phần
viên mãn bao gồm hết cả các địa.
Lược Giải.-
Đoạn Đ1 này có 6 đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất, nói 10 địa
bao gồm trong 4 sự
thanh tịnh và 11 phần
viên mãn.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì sao địa đầu tiên tên là
Cực hỷ địa,
cho đến vì sao địa
cuối cùng tên là
Như lai địa?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan thế âm:
Thiện nam tử,
thành tựu lợi ích chân thật và vĩ đại, được
tâm trí xuất thế mà trước đây chưa được, sinh
hoan hỷ lớn lao, nên địa đầu tiên tên là
Cực hỷ địa. Rời xa hết thảy mọi sự
phạm giới rất nhỏ, nên địa thứ hai tên là
Ly cấu địa.
Chánh định và
văn trì đà la ni mà ở đây
đạt được thì có thể làm chỗ dựa cho
vô lượng ánh
sáng trí giác, nên địa thứ ba tên là
Phát quang địa. Do pháp
bồ đề phần ở đây
thành đạt mà thiêu đốt
phiền não, trí giác ở đây như ngọn lửa, nên địa thứ tư tên là
Diệm tuệ địa.
Chính pháp bồ đề phần nói trên, ở đây
phương tiện tu tập cùng cực khó khăn mới được
tự tại, nên địa thứ năm tên là Nam thăắng địa.
Quán sát các hành
lưu chuyển như ở
trước mắt, nhưng đối với
vô tướng thì tu nhiều về
tác ý mới hiện ở
trước mắt, nên địa thứ sáu tên là
Hiện tiền địa. Đứng xa mà đã được cái
tác ý không còn
thiếu sót và
gián đoạn về
vô tướng, tiếp cận với
vị trí thanh tịnh, nên địa thứ bảy tên là
Viễn hành địa. Đã được
vô công dụng đối với
vô tướng, trong các tướng thì không còn bị
phiền não hiện hành làm
xao động, nên địa thứ tám tên là
Bất động địa. Đối với sự
thuyết pháp bằng tất cả chủng loại thì đã được
tự tại, đã được
trí tuệ rộng lớn và không
tội lỗi, nên địa thứ chín tên là
Thiện tuệ địa. Cái thân nặng nề thì như
hư không, còn sự
viên mãn của
pháp thân thì như mây lớn giăng che khắp cả, nên địa thứ mười tên là
Pháp vân địa.
Diệt trừ vĩnh viễn phiền não chướng và
sở tri chướng cùng
cực vi tế, không còn
vướng mắc không còn
chướng ngại, đối với
cảnh giới sở tri, tức
toàn thể chủng loại, đã
thể hiện chánh biến giác, nên địa thứ mười một tên là
Như lai địa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai,
giải thích danh nghĩa của các địa.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, trong các địa như thế này có mấy thứ ngu tối? có mấy sự nặng nề (136) ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, trong các địa như thế này có hai mươi hai thứ ngu tối và mười một sự nặng nề, toàn là những cái bị
đối trị. Một, trong địa đầu tiên có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì
ngã chấp và
pháp chấp, hai là ngu tối vì những sự
tạp nhiễm trong
ác đạo, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Hai, trong địa thứ hai có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì sự
lầm lỡ vi phạm rất nhỏ, hai là ngu tối vì các nghiệp, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Ba, trong địa thứ ba có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì
tham lam của dục, hai là ngu tối đôắi với
văn trì đà la ni viên mãn, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Bốn, trong địa thứ tư có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì định ái, hai là ngu tối vì
pháp ái, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Năm, trong địa thứ năm có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì
tác ý một chiều bỏ
sinh tử, hai là ngu tối vì
tác ý một chiều hướng
niết bàn, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Sáu, trong địa thứ sáu có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì
hiện tiền quán sát các hành
lưu chuyển, hai là ngu tối vì
hiện hành nhiều về
hữu tướng, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Bảy, trong địa thứ bảy có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì
hiện hành của tế tướng, hai là ngu tối đối với
tác ý mong thuần
vô tướng, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Tám, trong địa thứ tám có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì
dụng công về
vô tướng, hai là ngu tối đôắi với sự
tự tại về
hữu tướng, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Chín, trong địa thứ chín có hai thứ ngu tối, một là ngu tối đối với sự
tự tại về tuệ biện
đà la ni của các địa sau nữa, trong sự
thuyết pháp vô lượng và trong
vô lượng pháp nghĩa
văn tự, hai là ngu tối đối với sự
tự tại về
biện tài, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Mười, trong địa thứ mười có hai thứ ngu tối, một là ngu tối đối với đại
thần thông, hai là ngu tối đối với sự
ngộ nhập về
bí mật vi tế, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Mười một, trong địa thứ mười một có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì sự
vướng mắc cùng
cực vi tế về
toàn thể cảnh giới sở tri, hai là ngu tối vì
sự chướng ngại cùng
cực vi tế (về
toàn thể cảnh giới sở tri), cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. Do hai mươi hai thứ ngu tối cùng với mười một sự nặng nề như vậy nên lập ra các địa, và được
vô thượng bồ đề thì
thoát ly hết cả mọi sự
ràng buộc ấy.
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn,
vô thượng bồ đề rất kỳ lạ, rất hiếm có,
cho đến đạt được lợi ích lớn lao và
thành quả lớn lao, là làm cho các vị
Bồ tát phá được cái lưới ngu tối lớn lao đến thế, và vượt được cái rừng nặng nề lớn lao đến thế, mà
hiện tiền chứng được
vô thượng bồ đề ấy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ ba,
phân biệt các địa bằng 22 thứ ngu tối, 11 sự nặng nề.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, các địa như thế này được lập ra bởi mấy thứ đặc thù?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, khái lược có tám thứ: một là sự
thanh tịnh của
ý lạc tăng thượng, hai là sự
thanh tịnh của tâm
tăng thượng, ba là sự
thanh tịnh của bi
tăng thượng, bốn là sự
thanh tịnh của
độ tăng thượng, năm là sự
thanh tịnh của sự
phụng sự chư
Phật tăng thượng, sáu là sự
thanh tịnh của sự
thành thục chúng sinh tăng thượng, bảy là sự
thanh tịnh của sự thọ sinh
tăng thượng, tám là sự
thanh tịnh của
uy đức tăng thượng. Sự
thanh tịnh của
ý lạc tăng thượng cho đến sự
thanh tịnh của
uy đức tăng thượng trong địa đầu tiên, cùng với sự
thanh tịnh của
ý lạc tăng thượng cho đến sự
thanh tịnh của
uy đức tăng thượng trong các địa sau đó
cho đến trong
Như lai địa, nên biết những sự
thanh tịnh này
triển chuyển hơn lên, chỉ trong
Như lai địa thì trừ sự
thanh tịnh của sự thọ sinh
tăng thượng (137) . Thêm nữa,
công đức mà địa đầu tiên có thì các địa trên nữa cũng có một cách
bình đẳng, nhưng nên biết cái
công đức đặc thù của
bản địa thì vẫn là đặc thù (138) ;
công đức của
mười Bồ tát địa toàn là còn có cái trên nữa, còn
công đức của
Như lai địa thì nên biết không có gì trên nữa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ tư,
phân biệt các địa bằng 8 sự đặc thù.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà nói sự thọ sinh của
Bồ tát đặc thù nhất đối với mọi sự thọ sinh khác?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, vì bốn
lý do: một là do
thiện căn cực kỳ
trong sạch mà có sự thọ sinh ấy, hai là do
sức mạnh của
sự cố ý chọn lựa mà lấy sự thọ sinh ấy, ba là vì
thương xót cứu vớt
chúng sinh mà phải thọ sinh, bốn là
bản thân không
ô nhiễm vì sự thọ sinh mà còn trừ được cho người sự
ô nhiễm ấy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ năm, nói các địa bằng sự thọ sinh đặc thù.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, do
lý do nào mà nói các vị
Bồ tát làm theo cái nguyện rộng lớn, nhiệm mầu và siêu việt?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, do bốn
lý do, (một),
Bồ tát biết rõ và biết khéo cái vui của
niết bàn và mình
đủ sức chứng lấy một cách mau chóng, (hai) nhưng vẫn bỏ sự mau chóng chứng lấy cái vui ấy, (ba) mà không cần mời mọc, không đợi
biết ơn, vẫn phát ra
tâm nguyện vĩ đại, (bốn) nguyện
vì lợi ích chúng sinh mà ở trong cái khổ lớn lao vừa đa dạng vừa
lâu dài.
Vì vậy Như lai nói
Bồ tát làm theo cái nguyện rộng lớn, nhiệm mầu và
siêu việt.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ sáu, nói các địa bằng
đại nguyện (đủ 3
đặc tính và do 4
lý do).
Nói Về Các Độ
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, các vị
Bồ tát (trong mười địa) như vậy có mấy sự phải tu học?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, sự phải
tu học của
Bồ tát có sáu:
thí độ,
giới độ,
nhẫn độ, tiến độ, định độ,
tuệ độ.
Lược Giải.-
Đoạn Đ2 này có 18 đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất, nói về số lượng 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, sáu sự phải
tu học như vậy, mấy sự thuộc về
giới học tăng thượng? mấy sự thuộc về
tâm học tăng thượng? mấy sự thuộc về
tuệ học tăng thượng?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, nên biết (
thí độ giới độ nhẫn độ) ba sự đầu ấy chỉ thuộc về
giới học tăng thượng, định độ một sự chỉ thuộc về
tâm học tăng thượng,
tuệ độ một sự chỉ thuộc về
tuệ học tăng thượng, và
Như lai nói rằng tiến độ thì khắp trong tất cả.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai, nói 6 độ thuộc 3 học.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, sáu sự phải
tu học như vậy mấy sự thuộc về
phước đức tư lương? mấy sự thuộc về
trí tuệ tư lương?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, sự nào thuộc về
giới học tăng thượng thì thuộc về
phước đức tư lương, sự nào thuộc về
tuệ học tăng thượng thì thuộc về
trí tuệ tư lương, còn hai sự tiến độ và định độ thì
Như lai nói khắp trong tất cả.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ ba, nói 6 độ thuộc 2
tư lương.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, đối với sáu sự phải
tu học như vậy,
Bồ tát phải
tu học như thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, phải
tu học bằng năm cách thức sau đây: một là đầu tiên, tin hiểu sắc mạnh đối với
giáo pháp tinh tế tương ứng với sáu độ, thuộc về
Bồ tát tạng; hai là kế đó, đối với mười
pháp hạnh thì đem cái trí được
tác thành bởi sự nghe sự nghĩ sự tu mà
tinh tiến tu hành; ba là theo mà giữ
tâm nguyện bồ đề; bốn là thân gần các vị
thiện tri thức đích thực; năm là siêng tu
các loại thiện pháp một cách không có
gián đoạn.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ tư, nói 6 độ tu bằng 5 cách.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà qui định sự phải
tu học như vậy chỉ có sáu số?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại :
Thiện nam tử, vì hai
lý do: một là
lý do lợi ích chúng sinh, hai là
lý do đối trị phiền não. Ba độ trước là để
lợi ích chúng sinh, ba độ sau là để
đối trị phiền não, nên
nhận định như vậy. Ba độ trước
lợi ích chúng sinh là
Bồ tát do
bố thí nên thu thập đồ dùng để
lợi ích chúng sinh, do
trì giới nên không
tổn hại bức bách và
quấy rối để
lợi ích chúng sinh, do
nhẫn nhục nên
chịu đựng sự
tổn hại bức bách và
quấy rối của
chúng sinh để
lợi ích chúng sinh. Ba độ sau
đối trị phiền não là
Bồ tát do
tinh tiến nên dẫu chưa trừ hẳn
phiền não, cũng chưa diệt hẳn
tùy miên (139) , mà vẫn
dũng mãnh tu hành các loại thiện pháp,
phiền não không thể khuynh động sự
tu hành ấy; rồi do
thiền định mà trừ hẳn
phiền não; do
tuệ giác mà diệt hẳn
tùy miên.
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà qui định các độ khác chỉ có bốn số?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại :
Thiện nam tử, vì
lý do làm sự hỗ trợ cho sáu độ. (Một),
Bồ tát lợi ích chúng sinh bằng ba độ trước là dùng các nhiếp pháp (140) làm
phương tiện mà
thu nhận họ, đặt họ vào
thiện pháp, nên
Như lai nói
phương tiện độ làm sự hỗ trợ của ba độ trước. (Hai),
Bồ tát nếu vì
hiện tại nhiều
phiền não nên không thể
tu hành một cách
liên tục; vì
ý lạc hèn kém và vì
thắng giải (
xao động) của cõi Dục nên không thể
nội tâm an trú; vì không thể lắng nghe, vin theo và khéo tu
giáo pháp Bồ tát tạng nên sự
tịnh lự không thể dẫn ra cái tuệ
xuất thế; (vì ba
lý do như vậy), vị
Bồ tát ấy thu thập
phước đức tư lương đang ít và kém mà phát
thệ nguyện chính yếu, để
đời sau phiền não được nhẹ và nhỏ đi, như thế đó là
nguyện độ; do nguyện này mà
phiền não nhỏ và mỏng, có thể
thực hành tinh tiến, nên
Như lai nói
nguyện độ làm sự hỗ trợ của tiến độ. (Ba),
Bồ tát nếu thân gần các bậc thiện sĩ để lắng nghe
chánh pháp và
tác ý đúng lý, do nhân tố này mà xoay
ý lạc hèn kém
thành ý lạc
siêu việt, lại được
thắng giải (bình lặng) của cõi trên, như thế đó là lực độ; do lực này mà có thể
nội tâm an trú, nên
Như lai nói lực độ làm sự hỗ trợ của định độ. (Bốn),
Bồ tát nếu đã lắng nghe, vin theo và khéo tu
giáo pháp Bồ tát tạng thì có thể phát ra
tịnh lự, như thế đó là
trí độ; do trí này mà có thể dẫn ra cái tuệ
xuất thế, nên
Như lai nói
trí độ làm sự hỗ trợ của
tuệ độ.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ năm, nói
lý do của số lượng 6 độ (và của 4 độ hỗ trợ, thành cái gọi là 10 độ).
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà nói sáu độ theo thứ
tự như vậy?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, vì
lý do dẫn ra các độ về sau:
Bồ tát nếu không luyến tiếc
thân mạng và
tài sản thì có thể
lãnh thọ và
chấp trì tịnh giới, để
chấp trì tịnh giới nên
thực hành nhẫn nhục,
thực hành nhẫn nhục thì phát ra
tinh tiến, phát ra
tinh tiến thì có thể
thành đạt tịnh lự,
thành đạt tịnh lự thì
đạt được cái tuệ
xuất thế. Vì thế mà
Như lai nói sáu độ theo thứ
tự như vậy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ sáu, nói thứ tự của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, sáu độ như vậy mỗi độ có mấy loại khác nhau?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, mỗi độ có ba loại. Ba loại
thí độ là
bố thí chánh pháp, bố trí
tài sản,
bố thí vô úy. Ba loại
giới độ là
tịnh giới diệt ác,
tịnh giới sinh thiện,
tịnh giới lợi người (141) . Ba loại
nhẫn độ là nhẫn chịu oán hại, nhẫn chịu khổ cực, nhẫn chịu
chân lý. Ba loại tiến độ là
tinh tiến áo giáp (142) ,
tinh tiến sinh thiện,
tinh tiến lợi người. Ba loại định độ là
tịnh lự dẫn ra
pháp lạc (143) ,
tịnh lự dẫn ra
công đức,
tịnh lự dẫn ra lợi người. Ba loại
tuệ độ là
tuệ giác vin
thế tục đế,
tuệ giác vin
thắng nghĩa đế,
tuệ giác vin
lợi ích người (144) .
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ bảy, nói
các loại của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà sáu độ gọi là độ (145) ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, vì năm
lý do: một là vì không nhuốm bẩn, hai là vì không
lưu luyến, ba là vì không
tội lỗi, bốn là vì không
phân biệt, năm là vì chánh
hồi hướng (145B) . Không nhuốm bẩn là không nhuốm bẩn vì những cái trái ngược với các độ. Không
lưu luyến là
tâm không buộc vào các
thành quả và
dị thục quả (146) của các độ, và vào sự
trả ơn về các độ. Không
tội lỗi là đối với các độ, không có sự
tạp nhiễm xen vào và tách rời sự phi
phương tiện. Không
phân biệt là đối với các độ không theo
ngôn từ mà chấp
đặc tính. Chánh
hồi hướng là đem các độ đã làm đã qui tụ xoay lại mà cầu
thành quả vô thượng bồ đề.
Bạch đức Thế tôn, những gì gọi là cái trái ngược với các độ?
Thiện nam tử, những cái ấy
đại khái có sáu: một là
ưa thích dục lạc (146B) và
giàu có tự do mà
cảm thấy sâu xa là
hay ho và hữu ích (147) , hai là tung thân miệng ý vào cái mình
ưa thích mà
cảm thấy sâu xa là
hay ho và hữu ích, ba là
không nhẫn nhịn nổi khi kẻ khác khinh miệt mà
cảm thấy sâu xa là
hay ho và hữu ích, bốn là không siêng
tu tập và đắm say
dục lạc mà
cảm thấy sâu xa là
hay ho và hữu ích, năm là ở chỗ ồn náo và làm việc tạp loạn mà
cảm thấy sâu xa là
hay ho và hữu ích, sáu là thấy nghe hay biết rồi
ngôn từ hý luận mà
cảm thấy sâu xa là
hay ho và hữu ích.
Bạch đức Thế tôn, những gì là
quả báo của các độ ?
Thiện nam tử,
quả báo ấy
đại khái cũng có sáu : một là được
giàu có lớn, hai là sinh chỗ
tốt lành, ba là không có
thù oán, không bị
phá hoại, lắm nỗi
vui vẻ, bốn là
đứng đầu mọi người, năm là thân không
tổn hại, sáu là thuộc
dòng họ lớn.
Bạch đức Thế tôn, những gì là sự
tạp nhiễm xen vào của các độ?
Thiện nam tử, là
đại khái có bốn cách làm: một là làm mà không
tình thương, hai là làm mà không
hợp lý, ba là làm mà không
thường xuyên, bốn là làm mà không thiết tha. -- Làm mà không
hợp lý là khi làm
một độ mà tách rời và đánh mất các độ khác (148) .
Bạch đức Thế tôn, thế nào là phi
phương tiện của các độ?
Thiện nam tử,
Bồ tát muốn đem các độ
lợi ích chúng sinh, nhưng
chỉ lợi ích
chúng sinh bằng
tiền của mà cho là đủ rồi, không đưa họ thoát chỗ ác, không đặt họ vào chỗ lành, thì như thế đó là cách làm phi
phương tiện. -- Bởi vì,
Thiện nam tử, không phải chỉ làm như
thế cho chúng sinh mà gọi là
lợi ích thật; tựa như phấn uế thì nhiều ít gì cũng không bao giờ làm cho thơm lên được,
chúng sinh cũng vậy, vì là
hành khổ (149) nên
bản chất chúng sinh là khổ, không cách gì
chỉ lợi ích tạm thời bằng
tiền của mà có thể làm cho họ chuyển thành ra vui, chỉ có cách đem họ đặt vào trong
thiện pháp tuyệt hảo mới được gọi là
lợi ích bậc nhất.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ tám, nói về cái tên độ của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, các độ như thế này có mấy sự thanh tịnh?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử,
Như lai không bao giờ nói ngoài năm sự nói trên mà các độ có sự
thanh tịnh nào khác. Nhưng nay
Như lai căn cứ chính năm sự ấy mà nói tổng quát và nói riêng biệt về sự
thanh tịnh của các độ. Nói tổng quát về sự
thanh tịnh của các độ thì ông nên biết có bảy sự: một là không cầu ai biết các độ ấy, hai là tự thấy có các độ ấy mà
không sinh ra
chấp trước, ba là không
hoài nghi chính các độ ấy rằng
đạt được vô thượng bồ đề hay không, bốn là không bao giờ khen mình chê người mà khinh miệt ai, năm là không
kiêu ngạo buông thả, sáu là không bao giờ được chút ít mà đã mừng rằng đủ rồi, bảy là không bao giờ vì các độ này mà
ganh ghét keo kiết với ai (khi thấy họ cũng có các độ ấy). Nói riêng biệt về sự
thanh tịnh của các độ thì (mỗi độ) cũng có bảy sự. (Thứ nhất), các vị
Bồ tát tùy thuận làm đúng như bảy sự
thanh tịnh của
thí độ mà
Như lai nói, ấy là do của
thanh tịnh, do
giới thanh tịnh, do thấy
thanh tịnh, do
tâm thanh tịnh, do nói
thanh tịnh, do trí
thanh tịnh và do bẩn
thanh tịnh (150) mà làm sự
bố thí thanh tịnh. Như thế đó gọi là bảy sự
thanh tịnh của
thí độ. (Thứ hai), các vị
Bồ tát khéo biết
giới pháp Như lai thiết lập, khéo biết cách thức ra khỏi sự
vi phạm,
hoàn hảo giới pháp thường xuyên,
giới pháp bền chắc,
giới pháp thường làm,
giới pháp thường chuyển (151) , và học tất cả giới điều. Như thế đó gọi là bảy sự
thanh tịnh của
giới độ. (Thứ ba), các vị
Bồ tát thâm tín nghiệp báo nên khi có sự
bất lợi xảy ra thì không tức bực; cũng không mắng lại, không giận không đánh, không khủng khiếp, không hý lộng, không hại lại bằng những cách
bất lợi; không
thù oán; khi họ
sám hối (152) thì không làm họ
bực bội; cũng không
mong đợi họ đến
sám hối; không vì sợ hay thương mà
nhẫn nhục; không phải làm ơn (
một lần) rồi bỏ họ liền (mà không
tiếp tục lợi ích cho họ). Như thế đó gọi là bảy sự
thanh tịnh của
nhẫn độ. (Thứ tư), các vị
Bồ tát nhận thức tính chất quân bình (chứ không gấp không hoãn) của
tinh tiến, không vì
dũng mãnh tinh tiến mà tự cao và lấn người, đầy đủ
nghị lực lớn lao, đầy đủ
tiến thủ lớn lao, có thể làm nổi và làm được, kiên cường, không bao giờ trút bỏ cái ách kéo các
thiện pháp. Như thế đó gọi là bảy sự
thanh tịnh của tiến độ. (Thứ năm), các vị
Bồ tát có
tịnh lự biết
thế tục đế, có
tịnh lự biết
thắng nghĩa đế (153) , có
tịnh lự biết cả hai đế, có
tịnh lự chuyển động, có
tịnh lự không dựa, có
tịnh lự khéo tu (154) , có
tịnh lự y như Bồ tát tạng mà lắng nghe, vin theo và
tu tập vô lượng chánh định. Như thế đó gọi là bảy sự
thanh tịnh của định độ. (Thứ bảy), các vị
Bồ tát tách rời hai
cực đoan thêm và bớt mà
đi theo trung đạo thì đó là tuệ; do tuệ này mà biết đúng về ba
giải thoát môn là
không vô nguyện
vô tướng; biết đúng về ba
tự tánh là
biến kế chấp y tha khởi
viên thành thật; biết đúng về ba
vô tánh là tướng
vô tánh sinh
vô tánh nghĩa
vô tánh; biết đúng về
thế tục đế là năm
minh xứ (155) ; biết đúng về
thắng nghĩa đế là bảy
chân như; lại vì ở nhiều nơi
lý thể thuần nhất không
phân biệt và không
hý luận, vì lấy pháp tổng quát
vô lượng làm đối tượng, và vì là quán, nên
hoàn thành được sự
tùy pháp hành (156) . Như thế đó gọi là bảy sự
thanh tịnh của
tuệ độ.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ chín, nói sự
thanh tịnh của các độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, năm sự nói trên, mỗi sự có
tác dụng gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, nên biết mỗi sự có một
tác dụng: các vị
Bồ tát vì không nhuốm bẩn nên trong
hiện tại luôn luôn thiết tha,
nỗ lực tu tập các độ chứ không
phóng túng; vì không
lưu luyến nên tạo thành cái
nhân không phóng túng trong
vị lai; vì không
tội lỗi nên
chính xác tu tập các độ một cách rất khéo
hoàn hảo,
trong sáng và tươi trắng; vì không
phân biệt nên mau chóng
viên mãn các độ bằng
phương tiện khéo léo; vì chánh
hồi hướng nên sinh ra ở đâu, các độ, và những
thành quả cùng
dị thục quả khả ái của các độ, đều có
đặc tính vô tận, đến tận
vô thượng bồ đề.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười, nói
tác dụng của 5 sự.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, các độ được nói như vậy, cái gì rất rộng lớn? cái gì không nhiễm ô? cái gì rất sáng rực? cái gì không thể động? cái gì rất thanh tịnh?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử,
đặc tính không nhuốm bẩn,
đặc tính không
lưu luyến và
đặc tính chánh
hồi hướng là rất rộng lớn;
đặc tính không
tội lỗi và
đặc tính không
phân biệt là không
nhiễm ô;
tư duy quyết trạch mà làm là rất sáng rực; nhập vào
vị trí không còn
thoái chuyển là không thể động; gồm trong địa thứ mười và
Như lai địa là rất
thanh tịnh.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười một, nói 5 sắc thái của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà những
thành quả và
dị thục quả khả ái của các độ luôn luôn
vô tận, và chính các độ cũng vô tận?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, vì
triển chuyển dựa nhau mà sinh mãi, và
tu tập không hề
gián đoạn.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười hai, nói sự
vô tận của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, vì
lý do nào mà các vị
Bồ tát ưa thích sâu xa đối với các độ chứ không đối với
dị thục quả (157) khả ái của các độ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, vì năm
lý do: một, vì các độ là nhân tố của sự
vui mừng tối thượng, hai, vì các độ là nhân tố của sự
lợi ích rốt ráo cho mình người, ba, vì các độ là nhân tố của
dị thục quả khả ái trong thì gian
vị lai, bốn, vì các độ không phải là chỗ dựa của mọi sự
tạp nhiễm, năm, vì các độ không phải là những cái
cuối cùng rồi cũng
suy tàn và hỏng mất.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười ba, nói sự
ưa thích các độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, tất cả các độ, mỗi độ có mấy thứ
uy đức tối thắng?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, tất cả các độ, mỗi độ đều có bốn thứ
uy đức tối thắng: một là
tu tập chính xác các độ thì trừ bỏ keo lẫn,
phạm giới, căm phẫn, lười nhác,
loạn động,
kiến hoặc; hai là
tu tập chính xác các độ thì làm
tư lương chân thật cho
vô thượng bồ đề; ba là
tu tập chính xác các độ thì tự
thuần hóa và
lợi ích người; bốn là
tu tập chính xác các độ thì
vị lai được những
dị thục quả khả ái vừa
quảng đại vừa
vô tận (158) .
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười bốn, nói
uy đức của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, tất cả các độ như vậy nhân tố là gì?
thành quả là gì? thật lợi là gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, tất cả các độ như vậy lấy tâm
đại bi làm nhân tố, lấy sự
ích lợi chúng sinh của
dị thục quả khả ái làm
thành quả, lấy
vô thượng bồ đề làm thật lợi.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười lăm, nói
nhân quả thật lợi của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, nếu các vị
Bồ tát đầy đủ
tiền của vô tận và
thành tựu từ bi rộng lớn thì vì sao
thế giới này
hiện có những người nghèo khổ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, ấy là lỗi vì cái nghiệp của họ. Nếu
chúng sinh không có
ác nghiệp của mình
cản trở lấy mình thì
thế giới này làm gì có người
nghèo khổ khi
Bồ tát thường có lòng làm
lợi ích cho người, lại
thường có tiền của vô tận. Tựa như quỉ đói bị nóng khát
dữ dội hành hạ cơ thể,
vậy mà thấy nước biển khô cả. Như thế đâu phải lỗi ở biển, lỗi vì nghiệp của quỉ đói mà thôi.
Tương tự như vậy,
Bồ tát bố thí tiền của thì như biển cả, nên không vì gì
Bồ tát, mà chỉ vì
ác nghiệp của
chúng sinh, như vì
ác nghiệp của quỉ đói làm cho quỉ đói có cái
ác báo không có nước uống.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười sáu, nói nghiệp
chúng sinh cản trở chúng sinh hưởng được
ích lợi của 6 độ.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn,
bồ tát dùng độ nào lĩnh hội cái
tánh không tự tánh của các pháp?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, dùng
tuệ độ thì lĩnh hội được cái
tánh không tự tánh của các pháp.
Bạch đức Thế tôn, nếu
tuệ độ lĩnh hội cái
tánh không tự tánh thì sao không lĩnh hội cái tánh có
tự tánh (159) ?
Thiện nam tử,
Như lai không bao giờ nói đem cái
tánh không tự tánh lĩnh hội cái
tánh không tự tánh (
như ý ông hỏi), bởi vì cái
tánh không tự tánh thì
siêu việt văn tự mà
chứng ngộ bên trong. Nhưng không thể bỏ
ngôn ngữ văn tự mà nói được, nên
Như lai nói
tuệ độ lĩnh hội cái
tánh không tự tánh của các pháp (160) .
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười bảy, nói
tuệ độ chứng
thắng nghĩa.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói độ, độ gần và độ lớn, vậy độ là thế nào? độ gần là thế nào? độ lớn là thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, nếu các vị
Bồ tát trải qua vô số thì gian,
tu tập thí
cho đến tuệ,
thiện pháp thành tựu mà
phiền não vẫn còn
hiện hành như cũ, chưa
chế ngự được chúng mà lại bị chúng
chế ngự, thì đó là
thắng giải bậc kém và bậc vừa trong
Giải hành địa, và gọi là độ.
Trải qua vô số thì gian nữa,
tu tập thí
cho đến tuệ,
thiện pháp thành tựu được
tăng thượng dần lên mà
phiền não vẫn còn
hiện hành như cũ, nhưng
chế ngự được chúng chứ không bị chúng
chế ngự, thì đó là từ địa thứ nhất sắp lên, và gọi là độ gần.
Trải qua vô số thì gian nữa,
tu tập thí
cho đến tuệ,
thiện pháp thành tựu càng
tăng thượng hơn nữa, mọi
phiền não không còn
hiện hành, thì đó là từ địa thứ tám sắp lên, và gọi là độ lớn.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ mười tám, và là
cuối cùng của đoạn Đ2, nói về 3 cấp của 6 độ.
Nói Về
Chướng NgạiChính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, trong các
Bồ tát địa ấy,
tùy miên của
phiền não có thể có mấy loại?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, khái lược có ba loại. Một là loại
tùy miên hỗ trợ (161) , ở trong năm
Bồ tát địa trước, tại sao, vì chính
hiện hành của
phiền não không phải
câu sinh là những thứ hỗ trợ cho
hiện hành của
phiền não câu sinh, và lúc bấy giờ
vĩnh viễn không còn nữa, nên gọi là
tùy miên hỗ trợ. Hai là loại
tùy miên liệt nhược, là
hiện hành nhỏ nhiệm trong địa thứ sáu và địa thứ bảy, nếu (162)
tu đạo chế ngự thì chúng không
hiện hành nữa. Ba là
tùy miên nhỏ nhiệm, là
sở tri chướng trong địa thứ tám sắp lên, ở đó mọi
phiền não không còn
hiện hành nữa (163) .
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, những loại
tùy miên này do mấy loại thô trọng (164) bị
diệt trừ mà làm rõ ra (165) ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, chỉ do hai loại: (một), do loại thô trọng da ngoài bị
diệt trừ mà làm rõ ra loại
tùy miên thứ nhất và loại
tùy miên thứ hai; (hai), do loại thô trọng da trong bị
diệt trừ mà làm rõ ra loại
tùy miên thứ ba; còn (ba), loại thô trọng xương cốt bị
diệt trừ thì
Như lai nói
vĩnh viễn diệt trừ toàn thể tùy miên, và
vị trí là ở
Như lai địa.
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, phải
trải qua mấy
vô số kiếp mới
diệt trừ được những loại thô
trọng như vậy?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, phải
trải qua ba
vô số kiếp lớn, hoặc
vô lượng kiếp mà
sát na, nháy mắt, chốc lát, nửa buổi, một buổi (166) , ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, không thể (lấy những thì gian này làm
đơn vị mà) tính kể.
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, trong các
Bồ tát địa,
Bồ tát phát ra
phiền não thì
phiền não ấy là sắc thái gì? có nhược điểm gì? có
ưu điểm gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử,
phiền não ấy là sắc thái không
ô nhiễm, vì sao, vì các vị
Bồ tát này, ngay trong địa thứ nhất,
quyết định đã khéo
thông đạt pháp tánh các pháp, do đó, các vị phải biết rõ (có
cần thiết) mới để cho
phiền não phát ra, không phải không biết, thế nên
Như lai nói là sắc thái không
ô nhiễm. Trong
bản thân các vị
Bồ tát này,
phiền não ấy không thể gây ra
khổ não, nên không có nhược điểm gì.
Phiền não được các vị
Bồ tát này để cho phát ra như vậy có
năng lực cắt đứt cái nhân
đau khổ trong
chúng sinh giới, nên nó có
vô số ưu điểm.
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật: Thật là kỳ lạ,
bạch đức Thế tôn !
Vô thượng bồ đề có
công đức lớn lao đến như vậy, ấy là làm cho
phiền não của
Bồ tát phát ra mà còn hơn cả
thiện căn của
chúng sinh, của
Thanh văn và
Độc giác, huống chi
vô lượng công đức khác.
Lược Giải.-
Đoạn Đ3 này có 4 đoạn nhỏ: thứ nhất nói chủng loại của
tùy miên, thứ hai nói thô trọng bị
diệt trừ, thứ ba nói thì gian
diệt trừ thô trọng, thứ tư nói
phiền não của
Bồ tát.
Nói Về
Nhất ThừaChính Văn.-
Đại bồ tát Quan tự tại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn dạy
Thanh văn thừa hay
Đại thừa chỉ là
nhất thừa, lời này có
mật ý gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử, như trong
Thanh văn thừa Như lai nói những tiết mục của các pháp là
năm uẩn,
sáu xứ ở trong,
sáu xứ ở ngoài, và các tiết
mục đồng đẳng như vậy, thì trong
Đại thừa Như lai nói chính các pháp ấy là đồng
nhất pháp tánh, đồng nhất
lý thú (167) . Thế nên
Như lai không nói các thừa có
tính sai biệt. -- Chỉ có những kẻ
y theo ngôn từ mà vọng phân
ý nghĩa, mới thành một số thêm lên, một số bớt đi (168) , lại cho những điểm
sai biệt của các thừa là
mâu thuẫn nhau, rồi cứ thế mà
triển chuyển tranh luận.
Mật ý ở đây là như vậy.
Lược Giải.-
Trong phẩm bốn đã nói
nhất thừa. Ở đây lại nói nữa. Mỗi chỗ có một
lý do. Nên coi kyՠlại. Nhất là phải coi kyլ thật kyլ về
nhất thừa của
Pháp hoa. Để xác quyết chỗ qui túc của
toàn bộ Phật pháp là ở đâu.
Kết Thúc Pháp ThoạiVào lúc bấy giờ,
đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
Mười Bồ tát địabao gồm những gì
danh nghĩa thế nào
đối trị cái gì
đặc thù có gì
phát sinh những gì
đại nguyện ra sao
và bao tiết mục;
đó là
đại thừaNhư lai đã nói.
Qua các địa ấy,
khéo léo
tu tậpthì sẽ
thành tựuvô thượng đại giác.
Như lai tuyên thuyếttiết mục các pháp,
lại nói các pháp
đồng nhất
lý thú;
nghĩa là đối với
thừa thấp thừa cao,
Như lai nói rằng
không tính dị biệt.
Chỉ có những kẻ
y theo ngôn từvọng phân
ý nghĩamới có
thêm bớt,
cho rằng
hai thừamâu thuẫn với nhau,
nhận thức ngu ngơ
thành ra tranh cãi.
Lúc ấy đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, trong
toàn bộ pháp thoại Giải
thâm mật,
pháp thoại này nên mệnh danh là gì? chúng con phải kính cẩn ghi nhớ như thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quan tự tại:
Thiện nam tử,
pháp thoại này tên là
Nghĩa lý hoàn hảo về các địa độ. Ông hãy kính cẩn ghi nhớ theo cái tên như vậy.
Khi
đức Thế tôn nói
pháp thoại Nghĩa lý hoàn hảo về các địa độ thì trong
đại hội có bảy mươi lăm ngàn
Bồ tát được
chánh định Ánh sáng
đại thừa của
Bồ tát.
Nói Tâm Ấy Là Quả Sở Đắc
D1. Nói Về Thân Phật
D2. Nói Về Tiếng Phật
Đ1. Nói Về Kinh Và Luật
Đ2. Nói Về Luận
Đ3. Nói Về
Tổng TrìD3. Mấy Điều
Quyết TrạchD4.
Kết Thúc Pháp ThoạiNói Về Thân Phật
Chính Văn.-