Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
28. Kinh Tự hoan hỷ
(Sampasàdanìya sutta)
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời,
Thế Tôn ở tại Nàlandà, trong rừng Pàvàrikambavana. Lúc bấy giờ,
tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) đến tại chỗ
Thế Tôn ở,
đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuốn một bên. Khì ngồi xuống một bên,
tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn!
- Bạch
Thế Tôn, con
tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở
quá khứ, ở tương lai cũng như ở
hiện tại, không thể có một vị
Sa môn, một vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn
Thế Tôn,
sáng suốt hơn
Thế Tôn, về
phương diện giác ngộ.
- Này Sàriputta,
lời nói của Ngươi thật là
đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật là rống tiếng rống con
sư tử khi Ngươi nói: "Bạch
Thế Tôn, con
tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở
quá khứ, ở tương lai cũng như ở
hiện tại, không thể có một vị
Sa môn, một vị Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn
Thế Tôn,
sáng suốt hơn
Thế Tôn, về
phương diện giác ngộ." Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong
quá khứ, các vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị
Thế Tôn -
Giới đức chư vị
Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị
Thế Tôn là như vậy,
Trí tuệ chư vị
Thế Tôn là như vậy,
An trú chư vị
Thế Tôn là như vậy,
Giải thoát chư vị
Thế Tôn là như vậy?
- Bạch
Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị
Thế Tôn -
Giới đức chư vị
Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị
Thế Tôn là như vậy,
Trí tuệ chư vị
Thế Tôn là như vậy,
An trú chư vị
Thế Tôn là như vậy,
Giải thoát chư vị
Thế Tôn là như vậy?
- Bạch
Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong
hiện tại Ta là vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của
Thế Tôn -
Giới đức chư vị
Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị
Thế Tôn là như vậy,
Trí tuệ chư vị
Thế Tôn là như vậy,
An trú chư vị
Thế Tôn là như vậy,
Giải thoát Thế Tôn là như vậy?
- Bạch
Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, hãy xem! Ngươi không có
trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác ở
quá khứ, ở
hiện tại và ở tương lai! Vậy sao, này Sàriputta,
lời nói của Ngươi
tuyên bố thật là
đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật đã rống tiếng rống con
sư tử khi Ngươi nói: "Bạch
Thế Tôn, con
tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở
quá khứ, ở tương lai cũng như ở
hiện tại, không thể có một vị
Sa môn, vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn
Thế Tôn,
sáng suốt hơn
Thế Tôn, về
phương diện giác ngộ."
2. Bạch
Thế Tôn, con không có
trí tuệ để được biết tâm tư của chư vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác trong
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Bạch
Thế Tôn, nhưng con biết
truyền thống về
Chánh pháp. Bạch
Thế Tôn, như vị vua có một thành trì ở
biên cảnh, có hào lũy
kiên cố, có thành quách tháp canh
kiên cố và chỉ có một cửa thành ra vào. Cửa thành có vị giữ cửa
thông minh,
biệt tài và giàu
kinh nghiệm, ngăn chận những người lạ, chỉ cho vào những ai
quen biết. Người này, trong khi đi
tuần tiểu xung quanh thành, có
thể không thấy hết các chắp nối và khe hở của tường, nhỏ
cho đến một con mèo thể đi qua được. Nhưng người ấy chỉ cần biết rằng các sinh vật to lớn hơn muốn
đi vào hay đi ra thành này, tất cả đều phải
đi vào hay đi ra cửa này. Bạch
Thế Tôn, cũng vậy con biết
truyền thống về
Chánh pháp. Tất cả những vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác trong thời
quá khứ, tất cả những bậc
Thế Tôn này đã
diệt trừ Năm
Triền cái, những
nhiễm tâm khiến
trí tuệ yếu ớt, đã khéo
an trú tâm và
Bốn Niệm xứ, đã
như thật tu hạnh
Bảy Giác chi, đã
chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác. Tất cả những vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác trong thời
vị lai, tất cả những bậc
Thế Tôn này sẽ
diệt trừ Năm
Triền cái, những
nhiễm tâm khiến
trí tuệ yếu ớt, sẽ khéo
an trú tâm vào
Bốn Niệm xứ, sẽ
như thật tu hạnh
Bảy Giác chi và sẽ
chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác. Bạch
Thế Tôn, và nay
Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác đã
diệt trừ Năm
Triền cái, những
nhiễm tâm khiến
trí tuệ yếu ớt, sẽ khéo
an trú tâm vào
Bốn Niệm xứ, đã
như thật tu hạnh
Bảy Giác chi, đã
chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác.
Và nay ở đây, con một thời
yết kiến Thế Tôn để
nghe pháp. Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng,
thâm thúy hơn pháp trước,
hắc pháp và
bạch pháp đều được đề cập,
đối chiếu. Bạch
Thế Tôn, nhờ
Thế Tôn Thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng,
thâm thúy hơn pháp trước,
hắc pháp và
bạch pháp đều được đề cập,
đối chiếu như vậy, nên trong sự thâm hiểu
Chánh pháp, một pháp được con thâm hiểu
trọn vẹn, đó là
lòng tin của con vào
vị Bổn Sư -
Thế Tôn là bậc
Chánh Đẳng Giác, pháp được
Thế Tôn khéo
thuyết giảng và
chúng Tăng đã khéo
hành trì.
3. Bạch
Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về các
thiện pháp. Ở đây những
thiện pháp là
Bốn Niệm xứ,
Bốn Chánh cần,
Bốn Như ý túc, Năm Căn,
Năm Lực,
Bảy Giác chi,
Thánh đạo tám ngành. Bạch
Thế Tôn, ở đây vị
Tỷ kheo tận diệt các
lậu hoặc, có thể tự mình
chứng tri và
chứng ngộ,
đạt đến và
an trú ngay trong
hiện tại,
Tâm giải thoát và
Tuệ giải thoát vô lậu này. Bạch
Thế Tôn, thật là
vô thượng đối với các
thiện pháp. Tất cả điểm này,
Thế Tôn đã biết và ngoài sự
hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để
hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một
Sa môn hay một Bà-la-môn nào khác có thể chứng biết hơn
Thế Tôn về
vấn đề các
thiện pháp.
4. Bạch
Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về sự trình bày các Nhập xứ. Bạch
Thế Tôn, sáu nội xứ và ngoại xứ, tức là mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Bạch
Thế Tôn, thật là
vô thượng về sự trình bày các Nhập xứ. Tất cả điểm này,
Thế Tôn đã biết và ngoài sự
hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để
hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một
Sa môn hay một Bà-la-môn nào khác có thể chứng biết hơn
Thế Tôn về
vấn đề trình bày các Nhập xứ.
5. Bạch
Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề nhập thai. Bạch
Thế Tôn, có bốn loại
nhập thai. Bạch
Thế Tôn, ở đây, có loại không
biết mình nhập bụng người mẹ, không
biết mình trú trong bụng người mẹ và không
biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Đó là loại
nhập thai thứ nhất.
Lại nữa bạch
Thế Tôn, có loại
biết mình nhập bụng người mẹ, nhưng không
biết mình an trú trong bụng người mẹ và không
biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Đó là loại
nhập thai nhứ hai.
Lại nữa bạch
Thế Tôn, có loại
biết mình nhập bụng người mẹ,
biết mình an trú trong bụng người mẹ, và không
biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Đó là loại
nhập thai thứ ba.
Lại nữa Bạch
Thế Tôn, có loại
biết mình nhập bụng người mẹ,
biết mình an trú trong bụng người mẹ và
biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Đó là loại
nhập thai thứ tư. Đây là bốn loại
nhập thai. Bạch
Thế Tôn, thật là
vô thượng về
vấn đề nhập thai.
6. Bạch
Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề sai khác trong sự ký tâm. Bạch
Thế Tôn có bốn loại ký tâm sai khác như thế này. Bạch
Thế Tôn, có hạng tự tỏ lộ bằng
hình tướng: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thì sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ nhất.
Lại nữa bạch
Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng
hình tướng, nhưng tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người,
phi nhân, hay
chư Thiên: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thì sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ hai.
Lại nữa bạch
Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng
hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi Người,
phi nhân hay
chư Thiên, mà tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng
rõ ràng và
hợp lý, phát ra từ sự suy tầm,
tư duy: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ ba.
Lại nữa bạch
Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng
hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người,
phi nhân, hay
chư Thiên, cũng không tự tỏ lộ, sau khi nghe tiếng
rõ ràng và
hợp lý, phát ra từ sự suy tầm và
tư duy, nhưng khi chứng được định, không tầm, không tứ, có thể biết được tâm mgười khác với tâm của mình: "Tùy
ước nguyện hợp ý hành của
Tôn giả này, vị này sẽ hướng tâm đến tâm này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác". Như vậy là loại ký tâm thứ tư. Bạch
Thế Tôn, thật là
vô thượng về
vấn đề ký tâm sai khác.
7. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng: lúc
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề kiến định (dassanasamàpatti). Bạch
Thế Tôn, có bốn loại kiến định như thế này: Ở đây bạch
Thế Tôn, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Với tâm
nhập định như vậy, vị ấy
quan sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên
cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt: Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu. Như vậy là kiến định thứ nhất.
Lại nữa bạch
Thế Tôn, ở đây có vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Với tâm
nhập định như vậy, vị ấy
quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên
cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt: Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu. Hơn nữa, vị ấy
quán sát bộ xương của người ấy còn
liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da. Như vậy là kiến định thứ hai.
Lại nữa bạch
Thế Tôn,... Hơn nữa, vị ấy
vượt qua sự quán sát bộ xương của người ấy còn
liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da,
quán sát giòng
tâm thức của người ấy, không
gián đoạn, như là
an trú cả đời này và
an trú cả đời sau. Như vậy là kiến định thứ ba.
Lại nữa, bạch
Thế Tôn,... Hơn nữa, vị ấy
vượt qua sự quán sát bộ xương của người ấy còn
liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da,
quán sát giòng
tâm thức của người ấy, không
gián đoạn, như là không
an trú cả đời này và
cả đời sau. Như vậy là kiến định thứ tư. Bạch
Thế Tôn, thật là vô thượg về
vấn đề kiến định.
8. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề phân loại
các loại Người. Bạch
Thế Tôn, có bảy loại Người như thế này:
Câu giải thoát,
Tuệ giải thoát,
Thân chứng,
Kiến chí, Tín
thắng giải,
Tùy pháp hành,
Tùy tín hành. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề phân loại
loài Người.
9. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề tinh cần. Bạch
Thế Tôn có
Bảy Giác chi như thế này:
Niệm Giác chi,
Trạch pháp Giác chi,
Tinh tấn Giác chi,
Hỷ Giác chi,
Khinh an Giác chi,
Định Giác chi,
Xả Giác chi. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề tinh cần.
10. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề tiến bộ trong sự
tu hành (Patipàda =
đạo hành). Bạch
Thế Tôn, có bốn loại
đạo hành như thế này:
Hành trì khổ
chứng ngộ chậm,
hành trì khổ
chứng ngộ mau,
hành trì lạc
chứng ngộ chậm,
hành trì lạc
chứng ngộ mau.
Bạch
Thế Tôn, ở đây, thế này là
hành trì khổ,
chứng ngộ chậm. Bạch
Thế Tôn, sự
hành trì cả hai
phương diện đều được xem là
hạ liệt, vừa khổ vừa chậm.
Bạch
Thế Tôn, ở đây, thế này là
hành trì khổ,
chứng ngộ mau. Bạch
Thế Tôn, sự
hành trì này vì khổ nên được gọi là
hạ liệt.
Bạch
Thế Tôn, ở đây, thế này là
hành trì lạc,
chứng ngộ chậm. Bạch
Thế Tôn, sự
hành trì này vì chậm nên được gọi là
hạ liệt.
Bạch
Thế Tôn, ở đây, thế này là
hành trì lạc,
chứng ngộ mau. Bạch
Thế Tôn sự
hành trì này cả hai
phương diện đều được xem là cao thượng, vừa lạc vừa mau. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề đạo hành (
tiến bộ trên đường
tu hành).
11. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề chánh hạnh trong
ngôn ngữ. Bạch
Thế Tôn, ở đây, một người không những không nói những lời
liên hệ đến nói láo, mà cũng phải, trong khi
tìm cách thắng cuộc, không dùng lời vu khống, lời
ác khẩu và lời
ly gián;
trái lại, người ấy nói lời từ hòa,
sáng suốt, đáng được
giữ gìn, và
nói đúng thời. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
chánh hạnh trong
ngôn ngữ.
12. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề giới hạnh của
con người. Bạch
Thế Tôn, ở đây, có người
chân thật,
thành tín, không
dối trá, không lừa gạt, không gợi ý, không chiêm tướng, không lấy lợi
câu lợi;
hộ trì các căn,
ăn uống tiết độ, hành động
ôn hòa, luôn luôn
cảnh giác, không chán nản,
tinh cần, trầm tư,
chánh niệm,
ngôn từ lanh lợi,
hành vi gan dạ,
chịu đựng,
biết điều, không
tham dục,
tỉnh giác,
cẩn trọng. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề giới hạnh của
con người.
13. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về sự
sai biệt trong sự giảng dạy. Bạch
Thế Tôn, có bốn loại giảng dạy. Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy, biết người khác: Người này theo sự giảng dạy,
hành trì như thế này, sẽ
diệt trừ ba
kiết sử, sẽ chứng
Dự lưu, không còn bị
đọa lạc,
chắc chắn sẽ được
giác ngộ.
Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy, biết người khác: Người này theo sự giảng dạy,
hành trì như thế này, sẽ
diệt trừ ba
kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, sẽ chứng
Nhất lai, phải sanh đời này
một lần nữa trước khi diệt
tận khổ đau.
Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy biết người khác: Người này theo sự giảng dạy,
hành trì như thế này, sẽ
diệt trừ năm hạ phần
kiết sử, sẽ được
hóa sanh và ở tại
cảnh giới ấy
nhập Niết bàn, không còn về lại đời này.
Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy biết người khác: Người này theo sự giảng dạy
hành trì như thế này, sẽ
diệt trừ các
lậu hoặc, tự mình giác tri, chứng đạt và
an trú ngay trong
hiện tại,
vô lậu Tâm giải thoát và
Tuệ giải thoát. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề sai biệt trong sự giảng dạy.
14. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
giải thoát trí của người khác. Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy biết người khác: Người này
diệt trừ ba
kiết sử, sẽ
chứng quả Dự lưu, không còn bị
đọa lạc,
nhất định sẽ được
giác ngộ.
Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy biết được người khác: Người này sẽ
diệt trừ ba
kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, sẽ
chứng quả Nhất lai, phải sanh đời này
một lần nữa, sẽ diệt
tận khổ đau.
Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy biết được người khác: Người này
diệt trừ năm hạ phần
kiết sử, sẽ được
hóa sanh, tự chỗ ấy
nhập Niết bàn, không còn phải
trở lại đời này.
Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn nhờ tự
chánh tư duy biết người khác: Người này,
diệt trừ các
lậu hoặc, tự tri
tự chứng, đạt đạo và
an trú ngay
trong đời hiện tại vô lậu Tâm giải thoát,
Tuệ giải thoát. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề giải thoát trí của người khác.
15. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề Thường trú luận. Bạch
Thế Tôn, có ba loại Thường trú luận như thế này. Bạch
Thế Tôn ở đây có vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm nên tâm
nhập định; khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như
một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời,
vô số trăm đời,
vô số ngàn đời,
vô số trăm ngàn đời, nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, tuổi thọ như thế này." Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời
quá khứ với những
đặc điểm và những
chi tiết. Vị ấy nói rằng: "Trong thời
quá khứ, tôi biết được
thế giới là trong
hoại kiếp hay thành
hoại kiếp. Nhưng trong tương lai tôi không được biết
thế giới là trong
hoại kiếp hay
thành kiếp. Bản ngả và
thế giới là thường trú,
bất sanh,
vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá. Còn những loại
hữu tình kia thì
lưu chuyển,
luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú." Đó là Thường trú luận thứ nhất.
Lại nữa, bạch
Thế Tôn, ở đây, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như một
thành kiếp hoại kiếp, hai
thành kiếp hoại kiếp, ba
thành kiếp hoại kiếp, bốn
thành kiếp hoại kiếp, năm
thành kiếp hoại kiếp, mười
thành kiếp hoại kiếp, nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này." Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời
quá khứ với những
đặc điểm và những
chi tiết. Vị ấy nói: "Trong thời
quá khứ, tôi biết được
thế giới là trong
hoại kiếp hay
thành kiếp. Trong tương lai, tôi biết được
thế giới sẽ là trong
hoại kiếp hay
thành kiếp.
Bản ngã và
thế giới là thường trú,
bất sanh,
vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá, còn những loại
hữu tình kia thì
lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú." Đó là Thường trú luận thứ hai.
Lại nữa, bạch
Thế Tôn, ở đây, vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như mười
thành kiếp hoại kiếp, hai mươi
thành kiếp hoại kiếp, ba mươi
thành kiếp hoại kiếp, bốn mươi
thành kiếp hoại kiếp, nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này." Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời
quá khứ, với những
đặc điểm và những
chi tiết. Vị ấy nói: "Trong thời
quá khứ, tôi biết được
thế giới là trong
hoại kiếp hay
thành kiếp. Trong tương lai, tôi biết được
thế giới là trong
hoại kiếp hay trong
thành kiếp.
Bản ngã và
thế giới là thường trú,
bất sanh, vứng chắc như đỉnh núi, như trụ đá, còn những loại
hữu tình kia thì
lưu chuyển luân hồi, chết đi
sống lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú." Đó là Thường trú luận thứ ba. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề Thường trú luận.
16. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề Túc mạng trí. Bạch
Thế Tôn, ở đây có vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ như
một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều
hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều
hoại kiếp thành kiếp. Nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia tôi đã sống với tâm như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia tôi đã sống với tâm như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này." Như vậy, vị ấy nhớ nhiều đời
quá khứ, với những
đặc điểm và những
chi tiết. Bạch
Thế Tôn, có những
chư Thiên, mà tuổi thọ không thể đếm được hay không
thể tính được. Nhưng dưới bất cứ ngã thể nào được có trong
quá khứ, hoặc có sắc hay
không sắc, hoặc có tưởng hay
không tưởng, hoặc
phi tưởng phi phi tưởng, chúng nhớ đến đời
quá khứ với các
đặc điểm và
chi tiết như vậy. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề Túc mạng trí.
17. Lại nữa, bạch
Thế Tôn điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề Sanh tử trí của các loài
hữu tình. Ở đây, bạch
Thế Tôn, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy với
Thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và chết của
chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng,
chúng sanh, người
hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người
may mắn, kẻ
bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ: "Này các
Hiền giả, những
chúng sanh làm những
ác hạnh về thân, ngữ và ý,
phỉ báng các bậc Thánh, theo
tà kiến, tạo các nghiệp theo
tà kiến. Những người này sau khi thân hoại
mạng chung, phải sanh vào
khổ giới,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Này các
Hiền giả, còn những
chúng sanh nào làm những
thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không
phỉ báng các bậc Thánh, theo
Chánh kiến, tạo các nghiệp theo
Chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên các
thiện thú,
cõi Trời, trên đời này". Như vậy, vị ấy với
Thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự
sống chết của
chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng
chúng sanh người
hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người
may mắn, kẻ
bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
tối thượng về
vấn đề Sanh tử trí của
các loại hữu tình.
18. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, điểm này thật là
vô thượng:
Thế Tôn thuyết pháp về
vấn đề Thần túc thông. Bạch
Thế Tôn, có hai loại
thần thông như thế này. Bạch
Thế Tôn, có loại
thần thông hữu lậu,
hữu dư y, được gọi là "không phải Thánh". Bạch
Thế Tôn, có loại
thần thông vô lậu,
vô dư y, được gọi là "bậc Thánh".
Bạch
Thế Tôn, thế nào là loại
thần thông hữu lậu,
hữu dư y, được gọi là "không phải Thánh"? Ở đây, bạch
Thế Tôn, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
cần mẫn, nhờ
bất phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy chứng được nhiều loại
Thần túc thông sai khác. Một thân
hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân.
Hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang
hư không;
độn thổ trồi lên ngang qua
đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên
đất liền;
ngồi kiết già đi trên
hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ
mặt trăng và
mặt trời, những vật có đại oai lực, đại
oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi
Phạm thiên. Bạch
Thế Tôn, như vậy là loại
thần thông hữu lậu,
hữu dư y, được gọi là "không phải Thánh".
Bạch
Thế Tôn, thế nào là
thần thông vô lậu,
vô dư y, được gọi là "bậc Thánh?" Ở đây, bạch
Thế Tôn vị
Tỷ kheo, nếu vị này muốn: "Đối với sự vật đối nghịch, ta sẽ
an trú với tưởng không đối nghịch", và ở đây vị ấy
an trú với tưởng không đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Đối với sự vật không đối nghịch, ta sẽ
an trú với tưởng đối nghịch", và ở đây vị ấy
an trú với tưởng đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Đối với sự vật đối nghịch và không đối nghịch, ta sẽ
an trú với tưởng không đối nghịch", và ở đây vị ấy
an trú với tưởng không đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Đối với sự vật không đối nghịch và đối nghịch, ta sẽ
an trú với tưởng đối nghịch", và ở đây vị ấy
an trú với tưởng đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Loại bỏ cả hai đối nghịch và không đối nghịch, ta sẽ trú xả,
chánh niệm, tỉnh giác", và ở đây vị ấ trú xả,
chánh niệm,
tỉnh giác. Bạch
Thế Tôn, như vậy là
thần thông vô lậu,
vô dư y, và được gọi là "bậc Thánh".
Bạch
Thế Tôn, như vậy là
vô thượng về
các loại Thần túc thông. Tất cả điểm này,
Thế Tôn đã biết, và ngoài sự
hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để
hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một
Sa môn hay Bà-la-môn nào khác, có thể chứng biết hơn
Thế Tôn về
vấn đề các loại Thần túc thông.
19. Bạch
Thế Tôn, những gì có
thể đạt được bởi một
thiện nam tử có
lòng tin, có
tinh tấn, có
kiên trì bởi sự
kiên trì của
con người, bởi sự
tinh tấn của
con người, bởi sự
tiến bộ của
con người, bởi sự
nhẫn nhục của
con người, đều được
Thế Tôn chứng đạt. Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn không có
đam mê các
dục lạc,
dục lạc này là đê tiện, hèn hạ, thuộc
phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có
lợi ích.
Thế Tôn cũng không
đam mê tu hành khổ hạnh,
khổ hạnh này là khổ, không xứng bậc Thánh, không có
lợi ích.
Thế Tôn có
thể đạt được nếu Ngài muốn, một cách dễ dàng, một cách đầy đủ, sự
hạnh phúc ngay trong
hiện tại, do
bốn Thiền định đem lại.
Bạch
Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này
Hiền giả Sàriputta, trong thời
quá khứ, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn, còn
sáng suốt hơn
Thế Tôn về
vấn đề giác ngộ?" Bạch
Thế Tôn, được hỏi vậy, con
trả lời không. Bạch
Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này
Hiền giả Sàriputta, trong thời
vị lai, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn,
sáng suốt hơn
Thế Tôn về
vấn đề giác ngộ?" Bạch
Thế Tôn, được hỏi như vậy con
trả lời không.
Bạch
Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này
Hiền giả Sàriputta, trong thời
quá khứ, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng
Thế Tôn về
vấn đề giác ngộ?" Bạch
Thế Tôn, được hỏi vậy con
trả lời có. "Này
Hiền giả Sàriputta, trong thời
vị lai, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng
Thế Tôn về
vấn đề giác ngộ?" Bạch
Thế Tôn, được hỏi vậy con
trả lời có.
Bạch
Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này
Hiền giả Sàriputta, trong thời
hiện tại, có vị
Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng
Thế Tôn về
vấn đề giác ngộ?" Bạch
Thế Tôn, được hỏi vậy con
trả lời không.
Bạch
Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Vì sao,
Tôn giả Sàriputta một mặt thì
xác nhận là có, một mặt
xác nhận là không có?" Bạch
Thế Tôn, được hỏi vậy con sẽ
trả lời: "Này
Hiền giả,
trước mặt Thế Tôn, tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có
ghi nhận: "Trong thời
quá khứ, có vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác bằng Ta về
phương diện giác ngộ." Này
Hiền giả trước mặt Thế Tôn tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có
ghi nhận: "Trong thời
vị lai, có các vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác bằng Ta về
phương diện giác ngộ." Này
Hiền giả,
trước mặt Thế Tôn tôi có nghe nói từ nơi Ngài tôi có nghi nhận: "Không có
trường hợp, không có
sự kiện trong
một thế giới, hai vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác cùng
xuất hiện ở đời, không trước, không sau.
Sự kiện như vậy không thể xảy ra". Bạch
Thế Tôn, có phải khi được hỏi và
trả lời như vậy, con đã nói lên đúng ý với
Thế Tôn, không có
sai lạc, không có
hiểu lầm Thế Tôn? Có phải con đã
trả lời thuận pháp, đúng pháp? Có phải không một đối phương
hợp pháp nào có thể
tìm ra lý do để
chỉ trích phê bình?
- Này Sàriputta, được hỏi và
trả lời như vậy, Ngươi đã nói lên đúng ý với Ta, không có
sai lạc, không có
hiểu lầm Ta. Ngươi đã
trả lời thuận pháp và đúng pháp. Không một đối phương
hợp pháp nào có thể
tìm ra lý do để
chỉ trích,
phê bình.
20. Được nghe nói vậy,
Tôn giả Udàyi bạch
Thế Tôn:
- Thật là
hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là
kỳ diệu, bạch Thế Tôn!
Như Lai thiểu dục như vậy,
tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi
Như Lai có
đại thần lực như vậy, có đại
uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ. Bạch
Thế Tôn, nếu có một du sĩ
ngoại đạo nào, tự thấy mình chứng được dầu chỉ có một pháp, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi. Thật là
hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là
kỳ diệu, bạch Thế Tôn!
Như Lai thiểu dục như vậy,
tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi
Như Lai có
đại thần lực như vậy, có đại
uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
- Hãy
ghi nhận, này Udàyi!
Như Lai thiểu dục như vậy,
tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi
Như Lai có
đại thần lực như vậy, có đại
uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ. Này Udàyi, nếu có một du sĩ
ngoại đạo nào, tự thấy mình dầu chỉ có một
pháp như vậy, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi. Này Udàyi hãy ghi nhận!
Như Lai thiểu dục như vậy,
tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi
Như Lai có
đại thần lực như vậy, có đại
uy lực như vậy, mà khong tự mình tỏ lộ.
21. Rồi
Thế Tôn bảo
tôn giả Sàriputta:
- Vậy Sàriputta, Ngươi phải luôn luôn
thuyết pháp phân biệt này cho các
Tỷ kheo,
Tỷ kheo ni, các
Nam cư sĩ và các
Nữ cư sĩ. Này Sàriputta, nếu có những kẻ ngu nào còn
nghi ngờ hay
ngần ngại đối với
Như Lai, nếu họ được
nghe pháp phân biệt này,
nghi ngờ hay
ngần ngại của họ đối với
Như Lai sẽ được
diệt trừ.
Như vậy,
tôn giả Sàriputta nói lên lòng
hoan hỷ của mình đối với
Thế Tôn. Do vậy, danh từ "Sam pasàdaniyam, Tự hoan hỷ" được dùng cho câu
trả lời này.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt