Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
9. Kinh Potthapàda (Bố-sá-bà-lâu)
(Potthapàda sutta)
1.
Như vầy tôi nghe. Một thời
Thế Tôn ở tại Sàvatthi (Xá-vệ), rừng Jetavana (
Kỳ viên), vườn Anàthapindika (
Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ, du sĩ
ngoại đạo Potthapada (Bố-sá-bà-lâu) cùng với
đại chúng du sĩ
ngoại đạo khoảng ba trăm vị, ở tại vườn của hoàng hậu Mallika (Mạt-lê-viên) tên là Ekasàlaka có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường
luận bàn về
chánh kiến,
tà kiến.
2. Lúc bấy giờ
Thế Tôn, vào buổi sáng
đắp y cầm bát vào Sàvatthi
khất thực. Rồi
Thế Tôn tự nghĩ: "Nay còn quá sớm để đi
khất thực tại Sàvatthi, Ta hãy đi đến vườn của hoàng hậu Mallika tên là Ekasàlaka, có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường
luận bàn chánh kiến,
tà kiến, để gặp du sĩ
ngoại đạo Potthapàda". Và
Thế Tôn đi đến vườn của hoàng hậu Mallika, tên là Ekasàlaka, có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường luận về
chánh kiến,
tà kiến.
3. Lúc bấy giờ du sĩ
ngoại đạo Potthapàda ngồi với
đại chúng du sĩ
ngoại đạo, đang
ồn ào, la lối, lớn tiếng
bàn luận những
vấn đề phù phiếm như
câu chuyện về vua chúa;
câu chuyện về
ăn trộm,
câu chuyện về đại thần;
câu chuyện về binh lính; các
câu chuyện về
hãi hùng;
câu chuyện về chiến tranh;
câu chuyện về đồ ăn;
câu chuyện về đồ uống;
câu chuyện về đồ mặc;
câu chuyện về giường nằm;
câu chuyện về
vòng hoa;
câu chuyện về hương liệu;
câu chuyện về
bà con;
câu chuyện về xe cộ;
câu chuyện về làng xóm;
câu chuyện về thị trấn;
câu chuyện về thành phố;
câu chuyện về
quốc độ;
câu chuyện về đàn bà;
câu chuyện về đàn ông;
câu chuyện về vị
anh hùng;
câu chuyện bên lề đường;
câu chuyện tại chỗ lấy nước;
câu chuyện về người đã chết; các
câu chuyện tạp thoại;
câu chuyện về
hiện trạng của
thế giới,
hiện trạng của
đại dương;
câu chuyện về sự
hiện hữu và sự không
hiện hữu.
4. Du sĩ
ngoại đạo Potthapàda thấy
Thế Tôn từ xa đến, liền khuyến cáo chúng của mình: "Các
Tôn giả hãy nhỏ tiếng, các
Tôn giả hãy đừng làm ồn. Nay Sa-môn Gotama đang đến, Ngài ưa mến sự
trầm lặng, vị
Đại đức này
tán thán sự
trầm lặng. Nếu biết chúng này
yên tịnh, Ngài có thể ghé đến đây". Nghe nói vậy, các du sĩ
ngoại đạo liền
im lặng.
5. Rồi
Thế Tôn đến du sĩ
ngoại đạo Potthapàda. Và du sĩ
ngoại đạo Potthapàda bạch
Thế Tôn: "Thiện tai Thế Tôn!
Hoan nghênh Thế Tôn!
Đã lâu Thế Tôn không quá bộ đến đây. Mời
Thế Tôn ngồi. Đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn".
Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Du sĩ
ngoại đạo Potthapàda lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Rồi
Thế Tôn nói với du sĩ Potthapàda đã ngồi một bên: "Này Potthapàda,
vấn đề gì các vị đang ngồi thảo luận?
Vấn đề gì đang nói mà bị gián đoạn?"
6. Khi nghe nói vậy du sĩ
ngoại đạo Potthapàda bạch
Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, hãy gác một bên
câu chuyện chúng tôi đang ngồi
bàn luận, bạch
Thế Tôn, lát nữa
Thế Tôn nghe lại cũng không khó khăn gì. Bạch
Thế Tôn, thuở xưa xưa lắm, nhiều vị Sa-môn, Bà-la-môn
ngoại đạo tụ họp, ngồi hội thảo trong
giảng đường nêu lên
vấn đề sự diệt tận các
tăng thượng tưởng.
"Này
Tôn giả,
tăng thượng tưởng diệt tận như thế nào?" Một vài vị
trả lời: "Không nhân, không duyên, các tưởng của
con người sinh và diệt! Khi tưởng sanh
con người có tưởng, khi tưởng diệt
con người không có tưởng". Như vậy, một vài vị
giải thích sự diệt tận các
tăng thượng tưởng.
Về
vấn đề này, người khác lại nói như sau: "Các
Tôn giả,
sự kiện không phải như vậy. Này
Tôn giả, tưởng là tự ngã của
con người, chính tưởng ấy đến và đi. Khi tưởng ấy đến thì
con người có tưởng, khi tưởng ấy đi thì
con người không có tưởng". Như vậy một vài vị
giải thích sự diệt tận các
tăng thượng tưởng.
Vấn đề này, người khác lại nói như sau: "Các
Tôn giả,
sự kiện không phải như vậy. Này
Tôn giả, có những Sa-môn, Bà-la-môn có đại
thần thông và đại oai lực. Chính những vị này khiến tưởng nhập vào trong người và cũng kéo tưởng ra ngoài người ấy. Khi các vị này khiến tưởng nhập vào trong người, người ấy có tưởng, khi kéo tưởng ra ngoài, người ấy không có tưởng". Như vậy một vài vị
giải thích sự diệt tận các
tăng thượng tưởng.
Về
vấn đề này, người khác lại nói như sau: "Các
Tôn giả,
sự kiện không phải như vậy. Này
Tôn giả, có những vị
thiên thần có đại
thần thông, có đại oai lực, chính những vị này khiến tưởng nhập vào trong người và kéo tưởng ra ngoài người ấy. Khi các vị này khiến tưởng nhập vào trong người, người ấy có tưởng, khi kéo tưởng ra ngoài, người ấy không có tưởng". Như vậy một vài vị
giải thích sự diệt tận các
tăng thượng tưởng. Bạch
Thế Tôn, lúc bấy giờ con tưởng niệm đến
Thế Tôn: "Mong
Thế Tôn có mặt ở đây! Mong
Thiện thệ có mặt ở đây! Ngài rất
tinh thông những pháp này.
Chắc chắn Thế Tôn biết rõ sự diệt tận các
tăng thượng tưởng". Bạch
Thế Tôn, sự diệt tận các
tăng thượng tưởng như thế nào?
7. Này Potthapàda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Không nhân, không duyên, các tưởng của
con người sinh và diệt". Những vị này đã
sai lạc ngay từ
ban đầu. Vì sao vậy? Này Potthapàda, chính vì có nhân, có duyên, các tưởng của
con người sinh và diệt. Chính do sự học tập, một loại tưởng sanh, chính do sự học tập, một loại tưởng diệt.
Và
Thế Tôn nói:
- Sự học tập ấy là gì? Này Potthapàda, nay ở đời
Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán,
Chánh Biến Tri... (như kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 40-43
trừ đoạn kết của mỗi đoạn)
thân nghiệp,
ngữ nghiệp thanh tịnh, mạng sống
trong sạch,
giới hạnh đầy đủ,
hộ trì các căn,
chánh niệm tỉnh giác và biết
tri túc. Này Potthapàda, thế nào là Tỷ-kheo
giới hạnh đầy đủ? Ở đây này Potthapàda, Tỷ-kheo
từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có
lòng từ, sống
thương xót hạnh phúc của tất cả
chúng sanh và loài
hữu tình. Như vậy là
giới hạnh của vị ấy trong
giới luật ... (như kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 43-62)... như dùng
ảo thuật để yên ổn, để khỏi làm các điều đã hứa...
ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Còn vị ấy thì tránh xa các
tà mạng kể trên... như vậy là
giới hạnh của vị ấy trong
giới luật.
8. Này Potthapàda, và như vậy Tỷ-kheo ấy nhờ đầy đủ
giới luật nên không thấy
sợ hãi từ một chỗ nào về
phương diện hộ trì giới luật. Này Potthapàda, như một Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh, đã
hàng phục kẻ thù địch, không còn thấy
sợ hãi từ chỗ nào nữa về
phương diện thù địch. Cũng vậy, này Potthapàda, Tỷ-kheo ấy nhờ đầy đủ
giới luật nên không thấy
sợ hãi từ một chỗ nào về
phương diện hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ đầy đủ
giới luật cao quý này, nên hưởng
lạc thọ nội tâm không
lỗi lầm. Như vậy, này Potthapàda, Tỷ-kheo đầy đủ
giới luật.
9. Này Potthapàda, thế nào là Tỷ-kheo
hộ trì các căn? Này Potthapàda, khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì, vì con mắt không được
chế ngự, khiến
tham ái ưu bi, các ác,
bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự
chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì con mắt,
thực hành sự
hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân
cảm xúc... ý
nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì, vì
ý căn không được
chế ngự, khiến
tham ái ưu bi, các ác
bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo
chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn,
thực hành sự
hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự
hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng
lạc thọ,
nội tâm không
lỗi lầm. Như vậy, này Potthapàda, Tỷ-kheo
hộ trì các căn... (như kinh
Sa-môn quả, đoạn kinh số 65-74)...
10. Khi quán tự thân đã xả ly năm
triền cái ấy,
hân hoan sanh; do
hân hoan, nên hỷ sanh; do tâm
hoan hỷ, thân được
khinh an; do thân
khinh an,
lạc thọ sanh; do
lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo,
ly dục, ly
bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh với tầm, với tứ.
Dục tưởng xưa kia của vị ấy được
diệt trừ, và khi tưởng
hỷ lạc vi diệu chân thật do
ly dục sanh khởi lên, vị ấy có tưởng
hỷ lạc vi diệu chân thật, do
ly dục sanh. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập, một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
11. Lại nữa, này Potthapàda, Tỷ-kheo diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Tưởng
hỷ lạc vi diệu chơn thật do
ly dục sanh
xưa kia của vị ấy được
diệt trừ. Và khi tưởng
hỷ lạc vi diệu chơn thật do định
sanh khởi lên, vị ấy có tưởng
hỷ lạc vi diệu chơn thật do định sanh. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
12. "Lại nữa này Potthapàda, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và trú thiền thứ ba. Tưởng
hỷ lạc chơn thật
vi diệu do định sanh
xưa kia của vị ấy được
diệt trừ. Và khi tưởng xả lạc
vi diệu chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng xả lạc
vi diệu chơn thật. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên và cũng do học tập, một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
13. Lại nữa này Potthapàda, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ, ưu đã
cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư không
khổ không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Như vậy xả lạc chơn thật
vi diệu xưa kia của vị ấy được
diệt trừ. Và khi tưởng xả lạc, xả khổ
vi diệu chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng xả lạc, xả khổ
vi diệu chơn thật. Như vậy do học tập một tưởng khởi lên, cũng do học tập một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
14. Lại nữa này Potthapàda, với sự vượt thoát mọi sắc tưởng, với sự
diệt trừ mọi
chướng ngại tưởng, với sự không
tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú
Không vô biên xứ. Như vậy sắc tưởng
xưa kia của vị ấy được
diệt trừ. Và khi tưởng
Không vô biên xứ vi diệu chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng
Không vô biên xứ vi diệu chơn thật. Như vậy do sự học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
15. Lại nữa này Potthapàda, với sự vượt thoát mọi
Không vô biên xứ, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Thức là vô biên" chứng và trú
Thức vô biên xứ. Như vậy tưởng
Không vô biên xứ vi diệu chơn thật
xưa kia của vị ấy được
diệt trừ, và khi tưởng
Thức vô biên xứ vi diệu chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng
Thức vô biên xứ vi diệu chơn thật. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập, một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
16. Lại nữa này Potthapàda, với sự vượt thoát mọi
Thức vô biên xứ, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Không có vật gì" chứng và trú
Vô sở hữu xứ. Như vậy tưởng
Thức vô biên xứ vi diệu chơn thật
xưa kia của vị ấy được
diệt trừ. Và khi tưởng
Vô sở hữu xứ vi diệu chơn thật khởi lên, vị ấy có tưởng
Vô sở hữu xứ vi diệu chơn thật. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập, một tưởng
diệt trừ. Và
Thế Tôn nói: "Đó là sự học tập
Thế Tôn nói đến".
17. Lại nữa này Potthapàda, khi Tỷ-kheo ở nơi đây tự mình khởi tưởng, vị này
tiếp tục đi từ tưởng này đến tưởng khác
cho đến tưởng tột đỉnh. Và vị này khi đứng tại tưởng tột đỉnh có thể nghĩ: "Tâm còn
suy tưởng có hại cho ta,
tâm không suy tưởng mới tốt cho ta. Nếu ta cứ
tiếp tục suy tưởng, khi những tưởng này của ta diệt đi, các thô tưởng khác lại khởi lên, ta hãy đừng có suy tưởng". Do không có
suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác không khởi lên, vị ấy
cảm thọ sự diệt tận. Như vậy, này Potthapàda, là sự chứng
đạt trí tuệ
diệt trừ dần dần các
tăng thượng tưởng.
18. Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào? Trước đây ngươi đã nghe sự chứng
đạt trí tuệ
diệt trừ dần dần các
tăng thượng tưởng này không?
- Bạch
Thế Tôn, con không có nghe. Bạch
Thế Tôn, nhưng nay con hiểu
lời nói của
Thế Tôn.
- Này Potthapàda, khi Tỷ-kheo ở đây tự mình khởi tưởng, vị này
tiếp tục đi từ tưởng này đến tưởng khác
cho đến tưởng tột đỉnh. Và vị này, khi đứng lại tưởng tột đỉnh có thể nghĩ: "Tâm còn
suy tưởng, có hại cho ta,
tâm không suy tưởng mới tốt cho ta. Nếu ta cứ
tiếp tục suy tưởng khi những tưởng này của ta diệt đi, các thô tưởng khác lại khởi lên. Vậy ta hãy đừng có suy tưởng". Và vị này không có
suy tưởng. Do không có
suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác cũng không khởi lên. Vị ấy
cảm thọ sự diệt tận. Như vậy này Potthapàda là sự chứng
đạt trí tuệ
diệt trừ dần dần các
tăng thượng tưởng.
- Như vậy là phải, này Potthapàda!
19. - Bạch
Thế Tôn,
Thế Tôn chỉ nói đến một tưởng
tuyệt đỉnh hay nhiều tưởng tuyệt đỉnh?
- Này Potthapàda, Ta nói đến một tưởng
tuyệt đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng
tuyệt đỉnh.
- Bạch
Thế Tôn, làm sao
Thế Tôn nói đến một tưởng
tuyệt đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tuyệt đỉnh?
- Này Potthapàda,
tùy theo vị ấy
cảm thọ sự diệt tận (của một tưởng) sau tưởng khác, vị ấy đạt tới nhiều
tuyệt đỉnh sai khác, cái này
tiếp theo cái kia
cho đến tuyệt đỉnh cuối cùng mà Ta nói đến nhiều tưởng
tuyệt đỉnh. Này Potthapàda như vậy Ta nói đến một tưởng
tuyệt đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng
tuyệt đỉnh.
20. - Bạch
Thế Tôn, tưởng khởi trước, trí khởi sau; hay trí khởi
trước tưởng khởi sau; hay tưởng và trí cùng khởi
một lần không trước không sau?
- Này Potthapàda, tưởng khởi trước trí mới khởi sau, do tưởng sanh, trí mới sanh. Vị ấy
tuệ tri: "Do
duyên tưởng, trí sanh ra nơi ta". Này Potthapàda, với lời dạy này
cần phải hiểu tưởng sanh trước trí sanh sau, tưởng sanh trí mới sanh.
21. - Bạch
Thế Tôn, tưởng có phải là tự ngã của
con người hay tưởng khác, tự ngã khác?
- Này Potthapàda, ngươi hiểu tự ngã như thế nào?
- Bạch
Thế Tôn, con hiểu tự ngã là thô phù, có sắc, do
bốn đại hình thành, và do
đoàn thực nuôi dưỡng.
- Này Potthapàda, nếu tự ngã là thô phù, có sắc, do
bốn đại hình thành và do
đoàn thực nuôi dưỡng, như vậy này Potthapàda, tưởng khác và tự ngã khác. Này Potthapàda, với sự
nhận thức này,
cần phải hiểu, tưởng khác và tự ngã khác. Này Potthapàda,
giả sử tự ngã ấy là thô phù, có sắc, do
bốn đại hình thành và do
đoàn thực nuôi dưỡng, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt xuống. Này Potthapàda, với sự
nhận thức này
cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
22. - Bạch
Thế Tôn, con hiểu tự ngã là do ý sở thành, đầy đủ mọi
chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn.
- Này Potthapàda, nếu tự ngã là do ý sở thành, đầy đủ mọi
chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn, như vậy này Potthapàda, với sự
nhận thức này,
cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác. Này Potthapàda, giả sự tự ngã ấy là do ý sở thành, đầy đủ mọi
chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt xuống. Này Potthapàda, với sự
nhận thức này,
cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
- Bạch
Thế Tôn, con hiểu tự ngã là
vô sắc, do tưởng sở thành.
23. - Này Potthapàda, nếu tự ngã là
vô sắc, do tưởng sở thành, với sự
nhận thức này Potthapàda,
cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác. Này Potthapàda, giả sự tự ngã là
vô sắc, do tưởng sở thành, tuy vậy, một vài tưởng khác của người khởi lên, một vài tưởng khác diệt xuống. Này Potthapàda, với sự
nhận thức này,
cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
24. - Bạch
Thế Tôn, con có thể hiểu được chăng "tưởng là tự ngã của con người" hay "tưởng khác, tự ngã khác"?
- Này Potthapàda, thật khó cho ngươi biết được "tưởng là tự ngã của con người" hay "tưởng khác, tự ngã khác", vì ngươi có
dị kiến, có
tin tưởng khác, có
lý tưởng khác, có
thiên tư khác, có
hạnh nguyện khác.
25. - Bạch
Thế Tôn, nếu thật khó cho con biết được "tưởng là tự ngã của con người", hay "tưởng khác, tự ngã khác" vì con có
dị kiến khác, có
tin tưởng khác, có
lý tưởng khác, có
thiên tư khác, có
hạnh nguyện khác, thời bạch
Thế Tôn,
thế giới có phải là thường còn không? Chỉ có
quan niệm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Thế giới là thường còn, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải
thế giới là
vô thường, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Thế giới là
vô thường, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải
thế giới này là
hữu biên, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Thế giới là
hữu biên, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải
thế giới là
vô biên, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Thế giới là
vô biên, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
26. - Bạch
Thế Tôn, có phải sinh mạng và
thân thể là một, chỉ có
quan điểm này là đúng
sự thật,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Thân thể và sinh mạng là một, chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải sinh mạng khác,
thân thể khác? Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Sinh mạng khác,
thân thể khác. Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
27. - Bạch
Thế Tôn, có phải
Như Lai tồn tại sau khi chết? Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Như Lai
tồn tại sau khi chết. Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải
Như Lai không tồn tại sau khi chết không? Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Như Lai
không tồn tại sau khi chết. Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải
Như Lai tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Như Lai
tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
- Bạch
Thế Tôn, có phải
Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết. chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là
mê muội không?
- Này Potthapàda, Ta không
trả lời: "Như Lai
không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết. Chỉ có
quan điểm này là đúng sự thực,
ngoài ra là mê muội".
28. - Bạch
Thế Tôn, vì sao
Thế Tôn không trả lời?
- Này Potthapàda, câu hỏi này không thuộc về đích
giải thoát, không thuộc về Pháp, không thuộc
căn bản của
phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, đến
ly tham, đến
tịch diệt, đến
tịch tịnh, đến thắng trí, đến
giác ngộ, đến
Niết bàn.
Vì vậy, Ta không
trả lời.
29. - Bạch
Thế Tôn, vậy
Thế Tôn trả lời những gì?
- Này Potthapàda, Ta
trả lời: "Đây là khổ". Ta
trả lời: "Đây là khổ tập". "Ta
trả lời: "Đây là khổ diệt". Ta
trả lời: "Đây là
con đường đưa đến khổ diệt".
30. - Bạch
Thế Tôn, vì sao
Thế Tôn trả lời?
- Này Potthapàda, câu hỏi này thuộc về đích
giải thoát, thuộc về Pháp, thuộc
căn bản của
phạm hạnh, đưa đến yểm ly, đến
ly tham, đến
tịch diệt, đến thắng trí, đến
giác ngộ, đến
Niết bàn.
Vì vậy Ta
trả lời.
- Bạch
Thế Tôn, như vậy là phải. Bạch Thiên Thệ, như vậy là phải. Bạch
Thế Tôn, nay đã đến thời Ngài làm gì Ngài xem là phải làm.
Và
Thế Tôn từ chỗ ngồi
đứng dậy ra về.
31.
Thế Tôn rời khỏi chưa bao lâu, những du sĩ
ngoại đạo ấy liền bao vây
xung quanh du sĩ
ngoại đạo Potthapàda và tuôn ra những
lời nói mỉa mai gay gắt: "Potthapàda này là như vậy, những gì Sa-môn Gotama nói đều được Potthapàda tán thành: "Bạch
Thế Tôn, như vậy là phải. Bạch
Thiện Thệ như vậy là phải".
Chúng tôi không được biết Sa-môn Gotama đã
thuyết trình dứt khoát những
vấn đề sau đây: "Thế giới là thường còn", hay "Thế giới là vô thường", hay "Thế giới là hữu biên", hay "Thế giới là vô biên", hay "Sinh mạng và
thân thể là một", hay "Sinh mạng khác,
thân thể khác", "hay
Như Lai có
tồn tại sau khi chết" hay "Như Lai
không tồn tại sau khi chết" hay "Như Lai
tồn tại và cũng
không tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai
không tồn tại và cũng
không không tồn tại sau khi chết".
Khi được nói vậy, du sĩ
ngoại đạo Potthapàda nói với các du sĩ
ngoại đạo kia:
- Này các
Tôn giả, tôi cũng không được biết Sa-môn Gotama đã
thuyết trình dứt khoát những
vấn đề sau đây: "Thế giới là thường còn", hay "Thế giới là vô thường", hay "Thế giới là hữu biên", hay "Thế giới là vô biên", hay "Sinh mạng và
thân thể là một", hay "Sinh mạng khác,
thân thể khác", hay "Như Lai có
tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai không có
tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai có
tồn tại và cũng
không tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai không có
tồn tại và cũng
không không tồn tại sau khi chết". Sa-môn Gotama đã
tuyên bố một
phương pháp như thực, chơn chánh, chơn thật, dùng Pháp làm cơ bản, dùng Pháp làm
quy tắc. Và khi một vị
tuyên bố một
phương pháp như thực, chân chánh,
chân thật, dùng Pháp làm cơ bản, dùng Pháp làm
quy tắc thì làm sao một người
hiểu biết như tôi lại không tán thành?
32. Hai ba ngày sau, Citta Hatthisàriputta và du sĩ
ngoại đạo Potthapàda đi đến chỗ
Thế Tôn. Khi đi đến nơi, Citta Hatthisàriputta
đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên, còn du sĩ
ngoại đạo Potthapàda, nói những lời chào đón
hỏi thăm xã giao với
Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi một bên, du sĩ
ngoại đạo Potthapàda bạch
Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, khi
Thế Tôn rời khỏi chưa bao lâu những du sĩ
ngoại đạo liền bao vây
xung quanh con và tuôn ra những
lời nói mỉa mai gay gắt: "Potthapàda này là như vậy. Những gì Sa-môn Gotama nói đều được Potthapàda tán thành: "Bạch
Thế Tôn, như vậy là phải, Bạch
Thiện Thệ như vậy là phải".
Chúng tôi không được biết Sa-môn Gotama đã
thuyết trình dứt khoát những
vấn đề sau đây: "Thế giới là thường còn", hay "Thế giới là vô thường", hay "Thế giới là hữu biên", hay "Thế giới là vô biên", hay "Sinh mạng và
thân thể là một", hay "Sinh mạng khác,
thân thể khác", hay "Như Lai có
tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai
không tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai có
tồn tại và cũng
không tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai
không tồn tại và cũng
không không tồn tại sau khi chết". Khi được nói vậy, con nói với các du sĩ
ngoại đạo kia: "Này các
Tôn giả, tôi cũng không được biết Sa-môn Gotama đã
thuyết trình dứt khoát những
vấn đề sau đây: "Thế giới là thường con", hay "Thế giới là vô thường", hay "Thế giới là hưu biên", hay "Thế giới là vô biên", hay "Sinh mạng và
thân thể là một", hay "Sinh mạng khác,
thân thể khác" hay "Như Lai có
tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai không có
tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai có
tồn tại và cũng
không tồn tại sau khi chết", hay "Như Lai
không tồn tại và cũng
không không tồn tại sau khi chết". Sa-môn Gotama đã
tuyên bố một
phương pháp như thực, chơn thánh, chơn thật, dùng Pháp làm cơ bản, dùng Pháp làm
quy tắc. Và khi một vị đã
tuyên bố một
phương pháp như thực, chơn chánh, chơn thật, dùng Pháp làm cơ bản, dùng Pháp làm
quy tắc thì làm sao một người
hiểu biết như tôi lại có
thể không tán thành?"
33. - Này Potthapàda, những vị du sĩ
ngoại đạo ấy là mù, không có mắt, chỉ có ngươi là người có mắt độc nhất giữa chúng. Này Potthapàda, có những pháp được Ta
truyền thuyết, trình bày một cách không
dứt khoát. Này Potthapàda, có những pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách
dứt khoát. Này Potthapàda, những pháp gì được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách không dứt khoát? "Thế giới là thường còn", Này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách không
dứt khoát. "Thế giới là vô thường", này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách không
dứt khoát. "Thế giới là hữu biên", này Potthapàda... "Thế giới là vô biên", này Potthapàda... "Sinh mạng và
thân thể là một", này Potthapàda... "Sinh mạng khác,
thân thể khác", này Potthapàda... "Như Lai có
tồn tại sau khi chết", này Potthapàda... "Như Lai không có
tồn tại sau khi chết", này Potthapàda... "Như Lai có
tồn tại và cũng không có
tồn tại sau khi chết", này Potthapàda ... "Như Lai không có
tồn tại và cũng
không không có
tồn tại sau khi chết", này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách không
dứt khoát.
Này Potthapàda, vì sao những pháp ấy lại được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách không dứt khoát? Này Potthapàda, những pháp này không thuộc về đích
giải thoát, không thuộc về pháp, không thuộc
căn bản của
phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, đến
ly tham, đến
tịch diệt, đến
tịch tịnh, đến thắng trí, đến
giác ngộ, đến
Niết bàn.
Vì vậy những pháp ấy được Ta
tuyên thuyết, trình bày một cách không
dứt khoát. Này Potthapàda, những pháp gì được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách dứt khoát? "Đây là khổ", này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách
dứt khoát. "Đây là khổ tập", này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách
dứt khoát. "Đây là khổ diệt", này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách
dứt khoát. "Đây là
con đường đưa đến khổ diệt", này Potthapàda, đó là pháp được Ta
tuyên thuyết, trình bày một cách
dứt khoát.
Này Potthapàda, vì sao những pháp ấy được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách dứt khoát? Này Potthapàda, những pháp ấy thuộc về đích
giải thoát, thuộc về Pháp, thuộc
căn bản phạm hạnh, đưa đến yểm ly, đến
ly tham, đến
tịch diệt, đến
tịch tịnh, đến thắng trí, đến
giác ngộ, đến Niết-bàn.
Vì vậy những pháp ấy được Ta
tuyên thuyết trình bày một cách
dứt khoát.
34. Này Potthapàda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: "Sau khi chết, tự ngã
hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh". Ta đến những vị ấy và hỏi: "Có phải quý
Đại đức có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: "Sau khi chết, tự ngã
hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh". Khi được Ta hỏi như vậy, những vị ấy
công nhận là phải. Ta nói: "Chư
Đại đức có sống và đã biết đã thấy
thế giới này là
hoàn toàn hạnh phúc không?". Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: "Vậy chư
Đại đức có tự thân cảm biết
hoàn toàn hạnh phúc trong một đêm hay trong một ngày, hay trong nửa đêm hay trong nửa ngày không?". Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: "Chư
Đại đức có biết một
con đường nào, một
phương pháp nào có thể đưa đến sự
chứng ngộ một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc không?" Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không?
Ta nói với các vị ấy: "Chư
Đại đức có nghe tiếng nói của
chư thiên, đã được sinh vào
một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc. "Này các vị, hãy
cố gắng khéo
thực hành. Này các vị hãy
thực chứng một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc. Này các vị,
chúng tôi đã
thực hành, đã sanh vào
một thế giới hoàn toàn hạnh phúc" không? Khi được hỏi vậy, các vị ấy không
trả lời không. Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn kia là không chánh xác hợp lý?
35. Như có một người nói: "Tôi yêu và
ái luyến một cô gái đẹp trong nước này". Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp ông yêu và
ái luyến ấy, Ông có biết là người
giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?" Khi được hỏi vậy, người ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp Ông yêu và
ái luyến ấy, Ông có biết tên gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung? Da đen sẫm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng nào, hay thành phố nào?" Khi được hỏi vậy, người ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông đã yêu và
ái luyến một người Ông không biết, Ông không thấy?" Được hỏi vậy vị ấy
trả lời phải. Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của người kia là không chánh xác hợp lý?
- Vâng phải, bạch Thế Tôn!
Sự kiện là như vậy, thời
lời nói của người kia là không chánh xác,
hợp lý.
36. - Như vậy này Potthapàda, những Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: "Sau khi chết tự ngã
hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh", Ta đến những vị ấy và hỏi: "Có phải quý
Đại đức có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: "Sau khi chết, tự ngã
hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh". Khi được hỏi như vậy, những vị ấy
công nhận là phải. Ta nói: "Chư
Đại đức có sống và đã biết, đã thấy
thế giới này là
hoàn toàn hạnh phúc không?" Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: "Vậy chư
Đại đức có tự nhận cảm biết
hoàn toàn hạnh phúc trong một đêm hay trong một ngày, hay trong nửa đêm hay trong nửa ngày không?". Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: "Chư
Đại đức có biết một
con đường nào, một
phương pháp nào đưa đến sự
chứng ngộ một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc không?" Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không? Ta nói với các vị ấy: "Chư
Đại đức có nghe tiếng nói của
chư thiên đã được sinh vào
một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc: 'Này các vị, hãy
cố gắng khéo thực hạnh! Này các vị, hãy trực chứng
một thế giới hoàn toàn hạnh phúc! Này các vị,
chúng tôi đã
thực hành, đã sanh vào
một thế giới hoàn toàn hạnh phúc' không?" Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Này Potthapàda, Ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn kia là không chánh xác, hợp lý?
- Vâng phải, bạch
Thế Tôn sự kiện là như vậy, theo
lời nói của người kia là không chánh xác,
hợp lý.
37. - Này Potthapàda, như một người muốn xây tại ngã tư đường một cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: "Này bạn, Ông muốn xây một cái thang để leo lên lầu, vậy Ông có biết lầu ấy là về hướng Đông, hay về
hướng Tây, hay về hướng Bắc, hay về hướng Nam? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay trung bình?" Được hỏi vậy, vị ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải, Ông xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà Ông không biết, không thấy?" Được hỏi vậy, vị ấy
trả lời phải. Này Potthapàda ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy thời có phải
lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý?
- Vâng phải, bạch Thế Tôn!
Sự kiện là như vậy, thời
lời nói của người kia là không chánh xác,
hợp lý.
38. - Như vậy này Potthapàda, những Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: "Sau khi chết, tự ngã
hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh". Ta đến những vị ấy và hỏi: "Có phải quý
Đại đức có chủ trương như thế này, có chủ kiến như thế này: "Sau khi chết, tự ngã
hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh". Khi được hỏi vậy, những vị ấy
công nhận là phải. Ta nói "Chư
Đại đức có sống và đã biết, đã thấy
thế giới này là
hoàn toàn hạnh phúc không?" Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: "Chư
Đại đức có biết một
con đường nào, một
phương pháp nào có thể đưa đến sự
chứng ngộ một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc không?" Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không. Ta nói với các vị ấy: "Vậy chư
Đại đức có
tự tâm cảm biết
hoàn toàn hạnh phúc trong một đêm hay trong một ngày, hay trong nửa đêm hay trong nữa ngày không? Khi được hỏi vậy, các vị ấy
trả lời là không". Ta nói với các vị ấy: "Chư
Đại đức có nghe tiếng nói của
chư thiên đã được sinh vào
một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc: 'Này các vị, hãy
cố gắng thực hành! Này các vị, hãy trực chứng
một thế giới hoàn toàn
hạnh phúc. Này các vị,
chúng tôi đã
thực hành, đã sanh vào
một thế giới hoàn toàn hạnh phúc' không?" Khi được nói vậy, các vị ấy
trả lời là không. Này Potthapàda, ngươi nghĩ như thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn, kia là không chánh xác,
hợp lý.
- Vâng phải, bạch Thế Tôn!
Sự kiện là như vậy, thời
lời nói của người kia không
chánh đáng,
hợp lý.
39. - Này Potthapàda, có ba loại
ngã chấp: thô phù
ngã chấp, ý sở thành
ngã chấp,
vô sắc ngã chấp. Này Potthapàda, thế nào là thô phù ngã chấp? Có sắc, do
bốn đại hình thành, do
đoàn thực nuôi dưỡng là thô phù
ngã chấp. Thế nào ý sở thành ngã chấp? Có sắc, do ý sở thành, đầy đủ
chi tiết lớn nhỏ, các căn đầy đủ, là ý sở thành
ngã chấp. Thế nào là
vô sắc ngã chấp? Không có sắc, do tưởng sở thành là
vô sắc ngã chấp.
40. Này Potthapàda, Ta
thuyết pháp để diệt thô phù
ngã chấp. Nếu các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ, với thắng trí, chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn,
quảng đại. Này Potthapàda, rất có thể các người nghĩ: "Các
nhiễm pháp sẽ
diệt trừ, các
tịnh pháp sẽ
tăng trưởng, và ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng trí, chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn,
quảng đại, tuy vậy
đau khổ vẫn tồn tại". Này Potthapàda, chớ có nghĩ như vậy. Khi
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng trí, chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn,
quảng đại, thời
hân hoan sanh,
hoan hỷ,
khinh an,
chánh niệm,
tỉnh giác và lạc trú sanh.
41. Này Potthapàda, Ta
thuyết pháp cũng để
diệt trừ ý sở thành
ngã chấp. Nếu các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại. Này Potthapàda, rất có thể các ngươi nghĩ: "Các
nhiễm pháp sẽ
diệt trừ, các
tịnh pháp sẽ
tăng trưởng, và ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại, tuy vậy
đau khổ vẫn tồn tại". Này Potthapàda, chớ có nghĩ như vậy. Khi
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, khi ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quãng đại, thời
hân hoan sanh,
hoan hỷ,
khinh an,
chánh niệm tỉnh giác là lạc trú sanh.
42. Này Potthapàda, Ta
thuyết pháp cũng để
diệt trừ vô sắc ngã chấp. Nếu các ngươi
thực hành theo pháp này, thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, và ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại. Này Potthapàda, rất có thể các ngươi nghĩ: "Các
nhiễm pháp sẽ
diệt trừ, các
tịnh pháp sẽ
tăng trưởng, ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại, tuy vậy
đau khổ vẫn tồn tại". Này Potthapàda, chớ có nghĩ như vậy. Khi
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại, thời
hân hoan sanh,
hoan hỷ,
chánh niệm,
tỉnh giác và lạc trú sanh.
43. Này Potthapàda, có những người ngoài hỏi
chúng tôi: "Này
Hiền giả, thô phù
ngã chấp ấy là gì mà
Hiền giả thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng, và ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại?"
Khi được chúng hỏi như vậy,
chúng tôi trả lời "Này
Hiền giả, chính thô phù
ngã chấp ấy,
chúng tôi thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này, thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại".
44. Này Potthapàda, có những người ngoài hỏi: "Này
Hiền giả, ý sở thành
ngã chấp ấy là gì mà
Hiền giả thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp này được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại tự mình
giác ngộ, với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại?"
Khi được hỏi vậy,
chúng tôi trả lời: "Này
Hiền giả, chính ý sở thành
ngã chấp ấy
chúng tôi thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại".
45. Này Potthapàda, có những người ngoài hỏi
chúng tôi: "Này
Hiền giả,
vô sắc ngã chấp ấy là gì mà
Hiền giả thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại?". Khi được hỏi vậy,
chúng tôi trả lời: "Này
Hiền giả, chính
vô sắc ngã chấp ấy,
chúng tôi thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại".
Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói ấy là chánh xác, hợp lý?
46. Này Potthapàda,
ví như một người xây một cái thang để leo lên lầu, từ dưới chân lầu ấy. Người ấy được hỏi: "Này bạn, Ông xây cái thang để leo lên lầu, cái lầu ấy về hướng Đông hay hướng Nam, hay
hướng Tây, hay hướng Bắc? Nhà lầu ấy cao, hay thấp, hay trung bình? Nếu người ấy
trả lời: "Này
Hiền giả, cái lầu mà tôi xây thang để leo lên chính tại dưới chân lầu này". Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy thời có phải
lời nói ấy là
chính xác, hợp chăng?
- Vâng phải, bạch
Thế Tôn,
sự kiện là như vậy thời
lời nói của người kia là chánh xác, hợp lý!
47. - Như vậy, này Potthapàda, và có những người ngoài hỏi
chúng tôi: "Này
Hiền giả, thô phù
ngã chấp là gì?... Này
Hiền giả, ý sở thành
ngã chấp là gì?... Này
Hiền giả,
vô sắc ngã chấp ấy là gì mà
Hiền giả thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại?" Khi được hỏi vậy,
chúng tôi trả lời: "Này
Hiền giả, chính
vô sắc ngã chấp ấy mà
chúng tôi thuyết pháp để
diệt trừ, khiến các người
thực hành theo pháp này thời
nhiễm pháp được
diệt trừ,
tịnh pháp được
tăng trưởng và ngay
hiện tại, tự mình
giác ngộ với thắng
trí chứng đạt và
an trú trí tuệ sung mãn quảng đại".
- Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Sự kiện là như vậy, thời có phải
lời nói ấy là chánh xác, hợp lý?
- Vâng phải, bạch
Thế Tôn,
sự kiện là nha vậy, thời
lời nói của người kia là chánh xác, hợp lý!
48. Khi nghe nói vậy, Citta Hatthisàriputta bạch
Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, trong khi có thô phù
ngã chấp,
phải chăng không có ý sở thành
ngã chấp, không có
vô sắc ngã chấp? Thô phù
ngã chấp khi ấy thật có
tồn tại. Bạch
Thế Tôn, trong khi sở thành
ngã chấp,
phải chăng không có thô phù
ngã chấp, không có
vô sắc ngã chấp? Ý sở thành
ngã chấp khi ấy thật có
tồn tại. Bạch
Thế Tôn, trong khi có
vô sắc ngã chấp,
phải chăng không có thô phù
ngã chấp, không có ý sở thành ngã chấp?
Vô sắc ngã chấp khi ấy thật có
tồn tại.
49. - Này Citta, trong khi có thô phù
ngã chấp, thời
ngã chấp ấy không thuộc ý sở thành
ngã chấp, không thuộc
vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc thô phù
ngã chấp. Này Citta, trong khi có ý sở thành
ngã chấp, thời
ngã chấp ấy không thuộc thô phù
ngã chấp, không thuộc
vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc ý sở thành
ngã chấp. Này Citta, trong khi có
vô sắc ngã chấp, thời
ngã chấp ấy không thuộc thô phù
ngã chấp, không thuộc ý sở thành
ngã chấp, chính khi ấy thuộc
vô sắc ngã chấp. Này Citta, nếu có người hỏi Người: "Ngươi đã có
tồn tại ở
quá khứ hay không? Ngươi sẽ
tồn tại ở tương lai hay không? Ngươi có
tồn tại ở
hiện tại không?" Này Citta, được hỏi vậy, ngươi
trả lời như thế nào?
- Bạch
Thế Tôn, nếu có người hỏi con: "Ngươi đã có
tồn tại ở
quá khứ hay không? Ngươi sẽ
tồn tại ở tương lai hay không? Ngươi có
tồn tại ở
hiện tại hay không?" Bạch
Thế Tôn được hỏi vậy, con sẽ
trả lời: "Tôi đã có
tồn tại ở
quá khứ, không phải
không tồn tại; tôi sẽ
tồn tại ở tương lai, không phải
không tồn tại; tôi
tồn tại ở
hiện tại, không phải không tồn tại". Bạch
Thế Tôn, nếu được hỏi như vậy, con sẽ
trả lời như vậy.
50. - Này Citta, nếu có người hỏi lại ngươi: "Quá khứ
ngã chấp mà Ngươi đã có, có phải
ngã chấp ấy đối với Ngươi là thật có,
ngã chấp tương lai
không tồn tại,
ngã chấp hiện tại không tồn tại? Tương lai
ngã chấp mà Ngươi sẽ có, có phải
ngã chấp ấy đối với Ngươi là thật có,
ngã chấp quá khứ không tồn tại,
ngã chấp hiện tại không tồn tại?
Hiện tại ngã chấp mà Ngươi
hiện có, có phải
ngã chấp ấy đối với Ngươi là thật có,
ngã chấp quá khứ không tồn tại,
ngã chấp tương lai không tồn tại?" Này Citta, được hỏi vậy, Ngươi
trả lời thế nào?
- Bạch
Thế Tôn, nếu có người hỏi con: "Quá khứ
ngã chấp mà Ngươi đã có, có phải
ngã chấp ấy đối với Ngươi là thật có,
ngã chấp tương lai
không tồn tại,
ngã chấp hiện tại không tồn tại? Tương lai
ngã chấp mà Ngươi sẽ có, có phải
ngã chấp ấy đối với Ngươi là thật có,
ngã chấp quá khứ không tồn tại,
ngã chấp hiện tại không tồn tại?
Hiện tại ngã chấp mà Ngươi
hiện có, có phải
ngã chấp ấy đối với Ngươi là thật có,
ngã chấp quá khứ không tồn tại,
ngã chấp tương lai không tồn tại?" Bạch
Thế Tôn, nếu được hỏi vậy, con sẽ
trả lời: "Quá khứ
ngã chấp mà tôi đã có,
ngã chấp ấy đối với tôi là thật có,
ngã chấp tương lai
không tồn tại,
ngã chấp hiện tại không tồn tại? Tương lai
ngã chấp mà tôi sẽ có,
ngã chấp ấy đối với tôi là thật có,
ngã chấp quá khứ không tồn tại,
ngã chấp hiện tại không tồn tại.
Hiện tại ngã chấp mà tôi
hiện có,
ngã chấp ấy đối với là thật có,
ngã chấp quá khứ không tồn tại,
ngã chấp tương lai không tồn tại". Bạch
Thế Tôn, được hỏi vậy, con sẽ
trả lời như vậy.
51. - Như vậy này Citta, trong khi có thô phù
ngã chấp, thời
ngã chấp ấy không thuộc ý sở thành
ngã chấp, không thuộc
vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc thô phù
ngã chấp. Này Citta, trong khi có ý sở thành
ngã chấp, thời
ngã chấp ấy không thuộc
vô sắc ngã chấp, chính khi ấy thuộc ý sở thành
ngã chấp. Này Citta, trong khi có
vô sắc ngã chấp, thời
ngã chấp không thuộc thô phù
ngã chấp, không thuộc ý sở thành
ngã chấp, chính khi ấy thuộc
vô sắc ngã chấp.
52. Này Citta,
ví như từ bò cái sanh ra sữa, từ sữa sinh ra lạc, từ lạc sanh ra sanh tô, từ sanh tô sanh ra thục tô, từ thục tô sanh ra
đề hồ. Khi thành sữa thời sữa ấy không thuộc lạc, không thuộc sanh tô, không thuộc thục tô, không thuộc
đề hồ, chính khi ấy thuộc sữa; khi thành lạc... khi thành sanh tô... khi
thành thục tô... khi thành
đề hồ thời
đề hồ không thuộc sữa, không thuộc lạc, không thuộc sanh tô, không thuộc thục tô, chính khi ấy thuộc
đề hồ.
53. Như vậy này Citta trong khi có thô phù
ngã chấp... Này Citta, trong khi có ý sở thành
ngã chấp... Này Citta, trong khi có
vô sắc ngã chấp thời
ngã chấp ấy không thuộc thô phù
ngã chấp, không thuộc ý sở thành
ngã chấp, chính khi ấy thuộc
vô sắc ngã chấp. Này Citta, chúng chỉ là
danh tự thế gian,
ngôn ngữ thế gian, danh xưng
thế gian, ký pháp
thế gian.
Như Lai dùng chúng nhưng
không chấp trước chúng.
54. Được nghe nói vậy du sĩ
ngoại đạo Potthapàda bạch
Thế Tôn:
- Thật
vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật
vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín,
chỉ đường cho những người lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy
chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày,
giải thích. Bạch
Thế Tôn, con xin
quy y Thế Tôn,
quy y Pháp và
quy y chúng Tỷ-kheo. Mong
Thế Tôn nhận con làm
đệ tử, từ nay trở đi
cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng.
55. Và Citta Hatthisàriputta cũng bạch
Thế Tôn:
- Thật
vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật
vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho những người
đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày
giải thích. Con xin
quy y Thế Tôn,
quy y Pháp và
quy y chúng Tăng. Mong
Thế Tôn cho con được
xuất gia với
Thế Tôn, mong cho con thọ
đại giới.
56. Citta Hatthisàriputta được
xuất gia với
Thế Tôn và được thọ
đại giới. Thọ
đại giới không bao lâu,
Đại đức Citta Hatthisàriputta ở
một mình,
an tịnh, không
phóng dật, sống nhiệt tâm,
cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được
mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình hướng đến. Đó là
vô thượng phạm hạnh ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt và
an trú: sanh đã tận,
phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm sau đời này sẽ không có
đời sống khác nữa.
Đại đức Citta Hatthisàriputta
hiểu biết như vậy.
Và
đại đức Citta Hatthisàriputta
trở thành một vị A-la-hán nữa.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt